Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Chế tài hủy bỏ hợp đồng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 93 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
--------

NGUYỄN THỊ HOA

CHẾ TÀI HỦY BỎ HỢP ĐỒNG THƢƠNG MẠI
CHUYÊN NGÀNH LUẬT THƢƠNG MẠI

TP HỒ CHÍ MINH – NĂM 2015


TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
--------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

CHẾ TÀI HỦY BỎ HỢP ĐỒNG THƢƠNG MẠI

SINH VIÊN THỰC HIỆN: NGUYỄN THỊ HOA
KHÓA: 36

MSSV:1155010113

GIẢNG VIÊN HƢỚNG DẪN: ThS. NGUYỄN VĂN HÙNG

TP HỒ CHÍ MINH – NĂM 2015



LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên là Nguyễn Thị Hoa – sinh viên Trƣờng đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh,
Khoa Luật Thƣơng mại, Khóa 36 (2011 – 2015), là tác giả của Khóa luận tốt nghiệp
cử nhân luật – Chuyên ngành Luật Thƣơng mại – Đề tài: “Chế tài hủy bỏ hợp đồng
thương mại” đƣợc trình bày trong tài liệu này.
Tơi cam đoan: Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi,
đƣợc thực hiện dƣới sự hƣớng dẫn khoa học của Thạc sĩ Nguyễn Văn Hùng, đảm
bảo tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham
khảo. Tơi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 21 tháng 7 năm 2015
Sinh viên thực hiện

NGUYỄN THỊ HOA


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật chuyên ngành Luật Thƣơng
mại với đề tài “Chế tài hủy bỏ hợp đồng thương mại”, tác giả xin gửi lời cảm ơn
chân thành nhất đến các Thầy Cô là giảng viên Khoa Luật Thƣơng mại, Trƣờng đại
học Luật Tp. Hồ Chí Minh, đặc biệt cảm ơn Thạc sĩ Nguyễn Văn Hùng – ngƣời đã
đóng góp một phần rất lớn trong vai trò định hƣớng và sửa chữa những thiếu sót
giúp tác giả hồn thành Khóa luận của mình.
Xin chân thành cảm ơn.
Sinh viên thực hiện

NGUYỄN THỊ HOA


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT


NỘI DUNG ĐƢỢC VIẾT TẮT

CISG

Công ƣớc của Liên Hợp Quốc năm 1980 về hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế (United Nations Convention on
Contracts for the International Sale of Goods)

PLHĐKT 1989

Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế ngày 25/9/1989

LTM 1997

Luật Thƣơng mại (Luật số 58/L-CTN) ngày 10/5/1997

PECL

Bộ Nguyên tắc Luật hợp đồng Châu Âu 2002 (The
Principles of European Contract Law 2002)

PICC

Bộ Nguyên tắc của Unidroit về hợp đồng thƣơng mại quốc
tế 2004 (The Principles of International Commercial
Contract 2004)

BLDS 2005


Bộ luật dân sự (Bộ luật 33/2005/QH11) ngày 14/6/2005

LTM 2005

Luật Thƣơng mại (Luật số 36/2005/QH11) ngày 14/6/2005


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƢƠNG 1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ CĂN CỨ ÁP DỤNG
CỦA CHẾ TÀI HỦY BỎ HỢP ĐỒNG THƢƠNG MẠI.......................................6
1.1

Khái niệm, đặc điểm của chế tài hủy bỏ hợp đồng thƣơng mại ..............6

1.1.1

Khái quát chung về chế tài hủy bỏ hợp đồng thương mại ......................6

1.1.2

Phân loại chế tài .....................................................................................9

1.1.3

Khái niệm chế tài hủy bỏ hợp đồng thương mại...................................12

1.2


Căn cứ áp dụng chế tài hủy bỏ hợp đồng thƣơng mại ...........................14

1.2.1

Điều kiện hủy bỏ hợp đồng theo thỏa thuận .........................................14

1.2.2

Vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng ......................................................16

1.2.3

Không thực hiện chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng ......................22

1.2.4

Vi phạm hợp đồng trước thời hạn .........................................................24

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................28
CHƢƠNG 2. THỦ TỤC ÁP DỤNG VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ
CỦA CHẾ TÀI HỦY BỎ HỢP ĐỒNG THƢƠNG MẠI.....................................29
2.1

Thủ tục áp dụng .........................................................................................29

2.1.1

Tính bắt buộc của thủ tục thơng báo ....................................................29

2.1.2


Cách thức thông báo .............................................................................32

2.2

Hậu quả pháp lý .........................................................................................35

2.2.1

Hiệu lực của hợp đồng ..........................................................................35

2.2.2

Nghĩa vụ hoàn trả .................................................................................37

2.2.3

Bồi thường thiệt hại ..............................................................................41

2.3 Mối quan hệ giữa chế tài hủy bỏ hợp đồng với các chế tài,
biện pháp khác .....................................................................................................43
2.3.1

Tạm ngừng thực hiện hợp đồng ............................................................43

2.3.2

Phạt vi phạm, phạt cọc .........................................................................44

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................49

KẾT LUẬN ..............................................................................................................50
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh quan hệ thƣơng mại ngày càng đƣợc mở rộng thì việc giao kết,
thực hiện các hợp đồng thƣơng mại ngày càng phổ biến nhằm đạt đƣợc lợi ích của
1.

các bên. Song, không phải bất cứ khi nào, các chủ thể cũng có thể nhận đƣợc lợi ích
mà mình mong muốn. Vi phạm hợp đồng là điều khó tránh khỏi. Do đó, cần có biện
pháp để ràng buộc các bên phải thực hiện nghĩa vụ của mình và khắc phục hậu quả
do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra. Vì thế, chế tài trong thƣơng mại là một chế
định không thể thiếu. Luật Thƣơng mại 2005 (LTM 2005) quy định các loại chế tài
sau: buộc thực hiện đúng hợp đồng, phạt vi phạm, buộc bồi thƣờng thiệt hại, tạm
ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng, huỷ bỏ hợp đồng và các
biện pháp khác do các bên thoả thuận. Có thể thấy, so với Luật Thƣơng mại 1997
(LTM 1997), LTM 2005 quy định thêm hai loại chế tài mới: tạm ngừng thực hiện
hợp đồng và đình chỉ thực hiện hợp đồng; đồng thời, khác với pháp luật nhiều nƣớc,
LTM 2005 không coi phạt vi phạm và bồi thƣờng thiệt hại là hai hình thức của một
loại chế tài – chế tài trách nhiệm do vi phạm hợp đồng1. Việc áp dụng chế tài nào
phụ thuộc nhiều vào ý chí của bên bị vi phạm trên cơ sở những quy định của pháp
luật. Mỗi chế tài có căn cứ, thủ tục và hậu quả pháp lý khác nhau. Nếu nhƣ chế tài
buộc thực hiện đúng hợp đồng là loại chế tài có chức năng đảm bảo cho hợp đồng
đƣợc thực hiện theo thỏa thuận, phù hợp với mục tiêu hợp đồng2, chế tài tạm ngừng
thực hiện hợp đồng đem lại cho một bên quyền tạm dừng việc thực hiện nghĩa vụ để
cân bằng, bảo vệ lợi ích của mình; thì chế tài phạt vi phạm và bồi thƣờng thiệt hại là
chế tài về mặt vật chất, bù đắp tổn thất vật chất cho bên bị vi phạm. Khi áp dụng các

chế tài trên, hợp đồng vẫn còn hiệu lực. Tuy nhiên, khi đình chỉ thực hiện cũng nhƣ
hủy bỏ hợp đồng, hợp đồng đều chấm dứt hiệu lực nhƣng thời điểm chấm dứt hiệu
lực là hoàn toàn khác biệt.
Theo LTM 2005, hủy bỏ hợp đồng thƣơng mại là một trong những chế tài
nghiêm khắc nhất bởi hậu quả pháp lý vô cùng nặng nề khiến nhiều thƣơng nhân tỏ
ra e ngại, đôi khi là yếu tố dẫn đến “khai tử” một doanh nghiệp. Chế tài hủy bỏ hợp
đồng trong LTM 2005 khắc phục đƣợc nhiều khoảng trống của Pháp lệnh Hợp đồng
kinh tế 1989 (PLHĐKT 1989), LTM 1997 và có nhiều ƣu điểm vƣợt trội nhƣng vẫn
cịn tồn tại nhiều bất cập khiến cơ quan giải quyết tranh chấp gặp phải khó khăn
trong việc viện dẫn những quy định pháp luật. Cụ thể, LTM 2005 vẫn chƣa làm rõ
1

Nguyễn Văn Luyện, Lê Thị Bích Thọ, Dƣơng Anh Sơn (2007), Giáo trình Luật hợp đồng thương mại quốc
tế, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, tr. 50.
2
Trƣờng đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Pháp luật về thương mại hàng hóa và dịch vụ,
Nhà xuất bản Hồng Đức, tr. 417.

1


các vấn đề nhƣ: tiêu chí xác định vi phạm cơ bản; nội dung, hình thức thỏa thuận
điều kiện hủy bỏ hợp đồng; tính bắt buộc của thủ tục thơng báo hủy bỏ hợp đồng;
về hậu quả pháp lý của việc hủy đồng hợp đồng có ảnh hƣởng nhƣ thế nào đến hoa
lợi, lợi tức nếu có phát sinh; khả năng kết hợp giữa chế tài hủy bỏ hợp đồng thƣơng
mại với chế tài phạt vi phạm, phạt cọc,… Hiện tại, còn nhiều quan điểm khác nhau
trong việc hiểu nhƣ thế nào và áp dụng nhƣ thế nào cho đúng với tinh thần của pháp
luật trong bối cảnh LTM 2005 chƣa đƣợc sửa đổi, bổ sung. Vì vậy, việc nghiên cứu
chế tài hủy bỏ hợp đồng thƣơng mại là việc cần thiết nhằm làm rõ những vấn đề lý
luận và thực tiễn để đƣa ra những kiến nghị cho việc hồn thiện pháp luật thƣơng

mại trong tƣơng lai. Đó là lý do mà tác giả chọn đề tài: “Chế tài hủy bỏ hợp đồng
thương mại” để làm khóa luận tốt nghiệp.
2.

Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có những bài viết trên tạp chí, luận văn, khóa luận đề cập về vấn đề hủy bỏ

hợp đồng ở các góc độ khác nhau nhƣ:
Thứ nhất, các tác giả bàn về vấn đề hủy bỏ hợp đồng dân sự nói chung theo
quy định của Bộ luật dân sự, chỉ ra những hạn chế và đƣa ra những kiến nghị hoàn
thiện quy định về hủy bỏ hợp đồng trong Bộ luật dân sự. Đó là:
Đỗ Văn Đại (2004), “Vấn đề hủy bỏ, đình chỉ hợp đồng do bị vi phạm trong
Bộ luật dân sự Việt Nam”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 03, tr. 59;
Đỗ Văn Đại (2009), “Vấn đề hủy bỏ hợp đồng do có vi phạm ở Việt Nam”,
Tạp chí Tịa án nhân dân, số 01, tr. 29-34;
Nguyễn Nhật Thanh (2010), Hủy bỏ hợp dồng do vi phạm trong quá trình thực
hiện, Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật, Trƣờng đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh;
Ngơ Thị Minh Loan (2014), Hủy bỏ hợp đồng do bị vi phạm trong Bộ luật dân
sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Trƣờng đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh.
Thứ hai, có những tác giả lại tập trung trình bày sự điều chỉnh vi phạm hợp
đồng khi chƣa đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ trong các hệ thống pháp luật khác
nhau và sự cần thiết điều chỉnh loại vi phạm này trong pháp luật Việt Nam. Đây là
vấn đề có liên quan đến căn cứ hủy bỏ hợp đồng thƣơng mại mà pháp luật Việt Nam
còn chƣa đề cập rõ ràng. Có thể kể đến các cơng trình sau:
Dƣơng Anh Sơn (2006), “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc điều chỉnh bằng
pháp luật đối với vi phạm hợp đồng khi chƣa đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ”, Tạp
chí Nhà nước và pháp luật, số 04, tr. 51 - 55, 69;
Phạm Thị Trong (2006), Vi phạm hợp đồng khi chưa đến hạn thực hiện nghĩa
vụ - Sự cần thiết phải điều chỉnh trong pháp luật hợp đồng của Việt Nam, Luận văn
thạc sĩ luật học, Trƣờng đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh.

2


Thứ ba, trong một số cơng trình, chế tài hủy bỏ hợp đồng thƣơng mại đƣợc
trình bày nhƣ là khía cạnh nhỏ để tác giả tập trung nghiên cứu chế tài thƣơng mại
nói chung. Các tác giả chỉ nêu khái quát về chế tài hủy bỏ hợp đồng mà chƣa làm rõ
những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng nhƣ thế nào. Điển hình nhƣ:
Trần Thị Phƣơng Thảo (2006), Chế tài trong thương mại theo Luật Thương
mại 2005, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân, Trƣờng đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, tr.
41-44;
Nguyễn Thị Hồng Tiến (2007), Chế tài trong thương mại theo Luật Thương
mại 2005, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân, Trƣờng đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, tr.
41-46;
Nguyễn Thị Khế (2008), “Một số ý kiến liên quan đến các vấn đề về chế tài
trong thƣơng mại theo Luật Thƣơng mại”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 01, tr.
43-46.
Thứ tƣ, trong phạm vi Trƣờng đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh; các luận văn,
khóa luận dƣới đây đã đi vào tìm hiểu chế tài hủy bỏ hợp đồng thƣơng mại ở mức
độ cụ thể, chi tiết hơn:
Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Thị Việt Hà năm 2010 với tên “Chế tài
đình chỉ hợp đồng và hủy bỏ hợp đồng trong hoạt động thương mại” nghiên cứu về
mối quan hệ giữa chế tài hủy bỏ thực hiện hợp đồng và các loại chế tài khác nhƣng
chỉ trình bày ở mức độ khái quát, không liên hệ thực tiễn; về căn cứ, thủ tục, hậu
quả áp dụng chế tài hủy bỏ hợp đồng. Trên cơ sở đó, tác giả đƣa ra các kiến nghị
nhƣ: LTM 2005 cần có quy định nhằm xác định rõ phạm vi áp dụng của chế định
chế tài trong thƣơng mại đối với tất cả các hợp đồng phát sinh trong hoạt động
thƣơng mại, kể cả khi hợp đồng đó đƣợc Bộ luật dân sự điều chỉnh; xây dựng các
tiêu chí để xác định vi phạm cơ bản; pháp điển hóa quy định vi phạm hợp đồng
trƣớc thời hạn; các kiến nghị hồn thiện về mặt thuật ngữ.
Bùi Thị Bích Sơn, trong “Tuyên bố hủy hợp đồng và hậu quả pháp lý của việc

hủy hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo Công ước Viên 1980 và Luật Thương
mại 2005” năm 2011, cũng trình bày về khái niệm, căn cứ, thủ tục, hậu quả pháp lý
của hủy bỏ hợp đồng mua bán hàng hóa nhƣng chủ yếu trong phạm vi những quy
định của Công ƣớc Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và so sánh
với pháp luật thƣơng mại Việt Nam.
Luận văn thạc sĩ luật học “Chế tài hủy bỏ hợp đồng trong Luật Thương mại
2005” của Võ Văn Đạt năm 2014 tập trung vào các vấn đề: căn cứ hủy bỏ hợp đồng
theo thỏa thuận các bên, tiêu chí xác định vi phạm cơ bản, thủ tục thơng báo hủy bỏ
hợp đồng có bắt buộc hay không, sự trùng lắp chế tài trong LTM 2005 và Bộ luật
3


dân sự 2005 (BLDS 2005), vấn đề hoàn trả lợi ích đã nhận, bảo vệ quyền lợi của
ngƣời thứ ba ngay tình, mối quan hệ giữa chế tài hủy bỏ hợp đồng và chế tài phạt vi
phạm.
Nhìn chung, ba cơng trình này đã chỉ ra đƣợc bất cập trong quy định pháp luật,
thực tiễn áp dụng chế tài về căn cứ, thủ tục thông báo, hậu quả pháp lý và đồng thời
đƣa ra những kiến nghị hồn thiện có giá trị cao.
Nhƣ vậy, có thể thấy, tất cả các cơng trình nghiên cứu đều đã đạt đƣợc những
kết quả nhất định, góp phần làm rõ về chế tài hủy bỏ hợp đồng thƣơng mại. Tuy
nhiên có những vấn đề các tác giả chƣa đi sâu tìm hiểu nhƣ có đƣợc kết hợp đồng
thời phạt cọc và phạt vi phạm khi hủy bỏ hợp đồng hay không; việc xử lý hoa lợi,
lợi tức khi hợp đồng thƣơng mại bị hủy bỏ và trong một số vấn đề vẫn còn tồn tại
nhiều quan điểm khác nhau.
Trong phạm vi Khóa luận của mình, tác giả sẽ nghiên cứu chế tài hủy bỏ hợp
đồng thƣơng mại về khái niệm, đặc điểm, căn cứ, thủ tục và hậu quả pháp lý ở cả
khía cạnh pháp lý và thực tiễn. Trong đó, có sử dụng các vụ việc trên thực tế, đồng
thời so sánh với những quy định của BLDS 2005, Công ƣớc của Liên Hợp Quốc
năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (CISG), Bộ Nguyên tắc Luật hợp
đồng Châu Âu 2002 (PECL), Bộ Nguyên tắc của Unidroit về hợp đồng thƣơng mại

quốc tế 2004 (PICC). Bên cạnh đó, tác giả cịn đi vào tìm hiểu những vấn đề có thể
phát sinh khi giải quyết hủy bỏ hợp đồng thƣơng mại mà chƣa đƣợc đề cập trong
một số cơng trình trƣớc đó là việc xử lý hoa lợi, lợi tức; khả năng kết hợp phạt vi
phạm và phạt cọc khi hủy bỏ hợp đồng.
Mục đích nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài nhằm mục đích chỉ ra những bất cập trong quy định
của pháp luật. Đó là những trƣờng hợp pháp luật quy định không rõ dẫn đến nhiều
cách hiểu, pháp luật chƣa quy định mà xét thấy cần thiết. Ngoài ra, cơng trình
nghiên cứu cịn đề cập đến những vƣớng mắc khi áp dụng chế tài trên thực tế.
3.

Từ những vấn đề đã nghiên cứu, tác giả đƣa ra quan điểm của mình và một số
kiến nghị nhằm hồn thiện quy định về chế tài hủy bỏ hợp đồng thƣơng mại trong
LTM 2005.
Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Tác giả khơng tìm hiểu ở khía cạnh chế tài nói chung, khơng đi sâu tìm hiểu
các chế tài khác nhƣ bồi thƣờng thiệt hại, buộc thực hiện đúng hợp đồng, tạm ngừng
thực hiện hợp đồng… mà chỉ tập trung vào chế tài hủy bỏ hợp đồng thƣơng mại.
Việc nghiên cứu về bồi thƣờng thiệt hại, buộc thực hiện đúng hợp đồng, tạm ngừng
4.

4


thực hiện hợp đồng, phạt vi phạm, phạt cọc chỉ giới hạn ở một mức độ nhất định
nhằm làm rõ mối tƣơng quan giữa chúng với chế tài hủy bỏ hợp đồng.
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn về chế tài
hủy bỏ hợp đồng thƣơng mại theo quy định của LTM 2005. Trong đó, đề cập đến
căn cứ, thủ tục và hậu quả pháp lý của chế tài ở cả hai mặt vừa nêu.
Vì đối tƣợng nghiên cứu nhƣ trên nên phạm vi nghiên cứu chủ yếu là LTM

2005 và những vụ việc áp dụng những quy định của Luật này. Bên cạnh đó, tác giả
cịn liên hệ đến những quy định trong BLDS 2005, CISG, PECL, PICC.
5.

Phƣơng pháp tiến hành nghiên cứu
Tác giả sử dụng phƣơng pháp phân tích quy định pháp luật, các bản án. Từ đó,

đƣa ra các đánh giá bằng việc tổng hợp những vấn đề đã phân tích. Bên cạnh đó,
việc sử dụng phƣơng pháp giải thích góp phần làm rõ các thuật ngữ, quy định pháp
luật.
Nhằm làm rõ đối tƣợng nghiên cứu, khóa luận cịn sử dụng phƣơng pháp so
sánh quy phạm pháp luật cũng nhƣ việc áp dụng các quy phạm đó giữa LTM 2005
với BLDS 2005, CISG, PECL, PICC.
6.

Bố cục tổng quát khóa luận
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, nội dung

của Khóa luận gồm hai chƣơng, đó là:
Chƣơng 1. Khái niệm, đặc điểm và căn cứ áp dụng của chế tài hủy bỏ hợp
đồng thƣơng mại
Chƣơng 2. Thủ tục áp dụng và hậu quả pháp lý của chế tài hủy bỏ hợp đồng
thƣơng mại.

5


CHƢƠNG 1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ CĂN CỨ ÁP DỤNG
CỦA CHẾ TÀI HỦY BỎ HỢP ĐỒNG THƢƠNG MẠI
-------1.1


Khái niệm, đặc điểm của chế tài hủy bỏ hợp đồng thƣơng mại
1.1.1 Khái quát chung về chế tài hủy bỏ hợp đồng thương mại
Các bộ dân luật tƣ sản thời kỳ chủ nghĩa tƣ bản tự do cạnh tranh (Pháp, Đức,

Thụy Sĩ,…) chỉ cho phép hủy bỏ hợp đồng khi có sự đồng ý của tất cả các bên tham
gia ký kết hợp đồng; chiến tranh, thiên tai chỉ có thể là lý do để hỗn chứ khơng thể
lấy làm căn cứ để hủy hợp đồng3. Quy định trên phần nào gây cản trở đến hoạt động
thƣơng mại nói chung và hạn chế quyền của các chủ thể, đặc biệt là bên bị vi phạm.
Việc hủy bỏ hợp đồng cũng khó có khả năng xảy ra vì các bên thƣờng có quyền và
nghĩa vụ đối ứng nhau, đều mong muốn nhận đƣợc một lợi ích nhất định mà khi
hợp đồng bị hủy bỏ thì họ sẽ khơng nhận đƣợc điều đó vì thế, khơng ít trƣờng hợp,
tất cả các bên giao kết khơng thể nhất trí hủy bỏ hợp đồng.
Tuy nhiên, sau Chiến tranh thế giới thứ II, nguyên tắc không hủy bỏ hợp đồng
tồn tại trong một thời gian dài trƣớc đây đã có sự thay đổi; hiện tƣợng này phát sinh
ở Pháp, tiếp đến đã đƣợc các nƣớc tƣ bản Châu Âu và các nƣớc khác thừa nhận4.
Chính điều đó đã mở ra cho các bên quyền hủy bỏ hợp đồng. Nhƣ vậy, cách đây
khá lâu, các nhà lập pháp trên thế giới đã thừa nhận quyền hủy bỏ hợp đồng của các
chủ thể khi nhận thấy quyền lợi mà mình mong đợi từ hợp đồng khơng thể đạt
đƣợc. Đây là một trong những nội dung tiến bộ, thể hiện rõ nguyên tắc tự do giao
kết, thực hiện hợp đồng. Quyền hủy bỏ hợp đồng, từ đó, đã đƣợc ghi nhận rộng rãi
không chỉ trong pháp luật của các quốc gia mà còn ngay cả trong các văn bản pháp
lý quốc tế đƣợc các quốc gia tôn trọng, cam kết thực hiện nhƣ: CISG, PECL,
PICC,...
Ngoài những quy phạm cho phép hủy bỏ hợp đồng trong phần hợp đồng thông
dụng, Điều 1184 Bộ luật dân sự Pháp5 cho phép hủy hợp đồng khi một bên không
thực hiện đúng hợp đồng. Tƣơng tự, theo Điều 94 Luật hợp đồng năm 1999 của
Trung Quốc6, một bên đƣợc quyền hủy bỏ hợp đồng khi hợp đồng không thể thực
hiện đƣợc do sự kiện bất khả kháng, một bên không thực hiện nghĩa vụ chủ yếu
trong khi bên kia đã gia hạn để thực hiện, chậm thực hiện hợp đồng hay bất kỳ vi

phạm nào làm mục đích của hợp đồng khơng thể thực hiện đƣợc.
3

Trƣờng đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới, Nhà xuất
bản Hồng Đức, tr. 365.
4
Trƣờng đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, tlđd (3), tr. 473.
5
Nhà pháp luật Việt – Pháp (2005), Bộ luật dân sự Pháp, Nhà xuất bản Tƣ pháp, tr. 695.
6
Đỗ Văn Đại (2011), Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, Tập 2 tái bản lần thứ ba có sửa
chữa bổ sung, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, tr. 375.

6


CISG đƣợc soạn thảo bởi Ủy ban của Liên Hợp Quốc về Luật Thƣơng mại
quốc tế (UNCITRAL) trong nỗ lực hƣớng tới thống nhất nguồn luật áp dụng cho
hợp đồng mua bán hàng hố quốc tế7. Có hiệu lực từ ngày 01/01/1988, đến nay,
CISG đã trở thành một trong các công ƣớc quốc tế về thƣơng mại đƣợc phê chuẩn
và áp dụng rộng rãi nhất8. Trong CISG, quyền hủy bỏ hợp đồng cũng đƣợc quy định
một cách cụ thể tại Điều 49 (quyền của ngƣời mua) và Điều 64 (quyền của ngƣời
bán). Theo đó, bên bị vi phạm có quyền hủy hợp đồng khi bên kia vi phạm cơ bản
nghĩa vụ theo hợp đồng hay theo Công ƣớc này; hoặc không thực hiện nghĩa vụ
trong thời gian đƣợc gia hạn. Ngồi ra, Điều 72 CISG cịn cho phép các bên đƣợc
hủy bỏ hợp đồng nếu trƣớc ngày hết hạn thực hiện hợp đồng, mà thấy hiển nhiên
rằng một bên sẽ gây ra một vi phạm chủ yếu đến hợp đồng.
Điều 7.3.1 PICC cho phép một bên có thể hủy hợp đồng trong trƣờng hợp bên
kia không thực hiện chủ yếu hợp đồng hoặc trong trƣờng hợp chậm trễ, bên có
quyền cũng có thể hủy hợp đồng khi bên kia khơng thực hiện hợp đồng trong thời

hạn đƣợc gia hạn. Bên cạnh đó, theo Điều 7.3.3, quyền này cịn đƣợc phép ngay cả
khi chƣa đến hạn thực hiện nghĩa vụ.
Tƣơng tự nhƣ trên, trong PECL, Điều 9:301 quy định một bên có quyền hủy
bỏ hợp đồng nếu sự khơng thực hiện hợp đồng của bên kia là chủ yếu hoặc bên bị vi
phạm có thể hủy bỏ hợp đồng theo khoản 3 Điều 8:106. Khoản 3 Điều 8:1069 quy
định nhƣ sau:
“Trong trƣờng hợp chậm trễ thực hiện hợp đồng không phải là không thực
hiện chủ yếu, bên bị vi phạm đã gửi thông báo gia hạn trong một thời gian hợp
lý, bên đó có thể hủy bỏ hợp đồng khi kết thúc thời hạn đó. Bên bị vi phạm có
thể nêu trong thông báo là nếu bên kia không thực hiện hợp đồng trong thời
hạn gia hạn thì hợp đồng sẽ đƣơng nhiên bị hủy bỏ. Nếu thời hạn đã đƣợc nêu
quá ngắn, bên bị vi phạm có thể hủy bỏ hợp đồng hoặc khi có thể, hợp đồng sẽ
đƣơng nhiên bị hủy bỏ chỉ khi sau một thời gian hợp lý từ thời điểm thông
báo”.

7

“Sơ lƣợc lịch sử Công ƣớc Viên 1980”, truy cập ngày 13/05/2015.
Với 74 quốc gia thành viên, ƣớc tính CISG điều chỉnh các giao dịch chiếm đến ba phần tƣ thƣơng mại hàng
hóa thế giới (Xem “Giới thiệu”, truy
cập ngày 13/05/2015).
9
Article 8:106 (3) PECL: “If in a case of delay in performance which is not fundamental the aggrieved party
has given a notice fixing an additional period of time of reasonable length, it may terminate the contract at
the end of the period of notice. The aggrieved party may in its notice provide that if the other party does not
perform within the period fixed by the notice the contract shall terminate automatically. If the period stated is
too short, the aggrieved party may terminate, or, as the case may be, the contract shall terminate
automatically, only after a reasonable period from the time of the notice”.
8


7


Tóm lại, quyền hủy bỏ hợp đồng trong các văn bản trên đa số phát sinh khi
xảy ra vi phạm cơ bản, chủ yếu nghĩa vụ hợp đồng của một bên hoặc khi một bên
không thực hiện nghĩa vụ mặc dù đã đƣợc gia hạn.
Chế tài hủy bỏ hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam:
Ở Việt Nam, quyền hủy bỏ hợp đồng đƣợc ghi nhận trong pháp luật thƣơng
mại tại PLHĐKT 1989. Điều 26 PLHĐKT 1989 cho các bên quyền hủy bỏ hợp
đồng kinh tế đã có hiệu lực bằng sự thỏa thuận đƣợc thể hiện dƣới dạng văn bản.
Khi đó, theo Điều 28 PLHĐKT 1989 các bên sẽ cùng nhau thanh lý hợp đồng. Có
thể thấy rõ, những quy định trên còn khá sơ sài. Bởi lẽ, nếu khơng có thỏa thuận thì
khi có vi phạm hợp đồng xảy ra, bên bị vi phạm không thể chủ động bảo vệ quyền
lợi của mình bằng cách hủy bỏ hợp đồng. Ngồi ra, Pháp lệnh cịn chƣa quy định rõ
thủ tục cũng nhƣ hậu quả pháp lý nếu quyền này đƣợc thực hiện mà chỉ ghi nhận
chung chung việc “thanh lý hợp đồng”.
LTM 1997 ra đời phần nào khắc phục đƣợc những thiếu sót nêu trên nhƣ bổ
sung thêm quy định về việc thông báo hủy bỏ hợp đồng tại Điều 236 LTM 1997 và
hậu quả pháp lý của nó tại Điều 237 LTM 1997. Tuy nhiên, những điều khoản này
vẫn chƣa thực sự đáp ứng đƣợc nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật về hủy bỏ hợp
đồng thƣơng mại. Hơn nữa, giống nhƣ trong PLHĐKT 1989, Điều 235 LTM 1997
quy định quyền hủy bỏ hợp đồng cũng còn hạn hẹp chỉ khi việc vi phạm của bên kia
là điều kiện để huỷ hợp đồng mà các bên đã thoả thuận.
Trải qua một thời gian áp dụng, bộc lộ nhiều yếu kém thì LTM 1997 chính
thức chấm dứt hiệu lực vào 01/01/2006 khi LTM 2005 bắt đầu có hiệu lực thi hành.
Những quy định từ Điều 312 đến Điều 315 LTM 2005 có bƣớc tiến đáng kể so với
những văn bản cũ: mở rộng khả năng hủy bỏ hợp đồng cho các chủ thể, phân loại
hủy bỏ hợp đồng, hậu quả pháp lý có phần rõ ràng hơn.
Những quy phạm về hủy bỏ hợp đồng trong LTM 2005 cũng đƣợc đánh giá là
có sự tiến bộ hơn so với BLDS 2005 đƣợc ban hành cùng một thời điểm. Điều 425

BLDS 2005 cho phép một bên có quyền huỷ bỏ hợp đồng khi bên kia vi phạm hợp
đồng là điều kiện huỷ bỏ mà các bên đã thoả thuận hoặc pháp luật có quy định.
Cách quy định nhƣ trên trong BLDS 2005 tỏ ra không thuyết phục bởi lẽ, nếu
khơng có thỏa thuận, Bộ luật chỉ cho phép hủy bỏ những hợp đồng thông dụng
nhƣng những quy phạm này cũng khơng đầy đủ, có những vi phạm nên cho phép
hủy hợp đồng nhƣng pháp luật lại không quy định10. Thực tế, ngay cả khi đó, Tịa
án đã “vƣợt rào” để giải quyết một số tình huống mà pháp luật không dự liệu11.
10

Đỗ Văn Đại, tlđd (6), tr. 363.
Đỗ Văn Đại (Chủ nhiệm) (2010), Vấn đề không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật thực định Việt
Nam, Báo cáo tổng kết đề tài khoa học và công nghệ cấp bộ, Trƣờng đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, tr. 14-15
11

8


Theo LTM 2005, một bên đƣợc quyền hủy bỏ hợp đồng khi xảy ra hành vi vi phạm
mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện để hủy bỏ hợp đồng hoặc khi có vi phạm cơ
bản nghĩa vụ hợp đồng. Khi so sánh với BLDS 2005, LTM 2005 thể hiện ƣu điểm
là căn cứ để hủy bỏ hợp đồng trong LTM 2005 là giống nhau, áp dụng cho tất cả
các hợp đồng thƣơng mại chứ không giới hạn ở loại hợp đồng thông dụng nào12.
Khi một bên thực hiện quyền này thì hợp đồng chấm dứt hiệu lực từ thời điểm giao
kết và các bên có quyền địi lại lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình
trong hợp đồng.
Theo tác giả Nguyễn Thị Khế trong bài viết “Một số ý kiến liên quan đến các
vấn đề về chế tài trong thương mại theo Luật Thương mại” thì thỏa thuận hủy bỏ
hợp đồng cũng là hợp đồng; không cần quy định hủy bỏ hợp đồng là một hình thức
chế tài khi đã có hình thức chế tài đình chỉ thực hiện hợp đồng vì cho rằng nội dung
của Điều 312, 313 LTM 2005 về hủy bỏ hợp đồng khơng khác gì so với quy định

tại Điều 310 LTM 2005 về đình chỉ thực hiện hợp đồng13. Bản thân tác giả khơng
đồng tình với quan điểm trên bởi lẽ hủy bỏ hợp đồng đƣợc đề cập ở đây là hành vi
pháp lý đơn phƣơng chứ không phải thỏa thuận, các bên chỉ thỏa thuận điều kiện để
hủy bỏ hợp đồng; hậu quả pháp lý của đình chỉ và hủy bỏ là hồn tồn khác biệt
(đối với đình chỉ, hợp đồng chấm dứt hiệu lực từ thời điểm một bên nhận đƣợc
thơng báo đình chỉ cịn hủy bỏ thì hợp đồng chấm dứt hiệu lực ngay từ thời điểm
giao kết nên việc giải quyết quyền và nghĩa vụ của các bên đối với hai chế tài là
khác nhau mặc dù căn cứ giống nhau). Nếu chỉ quy định cho phép đình chỉ thì LTM
2005 đã làm mất đi quyền đƣợc tự bảo vệ chính mình của các chủ thể, họ đƣơng
nhiên có quyền giải phóng mình khỏi nghĩa vụ khi biết rằng quyền lợi của mình
khơng đƣợc đảm bảo và việc hủy bỏ có thể giúp họ ngăn ngừa đƣợc những thiệt hại
lớn hơn có thể xảy ra. Đó cũng chính là ý nghĩa to lớn của chế tài này.
Xét một cách tổng quát, quy định về hủy bỏ hợp đồng thƣơng mại trong LTM
2005 đã có sự tƣơng thích với pháp luật các quốc gia trên thế giới, các văn bản pháp
lý quốc tế khi thừa nhận quyền hủy bỏ hợp đồng là một trong những chế tài quan
trọng để điều chỉnh quan hệ hợp đồng thƣơng mại.
1.1.2

Phân loại chế tài

Điều 51 CISG quy định nếu ngƣời bán chỉ giao một phần hàng hóa hoặc nếu
chỉ một phần hàng hóa đã giao phù hợp với hợp đồng thì hủy bỏ hợp đồng sẽ chỉ
đƣợc áp dụng đối với phần hàng hóa thiếu hoặc phần hàng khơng phù hợp với hợp
12

Đỗ Văn Đại (2014), Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận án, Tập 2 tái bản lần thứ tƣ có sửa
chữa bổ sung, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, tr. 593.
13
Nguyễn Thị Khế (2008), “Một số ý kiến liên quan đến các vấn đề về chế tài trong thƣơng mại theo Luật
Thƣơng mại”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 01, tr. 46.


9


đồng; ngƣời mua chỉ đƣợc tuyên bố hủy bỏ toàn bộ hợp đồng nếu việc không thực
hiện hợp đồng hoặc một phần hàng giao không phù hợp với hợp đồng cấu thành
một sự vi phạm chủ yếu hợp đồng. Từ đó, có thể thấy CISG đã chia hủy bỏ hợp
đồng thành hai loại là hủy bỏ một phần hợp đồng và hủy bỏ tồn bộ hợp đồng.
PECL cũng có cách phân loại nhƣ trên, theo đó, nếu hợp đồng sẽ đƣợc thực
hiện theo các phần riêng biệt và đối với phần có mối liên quan đến phần đã xảy ra
việc khơng thực hiện chủ yếu, bên bị vi phạm có thể thực hiện quyền của mình là
hủy bỏ hợp đồng đối với phần đó; chỉ đƣợc hủy bỏ tồn bộ hợp đồng, nếu việc
không thực hiện chủ yếu đối với tồn bộ hợp đồng14.
PICC khơng có quy định cụ thể nhƣ vậy nhƣng chúng ta có thể hiểu rằng
PICC cũng có hƣớng phân loại nhƣ trên khi xét theo Điều 7.3.6 về nghĩa vụ hoàn
trả, tại khoản 2: “nếu việc thực hiện hợp đồng đã đƣợc trải dài theo thời gian và hợp
đồng có thể phân chia đƣợc theo phần, thì việc hồn trả chỉ có thể đƣợc thực hiện ở
giai đoạn sau của việc hủy hợp đồng”.
Ví dụ 01: Tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế giữa ngƣời mua
Nga (nguyên đơn) và ngƣời bán Đức (bị đơn)15. Vì các bên có trụ sở thƣơng mại tại
các nƣớc thành viên CISG nên các quy định của Cơng ƣớc này đƣợc áp dụng khi
giải quyết tranh chấp.
Tình huống: Ngƣời mua đã nộp đơn kiện ngƣời bán trên cơ sở hợp đồng mua
bán hàng hoá quốc tế đƣợc ký kết ngày 03/4/2001 với lý do ngƣời bán không thực
hiện nghĩa vụ giao hàng trong khi ngƣời mua đã thực hiện nghĩa vụ thanh toán.
Ngày 25/6/2001, ngƣời bán giao một phần hàng hóa; sau đó, trình các tài liệu cho
ngân hàng và đƣợc nhận thanh tốn theo thƣ tín dụng đƣợc ngƣời mua mở tại ngân
hàng. Tuy nhiên, số hàng hóa cịn lại vẫn chƣa đƣợc giao. Khi sự chậm trễ trong
việc giao hàng đã vƣợt quá hai tháng, ngƣời mua gửi cho ngƣời bán thông báo hủy
bỏ hợp đồng. Trong đơn khởi kiện, ngƣời mua yêu cầu hủy bỏ hợp đồng, địi lại

tồn bộ số tiền đã thanh toán, phạt vi phạm hợp đồng đối với sự chậm trễ trong việc
giao hàng, bồi thƣờng thiệt hại mà ngƣời mua phải chịu và chi phí pháp lý.
Quan điểm của Tòa án: Ngày 16/6/2003, Tòa án Trọng tài Thƣơng mại quốc
tế của Liên bang Nga đã ra phán quyết, trong đó, nhận định ngƣời mua có căn cứ để
tuyên bố hủy hợp đồng. Khi xem xét yêu cầu ngƣời mua địi đƣợc nhận lại tồn bộ
số tiền đã thanh tốn cho hàng hố, Tịa cho rằng dù sao một phần hàng hoá đã thực
14

Article 9:302 PECL: “If the contract is to be performed in separate parts and in relation to a part to which a
counter-performance can be apportioned, there is a fundamental non-performance, the aggrieved party may
exercise its right to terminate under this Section in relation to the part concerned. It may terminate the
contract as a whole only if the non-performance is fundamental to the contract as a whole”.
15
“Russia 16 June 2003 Arbitration proceeding 164/2001”, />truy cập ngày 20/5/2015.

10


sự đƣợc chuyển giao bởi ngƣời bán theo hợp đồng. Tịa chấp nhận u cầu của
ngƣời mua địi đƣợc hồn trả lại số tiền đã trả cho các hàng hóa không đƣợc giao và
áp dụng phạt vi phạm hợp đồng đối với sự chậm trễ trong việc giao hàng. Tuy
nhiên, Tòa đã bác bỏ yêu cầu đƣợc nhận lại khoản tiền đã thanh tốn cho hàng hóa
đã đƣợc chuyển giao.
Nhận xét: Đây là trƣờng hợp hợp đồng có thể phân chia đƣợc và việc vi phạm
nghĩa vụ hợp đồng đã chỉ ảnh hƣởng đến một phần hợp đồng. Vì vậy, cơ quan giải
quyết tranh chấp đã áp dụng Điều 51 CISG, chỉ cho phép hủy một phần hợp đồng.
Ở Việt Nam, BLDS 2005 không tiến hành phân loại hủy bỏ hợp đồng. Trong
khi đó, theo Điều 312 LTM 2005, hủy bỏ hợp đồng gồm hai loại là hủy bỏ một
phần hợp đồng và hủy bỏ toàn bộ hợp đồng. Hủy bỏ một phần hợp đồng là việc bãi
bỏ thực hiện một phần nghĩa vụ hợp đồng, các phần còn lại trong hợp đồng vẫn cịn

hiệu lực. Có thể áp dụng hình thức hủy bỏ một phần hợp đồng đối với cả hợp đồng
khơng thuộc loại hợp đồng có thỏa thuận về việc giao hàng, cung ứng dịch vụ từng
phần, miễn là việc hủy một phần hợp đồng có thể thực hiện đƣợc mà không ảnh
hƣởng tới các quyền và nghĩa vụ cịn lại16. Hủy bỏ tồn bộ hợp đồng là việc bãi bỏ
hoàn toàn việc thực hiện tất cả các nghĩa vụ hợp đồng đối với tồn bộ hợp đồng.
Ví dụ 02: Tranh chấp về hợp đồng thi công lắp đặt khung nhà xƣởng giữa
Công ty Trách nhiệm hữu hạn nhà thép A (nguyên đơn) và Công ty Trách nhiệm
hữu hạn xây dựng – trang trí nội thất – thƣơng mại C (bị đơn) tại Bản án số
432/2013/KDTM-PT ngày 02/4/2013 của Tịa án nhân dân Thành phố X17.
Tình huống: Cơng ty A và C đã ký hợp đồng kinh tế số 18/HĐKT-08 ngày
08/6/2008 và 03 phụ lục về việc thi công lắp ráp khung nhà xƣởng cho block 14, 15,
16, 17 thuộc cơng trình nhà kho Mapletree E, tại khu công nghiệp VSIP II – tỉnh Z.
Hạng mục thi công bao gồm hai giai đoạn: giai đoạn 1 thi công block 14, 16; giai
đoạn 2 thi công block 15, 17. Cơng ty C đã thanh tốn giá trị thi cơng giai đoạn 1
của block 14, 16. Block 15, 17 đã thi công xong nhƣng sau nhiều lần tự đề xuất thời
hạn thanh tốn, Cơng ty C vẫn chƣa thực hiện nghĩa vụ. Do đó, Cơng ty A đã khởi
kiện u cầu hủy một phần hợp đồng số 18/HĐKT-08; thu hồi vật tƣ tại cơng trình
block 15, 17; địi đƣợc trả chi phí nhân cơng cho việc thi cơng block 15, 17.
Quan điểm của Tòa án: Tòa án cấp sơ thẩm đã chấp nhận tồn bộ u cầu của
Cơng ty A, cho phép hủy một phần hợp đồng. Mặc dù Tòa án cấp phúc thẩm đã sửa
án sơ thẩm theo hƣớng ngƣợc lại nhƣng có thể thấy, hai cấp Tịa án đã giống nhau
khi chỉ đi vào xem xét hủy một phần hợp đồng chứ khơng phải là tồn bộ hợp đồng.

16
17

Trƣờng đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, tlđd (2), tr. 447.
Xem Phụ lục I.

11



Cách phân loại nhƣ trên đã đảm bảo hơn quyền lợi của các bên trong những
trƣờng hợp hợp đồng đƣợc thực hiện thành từng phần hoặc các nghĩa vụ trong hợp
đồng có thể phân chia đƣợc. Tuy đã có vi phạm xảy ra nhƣng chỉ ảnh hƣởng đến
một phần, các phần cịn lại vẫn đƣợc đảm bảo thì sẽ khơng thuyết phục khi bắt buộc
các bên phải hủy bỏ toàn bộ hợp đồng. Điều này thể hiện bƣớc tiến bộ đáng kể của
LTM 2005 so với các văn bản trƣớc đó và ngay cả BLDS 2005, đồng thời cũng có
sự tƣơng thích với pháp luật kinh doanh quốc tế nhằm tạo điều kiện tốt nhất để đảm
bảo lợi ích các bên, ổn định quan hệ thƣơng mại.
1.1.3

Khái niệm chế tài hủy bỏ hợp đồng thương mại

Trong mục này tác giả trình bày về khái niệm chế tài hủy bỏ hợp đồng trong
thƣơng mại. Nhƣng để hiểu rõ hơn, trƣớc hết cần phải tìm hiểu khái niệm vi phạm
hợp đồng, vi phạm cơ bản hợp đồng, vi phạm không cơ bản hợp đồng và chế tài.
Khái niệm vi phạm hợp đồng:
Đây là khái niệm luật định, tại khoản 12 Điều 3 LTM 2005, là việc một bên
không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo
thoả thuận giữa các bên hoặc theo quy định của pháp luật.
Thực hiện hợp đồng là việc ngƣời có nghĩa vụ phải làm hoặc không đƣợc làm
một công việc nhất định theo đúng nội dung hợp đồng, qua đó thỏa mãn các quyền
dân sự tƣơng ứng của bên kia18. Do đó, khơng thực hiện hợp đồng, theo nghĩa hẹp,
đƣợc hiểu là việc ngƣời có nghĩa vụ phải làm nhƣng đã không làm hoặc không đƣợc
làm nhƣng lại làm một công việc nào đó. Tuy nhiên, khơng thực hiện thƣờng đƣợc
hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm tất cả các hình thức có thực hiện nhƣng khơng đúng
nhƣ giao kết cũng nhƣ hồn tồn khơng thực hiện19. Theo LTM 2005 thì khơng thực
hiện có lẽ đƣợc hiểu theo nghĩa hẹp bởi khơng bao gồm cả thực hiện không đầy đủ,
thực hiện không đúng và nếu có một trong các yếu tố này đều đƣợc coi là vi phạm

hợp đồng. Vậy, một hành vi đƣợc xác định là vi phạm hợp đồng có thể là hành vi
hành động hoặc hành vi không hành động mà đi ngƣợc lại với nghĩa vụ hợp đồng.
Ví dụ, trong một hợp đồng mua bán hàng hóa, bên bán có nghĩa vụ giao hàng nhƣng
đã khơng giao hàng hoặc giao hàng thiếu hoặc không đúng số lƣợng, chất lƣợng
theo hợp đồng thì đều là vi phạm hợp đồng.
Cần lƣu ý, đây không chỉ là nghĩa vụ đƣợc các bên thỏa thuận mà còn bao
gồm cả nghĩa vụ phát sinh theo quy định pháp luật điều chỉnh hợp đồng đó. Vi
phạm hợp đồng sẽ bao gồm cả vi phạm cơ bản và vi phạm không cơ bản.
18

Trƣờng đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thườngthiệt hại
ngoài hợp đồng, Nhà xuất bản Hồng Đức, tr. 261.
19
Trƣờng đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, tlđd (18), tr. 383.

12


Khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng:
Thuật ngữ vi phạm cơ bản hợp đồng đƣợc mƣợn từ cách nói rút gọn của hệ
thống luật Anh khi nói về “fundamental breach”, khái niệm đầy đủ của thuật ngữ
này trong luật Anh là “breach of a fundamental term” và nếu thể hiện chính xác
theo luật Anh phải là “vi phạm điều khoản cơ bản” của hợp đồng20.
Vi phạm cơ bản trong LTM 2005 là khái niệm mới của pháp luật thực định
Việt Nam, là sự vi phạm hợp đồng của một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức
làm cho bên kia khơng đạt đƣợc mục đích của việc giao kết hợp đồng21. Vi phạm cơ
bản trƣớc hết phải là vi phạm hợp đồng; đồng thời, phải xác định các yếu tố: thiệt
hại xảy ra, mục đích giao kết hợp đồng và mức độ ảnh hƣởng của thiệt hại đến mục
đích giao kết hợp đồng. Tuy nhiên, để làm rõ các yếu tố trên để xác định đƣợc vi
phạm cơ bản là vấn đề không dễ dàng. Vấn đề này sẽ đƣợc tác giả trình bày cụ thể

hơn trong mục 1.2.2.
Khi một vi phạm không là vi phạm cơ bản thì nó là vi phạm khơng cơ bản. Có
thể hiểu, vi phạm không cơ bản là sự vi phạm hợp đồng của một bên nhƣng chƣa
đến mức làm cho bên kia khơng đạt đƣợc mục đích của việc giao kết hợp đồng. Chỉ
khi nào xác định đƣợc vi phạm cơ bản thì mới có thể biết đƣợc đó có phải là vi
phạm khơng cơ bản hay khơng và vì vậy, việc làm rõ nội hàm của khái niệm vi
phạm cơ bản là cần thiết.
Khái niệm chế tài:
Chế tài trong thƣơng mại là các biện pháp pháp lý mà LTM 2005 cho phép
một bên áp dụng đối với bên kia trong hợp đồng thƣơng mại nhằm yêu cầu bên đó
chịu trách nhiệm pháp lý cho hành vi vi phạm hợp đồng của mình22. Cũng có thể
hiểu, đó là những hậu quả pháp lý bất lợi do các bên thỏa thuận hoặc luật ấn định
cho các hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng.
LTM 2005 quy định các loại chế tài sau: buộc thực hiện đúng hợp đồng, phạt
vi phạm, buộc bồi thƣờng thiệt hại, tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực
hiện hợp đồng, huỷ bỏ hợp đồng và các biện pháp khác do các bên thoả thuận. Chủ
thể áp dụng chế tài khơng ai khác mà chỉ có thể là các bên của hợp đồng thƣơng
mại. Để áp dụng chế tài cần phải có hành vi vi phạm hợp đồng của một bên hoặc
của hai bên và đối với mỗi chế tài khác nhau cũng cần tuân thủ theo những điều
kiện riêng nhất định. Việc áp dụng các chế tài này có tác dụng phịng ngừa, xử lý vi
phạm hợp đồng xảy ra.

20

Đỗ Văn Đại (2009), “Vi phạm cơ bản hợp đồng”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 09 (44), tr. 17.
Khoản 13 Điều 3 LTM 2005.
22
Trƣờng đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, tlđd (2), tr. 400.
21


13


Khái niệm chế tài hủy bỏ hợp đồng thƣơng mại:
Pháp luật kinh doanh quốc tế và pháp luật của một số nƣớc có nền lập pháp
lâu đời cũng chỉ dừng lại ở việc liệt kê các điều kiện để bên bị vi phạm áp dụng chứ
không đúc kết thành ngôn ngữ nhất định những đặc trƣng cơ bản tạo thành nội dung
của khái niệm hủy bỏ hợp đồng23. LTM 2005 cũng không đƣa ra khái niệm.
Tuy vậy, từ những quy định của Điều 312 LTM 2005, “Giáo trình Pháp luật
về thương mại hàng hóa và dịch vụ” của Trƣờng đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh
định nghĩa khái niệm hủy bỏ hợp đồng nhƣ sau:
“Hủy bỏ hợp đồng là một loại chế tài trong thƣơng mại, bao gồm hủy bỏ một
phần hợp đồng là việc bãi bỏ thực hiện một phần nghĩa vụ hợp đồng và hủy
bỏ toàn bộ hợp đồng là việc bãi bỏ hoàn toàn việc thực hiện tất cả các nghĩa
vụ hợp đồng đối với toàn bộ hợp đồng, có thể đƣợc bên bị vi phạm áp dụng
khi xảy ra các trƣờng hợp mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện để hủy hợp
đồng hoặc khi bên vi phạm vi phạm cơ bản nghĩa vụ của hợp đồng, trừ các
trƣờng hợp bên vi phạm đƣợc miễn trách nhiệm theo quy định tại Điều
294”24.
Những phân tích dƣới đây về căn cứ, thủ tục và hậu quả pháp lý của chế tài
hủy bỏ hợp đồng sẽ làm rõ nội hàm của khái niệm trên.
1.2

Căn cứ áp dụng chế tài hủy bỏ hợp đồng thƣơng mại
1.2.1 Điều kiện hủy bỏ hợp đồng theo thỏa thuận

CISG đã không quy định trực tiếp về việc có chấp nhận hay khơng quyền hủy
bỏ hợp đồng khi xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện để
hủy bỏ hợp đồng. Khi xem xét đến Điều 29 CISG thì có vẻ là đƣợc phép bởi điều
khoản khẳng định rằng: “Một hợp đồng có thể đƣợc sửa đổi hoặc chấm dứt bằng

thỏa thuận đơn thuần giữa các bên”. Thực tế, cơ quan giải quyết tranh chấp cũng
theo hƣớng đó. Ví dụ, ở tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế giữa
ngƣời mua Nga (nguyên đơn) và ngƣời bán Đức (bị đơn) đƣợc nêu trong ví dụ 01
mục 1.1.2, Tòa án Trọng tài Thƣơng mại quốc tế của Liên bang Nga đã nhận định
ngƣời mua có căn cứ để tuyên bố hủy hợp đồng theo quy định tại Điều 4.2 của hợp
đồng; vì thế, đã cho phép hủy bỏ một phần hợp đồng và giải quyết hậu quả pháp lý
tƣơng ứng. PECL, PICC cũng không quy định trực tiếp về vấn đề này.
Điểm a khoản 4 Điều 312 LTM 2005 giống với BLDS 2005 khi cho phép một
bên có quyền hủy bỏ hợp đồng trong trƣờng hợp “xảy ra hành vi vi phạm mà các
23

Võ Văn Đạt (2014), Chế tài hủy bỏ hợp đồng trong Luật thương mại 2005, Luận văn thạc sĩ luật học,
Trƣờng đại học Luật Tp.HCM, tr. 8.
24
Trƣờng đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, tlđd (2), tr. 446.

14


bên đã thỏa thuận là điều kiện để hủy bỏ hợp đồng”, trừ trƣờng hợp đƣợc miễn trách
nhiệm đƣợc quy định tại Điều 294 LTM 200525. Việc thừa nhận quyền hủy bỏ hợp
đồng trong trƣờng hợp này xuất phát từ sự tơn trọng ý chí tự do định đoạt của các
bên. Hợp đồng đƣợc xem nhƣ là “luật” giữa các bên giao kết và tất nhiên không bên
nào lại chấp nhận chịu sự ràng buộc của hợp đồng khi nhận thấy khả năng hợp đồng
bị hủy bỏ để rồi phải chịu thiệt hại. Tuy vậy, việc lƣờng trƣớc những rủi ro là cần
thiết khi thỏa thuận điều kiện hủy bỏ hợp đồng.
LTM 2005 cũng nhƣ các văn bản khác không quy định cụ thể về hình thức,
nội dung thỏa thuận dẫn đến khó khăn khi giải quyết tranh chấp cần phải xác định
sự tồn tại của thỏa thuận, nội dung thỏa thuận.
Trong một số trƣờng hợp các bên chỉ thỏa thuận dƣới dạng: “Bên A (hoặc bên

B) có quyền hủy bỏ hợp đồng khi bên kia…” mà không đƣa ra bất kỳ điều kiện nào
làm căn cứ cho việc hủy bỏ. Ví dụ nhƣ tranh chấp giữa Cơng ty Nhƣ Quyền và
Công ty Lê An trong Bản án số 02/2010/KDTM-ST ngày 12/01/2010 của Tòa án
nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh26; mục 7.2 Điều 7 của hợp đồng kinh tế
số 04/HĐKT/2008 ngày 02/6/2008 có nội dung: “Một trong các bên có quyền hủy
bỏ hợp đồng khi bên kia vi phạm hợp đồng; bên hủy bỏ phải thông báo ngay cho
bên kia biết về việc hủy bỏ; khi hợp đồng bị hủy bỏ thì hợp đồng khơng có hiệu lực
từ thời điểm bị hủy bỏ, các bên có trách nhiệm cùng xử lý giải quyết các vấn đề tồn
tại và thực hiện thanh lý hợp đồng”. Thỏa thuận trên có thể đƣợc hiểu là bất kỳ vi
phạm nào của một bên đều có thể làm căn cứ để hủy bỏ hợp đồng. Tuy nhiên, khi
quy định chung chung nhƣ vậy thì ngay cả khi có vi phạm khơng đáng kể, một bên
cũng có thể lấy đó mà viện dẫn cho việc hủy bỏ hợp đồng, quan hệ hợp đồng vì thế
dễ bị phá vỡ.
Trong những trƣờng hợp thỏa thuận không rõ ràng hay thỏa thuận ngầm, gián
tiếp; cơ quan giải quyết tranh chấp sẽ gặp phải khó khăn khi xem xét có chấp nhận
hay khơng việc hủy hợp đồng. Theo ý kiến của nhóm nghiên cứu do PGS.TS. Phan
Huy Hồng chủ nhiệm thì khi đó phải thơng qua giải thích hợp đồng để làm rõ ý chí
đích thực của các bên27. Điều này khơng đơn giản vì thƣờng thì một bên sẽ cố gắng
chứng minh khơng có thỏa thuận hoặc làm sai lệch thỏa thuận. Việc giải thích lại
phụ thuộc nhiều vào chính kiến của những ngƣời áp dụng pháp luật.

25

Trong trƣờng hợp miễn trách nhiệm đƣợc quy định tại Điều 294 LTM 2005, bên bị vi phạm dù cho có căn
cứ hủy bỏ hợp đồng đƣợc quy định tại Điều 312 LTM 2005 cũng không đƣợc phép hủy bỏ hợp đồng.
26
Đỗ Văn Đại, tlđd (12), tr. 572-578.
27
Phan Huy Hồng (Chủ nhiệm) (2011), Các vấn đề pháp lý của hợp đồng mua bán hàng hóa qua thực tiễn
xét xử của Tòa án và Trọng tài tại Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trƣờng, Trƣờng đại học Luật

Tp. Hồ Chí Minh, tr. 135-139; trích dẫn thơng qua Võ Văn Đạt, tlđd (23), tr. 36.

15


Kiến nghị hồn thiện:
Pháp luật cần có quy định cụ thể về hình thức, nội dung của thỏa thuận để giải
quyết những bất cập hiện tại.
Tác giả kiến nghị nên quy định thỏa thuận trên phải bằng hình thức văn bản
(bao gồm cả các hình thức có giá trị tƣơng đƣơng văn bản: điện báo, telex, fax,
thông điệp dữ liệu và các hình thức khác theo quy định của pháp luật) bởi hủy bỏ
hợp đồng đem lại hậu quả pháp lý nặng nề cho các bên nên không phải trƣờng hợp
nào cũng có thể áp dụng và vì vậy, căn cứ để áp dụng nó phải đƣợc thể hiện thật rõ
ràng. Nếu đƣợc thể hiện bằng lời nói hoặc hành vi thì khi có tranh chấp, khó có cơ
sở để chứng minh. Thỏa thuận này phải là điều khoản trong hợp đồng hay phụ lục
hợp đồng hay một hợp đồng khác đƣợc ký kết sau này. Đặc biệt, nội dung thỏa
thuận phải nói rõ điều kiện, nguyên nhân để hủy bỏ hợp đồng.
1.2.2

Vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng

Pháp luật Việt Nam:
Điểm b khoản 4 Điều 312 LTM 2005 có điểm mới khi quy định các bên cịn
có quyền hủy bỏ hợp đồng khi xảy ra vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng, trừ trƣờng
hợp đƣợc miễn trách nhiệm đƣợc quy định tại Điều 294 LTM 2005. Để hủy bỏ hợp
đồng trong trƣờng hợp này cần hai điều kiện: (i) có sự vi phạm hợp đồng của một
bên và (ii) vi phạm này phải là vi phạm cơ bản. Điều 293 LTM 2005 chỉ rõ rằng: trừ
trƣờng hợp có thoả thuận khác, bên bị vi phạm khơng đƣợc áp dụng chế tài huỷ bỏ
hợp đồng đối với vi phạm không cơ bản. Đối với hủy bỏ hợp đồng có thỏa thuận
giao hàng, cung ứng dịch vụ từng phần tại Điều 313 LTM 2005 thì cũng chỉ đƣợc

quyền thực hiện nếu có vi phạm cơ bản nghĩa vụ hoặc có cơ sở để bên kia kết luận
rằng vi phạm cơ bản sẽ xảy ra.
Sở dĩ phân biệt vi phạm không cơ bản và vi phạm cơ bản để làm căn cứ hủy
bỏ hợp đồng bởi một khi hợp đồng bị hủy bỏ sẽ đem lại hậu quả nghiêm trọng;
nhằm đảm bảo tính bền vững của hợp đồng, khi các bên tuân thủ đúng hợp đồng thì
sẽ đem lại lợi ích cho chính các bên và cả xã hội; một bên không thể lấy cớ vi phạm
hợp đồng của bên kia để giải phóng mình khỏi nghĩa vụ khi vi phạm không đáng kể.
Căn cứ vào khoản 13 Điều 3 LTM 2005, để xác định vi phạm cơ bản cần làm
rõ hai tiêu chí là: có thiệt hại xảy ra và thiệt hại đến mức làm cho bên kia không đạt
đƣợc mục đích giao kết hợp đồng. Song, nhìn vào quy định trên thì thật khó để xác
định vi phạm nào là cơ bản, vi phạm nào là không cơ bản.
Thiệt hại do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra đã khơng đƣợc giải thích cũng
nhƣ khơng đƣa ra dẫn chứng mức độ thiệt hại nhƣ thế nào thì sẽ cấu thành vi phạm
cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. Đó có phải là những tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị
16


vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra, khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm
đáng lẽ đƣợc hƣởng nếu khơng có hành vi vi phạm nhƣ quy định tại Điều 302 LTM
2005 về bồi thƣờng thiệt hại hay không? Những vấn đề này đều chƣa đƣợc làm rõ
khi dựa trên những quy định của pháp luật Việt Nam cũng nhƣ hƣớng dẫn, giải
thích của cơ quan có thẩm quyền.
Mục đích của việc giao kết hợp đồng thƣơng mại khơng đƣợc giải thích cụ thể
trong các văn bản pháp luật. Chúng ta chỉ có thể tìm thấy định nghĩa mục đích của
giao dịch dân sự đƣợc quy định tại Điều 123 BLDS 2005 và có thể xem đây nhƣ là
mục đích của giao kết hợp đồng thƣơng mại vì hợp đồng thƣơng mại cũng là một
dạng giao dịch dân sự. Đó là lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn đạt đƣợc khi
xác lập giao dịch đó. Mục đích giao kết hợp đồng thƣờng đƣợc thể hiện trong các
điều khoản của hợp đồng nhằm ràng buộc trách nhiệm của bên kia. Thế nhƣng, mục
đích giao kết hợp đồng không phải lúc nào cũng đƣợc thể hiện trong hợp đồng và

khi đó cơ quan giải quyết phải áp dụng việc giải thích hợp đồng mới biết đƣợc. Việc
xác định lợi ích hợp pháp của các bên khơng phải là điều dễ dàng khi mà mỗi bên
đều có những mong muốn, hƣớng đến các lợi ích khác nhau. Theo tác giả, việc xác
định mục đích giao kết hợp đồng cần gắn liền với mục đích của hoạt động thƣơng
mại bởi chủ thể của hợp đồng thƣơng mại chủ yếu là thƣơng nhân tiến hành hoạt
động thƣơng mại với mục tiêu lợi nhuận.
Điều thật sự là khó khăn lớn nhất là nhƣ thế nào là “đến mức làm cho bên kia
khơng đạt đƣợc mục đích của việc giao kết hợp đồng”, quy định này mang tính định
tính hơn là định lƣợng. Về cơ bản, thiệt hại có nghĩa là mục đích mà bên bị vi phạm
chờ đợi trên cơ sở hợp đồng đã khơng cịn; mức độ thiệt hại đƣợc xem xét dựa trên
sự tƣơng quan giữa mục đích giao kết hợp đồng và thiệt hại do hành vi vi phạm gây
ra28. Tuy nhiên, ngay cả khi thiệt hại thấp hơn mục đích thì cũng chƣa thể kết luận
rằng khơng có hành vi vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng mà còn tùy vào từng
tranh chấp cụ thể.
Cần phân biệt “vi phạm cơ bản” trong LTM 2005 với “vi phạm nghiêm trọng”
trong BLDS 2005. Tiêu chí “vi phạm nghiêm trọng” là căn cứ để một bên đơn
phƣơng chấm dứt hợp đồng. Ví dụ, theo Điều 550 BLDS 2005, bên đặt gia cơng có
quyền đơn phƣơng chấm dứt thực hiện hợp đồng và yêu cầu bồi thƣờng thiệt hại khi
bên nhận gia công vi phạm nghiêm trọng hợp đồng… Hủy bỏ hợp đồng và đơn
phƣơng chấm dứt hợp đồng đều là tuyên bố của một bên và làm chấm dứt hiệu lực
của hợp đồng, tuy nhiên hậu quả pháp lý của hai hành vi này khác nhau. Tiêu chí
“vi phạm nghiêm trọng” (việc vi phạm là căn bản, không phải những sai phạm nhỏ)
28

Võ Sỹ Mạnh (2013), “Bàn về khái niệm “Vi phạm cơ bản” nghĩa vụ hợp đồng theo quy định của Luật
Thƣơng mại 2005”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 08 (304), tr. 47.

17



trong BLDS 2005 không là căn cứ để hủy bỏ hợp đồng và đƣợc xác định không
giống với “vi phạm cơ bản” trong LTM 2005. Việc đánh giá thế nào là “nghiêm
trọng” phụ thuộc vào từng hoàn cảnh cụ thể và thơng thƣờng sử dụng các tiêu chí
nhƣ: việc vi phạm hợp đồng làm bên kia không đạt đƣợc kết quả mong muốn, tuân
thủ chặt chẽ nghĩa vụ hợp đồng, mất lòng tin vào việc tiếp tục thực hiện hợp đồng,
thiệt hại khơng cân xứng29.
Xét các ví dụ dƣới đây về xác định vi phạm cơ bản.
Ví dụ 01: Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá giữa bên A (Cơng ty Trách
nhiệm hữu hạn cơ khí Sói Đất) và bên B (Công ty Trách nhiệm hữu hạn Đông Đô
Thành) tại Bản án số 1743/2007/KDTM-ST ngày 20/9/2007 của Tòa án nhân dân
Thành phố Hồ Chí Minh30.
Tình huống: Ngày 02/8/2006, bên A ký kết với bên B hợp đồng mua bán số
009/HDMB/DDT mua 1 chiếc xe ôtô mới 100%, đƣợc lắp ráp tại Việt Nam năm
2006, giá 13.250 USD, thời gian giao xe là ngày 04/8/2006. Bên A đã thanh toán
cho bên B số tiền là 13.000 USD vào ngày 02/8 và 03/8/2006. Đến ngày 08/8/2006,
bên B thực hiện giao xe là ôtô mới, đƣợc sản xuất lắp ráp tại xƣởng ngày
09/12/2005 và chất lựơng xe cũng khơng tốt nhƣ có nhiều vết han rỉ, sơn bị phồng
rộp nhiều chỗ. Bên A từ chối nhận xe và có khiếu nại yêu cầu bên B giao xe theo
đúng hợp đồng là loại đƣợc lắp ráp tại Việt Nam năm 2006. Ngày 08/9/2006, bên A
có văn bản số 139/CV-AA gửi bên B thơng báo hủy bỏ hợp đồng. Ngày 16/4/2007,
bên A khởi kiện bên B và yêu cầu hủy bỏ hợp đồng mua bán số 009/HDMB/DDT.
Quan điểm của Tòa án: Tòa án nhận định việc bên B giải thích xe ơtơ trên vẫn
là sản xuất theo kiểu dáng, chất lƣợng của loại xe sản xuất năm 2006 để từ chối yêu
cầu khiếu nại, khởi kiện của bên A là không đúng với nội dung Điều 1 của hợp
đồng về quy cách hàng hóa là “Lắp ráp tại Việt Nam năm 2006”. Tòa án xác định
đây là vi phạm cơ bản theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều 312 LTM 2005 nên
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bên B.
Nhận xét: Có thể thấy, việc xác định vi phạm cơ bản trong trƣờng hợp này
khơng đi vào làm rõ ở khía cạnh: thiệt hại xảy ra và mức độ của thiệt hại làm cho
bên A khơng đạt đƣợc mục đích của mình, mục đích của cơng ty khi mua chiếc xe

này là gì và việc giao hàng khơng đúng năm lắp ráp nhƣ hợp đồng có làm mất đi
mục đích đó khơng.

29

Trƣờng đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, tlđd (18), tr. 397-399.
“Cơng ty TNHH Cơ khí Sói Đất u cầu hủy hợp đồng mua bán xe ôtô và buộc Công ty TNHH Đơng Đơ
Thành phải hồn trả lại tiền, bồi thƣờng thiệt hại”, truy cập ngày 04/6/2015.
30

18


Ví dụ 02: Tranh chấp hợp đồng đóng mới tàu biển giữa bên A (Cơng ty đóng
tàu Đà Nẵng) với bên B (Cơng ty cho th tài chính II – Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn Việt Nam) trong Bản án số 27/2011/KDTM-PT ngày
10/3/2011 của Tòa phúc thẩm Tịa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng31.
Tình huống: Vào ngày 26/9/2007, bên A ký kết với bên B hợp đồng đóng mới
tàu biển số 104/07/HĐĐMTB-ĐN. Theo đó, bên B đồng ý chọn bên A đóng mới
cho bên B một tàu biển vỏ thép chở hàng khơ có tổng giá trị hợp đồng là
32.000.000.000 đồng, thời hạn bàn giao tàu là tháng 3/2008 tại xƣởng đóng tàu của
bên A. Để thực hiện hợp đồng trên, bên B đã chuyển cho bên A số tiền là
25.600.000.000 đồng, nhƣng quá thời hạn theo hợp đồng mà bên A không thực hiện
việc giao tàu. Ngày 14/7/2010, bên B khởi kiện yêu cầu bên A phải trả lại số tiền đã
nhận và phạt vi phạm hợp đồng.
Quan điểm của Tòa án: Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng, trong hợp đồng mua
bán hàng hóa, thời hạn giao hàng là một điều khoản cơ bản của hợp đồng mà các
bên cam kết phải thực hiện. Do bên A không thực hiện đúng nghĩa vụ giao tàu theo
thời hạn đã ký kết nên bên B có quyền hủy bỏ hợp đồng theo quy định tại điểm b
khoản 4 Điều 312 LTM 2005.

Nhận xét: Tòa án nhận định vi phạm điều khoản cơ bản của hợp đồng tức là vi
phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.
Ví dụ 03: Tranh chấp hợp đồng thi công lắp đặt khung nhà xƣởng giữa Công
ty Trách nhiệm hữu hạn nhà thép A (nguyên đơn) và Công ty Trách nhiệm hữu hạn
xây dựng – trang trí nội thất – thƣơng mại C (bị đơn) tại Bản án 432/2013/KDTMPT (Phụ lục I) đã đƣợc trình bày tại mục 1.1.2.
Quan điểm của Tịa án: Trong khi Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của
Công ty A cho phép hủy bỏ một phần hợp đồng vì Cơng ty C vi phạm nghĩa vụ
thanh tốn thì Tịa án cấp phúc thẩm đã bác bỏ yêu cầu trên. Tòa phúc thẩm lập luận
rằng lý do là vì Điều 5.1 trong hợp đồng các bên thỏa thuận chế tài: “Chịu lãi suất là
2%/tháng cho việc chậm thanh toán” là phù hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều
76 Luật Xây dựng và Điều 306 LTM 2005; đồng thời, các bên cũng không thỏa
thuận vi phạm nghĩa vụ thanh toán là điều kiện để hủy bỏ hợp đồng.
Nhận xét: Việc Tòa án dẫn ra lý do trên và khơng cho phép hủy bỏ hợp đồng
có thể hiểu là Tịa án cho rằng việc Cơng ty A vi phạm nghĩa vụ thanh tốn khơng
phải là vi phạm cơ bản nghĩa vụ của hợp đồng và vì vậy, khơng có căn cứ để hủy bỏ
hợp đồng. Tức là, khi Công ty C vi phạm nghĩa vụ thanh tốn thì họ sẽ phải chịu lãi

31

Đỗ Văn Đại, tlđd (12), tr. 570-572.

19


×