Tải bản đầy đủ (.pdf) (130 trang)

Hủy bỏ hợp đồng do bị vi phạm trong bộ luật dân sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 130 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

NGƠ THỊ MINH LOAN

HỦY BỎ HỢP ĐỒNG DO BỊ VI PHẠM TRONG
BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60380103

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Đỗ Văn Đại

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan danh dự Luận văn này là kết quả của quá trình tổng hợp và
nghiên cứu nghiêm túc của bản thân tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của
PGS.TS Đỗ Văn Đại. Các thông tin, bản án, quyết định được trích dẫn trong luận
văn là trung thực, chính xác.
Tác giả luận văn

Ngơ Thị Minh Loan


MỤC LỤC
Mục lục

Trang



PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HỦY BỎ HỢP ĐỒNG DO BỊ VI
PHẠM TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM............................................... 7
1.1. Khái niệm, mục đích của hủy bỏ hợp đồng và phân biệt chế định hủy bỏ
hợp đồng với một số chế định khác ...................................................................... 7
1.1.1. Khái niệm hủy bỏ hợp đồng .................................................................. 7
1.1.2. Mục đích của hủy bỏ hợp đồng ............................................................10
1.1.3. Phân biệt hủy bỏ hợp đồng và hợp đồng vô hiệu...................................12
1.1.4. Phân biệt hủy bỏ hợp đồng và đơn phương chấm dứt thực hiện hợp
đồng .......................................................................................................................13
1.2. Điều kiện hủy bỏ hợp đồng do bị vi phạm trong Bộ luật Dân sự Việt Nam 16
1.2.1. Vi phạm hợp đồng ...............................................................................16
1.2.2. Pháp luật có quy định.. .........................................................................25
1.2.3. Thơng báo hủy bỏ hợp đồng .................................................................28
1.3. Hậu quả pháp lý của hủy bỏ hợp đồng do bị vi phạm trong Bộ luật Dân sự
Việt Nam ...............................................................................................................31
1.3.1. Hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận .......................................................31
1.3.2. Hoa lợi, lợi tức .....................................................................................33
1.3.3. Ảnh hưởng đến bên thứ ba ....................................................................34
1.3.4. Ảnh hưởng đến một số điều khoản khác của hợp đồng..........................35
1.3.5. Bồi thường thiệt hại ..............................................................................37
Kết luận chƣơng 1 ................................................................................................40
CHƢƠNG 2. NHỮNG VƢỚNG MẮC, BẤT CẬP VỀ HỦY BỎ HỢP ĐỒNG
DO BỊ VI PHẠM TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM VÀ KIẾN NGHỊ
HOÀN THIỆN ......................................................................................................41
2.1. Về áp dụng đúng chế định hủy bỏ hợp đồng do bị vi phạm trong Bộ luật
Dân sự Việt Nam...................................................................................................41
2.2. Về điều kiện hủy bỏ hợp đồng do bị vi phạm trong Bộ luật Dân sự Việt
Nam .......................................................................................................................47

2.2.1. Về vi phạm hợp đồng ............................................................................47
2.2.2. Về pháp luật có quy định ......................................................................51
2.2.3. Về thông báo hủy bỏ hợp đồng .............................................................57
2.3. Về hậu quả pháp lý của hủy bỏ hợp đồng do bị vi phạm trong Bộ luật Dân
sự Việt Nam ..........................................................................................................62


2.3.1. Hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận .......................................................62
2.3.2. Ảnh hưởng đến bên thứ ba ....................................................................63
2.3.3. Ảnh hưởng đến một số điều khoản khác của hợp đồng..........................70
2.3.4. Bồi thường thiệt hại ..............................................................................74
Kết luận chƣơng 2 ................................................................................................78
KẾT LUẬN ...........................................................................................................79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHẦN PHỤ LỤC


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hợp đồng là chế định rất cơ bản và quan trọng trong pháp luật dân sự của bất
kỳ quốc gia nào. Với vai trò tạo dựng khung pháp lý cho giao dịch dân sự, chế định
hợp đồng có tần suất áp dụng cao trên thực tiễn. Để đáp ứng nhu cầu của các bên
giao kết, mỗi bên phải thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Tuy nhiên, vì các nguyên do
khác nhau mà nhiều hợp đồng đã giao kết hợp pháp lại không được thực hiện. Khi
đó, Bộ luật Dân sự đã đưa ra những biện pháp giải quyết, có thể kể đến là: gia hạn
thời gian thực hiện hợp đồng, buộc tiếp tục thực hiện đúng hợp đồng, yêu cầu giảm
giá, yêu cầu bồi thường thiệt hại, đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng... Và
biện pháp cuối cùng có thể coi là nặng nhất là hủy bỏ hợp đồng. Biện pháp này

không hề được mong muốn áp dụng, thế nhưng không thể cứ kéo dài mãi để cho
một bên phải chịu thiệt hại từ việc bên kia vi phạm hợp đồng trong khi áp dụng các
biện pháp xử lý khác không hiệu quả.
Số lượng điều khoản liên quan đến hủy bỏ hợp đồng trong Bộ luật Dân sự năm
2005 không phải là ít, cả phần quy định về hợp đồng dân sự thông dụng lẫn phần
quy định chung về hợp đồng. Mặc dù, Bộ luật Dân sự năm 2005 đã có một số thay
đổi liên quan đến hủy bỏ hợp đồng, thế nhưng những thay đổi này vẫn cịn mang
tính riêng rẽ, không dựa trên một quan điểm lý luận thống nhất nào. Vì vậy, nếu chỉ
đơn thuần vận dụng các quy định này thì thực tiễn xét xử vẫn cịn nhiều chỗ rơi vào
bế tắc, nhiều vấn đề pháp lý phát sinh khơng có câu trả lời hoặc mỗi một Tịa án sẽ
có cách giải quyết khác nhau. Chẳng hạn: một bên vi phạm hợp đồng gây thiệt hại
cho bên còn lại nhưng trước đó các bên khơng có thỏa thuận về điều kiện hủy bỏ
hợp đồng và pháp luật cũng khơng trao quyền hủy bỏ hợp đồng thì hợp đồng có thể
được Tịa án tun hủy bỏ hay khơng? Một bên khởi kiện yêu cầu hủy bỏ hợp đồng
nhưng đối tượng của hợp đồng đang nằm trong sự chiếm hữu của bên thứ ba thì
nghĩa vụ hồn trả tài sản đã nhận giữa hai bên trong hợp đồng sẽ thực hiện như thế
nào? Quyền lợi của bên thứ ba có được pháp luật công nhận và bảo vệ hay không?
Các thỏa thuận về giải quyết tranh chấp cũng như về quyền và nghĩa vụ của các bên
sau khi hủy bỏ hợp đồng có hiệu lực hay khơng khi hợp đồng bị hủy bỏ?
Hoàn thiện các quy định pháp luật về hợp đồng nói chung, về biện pháp hủy
bỏ hợp đồng nói riêng nhằm thúc đẩy quan hệ dân sự phát triển lành mạnh là một
trong các nhiệm vụ được đặt ra trong chiến lược cải cách tư pháp của nước ta hiện
nay. Nghiên cứu các vấn đề pháp lý xoay quanh việc hủy bỏ hợp đồng do bị vi
phạm trong Bộ luật Dân sự Việt Nam là rất cần thiết và có tính thực tiễn cao trong
bối cảnh nước ta đang xây dựng dự thảo sửa đổi, bổ sung Bộ luật Dân sự năm 2005.


2

Từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Hủy bỏ hợp đồng do bị vi phạm

trong Bộ luật Dân sự Việt Nam” để làm luận văn tốt nghiệp cao học luật.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề hủy bỏ hợp đồng nói chung và hủy bỏ hợp đồng do bị vi phạm trong
Bộ luật Dân sự Việt Nam nói riêng được sự quan tâm và nghiên cứu của các nhà
khoa học pháp lý, luật sư và những người học luật nói chung dưới nhiều góc độ.
Trong thời gian qua, đã có nhiều đề tài nghiên cứu vấn đề pháp luật về hủy bỏ
hợp đồng. Ở cấp độ thạc sĩ, có luận văn “Chế tài đình chỉ hợp đồng và hủy bỏ hợp
đồng trong hoạt động thương mại” của tác giả Nguyễn Thị Việt Hà năm 2010. Vì
đề tài này nghiên cứu chế định hủy bỏ hợp đồng trong hoạt động thương mại, mà cụ
thể là quy định của LTM năm 2005 nên tác giả đã không nghiên cứu sâu chế định
hủy bỏ hợp đồng do bị vi phạm trong Bộ luật Dân sự năm 2005.
Ở cấp độ cử nhân có luận văn "Hủy bỏ hợp đồng do vi phạm trong quá trình
thực hiện" của tác giả Nguyễn Nhật Thanh năm 2010, luận văn “Hủy bỏ hợp đồng
và đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo quy định của Bộ luật Dân sự năm
2005” của tác giả Võ Thị Thanh năm 2012, luận văn "Hủy bỏ hợp đồng dân sự và
hậu quả pháp lý của hợp đồng bị hủy bỏ" của tác giả Đoàn Thị Hằng năm 2011,
luận văn "Hủy bỏ hợp đồng và đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng dân sự"
của tác giả Nguyễn Thị Hường năm 2012, luận văn "Tuyên bố hủy hợp đồng và hậu
quả pháp lý của việc hủy hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo Cơng ước Viên
năm 1980 và Luật Thương mại năm 2005" của tác giả Bùi Thị Bích Sơn năm 2011.
Tuy nhiên, các đề tài trên có phạm vi nghiên cứu khá rộng, vừa nghiên cứu chế định
hủy bỏ hợp đồng vừa nghiên cứu chế định đơn phương chấm dứt thực hiện hợp
đồng, có đề tài thì nghiên cứu chế định hủy bỏ hợp đồng theo Cơng ước Viên về
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và theo Luật Thương mại năm 2005 chứ khơng
phải trong Bộ luật Dân sự năm 2005. Ngồi ra, các tác giả trên chỉ mới dừng lại ở
việc phân tích các quy định của pháp luật, chưa làm nổi bậc các vấn đề bất cập trên
thực tiễn xét xử.
Vấn đề hủy bỏ hợp đồng được thể hiện trong các giáo trình Luật dân sự, các
sách bình luận luật dân sự, các sách chuyên khảo. Cụ thể là các Giáo trình Luật dân
sự Việt Nam của Đại học Luật Hà Nội qua các năm; cuốn Luật hợp đồng Việt Nam Bản án và bình luận bản án (tập 2) của tác giả Đỗ Văn Đại do Nhà xuất bản Chính

trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội phát hành năm 2011 và tái bản năm 2014; cũng tác
giả này có cuốn Các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng trong
pháp luật Việt Nam do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội phát hành năm
2010 và tái bản năm 2013. Tương tự một số cuốn sách khác cũng có phần nội dung


3

liên quan đến vấn đề này là cuốn Chế định hợp đồng trong Bộ luật Dân sự Việt
Nam của tác giả Nguyễn Ngọc Khánh do Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội phát hành
năm 2007. Tuy nhiên, vì đây là sách giáo trình, sách chuyên khảo giải quyết khá
nhiều vấn đề pháp lý về hợp đồng nên chế định hủy bỏ hợp đồng chưa được nghiên
cứu tồn diện. Các cơng trình nghiên cứu chủ yếu về điều kiện áp dụng của biện
pháp này, mà chưa tập trung nhiều vào các vấn đề không kém phần quan trọng khác
như: giá trị của thông báo hủy bỏ hợp đồng, mối quan hệ giữa hủy bỏ hợp đồng và
các thỏa thuận về giải quyết tranh chấp cũng như điều khoản về quyền và nghĩa vụ
sau khi hủy bỏ hợp đồng.
Tiếp theo có thể tìm thấy ở các bài viết như: Hủy bỏ hợp đồng do có vi phạm ở
Việt Nam của Đỗ Văn Đại, đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dân số 2 năm 2009; Vấn
đề hủy bỏ và đình chỉ hợp đồng do vi phạm trong Bộ luật Dân sự của Đỗ Văn Đại,
đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý 3 (22) năm 2004; Quy định về hủy bỏ hợp đồng
dân sự của Vũ Thanh Tuấn, đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân tối cao số 21 năm
2010…
Các cuốn sách và bài viết trên là nguồn tài liệu rất q giá, với nhiều thơng tin
bổ ích và đưa ra các vấn đề còn bất cập, những lỗ hỏng pháp lý phải bổ sung xoay
quanh vấn đề hủy bỏ hợp đồng do bị vi phạm trong Bộ luật Dân sự Việt Nam với
những dẫn chứng thực tiễn xét xử và đặt trong sự so sánh với pháp luật thế giới rất
thuyết phục. Tuy nhiên, vì đối tượng nghiên cứu của các tài liệu này là rất nhiều nên
các tác giả chưa đi sâu và thể hiện toàn diện những vấn đề cần giải quyết về hủy bỏ
hợp đồng do bị vi phạm trong Bộ luật Dân sự Việt Nam. Vì vậy, chế định này cần

được nghiên cứu chuyên sâu, làm rõ các vấn đề bất cập, thiếu sót được bộc lộ trong
q trình áp dụng pháp luật mà chưa có cơng trình nào tập trung nghiên cứu. Nhất
là làm rõ hậu quả pháp lý của hủy bỏ hợp đồng trong mối quan hệ với bên thứ ba,
mối quan hệ giữa hủy bỏ hợp đồng với thỏa thuận về giải quyết tranh chấp hay về
quyền và nghĩa vụ các bên sau khi hủy bỏ hợp đồng.
Từ thực tiễn tình hình nghiên cứu như trên, thiết nghĩ đề tài “Hủy bỏ hợp
đồng do bị vi phạm trong Bộ luật Dân sự Việt Nam” cần được đầu tư một cách
toàn diện, chuyên sâu góp phần tạo cơ sở lý luận và thực tiễn trong công cuộc sửa
đổi, bổ sung Bộ luật Dân sự năm 2005.
3. Mục đích, đối tƣợng và giới hạn phạm vi nghiên cứu đề tài
 Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài nhằm làm rõ nền tảng lý luận mà trên cơ sở đó các nhà
làm luật Việt Nam quy định quyền hủy bỏ hợp đồng khi một bên vi phạm hợp đồng,
đánh giá các quy định về hủy bỏ hợp đồng theo Bộ luật Dân sự hiện hành và thực


4

tiễn xét xử tại các Tòa án hiện nay về hủy bỏ hợp đồng do bị vi phạm. Từ đó phân
tích các điểm tiến bộ cùng các vấn đề cịn bỏ ngõ, những nhược điểm của quy định
pháp luật dân sự hiện nay trong mối quan hệ so sánh với quy định pháp luật quốc tế.
Trên cơ sở kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, tác giả đề xuất một số kiến nghị
nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về hủy bỏ hợp đồng trong Bộ luật Dân sự năm
2005, từ đó góp phần tạo cơ sở pháp lý vững chắc trong hoạt động áp dụng pháp
luật của các Tòa án, đồng thời đưa chế định hủy bỏ hợp đồng của Việt Nam gần gũi
hơn với các hệ thống pháp luật trên thế giới.
 Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu mà tác giả hướng đến chính là những quy định trong Bộ
luật Dân sự hiện hành về hủy bỏ hợp đồng do bị vi phạm. Trước tiên, luận văn
nghiên cứu những vấn đề cơ bản về hủy bỏ hợp đồng được Bộ luật Dân sự quy

định, cụ thể là: khái niệm, mục đích, điều kiện áp dụng, hậu quả pháp lý của biện
pháp hủy bỏ hợp đồng khi một bên vi phạm hợp đồng.
Từ những vấn đề cơ bản xoay quanh biện pháp hủy bỏ hợp đồng nêu trên, tác
giả tiếp tục nghiên cứu những vấn đề còn tranh cãi, những điểm trống pháp lý chưa
kịp điều chỉnh, những bất cập trong quá trình áp dụng pháp luật. Và cuối cùng đưa
ra một số kiến nghị hoàn thiện các vấn đề cụ thể đang nghiên cứu.
 Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Đúng theo tên đề tài: “Hủy bỏ hợp đồng do bị vi phạm trong Bộ luật Dân sự
Việt Nam”, đề tài không nghiên cứu hủy bỏ hợp đồng theo thỏa thuận, mà chỉ
nghiên cứu về hủy bỏ hợp đồng do bị vi phạm và các bên không có thỏa thuận về
vấn đề hủy bỏ. Hủy bỏ hợp đồng theo thỏa thuận xảy ra khi một bên vi phạm điều
kiện hủy bỏ mà các bên đã thỏa thuận. Hủy bỏ hợp đồng do bị vi phạm xảy ra khi
một bên vi phạm nghĩa vụ mà pháp luật trao cho bên còn lại quyền hủy bỏ hợp đồng
dù trước đó các bên có thỏa thuận điều kiện hủy bỏ hợp đồng hay không. Như vậy,
hai loại hủy bỏ hợp đồng trên khác nhau ở chỗ điều kiện áp dụng, hủy bỏ hợp đồng
theo thỏa thuận quan tâm trước tiên đến điều kiện thỏa thuận hủy bỏ, còn hủy bỏ
hợp đồng do bị vi phạm quan tâm trước tiên đến căn cứ pháp luật quy định trao
quyền hủy bỏ.
Trong khuôn khổ luận văn tốt nghiệp thạc sĩ luật, tác giả chỉ tập trung nghiên
cứu quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 về hủy bỏ hợp đồng, cụ thể là quy định
tại phần chung và phần các hợp đồng dân sự thông dụng. Tuy nhiên, để làm rõ chế
định hủy bỏ hợp đồng theo Bộ luật Dân sự năm 2005, đánh giá những mặt được và
còn tồn tại của các quy định này, tác giả sẽ nghiên cứu quy định về vấn đề này trong
cả Luật Thương mại năm 2005, Bộ luật Dân sự Pháp, Bộ luật Dân sự Nhật Bản,


5

Cơng ước Viên về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, Bộ nguyên tắc của Unidroit
về hợp đồng thương mại quốc tế...

4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở áp dụng đan xen các phương pháp phân
tích, đánh giá, tổng hợp, so sánh pháp luật, khảo sát thực tiễn.
Phương pháp phân tích, đánh giá, tổng hợp luật được sử dụng nhiều ở những
phần của luận văn đề cập đến các vấn đề cơ bản mang tính lý luận về hủy bỏ hợp
đồng do bị vi phạm trong Bộ luật Dân sự Việt Nam (Chương 1 luận văn). Cụ thể
luận văn sẽ phân tích các quy định của Bộ luật Dân sự, tổng hợp các bài viết và ý
kiến của các tác giả xoay quanh vấn đề hủy bỏ hợp đồng.
Bên cạnh đó, luận văn khơng quên một phương pháp rất quan trọng nhằm
từng bước đưa pháp luật Việt Nam không lạc lõng mà gần gũi với pháp luật các
nước được đánh giá là tiến bộ, hiện đại. Đó là phương pháp so sánh pháp luật. So
sánh quy định hiện hành và thực tiễn áp dụng pháp luật về hủy bỏ hợp đồng do bị vi
phạm theo Bộ luật Dân sự Việt Nam với pháp luật thực định và thực tiễn xét xử ở
Pháp, Nhật Bản...về vấn đề này, cũng như so sánh với quy định của các công ước
quốc tế, các nguyên tắc pháp luật hợp đồng quốc tế được thừa nhận rộng rãi.
Phương pháp này được áp dụng xuyên suốt hầu như tất cả các mục của luận văn.
Chương 2 của luận văn, tác giả sử dụng chủ yếu phương pháp khảo sát, đánh
giá thực tiễn, đối chiếu với những gì đã phân tích, tổng hợp tại Chương 1, từ đó
tổng hợp cuối cùng để đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện đề tài đang nghiên cứu.
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Về mặt lý luận: Với mục tiêu nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện, đề tài
góp phần làm sáng tỏ trong khoa học pháp lý các vấn đề lý luận về biện pháp hủy
bỏ hợp đồng do bị vi phạm trong Bộ luật Dân sự Việt Nam. Củng cố quan điểm lý
luận nền tảng điều chỉnh chế định này.
Về mặt thực tiễn: Việc làm rõ những vấn đề còn vướng mắc, bất cập trong quá
trình áp dụng pháp luật và đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện, đề tài giúp các nhà
áp dụng pháp luật nắm rõ ý nghĩa của quy định hủy bỏ hợp đồng, biết được mục
đích mà nhà làm luật hướng tới khi điều chỉnh biện pháp hủy bỏ hợp đồng trong
tương lai. Từ đó có cơ sở vững chắc để áp dụng biện pháp này một cách hiệu quả.
Nghiên cứu đề tài trên góp phần đưa ra những vấn đề cần được luật hóa, làm

rõ đồng thời có một số kiến nghị mong muốn được quan tâm trong đợt sửa đổi, bổ
sung Bộ luật Dân sự năm 2005 lần này. Kết quả nghiên cứu đề tài có thể được sử
dụng làm nguồn tài liệu tham khảo cho các sinh viên chuyên ngành luật.


6

6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung đề tài gồm 2 chương, như sau:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hủy bỏ hợp đồng do bị vi phạm trong Bộ
luật Dân sự Việt Nam;
Chương 2: Những vướng mắc, bất cập về hủy bỏ hợp đồng do bị vi phạm
trong Bộ luật Dân sự Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện.


7

CHƢƠNG 1.
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HỦY BỎ HỢP ĐỒNG DO BỊ VI PHẠM
TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, mục đích của hủy bỏ hợp đồng và phân biệt chế định hủy
bỏ hợp đồng với một số chế định khác
1.1.1. Khái niệm hủy bỏ hợp đồng
* Hợp đồng
Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt
quyền, nghĩa vụ nhằm đạt được lợi ích hợp pháp mà họ mong muốn. “Hợp đồng có
thể được coi là kết quả của việc thỏa thuận, thống nhất ý chí của các bên, được thể
hiện trong các điều khoản cụ thể về quyền, nghĩa vụ của mỗi bên để có cơ sở cùng
nhau thực hiện”1.

Cũng như pháp luật của các quốc gia khác, trong hệ thống pháp luật Việt Nam
tồn tại nhiều loại hợp đồng: hợp đồng dân sự, hợp đồng hợp tác kinh doanh, hợp
đồng đầu tư, hợp đồng kinh doanh bảo hiểm…. Tuy nhiên, trong phần này để hiểu
rõ khái niệm về hợp đồng nói chung tác giả xin chỉ trích dẫn, nghiên cứu quy định
của Bộ luật Dân sự (BLDS) về hợp đồng2.
Với tư cách là luật gốc của hệ thống luật tư, BLDS dành sự quan tâm đặc biệt
điều chỉnh quan hệ hợp đồng, nói chính xác theo BLDS là “hợp đồng dân sự”.
Trước tiên, hợp đồng là một loại giao dịch dân sự, bởi Điều 121 BLDS năm 2005
quy định: "Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm
phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”3. Tiếp theo BLDS định
nghĩa “hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi
hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự” (Điều 388 BLDS năm 2005, Điều 394
BLDS năm 1995). Như vậy, đặc điểm không thể thiếu của hợp đồng dân sự chính là
sự thỏa thuận giữa các bên và mục đích xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và
nghĩa vụ dân sự. Đây chính là hai điều kiện cấu thành hợp đồng, nếu thiếu một
trong hai điều kiện này thì hợp đồng khơng được hình thành. “Tất cả các hợp đồng
1

Đinh Văn Thanh (1999), “Đặc trưng pháp lý của hợp đồng dân sự”, Luật học, (04), tr. 19.
Xuất phát từ phạm vi điều chỉnh rộng lớn của BLDS, theo Điều 1 BLDS năm 2005 quy định: “Bộ luật dân
sự quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác;
quyền, nghĩa vụ của các chủ thể về nhân thân và tài sản trong các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là quan hệ dân sự)”.
3
Điều 130 BLDS năm 1995 quy định: “Giao dịch dân sự là hành vi pháp lý đơn phương hoặc hợp đồng của
cá nhân, pháp nhân và của các chủ thể khác nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự”.
2



8

đều là sự thỏa thuận. Tuy nhiên không phải bất cứ sự thỏa thuận nào cũng là hợp
đồng”4.
Khái niệm “hợp đồng dân sự” trong BLDS Việt Nam được nhiều nhà nghiên
cứu pháp luật trong nước và thế giới đánh giá là có tính bao qt cao, bởi nó được
áp dụng không chỉ cho “hợp đồng dân sự” như khái niệm này đề cập mà là khái
niệm cho hợp đồng nói chung.
Có quan điểm cho rằng:
Qua phân tích chế định hợp đồng của Bộ luật cho thấy, Bộ luật Dân
sự quy định về hợp đồng dân sự theo nghĩa chung cho tất cả các hợp
đồng, là căn cứ để quy định các điểm đặc thù về từng loại hợp đồng theo
chuyên ngành luật. Với ý nghĩa đó, dù cho nhiều lý do khác nhau mà Bộ
luật Dân sự vẫn còn khái niệm “Hợp đồng dân sự” nhưng chữ “dân sự”
trong khái niệm “hợp đồng dân sự” theo Bộ luật Dân sự khơng cịn
ngun nghĩa như trong Pháp lệnh. Nội dung, nội hàm của nó đã có sự
thay đổi theo hướng mở rộng đến mức chỉ cần dùng hai chữ “hợp đồng”
mà thơi!5
Đồng tình với quan điểm trên, nhiều học giả kiến nghị bỏ từ “dân sự” đặt sau
hai từ “hợp đồng” và “nghĩa vụ” nhằm tạo cách hiểu nhất quán cho những đối
tượng chịu sự điều chỉnh của BLDS biết rằng mình khơng những phải tn thủ pháp
luật chun ngành mà cịn phải ln tn thủ quy định về hợp đồng trong BLDS6.
Một tác giả khác cho rằng không nên đặt từ “dân sự” ngay sau khái niệm
“hợp đồng” vì khơng cần thiết và dễ gây hiểu nhầm bởi:
Về mặt lô ghích, từ dân sự được đặt ở vị trí này là nhằm xác định rõ
nghĩa của khái niệm „hợp đồng‟, nhằm để chỉ đây là „hợp đồng dân sự‟
chứ không phải là hợp đồng khác (thương mại, lao động). Trong khi đó,
khái niệm hợp đồng dân sự được quy định tại Điều 388 BLDS năm 2005

4


Bộ Tư pháp (1996), Những nội dung cơ bản của Bộ luật Dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
H. 1996, tr. 96.
5
Bộ Tư pháp, Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (2000), Thông tin Khoa học pháp lý: Nghiên cứu so sánh
pháp luật về hợp đồng giữa Việt Nam và Nhật Bản, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 38.
6
Nguyễn Thị Mơ, Quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 về hợp đồng - Những bất cập đặt ra từ thực tiễn
giao
kết
hợp
đồng
của
doanh
nghiệp

giải
pháp
sửa
đổi,
truy cập ngày 15/12/2013.
Tác giả này cũng cho rằng: “việc đưa 2 chữ DÂN SỰ vào khái niệm hợp đồng tại Điều 388 và gọi đó là khái
niệm HỢP ĐỒNG DÂN SỰ trong thực tế đã không chỉ làm vơ hiệu hóa giá trị của những quy định tại Điều 4
Luật TM 2005 và phá vỡ tính thống nhất, tính liên kết chặt chẽ giữa các quy định về hợp đồng trong các văn
bản pháp luật hiện hành của Việt Nam.”


9

với chủ định xem đây là khái niệm chung được sử dụng để chỉ mọi hợp

đồng chứ không phải chỉ dành riêng cho „hợp đồng dân sự‟ 7.
Tìm hiểu định nghĩa về hợp đồng ở một số nước, chúng ta thấy rằng:
BLDS Pháp tại Điều 1101 quy định: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên
theo đó một hay nhiều người cam kết với một hoặc nhiều người khác về việc chuyển
giao một vật, làm hoặc không làm một cơng việc nào đó”.
Tương tự, BLDS Kê-bếch định nghĩa: “Hợp đồng là ràng buộc hai bên, hay
song phương, khi các bên tự ràng buộc mình một cách qua lại, mỗi bên đối với bên
kia, để nghĩa vụ của một bên tương ứng với nghĩa vụ của bên kia”.
Điều 420 BLDS Liên Bang Nga năm 1994 định nghĩa: “Hợp đồng là sự thỏa
thuận giữa hai hay nhiều bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa
vụ dân sự”.
Các định nghĩa của một số quốc gia nêu trên đều thể hiện hai yếu tố không thể
thiếu của hợp đồng là thỏa thuận và mục đích tạo lập hiệu lực pháp lý mà các bên
giao kết phải tuân thủ.
Tóm lại, qua việc xem xét khái niệm “hợp đồng dân sự” tại BLDS năm 2005
và tìm hiểu khái niệm “hợp đồng” tại pháp luật một số quốc gia đã cho thấy tính
thống nhất của hai khái niệm này. Hợp đồng chính là sự thỏa thuận giữa các bên về
việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ.
* Hủy bỏ
Viện Ngôn ngữ học định nghĩa hủy bỏ là “bỏ đi, coi là hồn tồn khơng có
hiệu lực hay giá trị nữa”8.
Tuy nhiên, hiện BLDS hồn tồn khơng có định nghĩa thế nào là “hủy bỏ”.
Rà sốt BLDS hiện hành có thể thấy từ “hủy bỏ” được xuất hiện nhiều lần.
Chẳng hạn như: khoản 1 Điều 425 (hủy bỏ hợp đồng khi một bên vi phạm hợp đồng
là điều kiện hủy bỏ đã được thỏa thuận trước hoặc pháp luật có quy định), khoản 2
Điều 435 (bên mua có quyền hủy bỏ hợp đồng khi bên bán giao ít hơn số lượng đã
thoả thuận), khoản 2 Điều 443 (bên mua có quyền hủy bỏ hợp đồng nếu người thứ
ba có quyền sở hữu một phần hoặc toàn bộ tài sản mua bán), khoản 3 Điều 463 (một
bên có quyền huỷ bỏ hợp đồng nếu bên bên kia trao đổi tài sản cho mình mà tài sản
này khơng thuộc quyền sở hữu của họ hoặc họ không được chủ sở hữu uỷ quyền)…


7

Lê Minh Hùng (2010), Hiệu lực của hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật
học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 13
8
Viện Ngôn ngữ học (2006), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, tr. 470.


10

Như vậy, thuật ngữ “hủy bỏ” xuất hiện trong rất nhiều trường hợp: khi một
bên chuyển giao tài sản không thuộc sở hữu của mình cho người khác, khi bên thứ
ba từ chối lợi ích của mình, khi có vi phạm hợp đồng …
Tuy nhiên, với đề tài “Hủy bỏ hợp đồng do bị vi phạm trong Bộ luật Dân sự
Việt Nam”, thuật ngữ “hủy bỏ” mà bài luận văn muốn phân tích, nghiên cứu là từ
“hủy bỏ” trong trường hợp hợp đồng đã có hiệu lực nhưng có vi phạm hợp đồng.
* Hủy bỏ hợp đồng
Theo Từ điển Giải thích thuật ngữ luật học thì hợp đồng bị hủy bỏ “là hợp
đồng được giao kết hợp pháp nhưng bị coi là khơng có hiệu lực thực hiện nữa” 9.
Điều 419 BLDS năm 1995 và Điều 425 BLDS năm 2005 quy định giống nhau
về hủy bỏ hợp đồng, theo đó: “Một bên có quyền hủy bỏ hợp đồng và khơng phải
bồi thường thiệt hại khi bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện hủy bỏ mà các bên
đã thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định” và “Khi hợp đồng bị hủy bỏ thì hợp
đồng khơng có hiệu lực từ thời điểm giao kết và các bên phải hoàn trả cho nhau tài
sản đã nhận; nếu khơng hồn trả được bằng hiện vật thì phải hồn trả bằng tiền”.
Như vậy, cả hai BLDS tiếp cận biện pháp này theo cách liệt kê điều kiện áp dụng và
hậu quả pháp lý, chứ không định nghĩa. Cụ thể, hủy bỏ hợp đồng là hợp đồng đã có
hiệu lực nhưng vì có vi phạm hợp đồng thuộc trường hợp các bên thỏa thuận là điều
kiện hủy bỏ hợp đồng hoặc mặc dù khơng có thỏa thuận nhưng rơi vào trường hợp

pháp luật cho phép một bên hủy bỏ hợp đồng.
Luật Thương mại (LTM) năm 2005 cũng theo cách tiếp cận trên. Khoản 4
Điều 312 LTM năm 2005 quy định:
“Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này,
chế tài hủy bỏ hợp đồng được áp dụng trong các trường hợp sau đây:
a) Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để hủy bỏ hợp
đồng;
b) Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng”.
Như vậy, với quy định mang tính liệt kê của BLDS hiện hành, hủy bỏ hợp
đồng là biện pháp xử lý việc một bên không thực hiện đúng nghĩa vụ là điều kiện
hủy bỏ hợp đồng do các bên thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định, làm cho hợp
đồng khơng có hiệu lực từ thời điểm giao kết.
1.1.2. Mục đích của hủy bỏ hợp đồng
Thứ nhất, cũng như các chế định trách nhiệm hợp đồng khác, hủy bỏ hợp
đồng có tác dụng ngăn ngừa, hạn chế ý định bội tín, hành vi vi phạm hợp đồng của
9

Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển Giải thích thuật ngữ luật học, NXB Cơng an nhân dân, Hà
Nội, tr. 68.).


11

các bên giao kết. Tác dụng này được thể hiện rất rõ bởi hậu quả của hủy bỏ hợp
đồng là hợp đồng khơng có hiệu lực ngay từ thời điểm giao kết. Chính hậu quả nặng
nề này có tác động rất mạnh mẽ đến ý thức tuân thủ hợp đồng của các bên giao kết.
Việc quy định cụ thể điều kiện áp dụng, hậu quả pháp lý của biện pháp hủy bỏ
hợp đồng giúp bên có ý định vi phạm thấy rõ được quyền mà pháp luật trao cho bên
kia khi mình vi phạm nghĩa vụ. Đồng thời, thấy rõ hậu quả bất lợi mà mình phải
gánh chịu trong trường hợp này. Do đó, quy định biện pháp hủy bỏ hợp đồng với

mục đích trước tiên là góp phần phịng ngừa hành vi vi phạm hợp đồng.
Thứ hai, hủy bỏ hợp đồng giúp giải phóng các bên khỏi quan hệ hợp đồng
đang rơi vào tình trạng ngưng trệ, từ đó hợp đồng khác có cơ hội phát sinh, thúc đẩy
giao dịch dân sự phát triển. Trên thực tiễn, hợp đồng không luôn được các bên thực
hiện đầy đủ, đặc biệt khi một bên cố tình vi phạm nghiêm trọng hợp đồng thì việc
ràng buộc các bên vào một hợp đồng khơng có kết quả là khơng cần thiết. Khi đó
cần có giải pháp để giải phóng các bên khỏi hợp đồng, các bên mà nhất là bên bị vi
phạm có thể giao kết được hợp đồng khác thay thế đáp ứng nhu cầu. Từ đó giao
dịch dân sự được phát triển, các bên không phải lo lắng về hợp đồng đang rơi vào
tình trạng “treo” của mình. Hủy bỏ hợp đồng đáp ứng được yêu cầu này. Bởi quyết
định cho phép hủy bỏ hợp đồng là “một động thái hết sức cần thiết nhằm đặt dấu
chấm hết cho các tranh chấp tưởng chừng như khơng có hồi kết” 10.
Như vậy, quy định về hủy bỏ hợp đồng không chỉ giải quyết mối quan hệ
tranh chấp đang tồn tại giữa các bên ký kết mà cịn góp phần thúc đẩy thiết lập giao
dịch dân sự mới. Bởi nếu pháp luật không quy định biện pháp hủy bỏ hợp đồng khi
có vi phạm thì bên bị vi phạm sẽ có tâm lý ngập ngừng, do dự phương án giải quyết
quan hệ hợp đồng đang bị vi phạm, từ đó vơ hình chung tạo rào cản cho sự thiết lập
giao dịch dân sự mới, kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế.
Thứ ba, việc quy định rõ ràng các trường hợp, điều kiện hủy bỏ hợp đồng
trong BLDS giúp bên bị vi phạm thực thi nhanh hơn quyền hủy bỏ hợp đồng, Tịa
án sẽ thuận lợi trong cơng tác xét xử vì đã có cơ sở pháp lý rõ ràng, bảo vệ thỏa
đáng lợi ích của các bên, từ đó hạn chế thiệt hại từ việc vi phạm hợp đồng.
Khi một bên vi phạm hợp đồng đến mức việc buộc thực hiện đúng hợp đồng
và áp dụng các biện pháp khác không cịn ý nghĩa thì hủy bỏ hợp đồng nên được sử
dụng. Bởi khi áp dụng biện pháp này quan hệ hợp đồng đang bị vi phạm sẽ được

10

Phan Khắc Nghiêm, Hủy bỏ hay tiếp tục thực hiện hợp đồng khi một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng,
truy cập ngày 01/6/2013.



12

giải quyết chấm dứt nhanh chóng, tránh được tình trạng kéo dài không cần thiết,
đồng thời bên bị vi phạm cũng được quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Như vậy, trong trường hợp này hủy bỏ hợp đồng đã thể hiện tác dụng rất lớn
trong việc hạn chế thiệt hại khi có vi phạm hợp đồng.
Tóm lại, mục đích xây dựng chế định hủy bỏ hợp đồng là phòng ngừa hành vi
vi phạm nghĩa vụ, nâng cao ý thức tuân thủ hợp đồng của các bên giao kết. Đồng
thời giải quyết nhanh chóng quan hệ tranh chấp, từ đó thúc đẩy giao lưu dân sự phát
triển, hạn chế thiệt hại phát sinh.
1.1.3. Phân biệt hủy bỏ hợp đồng và hợp đồng vô hiệu
Vấn đề phân biệt hủy bỏ hợp đồng và hợp đồng vơ hiệu được đặt ra bởi chúng
có điểm giống nhau rất cơ bản mà đôi khi dẫn đến nhầm lẫn khi áp dụng. Đó chính
là hậu quả pháp lý của hai chế định này.
Về hậu quả của hợp đồng vô hiệu, Điều 137 BLDS năm 2005 quy định:
“1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập.
2. Khi giao dịch dân sự vơ hiệu thì các bên khơi phục lại tình trạng ban đầu,
hồn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu khơng hồn trả được bằng hiện vật thì
phải hồn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản, giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được
bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường" 11.
Về hậu quả của hủy bỏ hợp đồng, khoản 3 Điều 425 BLDS năm 2005 quy
định: “Khi hợp đồng bị hủy bỏ thì hợp đồng khơng có hiệu lực từ thời điểm giao kết
và các bên phải hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận; nếu khơng hồn trả được bằng
hiện vật thì phải trả bằng tiền”.
Xuất phát từ mục đích khơng ràng buộc trách nhiệm của bên bị vi phạm bởi
một hợp đồng mà họ sẽ khơng nhận được lợi ích mong đợi khi ký kết hợp đồng mà
hậu quả của hủy bỏ hợp đồng là sự “triệt tiêu hợp đồng kể từ thời điểm giao kết”12.

Tức hợp đồng cũng khơng có hiệu lực từ thời điểm giao kết.
Tóm lại, hủy bỏ hợp đồng và hợp đồng vơ hiệu đều có chung hậu quả pháp lý
là hợp đồng khơng có hiệu lực từ thời điểm giao kết, các bên có nghĩa vụ hồn trả
và bên có lỗi phải bồi thường thiệt hại.
Tuy giống nhau ở hậu quả pháp lý nhưng hủy bỏ hợp đồng và hợp đồng vơ
hiệu là hai chế định hồn tồn độc lập:
11

Quy định này được áp dụng cho hợp đồng vì khoản 1 Điều 410 BLDS năm 2005 quy định: “Các quy định
về giao dịch dân sự vô hiệu từ Điều 127 đến Điều 138 của Bộ luật này cũng được áp dụng đối với hợp đồng
vô hiệu”.
12
Đỗ Văn Đại (2014), Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, tập II, NXB Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, tr. 609.


13

Trước tiên, chúng được các nhà lập pháp xây dựng với mục đích khác nhau.
Quy định về hợp đồng vơ hiệu nhằm đảm bảo hợp đồng được giao kết hợp
pháp để từ đó các bên mới có thể đáp ứng được nhu cầu của mình. Bởi nếu hợp
đồng bị vơ hiệu thì ngay lập tức nó khơng được pháp luật thừa nhận.
Trong khi đó, quy định về hủy bỏ hợp đồng nhằm đảm bảo hợp đồng được các
bên tuân thủ thực hiện và xử lý hành vi vi phạm hợp đồng.
Tiếp theo, tiêu chí rõ ràng nhất để phân biệt hủy bỏ hợp đồng và hợp đồng vô
hiệu là điều kiện áp dụng.
Điều kiện áp dụng của hợp đồng vô hiệu là việc vi phạm bất kỳ điều kiện có
hiệu lực của hợp đồng do pháp luật quy định. Các điều kiện này là: (i) Người tham
gia hợp đồng có năng lực hành vi dân sự; (ii) Mục đích và nội dung của hợp đồng
không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội; (iii) Người tham

gia hợp đồng hoàn toàn tự nguyện; (iv) Giao kết đúng hình thức hợp đồng trong
trường hợp pháp luật quy định hình thức là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng.
Hợp đồng không đáp ứng một trong các điều kiện có hiệu lực trên sẽ vơ hiệu.
Trong khi đó, điều kiện áp dụng biện pháp hủy bỏ hợp đồng, khoản 1 Điều
425 BLDS năm 2005 quy định: “Một bên có quyền hủy bỏ hợp đồng và khơng phải
bồi thường thiệt hại khi bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện hủy bỏ mà các bên
đã thỏa thuận hoặc pháp luật quy định”.
Như vậy, hợp đồng lúc này đã đáp ứng đầy đủ điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng và đang bước vào giai đoạn thực hiện nhưng bị hủy bỏ vì có vi phạm hợp
đồng. Có thể là một bên vi phạm điều kiện hủy bỏ mà các bên đã thỏa thuận hoặc vi
phạm quy định pháp luật mà quy định này trao quyền hủy bỏ cho bên cịn lại.
Tóm lại, hủy bỏ hợp đồng và hợp đồng vô hiệu là hai chế định khác nhau,
chúng được phân biệt ở mục đích và điều kiện áp dụng. Việc phân biệt rõ hai chế
định này đảm bảo pháp luật được áp dụng đúng, thống nhất, bảo vệ lợi ích hợp pháp
của các bên giao kết.
1.1.4. Phân biệt hủy bỏ hợp đồng và đơn phương chấm dứt thực hiện hợp
đồng
Phân biệt hủy bỏ hợp đồng và đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng
không chỉ là vấn đề của riêng pháp luật Việt Nam, mà còn là của các quốc gia khác.
Các nước thuộc hệ thống pháp luật thành văn chọn giải pháp dựa vào hậu quả để
phân biệt: chấm dứt hợp đồng chỉ có giá trị trong tương lai, ngược lại hủy bỏ hợp
đồng có hiệu lực hồi tố, ngoại trừ hủy bỏ hợp đồng thực hiện từng phần. “Tuy
nhiên, ở Pháp cũng như Bỉ, theo học thuyết nghiên cứu cũng như theo thực tiễn xét
xử, người ta nhận thấy có xu hướng loại bỏ tính hồi tố của hủy bỏ hợp đồng hoặc


14

gần như đến ranh giới đó”13. Bởi q trình áp dụng pháp luật ở các nước này cho
thấy việc “thực hiện hoàn trả là rất phức tạp, một vài ngoại lệ với tính hồi tố làm

đe dọa tính thống nhất của các giải pháp này và đặc biệt là với các hợp đồng thực
hiện từng phần, cũng như sự tiếp tục tồn tại của các quy định về trách nhiệm hợp
đồng cũng như các điều khoản điều chỉnh trách nhiệm đó dù hợp đồng có bị hủy”14.
Như vậy, về mặt quy định pháp luật ở các nước thuộc hệ thống pháp luật thành
văn có sự phân biệt giữa hủy bỏ hợp đồng và đơn phương chấm dứt thực hiện hợp
đồng ở hậu quả pháp lý (có hay khơng có tính hồi tố). Nhưng về mặt thực tiễn xét
xử cũng như học thuyết nghiên cứu, sự phân biệt này ngày càng khơng rõ ràng bởi
tính hồi tố của hủy bỏ hợp đồng trong nhiều trường hợp tỏ ra không phù hợp.
Quay trở lại với pháp luật Việt Nam, hủy bỏ hợp đồng và đơn phương chấm
dứt thực hiện hợp đồng về cơ bản giống nhau ở một số điểm:
Thứ nhất, hai biện pháp này đều dẫn đến hệ quả là chấm dứt hợp đồng, bởi
hủy bỏ hợp đồng và đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng đều thuộc một trong
các trường hợp hợp đồng chấm dứt. Điều 424 BLDS năm 2005 quy định: “Hợp
đồng chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
1. Hợp đồng đã được hoàn thành;
2. Theo thoả thuận của các bên;
3. Cá nhân giao kết hợp đồng chết, pháp nhân hoặc chủ thể khác chấm dứt mà
hợp đồng phải do chính cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể đó thực hiện;
4. Hợp đồng bị hủy bỏ, bị đơn phương chấm dứt thực hiện;
5. Hợp đồng không thể thực hiện được do đối tượng của hợp đồng không cịn
và các bên có thể thoả thuận thay thế đối tượng khác hoặc bồi thường thiệt hại;
6. Các trường hợp khác do pháp luật quy định”.
Thứ hai, hủy bỏ hợp đồng và đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng về cơ
bản giống nhau ở căn cứ phát sinh. Tại khoản 1 Điều 425 (Hủy bỏ hợp đồng dân sự)
và khoản 1 Điều 426 (Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng dân sự) BLDS
hiện hành đều quy định căn cứ để áp dụng hai biện pháp này là “thỏa thuận hoặc
pháp luật có quy định”. Đối với căn cứ “pháp luật có quy định”, nghiên cứu quy
định của BLDS năm 2005 cho thấy hai biện pháp này đều được áp dụng khi một
bên không thực hiện đúng hợp đồng. Chẳng hạn: nếu giao vật không đúng số lượng,
không đồng bộ làm cho mục đích sử dụng của vật khơng đạt được, vật được giao

không đúng chủng loại; nếu bên cho thuê chậm giao tài sản thuê hoặc giao tài sản
13

Nhà pháp luật Việt - Pháp (2011), Các thuật ngữ hợp đồng thông dụng, NXB Từ điển bách khoa, Hà Nội,
tr. 705-706.
14
Nhà pháp luật Việt - Pháp (2011), Tlđd 13, tr. 708.


15

th khơng đúng chất lượng đã thỏa thuận thì bên mua/ bên thuê có quyền hủy bỏ
hợp đồng15. Nếu bên th sử dụng tài sản khơng đúng mục đích, khơng đúng công
dụng; nếu bên cung ứng dịch vụ vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ; nếu bên nhận gia
công vi phạm nghiêm trọng hợp đồng thì bên cho thuê tài sản/ bên th dịch vụ/ bên
đặt gia cơng có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng16.
Tuy nhiên, hai chế định này được phân biệt ở một số điểm:
Thứ nhất, khác với hủy bỏ hợp đồng, đơn phương chấm dứt thực hiện hợp
đồng vẫn được áp dụng trong một số trường hợp mà khơng có thỏa thuận cũng như
khơng có việc một bên không thực hiện đúng hợp đồng. Mà đơn giản được áp dụng
chỉ vì một bên khơng cịn nhu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng. Chẳng hạn:
Khoản 1 Điều 525 BLDS năm 2005 quy định: “Trong trường hợp việc tiếp tục
thực hiện cơng việc khơng có lợi cho bên thuê dịch vụ thì bên thuê dịch vụ có quyền
đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng, nhưng phải báo cho bên cung ứng dịch
vụ biết trước một thời gian hợp lý; bên thuê dịch vụ phải trả tiền công theo phần
dịch vụ mà bên cung ứng dịch vụ đã thực hiện và bồi thường thiệt hại”.
Hoặc quy định về đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng ủy quyền17, đơn
phương chấm dứt thực hiện hợp đồng gia công18.
Thứ hai, điểm khác nhau rõ ràng nhất giữa hủy bỏ hợp đồng và đơn phương
chấm dứt thực hiện hợp đồng là hệ quả pháp lý. Với mục đích triệt tiêu hợp đồng

ngay từ thời điểm giao kết, hủy bỏ hợp đồng dẫn đến các bên phải hoàn trả cho
nhau tài sản đã nhận. Trong khi đó, chỉ vì mục đích triệt tiêu hợp đồng trong tương
lai nên hậu quả của đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng là các bên không phải
tiếp tục thực hiện nghĩa vụ và bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia
thanh toán.
Theo khoản 3 Điều 425 BLDS năm 2005: “Khi hợp đồng bị hủy bỏ thì hợp
đồng khơng có hiệu lực từ thời điểm giao kết và các bên phải hồn trả cho nhau tài
sản đã nhận; nếu khơng hồn trả được bằng hiện vật thì phải trả bằng tiền”.
Khoản 3 Điều 426 BLDS năm 2005 quy định: “Khi hợp đồng bị đơn phương
chấm dứt thực hiện thì hợp đồng chấm dứt từ thời điểm bên kia nhận được thông
báo chấm dứt. Các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ. Bên đã thực hiện
nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán”.

15
16

17
18

Xem thêm Điều 435, 436, 437, Điều 484 BLDS năm 2005.
Xem thêm Điều 488, 521, 550 BLDS năm 2005.
Xem thêm Điều 588 BLDS năm 2005.
Xem thêm khoản 1 Điều 556 BLDS năm 2005.


16

Như vậy, về mặt quy định pháp luật hiện hành, hủy bỏ hợp đồng và đơn
phương chấm dứt thực hiện hợp đồng hoàn toàn khác nhau về hệ quả pháp lý. Tuy
nhiên, trong thực tiễn xét xử có những trường hợp quyết định chọn áp dụng biện

pháp nào không phải dễ.
1.2. Điều kiện hủy bỏ hợp đồng do bị vi phạm trong Bộ luật Dân sự Việt
Nam
1.2.1. Vi phạm hợp đồng
* Phạm vi, phƣơng thức xác định vi phạm hợp đồng
Khoản 1 Điều 425 BLDS năm 2005 quy định: “Một bên có quyền hủy bỏ hợp
đồng và khơng phải bồi thường thiệt hại khi bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện
hủy bỏ mà các bên đã thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định”. Như vậy, để áp
dụng biện pháp hủy bỏ hợp đồng thì điều kiện trước tiên là phải có “vi phạm hợp
đồng”, nói rõ hơn là “vi phạm nghĩa vụ hợp đồng”.
* Nghĩa vụ hợp đồng
Để hiểu thế nào là “vi phạm nghĩa vụ hợp đồng”, trước tiên cần làm sáng tỏ
“nghĩa vụ hợp đồng” là gì.
Từ “nghĩa vụ” được sử dụng rất rộng rãi ở các ngành khoa học pháp lý. Trong
khoa học luật dân sự, “nghĩa vụ” chỉ mối quan hệ pháp luật tồn tại giữa hai hay
nhiều chủ thể mà cho phép chủ thể này đòi hỏi chủ thể kia phải thực hiện hoặc
khơng thực hiện điều gì đó. Như vậy, “nghĩa vụ” được cấu thành từ một mối ràng
buộc pháp lý, và hợp đồng chính là một trong các ràng buộc pháp lý đó. Vì thế,
“nghĩa vụ hợp đồng” được hiểu là nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng mà theo đó bên
có nghĩa vụ phải thực hiện đúng các thỏa thuận trong hợp đồng đối với bên có
quyền.
Vấn đề tiếp theo phải xác định là “nghĩa vụ hợp đồng” ở đây được hiểu theo
nghĩa nào. Theo nghĩa hẹp, “nghĩa vụ hợp đồng” chỉ gồm những nghĩa vụ mà các
bên đã thỏa thuận trong hợp đồng. Theo nghĩa rộng, “nghĩa vụ hợp đồng” không chỉ
là những nghĩa vụ mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng mà còn cả những nghĩa
vụ được quy định trong pháp luật về hợp đồng.
Thiết nghĩ, cách hiểu theo nghĩa rộng là thuyết phục hơn xuất phát từ nhiều lý
do. Trước tiên, các bên ký kết hợp đồng thường không thể am hiểu trọn vẹn tất cả
những vấn đề gì mình nên thỏa thuận trong hợp đồng. Bên cạnh đó, việc quy định
các nghĩa vụ của các bên mà nhất là đối với một số loại hợp đồng địi hỏi chủ thể

tham gia phải có kiến thức chuyên ngành nhất định cũng như các hợp đồng mà về
bản chất các bên không thể công bằng khi ký kết là cần thiết. Với các ý nghĩa này,
Nhà nước phải can thiệp bằng cách quy định các quyền cũng như nghĩa vụ trong


17

hợp đồng tại văn bản pháp luật, nhằm góp phần hạn chế sự không công bằng cũng
như tạo điều kiện thuận lợi cho các bên khi ký kết và thực hiện hợp đồng.
Ngay từ Bộ Dân luật năm 1972 của Việt Nam Cộng hòa tại Điều 688 đã quy
định: “Khế ước khơng những chỉ bó buộc về những điều được minh thị giao ước,
cịn bó buộc cả về những sự việc hệ thuộc vào nghĩa vụ đã cam kết, chiếu theo luật
pháp, thông lệ, hay lẽ công bằng. Quy định này của Bộ dân luật năm 1972 là quy
định rất tiến bộ, đáp ứng yêu cầu chính đáng của các bên giao kết và phù hợp với
các nước có nền pháp luật hiện đại.
Tại Pháp, Điều 1135 BLDS Pháp quy định: “Các bên giao kết không chỉ phải
thực hiện những nghĩa vụ được nêu trong hợp đồng, mà còn phải thực hiện cả
những nghĩa vụ theo yêu cầu của nguyên tắc công bằng, tập quán hay theo quy định
của pháp luật”. Như vậy, theo Pháp nghĩa vụ hợp đồng được hiểu theo nghĩa rộng.
Tóm lại, theo quan điểm của tác giả, “nghĩa vụ hợp đồng” tại BLDS hiện hành
bao gồm cả những nghĩa vụ các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng và nghĩa vụ được
quy định tại các văn bản pháp luật liên quan đến hợp đồng được giao kết.
* Vi phạm nghĩa vụ hợp đồng
BLDS năm 2005 hoàn tồn khơng có điều luật nào định nghĩa “vi phạm nghĩa
vụ hợp đồng” hay “vi phạm hợp đồng”. Nhưng nó lại được điều chỉnh gián tiếp qua
một điều luật khác, cụ thể Điều 302 BLDS năm 2005 quy định: “Bên có nghĩa vụ
mà khơng thực hiện hoặc thực hiện khơng đúng nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm
dân sự đối với bên có quyền”. Vì trách nhiệm hợp đồng là một dạng cụ thể của
trách nhiệm dân sự nên Điều 302 cũng được áp dụng đối với trách nhiệm hợp đồng.
Do đó, khi một bên khơng thực hiện hoặc thực hiện khơng đúng nghĩa vụ hợp đồng

thì sẽ chịu trách nhiệm hợp đồng.
Với quy định trên cho thấy BLDS đã tiếp cận “vi phạm hợp đồng” dựa vào
hình thức thể hiện của nó. Theo đó, “vi phạm hợp đồng” thể hiện dưới dạng không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo hợp đồng.
Đối chiếu LTM, tại khoản 12 Điều 3 LTM năm 2005 quy định: “Vi phạm hợp
đồng là việc một bên không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ theo thỏa thuận giữa các bên hoặc theo quy định của Luật này”.
Cách tiếp cận việc xác định vi phạm hợp đồng như trên cũng được sự ủng hộ
của nhiều tác giả. Theo tác giả Trần Thăng Long và Hà Thị Hạnh, ““Khơng thực
hiện” được hiểu bao gồm tất cả các hình thức có thực hiện nhưng khơng đúng như
giao kết cũng như hồn tồn khơng thực hiện”19.
19

Trần Thăng Long và Hà Thị Hạnh (2013), Các biện pháp khắc phục do vi phạm hợp đồng (Contract
remedies) theo pháp luật hợp đồng Hoa Kỳ và một số so sánh với pháp luật Việt Nam, Tài liệu Hội thảo Tìm


18

Nhìn từ góc độ so sánh, chúng ta thấy pháp luật các nước cũng có sự điều
chỉnh “vi phạm nghĩa vụ hợp đồng” (hay “vi phạm hợp đồng”) bằng cách phân loại.
Chẳng hạn, BLDS Nhật Bản phân loại các trường hợp giúp xác định được vi phạm
hợp đồng. Cụ thể đó là: chậm thực hiện, khơng có khả năng thực hiện và thực hiện
không đầy đủ.
Ở Pháp, vi phạm nghĩa vụ hợp đồng cũng được chia ra thành hai dạng là:
chậm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng và không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, trong đó
khơng thực hiện nghĩa vụ hợp đồng bao gồm tất cả hình thức thể hiện không thực
hiện và thực hiện không đúng nghĩa vụ hợp đồng.
Ngồi cách phân loại điển hình trên, Pháp cịn phân loại vi phạm nghĩa vụ
bằng cách phân chia nghĩa vụ thành nghĩa vụ kết quả và nghĩa vụ phương tiện. Đối

với nghĩa vụ phương tiện, bên có nghĩa vụ phải sử dụng mọi phương tiện cần thiết,
mọi nỗ lực như một người bình thường trong hồn cảnh đó để thực hiện nghĩa vụ đã
giao kết, nếu không làm được điều này thì bị coi là vi phạm nghĩa vụ 20. Đối với
nghĩa vụ kết quả, bên có nghĩa vụ đã cam kết thực hiện đạt kết quả xác định theo
hợp đồng, do đó khi chưa đạt được kết quả này thì bị coi là vi phạm nghĩa vụ.
Cách phân loại nghĩa vụ thành nghĩa vụ kết quả và nghĩa vụ phương tiện cũng
được tìm thấy tại Bộ nguyên tắc của Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế (Bộ
nguyên tắc Unidroit). Cụ thể tại Điều 5.1.4 Bộ nguyên tắc quy định: “1. Người có
nghĩa vụ kết quả phải cung cấp kết quả đã cam kết; 2. Người có nghĩa vụ phương
tiện phải thực hiện cơng việc đó với sự cẩn trọng và trách nhiệm như một người
bình thường có cùng khả năng ở cùng hoàn cảnh”.
Việc phân loại nghĩa vụ phương tiện và nghĩa vụ kết quả như trên giúp các bên
hiểu rõ nghĩa vụ của mình từ đó tuân thủ thực hiện hợp đồng nghiêm túc hơn. Đồng
thời, giúp các bên cũng như cơ quan xét xử xác định vi phạm hợp đồng thuận lợi,
nhanh chóng hơn.

hiểu pháp luật hợp đồng trong hệ thống thông luật, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh tháng 05/2013, tr.
65.
20
Ngay từ thời La Mã đã tồn tại cách xác định vi phạm nghĩa vụ hợp đồng đối với loại nghĩa vụ phương tiện.
Cụ thể, “người có nghĩa vụ cịn phải chịu trách nhiệm do đã không cố gắng đúng mức (đối với một người
bình thường - quod omenes intellegunt) khi thi hành nghĩa vụ, vd: giữ một đồ vật có giá trị (vàng, bạc) ở nơi
lộ liễu nhiều người qua lại”. Và cũng quy định rõ ràng rằng đối với loại nghĩa vụ này thì người có nghĩa vụ
chỉ phải chịu trách nhiệm khi việc khơng thực hiện đó mang lại lợi ích cho người có nghĩa vụ. Xem thêm
Witold Wolodkiewicz và Maria Zablocka (1999), Luật La Mã (Dịch giả: Lê Nết), Trường Đại học Luật
Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 202.


19


Quay trở lại với BLDS hiện hành, rất tiếc cách xác định vi phạm nghĩa vụ hợp
đồng tùy thuộc vào tính chất của từng loại nghĩa vụ là phương tiện hay kết quả hồn
tồn khơng được quy định21.
Thiết nghĩ, chúng ta nên tham khảo cách phân loại nghĩa vụ hợp đồng thành
nghĩa vụ phương tiện và nghĩa vụ kết quả của pháp luật nước ngoài để áp dụng cho
BLDS Việt Nam. Và cách phân loại này nên được áp dụng cho tất cả nghĩa vụ dân
sự nói chung chứ khơng chỉ riêng cho một loại nghĩa vụ hợp đồng nào.
Như vậy, mặc dù BLDS hiện hành không quy định rõ thế nào là vi phạm hợp
đồng nhưng vi phạm hợp đồng cần được hiểu là không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng những nghĩa vụ đã được thỏa thuận trong hợp đồng cũng như nghĩa vụ
tại các quy định liên quan về hợp đồng.
* Mức độ vi phạm hợp đồng đáp ứng điều kiện hủy bỏ hợp đồng
Rà soát các điều luật tại BLDS năm 2005 và BLDS năm 1995 về hủy bỏ hợp
đồng cho thấy một thực tế là cả hai BLDS này đều thể hiện sự không thống nhất
trong việc xác định tính chất vi phạm hợp đồng làm điều kiện hủy bỏ hợp đồng.
Cụ thể, nếu bên bán giao vật ít hơn số lượng đã thỏa thuận, vật được giao
khơng đúng chủng loại thì bên mua ngay lập tức có quyền hủy bỏ hợp đồng (khoản
2 Điều 435, khoản 3 Điều 437 BLDS năm 2005). Bên góp vốn bằng giá trị quyền sử
dụng đất có quyền hủy bỏ hợp đồng nếu bên nhận góp vốn khơng thực hiện việc
thanh toán phần lợi nhuận đúng thời hạn hoặc thanh tốn khơng đầy đủ (khoản 4
Điều 730 BLDS năm 2005). Đối với hợp đồng thuê tài sản, bên cho thuê chậm giao
tài sản thuê, hay tài sản thuê không đúng chất lượng như thỏa thuận thì bên thuê
ngay lập tức có quyền hủy bỏ hợp đồng (khoản 2 Điều 484 BLDS năm 2005). Như
vậy, không cần biết giao vật ít hơn bao nhiêu, không đúng chủng loại như thế nào,
trễ hạn thanh toán bao lâu hay thanh toán thiếu bao nhiêu, bên cho thuê chậm giao
tài sản trong mấy ngày, chất lượng tài sản thuê không đúng như thỏa thuận ở mức
độ nào thì bên bị vi phạm đều có quyền hủy bỏ hợp đồng.
Tuy nhiên, đối với trường hợp vật được giao khơng đồng bộ thì phải có thêm
điều kiện là việc không đồng bộ này làm cho mục đích sử dụng của vật khơng đạt
21


Cách phân loại nghĩa vụ thành nghĩa vụ kết quả và nghĩa vụ phương tiện đã xuất hiện trong LTM năm
2005, tuy nhiên chỉ là trường hợp riêng lẻ, đó là quy định về nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ trong hợp
đồng dịch vụ. Cụ thể, tại Điều 79 Luật này có quy định: “Trừ trường hợp có thoả thuận khác, nếu tính chất
của loại dịch vụ được cung ứng yêu cầu bên cung ứng dịch vụ phải đạt được một kết quả nhất định thì bên
cung ứng dịch vụ phải thực hiện việc cung ứng dịch vụ với kết quả phù hợp với các điều khoản và mục đích
của hợp đồng” và Điều 80 Luật này quy định: “Trừ trường hợp có thoả thuận khác, nếu tính chất của loại
dịch vụ được cung ứng yêu cầu bên cung ứng dịch vụ phải nỗ lực cao nhất để đạt được kết quả mong muốn
thì bên cung ứng dịch vụ phải thực hiện nghĩa vụ cung ứng dịch vụ đó với nỗ lực và khả năng cao nhất”.


20

được thì bên mua mới có quyền hủy bỏ hợp đồng (khoản 1 Điều 436 BLDS năm
2005). Nếu bên bán không cung cấp cho bên mua thông tin cần thiết về tài sản mua
bán và hướng dẫn cách sử dụng tài sản đó thì luật khơng quy định cho bên mua có
quyền hủy bỏ hợp đồng ngay lập tức mà quy định bên mua yêu cầu bên bán phải
thực hiện, nếu bên bán vẫn khơng thực hiện thì bên mua mới có quyền hủy bỏ hợp
đồng (Điều 442 BLDS năm 2005).
Như vậy, BLDS hiện hành khơng có sự thống nhất trong việc xác định mức độ
vi phạm hợp đồng để thực hiện quyền hủy bỏ hợp đồng. Có nghĩa vụ đòi hỏi phải là
vi phạm nghiêm trọng mới được quyền hủy bỏ hợp đồng, nhưng có nghĩa vụ chỉ cần
có vi phạm thì đã có quyền hủy bỏ hợp đồng dù không nghiêm trọng.
Việc cho phép một bên hủy bỏ hợp đồng mà khơng xem xét đến tính chất của
vi phạm không được sự ủng hộ của nhiều tác giả. Theo quan điểm của một tập thể
tác giả khi nghiên cứu quy định tại khoản 2 Điều 484 BLDS năm 2005 (“nếu tài
sản thuê không đúng chất lượng như thỏa thuận thì bên th có quyền u cầu bên
cho th sửa chữa, giảm giá thuê hoặc hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt
hại”) đã bình luận như sau:
Nếu bên thuê phát hiện bên cho thuê giao tài sản khơng đúng chất

lượng, chủng loại đã cam kết thì bên thuê có quyền yêu cầu bên cho thuê
sửa chữa, đổi tài sản khác đúng chất lượng đã cam kết, hoặc yêu cầu giảm
giá thuê. Nếu việc giao tài sản khơng đúng chất lượng khiến cho mục
đích của bên th khơng đạt đƣợc, thì bên th có quyền hủy bỏ hợp
đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại22.
Như vậy, theo các tác giả này dù bên cho thuê giao tài sản thuê không đúng
chất lượng thỏa thuận nhưng không đương nhiên bên thuê sẽ có quyền hủy bỏ hợp
đồng mà quyền này chỉ áp dụng khi có thêm yếu tố là “khiến cho mục đích của bên
th khơng đạt được”. Ngược lại, nếu tài sản được giao ở mức độ nào đó mục đích
của bên th vẫn được đảm bảo thì bên thuê chỉ được quyền yêu cầu sửa chữa hay
đổi tài sản khác đúng chất lượng như đã thỏa thuận.
Theo tác giả Đỗ Văn Đại: “Việc cho phép hủy hợp đồng mỗi khi bên bán giao
ít hơn số lượng đã thỏa thuận như Điều 428 là không nên”23. Minh chứng cho lập
luận này tác giả đã nêu ra ví dụ: “theo hợp đồng A phải giao cho B 1000 chiếc ghế
vào ngày 30 tháng 06. Nhưng khi giao hàng A chỉ có 999 chiếc ghế. Vậy, A đã giao
22

Hồng Thế Liên chủ biên (2013), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2005, tập II, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, tr. 438.
23
Đỗ Văn Đại (2004), “Vấn đề hủy bỏ, đình chỉ hợp đồng do bị vi phạm trong Luật dân sự Việt Nam”,
Nghiên cứu lập pháp, (09), tr. 62.


21

ít hơn số lượng đã thỏa thuận 01 ghế, áp dụng Điều 428, chúng ta sẽ cho phép B
hủy hợp đồng trong khi đó việc vi phạm trên khơng làm ảnh hưởng đáng kể đến lợi
ích mà bên B mong đợi khi xác lập hợp đồng”24.
Tương tự, một tác giả khác cũng cho rằng:

Cần phân biệt hai trường hợp: nếu sự thi hành một phần nghĩa vụ
khơng có lợi gì cho trái chủ cả thì cũng giống như trường hợp tồn bộ
nghĩa vụ khơng được thi hành, do đó trái chủ có quyền hủy hợp đồng.
Nếu sự thi hành một phần nghĩa vụ cũng đem lại lợi ích đáng kể cho trái
chủ thì người này khơng có quyền hủy bỏ hợp đồng mà chỉ có quyền địi
trái hộ phải tiếp tục thi hành và đòi bồi thường thiệt hại25.
So sánh với pháp luật của một số nước:
Theo Điều 387 Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan: “Nếu một bên khơng
thi hành nghĩa vụ, thì bên kia có thể ấn định một thời hạn hợp lý và thông báo cho
bên không thi hành, để thi hành trong thời hạn đó. Nếu bên được thơng báo mà
khơng thi hành trong thời hạn đã được thơng báo, thì bên kia có thể hủy hợp đồng
đó”. Ngay tại điều luật tiếp theo Bộ luật này quy định: “Nếu mục đích của một hợp
đồng, theo tính chất của nó hoặc theo ý định đã được các bên tuyên bố, có thể được
thực hiện chỉ bằng việc thi hành tại một thời điểm ấn định, và thời điểm hoặc thời
hạn đó đã trơi qua mà một trong các bên khơng thi hành, thì bên kia có thể hủy hợp
đồng mà khơng cần thơng báo như nói trong điều trên” (Điều 388). Như vậy, về
nguyên tắc chỉ có quyền hủy bỏ hợp đồng khi đã cho thêm thời gian để thực hiện
nghĩa vụ nhưng vẫn không thực hiện. Ngoại lệ, đối với trường hợp do tính chất của
hợp đồng hoặc các bên đã tuyên bố nghĩa vụ chỉ được thực hiện tại một thời điểm
ấn định hoặc trong một thời hạn nào đó, thì ngay khi quá thời điểm hay thời hạn
này mà không thực hiện, bên bị vi phạm lập tức có quyền hủy hợp đồng. Yếu tố
thời gian lúc này trở thành yếu tố xác định mức độ nghiêm trọng của vi phạm hợp
đồng để xem xét yêu cầu hủy bỏ hợp đồng. Như vậy, luật Thái Lan về hủy bỏ hợp
đồng phân biệt giữa vi phạm nghiêm trọng và vi phạm không nghiêm trọng.
Tương tự, BLDS Nhật Bản trong trường hợp chậm thực hiện nghĩa vụ dẫn đến
hủy bỏ hợp đồng cũng phân biệt giữa chậm thực hiện nghĩa vụ thông thường và
chậm thực hiện nghĩa vụ trong trường hợp nghĩa vụ này yêu cầu phải được thực
hiện kịp thời vào một thời điểm nhất định.

24


Đỗ Văn Đại (2004), Tlđd 23, tr. 62.
Nguyễn Mạnh Bách (1998), Nghĩa vụ dân sự trong luật dân sự Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, tr. 55-56.
25


×