BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
TRỊNH NGỌC DIỆU
TẠM ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT
VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
TẠM ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT
VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
Chun ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 60380102
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ THƯƠNG HUYỀN
Học viên: TRỊNH NGỌC DIỆU
Lớp: Cao học Luật Hiến pháp và Luật Hành chính, Khóa 21
TP HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017
LỜI CAM ĐOAN
Đề tài “Tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính” là cơng trình do chính tác
giả tìm hiểu, nghiên cứu và thực hiện. Những nội dung, ý tưởng các tác giả khác
trong các tài liệu tham khảo đều được trích dẫn đầy đủ theo đúng quy định. Nội
dung của Luận văn này không sao chép từ bất kỳ Luận văn hay tài liệu nào khác.
Tác giả chịu trách nhiệm hồn tồn về tính trung thực của Luận văn./.
Tác giả
Trịnh Ngọc Diệu
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
TAND
Tòa án nhân dân
TP
Thành phố
TTHC
Tố tụng hành chính
UBND
Ủy ban nhân dân
VAHC
Vụ án hành chính
VKSND
Viện kiểm sát nhân dân
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ VỀ TẠM ĐÌNH CHỈ
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH ................................................................... 5
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính
..................................................................................................................................... 5
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm vụ án hành chính ...................................................... 5
1.1.2. Khái niệm tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính ............................... 11
1.1.3. Đặc điểm và ý nghĩa của tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính ....... 14
1.2. Quy định của pháp luật về tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính ....... 20
1.2.1. Thẩm quyền tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính............................ 20
1.2.2. Căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính .................................... 23
1.2.3. Thời hạn tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính ................................. 36
1.2.4. Hậu quả pháp lý của việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính ...... 37
1.2.5. Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính.............................. 39
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................ 41
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN TẠM ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH
CHÍNH VÀ KIẾN NGHỊ........................................................................................ 42
2.1. Thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật về tạm đình chỉ giải quyết vụ
án hành chính .......................................................................................................... 42
2.1.1. Tình hình chung về tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính ................ 42
2.1.2. Những bất cập trong việc thực hiện pháp luật về tạm đình chỉ giải quyết
vụ án hành chính ....................................................................................................
............................................................................................................................ 45
2.2. Giải pháp ........................................................................................................... 54
2.2.1. Hoàn thiện quy định của pháp luật về tạm đình chỉ giải quyết vụ án ...... 54
2.2.2. Giải pháp khác ......................................................................................... 60
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................ 64
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 65
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, có nhiều sự kiện xảy ra làm cho
việc giải quyết vụ án không được liên tục. Tuy nhiên, nguyên tắc giải quyết vụ án
hành chính với việc đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa, quyền và lợi ích của các
chủ thể là phải kịp thời, công bằng, công khai. Cho nên việc gián đoạn giải quyết vụ
án hành chính phải có căn cứ và cơ sở pháp lý rõ ràng. Chính vì vậy, Luật Tố tụng
hành chính quy định các căn cứ tạm đình chỉ, hậu quả pháp lý của việc tạm đình chỉ
giải quyết vụ án hành chính,… là cơ sở cho việc Tồ án quyết định việc tạm đình
chỉ giải quyết vụ án hành chính.
Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hành chính và thực
trạng quy định của pháp luật còn chưa đồng nhất. Xuất phát từ nhiều nguyên nhân
từ phía pháp luật và chủ thể áp dụng.
Về phía pháp luật, hệ thống pháp luật tố tụng hành chính hiện hành chưa có
hướng dẫn cụ thể các quy định liên quan đến căn cứ tạm đình chỉ, làm cho việc áp
dụng còn chưa thống nhất và xuất hiện sai sót, vi phạm.
Về chủ thể áp dụng, việc hiểu và vận dụng chính xác, thống nhất các quy định
của pháp luật chưa chính xác một phần cũng do sự lạm dụng, chủ quan của Toà án
trong quá trình giải quyết hành chính, để kéo dài thời hạn chuẩn bị xét xử hoặc do
cả nể trong quá trình giải quyết vụ án hành chính.
Xuất phát từ những lý do nói trên, tác giả quyết định chọn đề tài Tạm đình chỉ
giải quyết vụ án hành chính là đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Kết quả khảo sát lịch sử nghiên cứu đề tài
Trong phạm vi tìm hiểu của tác giả qua hệ thống cơ sở dữ liệu các đề tài luận
văn thạc sĩ của trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (cập nhật đến trước ngày bảo
vệ đề cương) thì chưa có đề tài thạc sĩ nghiên cứu về Tạm đình chỉ giải quyết vụ án
hành chính.
Trong q trình nghiên cứu, tác giả tìm được một số đề tài liên quan. Phải kể
đến là các đề tài của tác giả Nguyễn Thị Huyền (2014), Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ
án hành chính, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, tác giả Trần Linh
Huân (2014), Tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính, Luận văn tốt nghiệp cử
2
nhân Luật, Đại học Luật TP Hồ Chí Minh, tác giả Nguyễn Thị Hạnh (2013), Chuẩn
bị xét xử sơ thẩm vụ án hành chính, Luận văn tốt nghiệp cử nhân Luật, Đại học Luật
TP. Hồ Chí Minh. Những luận văn này là một trong số ít những tài liệu có liên quan
và giúp ích cho tác giả rất nhiều trong việc nghiên cứu đề tài luận văn thạc sĩ. Luận
văn của tác giả Trần Linh Huân đã khái quát được những vấn đề lý luận liên quan
đến tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Đặc biệt là phân tích sâu các căn cứ tạm đình chỉ
giải quyết vụ án hành chính và đưa ra một số kiến nghị hồn thiện. Tuy nhiên, các
nghiên cứu của tác giả Trần Linh Huân trên cơ sở quy định của Luật Tố tụng hành
chính năm 2010 nên chưa bao quát hết các quy định của pháp luật hành chính hiện
hành, đặc biệt là Luật Tố tụng hành chính năm 2015 với những quy định mới liên
quan đến việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính. Các đề tài luận văn thạc sĩ
của tác giả Nguyễn Thị Huyền (2014), và luận văn tốt nghiệp cử nhân Luật của tác
giả Nguyễn Thị Hạnh (2013) khơng nghiên cứu chun sâu về tạm đình chỉ mà chỉ
đề cập đến một phần trong việc ban hành các quyết định của Toà án trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hành chính. Các sách báo và tạp chí viết về tạm đình
chỉ giải quyết vụ án hành chính cũng khá ít, đáng kể là bài viết Vương Văn Bép
(2016), “Trao đổi một số vấn đề về quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ việc giải quyết
vụ án hành chính của Tịa án”, Tạp chí Kiểm sát, số 24/2016. Điều này cũng một
phần hạn chế về nguồn tài liệu tham khảo chuyên môn khi thực hiện luận văn.
Chính vì vậy, những quy định về tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính
chưa được nghiên cứu ở cấp độ luận văn thạc sĩ. Đặc biệt là những quy định của
Luật Tố tụng hành chính năm 2015 chưa được nghiên cứu và phân tích chuyên sâu.
Điều này sẽ được tác giả phân tích và làm rõ trong phạm vi luận văn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Tác giả nghiên cứu vấn đề tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính với mong
muốn nâng cao hiệu quả, chất lượng của việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành
chính trong hoạt động tố tụng, hướng đến mục đích cuối cùng là nhằm bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu nội dung pháp lý và thực tiễn hoạt động tạm đình chỉ
giải quyết vụ án hành chính.
Trong phạm vi của Luận văn, tác giả nghiên cứu về tạm đình chỉ trong các giai
đoạn tố tụng hành chính, chủ yếu là giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm theo Luật Tố
3
tụng hành chính năm 2015; khơng nghiên cứu pháp luật nước ngồi. Bên cạnh đó,
Luận văn cịn nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy định tạm đình chỉ giải quyết vụ án
hành chính qua những vụ việc tác giả thu thập được.
5. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu trong từng chương
như sau:
Chương 1: Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu phân tích, liệt kê và so
sánh để trình bày về cơ sở lý luận pháp lý và các quy định của pháp luật tố tụng
hành chính về tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính.
Chương 2: Luận văn sử dụng phương pháp số liệu, phân tích, thống kê, tổng
hợp sử dụng trong chương 2 về đánh giá thực tiễn áp dụng và kiến nghị hoàn thiện.
6. Dự kiến các điểm mới, các đóng góp mới về mặt lý luận
Luận văn là thành quả nghiên cứu về quy định tạm đình chỉ giải quyết vụ án
hành chính. Đây là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho những đọc giả nghiên cứu
chuyên sâu về tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính. Luận văn dự kiến đóng góp
những vấn đề sau:
Về mặt lý luận: Luận văn làm rõ khái niệm, đặc điểm vụ án hành chính; khái
niệm, đặc điểm, ý nghĩa tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính là cơ sở lý luận
cho việc đối chiếu các quy định của pháp luật, cũng như phân biệt quy định về tạm
đình chỉ giải quyết vụ án hành chính với những quy định khác của pháp luật.
Về mặt pháp lý: Luận văn dự kiến làm rõ được những quy định của pháp luật
về tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính như: thẩm quyền tạm đình chỉ, căn cứ
tạm đình chỉ, thời hạn tạm đình chỉ, hậu quả pháp lý của việc tạm đình chỉ và quyết
định tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính. Đây là cơ sở pháp lý của việc tạm
đình chỉ giải quyết vụ án hành chính, đảm bảo cho việc hiểu và áp dụng pháp luật
chính xác và thống nhất.
Về mặt thực tiễn: Luận văn đánh giá sơ lược về tình hình chung của việc tạm
đình chỉ giải quyết vụ án hành chính. Đồng thời, Luận văn chỉ ra những bất cập của
pháp luật về tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính cũng như những bất cập,
vướng mắc về thực tiễn là cơ sở cho việc đề ra những giải pháp hoàn thiện.
4
Về giải pháp: Luận văn kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về tạm
đình chỉ giải quyết vụ án hành chính như: sửa đổi, bổ sung một số quy định về thẩm
quyền, căn cứ, thời hạn tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính, tạm đình chỉ trong
trường hợp tạm ngừng phiên tịa, tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án; hướng dẫn
áp dụng pháp luật về tạm đình chỉ đối với những quy định chưa rõ ràng, chưa cụ thể
mà đã gây khó khăn cho vệc hiểu và áp dụng chính xác, thống nhất như đương sự
yêu cầu tạm đình chỉ giải quyết vụ án, thủ tục quyết định tạm đình chỉ sau khi tạm
ngừng phiên tòa, khi nào cần lắng nghe ý kiến của đương sự khi phiên họp phúc
thẩm xem xét quyết định bị kháng cáo, kháng nghị. Bên cạnh đó, Luận văn đề cập
một số giải pháp khác mang tính thực tiễn như chất lượng đội ngũ cán bộ tư pháp;
cơ chế kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án; cơ chế phối hợp giữa cơ quan tiến
hành tố tụng và cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương. Đây là những giải pháp
cần thiết cho việc hoàn thiện quy định về tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính
và việc áp dụng quy định này trong thực tiễn chính xác và thống nhất trong thời
gian tới.
5
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ VỀ
TẠM ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành
chính
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm vụ án hành chính
a) Khái niệm
Về mặt từ ngữ, “vụ” là việc, sự việc không hay, rắc rối cần phải giải quyết1
hoặc việc xảy ra (có ý nghĩa khơng hay, rắc rối)2; “án” là vụ phạm pháp hoặc tranh
chấp quyền lợi cần được xét xử trước Toà án3 hoặc những sự việc tranh chấp hoặc
phạm pháp cần đưa ra tòa án xét xử4, “hành chính” với tư cách là một tính từ có
nghĩa là thuộc phạm vi quản lý, chỉ đạo việc thi hành chính sách, pháp luật của Nhà
nước5. Như vậy, về mặt ngữ nghĩa, vụ án có thể hiểu là sự việc tranh chấp quyền lợi
cần được xem xét, giải quyết trước Tồ án. Từ đó, VAHC có thể hiểu là sự việc
tranh chấp về quyền lợi phát sinh từ hoạt động chỉ đạo, quản lý việc chấp hành luật
pháp, chính sách của Nhà nước được xem xét, giải quyết bởi Toà án. Định nghĩa
này chưa thật sự thể hiện được nội hàm của vụ án hành chính trong pháp luật tố
tụng hành chính. Định nghĩa chỉ làm nổi bật được nội dung trong vụ án hành chính
là những tranh chấp phát sinh trong hoạt động chỉ đạo, quản lý và được giải quyết
bởi cơ quan là Tòa án, chưa làm rõ được hành vi khởi kiện của cá nhân, cơ quan, tổ
chức- là một trong những tiền đề quan trọng phát sinh vụ án hành chính trong tố
tụng hành chính.
Về mặt thuật ngữ luật học, “Vụ án hành chính là vụ án phát sinh tại Tịa hành
chính do cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức khởi kiện ra Tòa án yêu cầu bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình.”6. Định nghĩa này về cơ bản thể hiện được các
nội hàm như hành vi khởi kiện của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Tuy nhiên không thể
hiện được hành vi thụ lý vụ án của Tòa án, cũng chưa thể hiện được đối tượng khởi
kiện, đối tượng cần xem xét trong vụ án hành chính.
1
Viện Ngơn ngữ học (2006), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, tr. 1130
Nguyễn Văn Xô (chủ biên) (2008), Từ điển Tiếng Việt, NXB Thanh Niên, tr. 880
3
Viện Ngôn ngữ học (2006), tlđd (1), tr. 6
4
Nguyễn Văn Xô (chủ biên) (2008), tlđd (2), tr. 10
5
Nguyễn Văn Xô (chủ biên) (2008), tlđd (2), tr. 302
6
Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, NXB Công an nhân dân, tr. 132
2
6
Trong pháp luật tố tụng hành chính, khái niệm “vụ án hành chính” khơng
được giải thích tại Điều 3 Luật TTHC năm 2015 cũng như Pháp lệnh Thủ tục giải
quyết các vụ án hành chính và Luật TTHC năm 2010 cũng không đề cập đến khái
niệm này. Cho nên, nhiều tác giả nghiên cứu về tố tụng hành chính đưa ra các khái
niệm khác nhau về vụ án hành chính.
Tác giả Nguyễn Thanh Bình, “Vụ án hành chính là vụ án phát sinh tại Tịa
hành chính có thẩm quyền do có cá nhân, cơ quan Nhà nước hay tổ chức khởi kiện
ra trước Tòa án yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình”7. Định nghĩa
này về cơ bản giống như trong từ điển về thuật ngữ luật học phân tích ở trên, nhưng
tác giả đã nhấn mạnh thêm rằng vụ án hành chính phát sinh tại Tịa án có thẩm
quyền giải quyết, bao gồm thẩm quyền về cấp tòa án, thẩm quyền theo lãnh thổ và
thẩm quyền theo loại việc. Theo trường Đại học Luật Hà Nội, “Vụ án hành chính là
vụ việc tranh chấp hành chính phát sinh do cá nhân, tổ chức, cơ quan nhà nước,
cán bộ, cơng chức khởi kiện u cầu Tịa án có thẩm quyền bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của mình bị xâm hại bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết
định kỷ luật buộc thơi việc.”8. Định nghĩa này đã làm rõ được đối tượng cần xem xét
trong vụ án hành chính, bằng cách liệt kê cụ thể: quyết định hành chính, hành vi
hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc; hành vi khởi kiện của cá nhân, cơ
quan, tổ chức.
Tuy là Luật TTHC không quy định về định nghĩa khái niệm vụ án hành chính
là gì, nhưng thơng qua các quy định của luật, có thể hình dung được nội hàm của
khái niệm vụ án hành chính. Theo đó, VAHC là vụ án phát sinh trong trình tự tố
tụng hành chính. VAHC phát sinh sau khi thụ lý vụ án hành chính. Như vậy, VAHC
là hệ quả của hoạt động thụ lý vụ án mà dấu hiệu pháp lý là Toà án ban hành thông
báo thụ lý vụ án. Cho nên, điều kiện phát sinh vụ án hành chính là điều kiện thụ lý
vụ án hành chính. Một vụ án hành chính chỉ phát sinh khi:
Thứ nhất, cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện quyền khởi kiện vụ án hành
chính. Chủ thể thực hiện hành vi khởi kiện phải là người chịu tác đơng trực tiếp bởi
quyết định hành vi hành chính, đồng thời phải thỏa mãn các điều kiện về đối tượng
khởi kiện, thời hiệu khởi kiện và chưa được giải quyết bằng bản án hoặc quyết định
đã có hiệu lực của Tòa án. Cá nhân, cơ quan, tổ chức thực hiện việc khởi kiện phải có
7
8
Nguyễn Thanh Bình (1997), Tìm hiểu pháp luật tố tụng hành chính, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 11
Trường Đại học Luật Hà Nội (2005), Giáo trình Luật tố tụng hành chính Việt Nam, NXB Tư pháp, tr. 155
7
năng lực chủ thể tố tụng hành chính và có quyền khởi kiện vụ án hành chính. Nhằm
tạo điều kiện thuận lợi cho việc khởi kiện, pháp luật tố tụng hành chính cho phép
người khởi kiện có thể nộp đơn trực tiếp tại Tòa án hoặc gửi qua đường bưu điện.
Theo quy định của Luật TTHC năm 2015 quy định người đủ 18 tuổi trở lên
phải tự mình thực hiện việc khởi kiện vụ án hành chính. Đối với người chưa thành
niên, mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự, khó khăn trong
nhận thức và làm chủ hành vi thì người đại diện hợp pháp của họ thực hiện việc
khởi kiện.
Luật TTHC năm 2015 cũng quy định tương tự đối với trường hợp là cơ quan,
tổ chức khởi kiện và đương sự là cơ quan, tổ chức trong vụ án hành chính. Theo đó,
cơ quan, tổ chức có thể khởi kiện thơng qua người đại diện theo pháp luật hoặc đại
diện theo uỷ quyền.
Thứ hai, Tịa án thụ lý vụ án hành chính. Nếu việc khởi kiện của cá nhân, cơ
quan, tổ chức là điều kiện cần thì việc thụ lý của Tịa án là điều kiện đủ làm phát
sinh vụ án hành chính.
Theo trình tự tố tụng, trước khi Tồ án tiến hành thụ lý vụ án thì việc xem xét
đơn khởi kiện và các điều kiện khởi kiện là một việc quan trọng quyết định đến việc
có thụ lý hay khơng thụ lý yêu cầu khởi kiện, phát sinh vụ án hành chính. Bên cạnh
việc xem xét các điều kiện về đơn khởi kiện, các tài liệu kèm theo đơn khởi kiện do
người khởi kiện cung cấp, có thuộc thẩm quyền giải quyết hay khơng. Đó cịn là
việc thẩm phán được phân công giải quyết vụ án xem xét các điều kiện về nội dung
như: người khởi kiện có quyền khởi kiện hay không, người bị kiện là ai, đối tượng
khởi kiện là gì, cịn thời hiệu khởi kiện hay khơng.
Tồ án tiến hành thụ lý vụ án khi người khởi kiện xuất trình biên lai nộp tiền
tạm ứng án phí, trường hợp được miễn hoặc không phải nộp tạm ứng án phí thì
thơng báo cho người khởi kiện biết về việc thụ lý vụ án. Dấu hiệu của việc thụ lý vụ
án là việc ghi vào sổ thụ lý vụ án.
Khái niệm vụ án hành chính phải thể hiện đầy đủ hai điều kiện về hành vi khởi
kiện và việc thụ lý vụ án của Toà án. Việc xem xét các điều kiện để thụ lý vụ án gồm
nhiều điều kiện về nội dung và hình thức. Tác giả cũng đồng ý với quan điểm của tác
giả Trần Linh Huân: “Vụ án hành chính là vụ án phát sinh sau khi cá nhân, cơ quan,
tổ chức khởi kiện yêu cầu Tịa án có thẩm quyền xem xét tính hợp pháp của đối tượng
8
khiếu kiện hành chính theo quy định của pháp luật tố tụng hành chính nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi có căn cứ cho rằng đối tượng khiếu kiện này
là trái pháp luật, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp cả bản thân và được Tịa
án có thẩm quyền thụ lý theo quy định của pháp luật.”9 Vì khái niệm này đã diễn đạt
đầy đủ được những dấu hiệu làm phát sinh vụ án hành chính là: cá nhân, cơ quan, tổ
chức thực hiện quyền khởi kiện và Tòa án tiến hành thụ lý theo đúng thẩm quyền.
Bên cạnh đó, khái niệm cịn xác định được đối tượng khởi kiện, chủ thể khởi kiện và
thẩm quyền giải quyết. Tuy nhiên, cá nhân, cơ quan, tổ chức khơng cần phải có căn
cứ cho rằng quyết định hành chính, hành vi hành chính đó là trái pháp luật mới có
quyền khởi kiện, chủ thể khởi kiện chỉ cần nhận thấy không đồng ý với quyết định
đó, hành vi đó là có quyền khởi kiện10. Cho nên theo tác giả, vụ án hành chính là vụ
án phát sinh khi cá nhân, cơ quan, tổ chức thực hiện việc khởi kiện u cầu Tịa án
xem xét tính hợp pháp của đối tượng khởi kiện theo quy định của Luật Tố tụng hành
chính xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân và được Tịa án có thẩm
quyền thụ lý theo quy định của pháp luật.
b) Đặc điểm
Đặc điểm là dấu hiệu để phân biệt các sự vật, hiện tượng. Đặc điểm của vụ án
hành chính là yếu tố để phân biệt vụ án hành chính với vụ án dân sự. Đặc thù của
mỗi loại vụ án làm nên đặc trưng của chúng và dấu hiệu để phân biệt. VAHC có
những đặc điểm khác biệt với vụ án khác. Những đặc điểm của vụ án hành chính cụ
thể như sau:
Thứ nhất, về người khởi kiện: trong vụ án hành chính, cơ quan, tổ chức, cá
nhân thực hiện quyền khởi kiện là người bị tác động trực tiếp bởi quyết định hành
chính, hành vi hành chính. Cho nên, người khởi kiện trong vụ án hành chính là bên
yếu thế trong quan hệ hành chính, người bị áp dụng bởi quyết định hành chính,
hành vi hành chính, mang quyền lực nhà nước, đơn phương và bất bình đẳng. Trong
vụ án dân sự, người thực hiện quyền khởi kiện gọi là nguyên đơn, người bị kiện gọi
là bị đơn, giữa ngun đơn và bị đơn khơng có sự bất bình đẳng về địa vị pháp lý,
mối quan hệ được xác lập giữa nguyên đơn và bị đơn mang tính chất dân sự, trên
9
Trần Linh Hn (2014), Tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật, Đại
học Luật TP. Hồ Chí Minh, tr. 6
10
Điều 115 Luật Tố tụng hành chính năm 2015
9
nguyên tắc tự do thoả thuận, bình đẳng, tranh chấp phát sinh giữa họ dựa trên quan
hệ dân sự này.
Thứ hai, về người bị kiện: người bị kiện trong vụ án hành chính là chủ thể
mang quyền lực nhà nước trong quan hệ hành chính. Đặc điểm này xuất phát từ đối
tượng khởi kiện là quyết định hành chính, hành vi hành chính và người bị kiện là cơ
quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành quyết định hành chính làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, lợi ích hợp
pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Như vậy, trong quan hệ pháp luật hành chính,
mối quan hệ giữa người bị kiện và người khởi kiện là quan hệ giữa người quản lý và
người bị quản lý.Chính vì vậy, có sự bất bình đẳng về địa vị pháp lý giữa hai chủ
thể, ln ln có sự đối lập về lợi ích khi phát sinh tranh chấp.
Vì sự chênh lệch về địa vị pháp lý trong hoạt động quản lý nhà nước như vậy
nên khi phát sinh vụ án hành chính, mâu thuẫn quyền lợi giữa hai chủ thể này thì
địi hỏi pháp luật tố tụng hành chính phải tạo điều kiện, cơ sở pháp lý vững chắc để
đảm bảo sự công bằng và bình đẳng giữa người khởi kiện và người bị kiện khi tham
gia tố tụng hành chính. Một trong những ngun tắc chỉ đạo trong tố tụng hành
chính đó là đảm bảo sự bình đẳng giữa các đương sự trong tố tụng hành chính.Từ
đó, các quy định cụ thể về quyền, nghĩa vụ của người khởi kiện và người bị kiện
được quy định trên nguyên tắc bình đẳng này. Trước hết là để tạo tâm lý an tâm cho
cơ quan, tổ chức, cá nhân khi khởi kiện vụ án hành chính ra Tồ án, u cầu Tồ án
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, tin vào công lý và sự công bằng, công
minh của pháp luật. Hơn nữa, nguyên tắc này giúp cho hoạt động tố tụng hành
chính được khách quan, cơng bằng, là một kênh quan trọng giúp bảo vệ cơng lý và
chính nghĩa.
Thứ ba, về đối tượng xem xét trong vụ án hành chính, tính hợp pháp của
quyết định hành chính, hành vi hành chính là đối tượng xem xét trong vụ án hành
chính. Tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính là một trong
yêu cầu của việc ban hành quyết định hành chính, khi nó là hình thức thể hiện mang
quyền lực nhà nước. Tính hợp pháp thể hiện ở những yêu cầu sau:
Một là, quyết định hành chính phải được ban hành bởi chủ thể có thẩm quyền.
Hay nói cách khác, phải tuân thủ các quy định của pháp luật về thẩm quyền ban
10
hành từng loại quyết định hành chính. Thể hiện trên hai phương diện: thẩm quyền
về nội dung và thẩm quyền về hình thức.
Thẩm quyền về nội dung là quyết định hành chính phải được ban hành bởi
người có thẩm quyền thực hiện những công việc liên quan đến chức năng, nhiệm
vụ, không được vượt quyền, lạm quyền. Thẩm quyền về hình thức là quyết định đó
phải được ban hành đúng hình thức (tên gọi, thể thức trình bày) đã được pháp luật
quy định.11
Hai là, quyết định hành chính phải phù hợp với các quy định về nội dung,
cũng như mục đích. Bởi vì quyết định hành chính là văn bản dưới luật. Không được
trái với văn bản của Quốc hội, Hội đồng nhân dân và của cơ quan hành chính nhà
nước cấp trên. Có nghĩa là quyết định hành chính được ban hành trên cơ sở áp dụng
đúng pháp luật. Nội dung quyết định hành chính ban hành trên cơ sở của các quy
định pháp luật đang có hiệu lực thi hành vào thời điểm ban hành quyết định hành
chính và khơng trái với các quy định có giá trị pháp lý cao hơn.12
Ba là, quyết định hành chính phải ban hành theo đúng trình tự, thủ tục và hình
thức do pháp luật quy định, được quy định cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp
luật chuyên ngành có liên quan.13
Chính vì vậy, khi xem xét và giải quyết vụ án hành chính, để xác định tính hợp
pháp của đối tượng khởi kiện cần căn cứ vào ba yêu cầu về tính hợp pháp nói trên
của quyết định hành chính về cả nội dung và hình thức của quyết định hành chính.
Bên cạnh đó, Tồ án có thể xem xét tính hợp pháp của văn bản hành chính,
hành vi hành chính có liên quan đến quyết định hành chính, hành vi hành chính bị
kiện và kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại văn bản hành
chính, hành vi hành chính đó và trả lời kết quả cho Tồ án. Tồ án có quyền kiến
nghị xem xét, sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật nếu phát
hiện văn bản đó trái với Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan
nhà nước cấp trên. Nếu trong thời hạn quy định và không nhận được văn bản trả lời
thì Tồ án áp dụng văn bản có giá trị pháp lý cao hơn để giải quyết.14
11
Nguyễn Thị Hà (2016), “Bàn về quyết định hành chính đối tượng xét xử của vụ án hành chính”, Tạp chí
Kiểm sát, số 8, tr. 49
12
Nguyễn Thị Hà (2016), tlđd (11), tr. 50
13
Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, NXB Cơng an nhân dân, tr. 186
14
Điều 6 Luật Tố tụng hành chính năm 2015
11
Người khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có thể yêu cầu bồi
thường thiệt hại trong vụ án hành chính. Và họ có nghĩa vụ cung cấp tài liệu, chứng
cứ chứng minh cho yêu cầu của mình. Xét thấy cần thiết, Tồ án có thể tiến hành
xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để giải quyết u cầu được chính xác. Trường
hợp chưa có điều kiện chứng minh, Tồ án có thể tách u cầu bồi thường thiệt hại
giải quyết sau bằng vụ án dân sự khác.15
1.1.2. Khái niệm tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính
Theo quy định của Luật TTHC thì vụ án hành chính phải được giải quyết
trong một khoảng thời gian nhất định, nếu hết thời hạn tối đa mà luật cho phép mà
vụ án vẫn chưa được giải quyết thì sẽ vi phạm thời hạn. Chính vì vậy, mọi Tịa án
đều cố gắn giải quyết trong thời hạn luật định. Trên thực tế, có nhiều sự kiện xuất
hiện làm cho mọi nổ lực hết sức của Tịa án cũng khơng thể giải quyết vụ án đúng
hạn. Vì vậy, Luật TTHC đã quy định những trường hợp tạm dừng giải quyết vụ án,
chứ không phải là dừng vĩnh viễn hay không giải quyết vụ án nữa. Một trong những
quy định làm tạm dừng việc giải quyết vụ án hành chính là quy định về tạm đình chỉ
giải quyết vụ án hành chính.
Theo từ điển tiếng Việt, “tạm” là chỉ trong một thời gian nào đó, khi có điều
kiện sẽ có thay đổi16, “đình chỉ” là ngừng lại hoặc làm cho phải ngừng lại trong một
thời gian hay vĩnh viễn17 hoặc là làm cho ngừng lại, thôi không hoạt động nữa18.
Như vậy, về mặt ngữ nghĩa, “tạm đình chỉ” được hiểu là việc ngừng một việc gì đó
một thời gian nào đó, khi có điều kiện thì sẽ thay đổi. Cũng có thể hiểu là tạm đình
chỉ là việc ngừng một việc gì đó trong một thời gian nào đó, khi có điều kiện thay
đổi thì việc đó sẽ được tiếp tục thực hiện.
Cách định nghĩa của từ điển tiếng Việt đã thể hiện đặc trưng của việc tạm đình
chỉ là tạm ngừng một thời gian, sau đó sẽ được tiếp tục khi điều kiện thay đổi. Tuy
nhiên, vì là giải thích về mặt ngữ nghĩa nên đây là định nghĩa chung chung, chưa
thể hiện được đặc trưng của việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính, dẫn đến
khơng phân biệt được các khái niệm tạm đình chỉ giải quyết vụ án hình sự hay tạm
đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Theo đó, có quan điểm cho rằng, tạm đình chỉ giải
15
Điều 7 Luật Tố tụng hành chính năm 2015
Viện Ngôn ngữ học (2006), tlđd (1), tr. 887
17
Viện Ngôn ngữ học (2006), tlđd (1), tr. 324
18
Nguyễn Văn Xô (chủ biên) (2008), tlđd (2), tr. 227
16
12
quyết vụ án hành chính là việc Tồ án có thẩm quyền sau khi thụ lý vụ án và phát
hiện những căn cứ theo quy định của pháp luật đã ra quyết định tạm dừng việc giải
quyết vụ án19. Quan điểm này chưa chỉ ra được pháp luật được áp dụng là pháp luật
gì, đồng thời chưa thể hiện được việc vụ án tiếp tục được giải quyết khi căn cứ tạm
đình chỉ khơng cịn. Theo Đại học Luật Hà Nội thì “Tạm đình chỉ giải quyết vụ án
là việc Thẩm phán được giao giải quyết vụ án ra quyết định tạm thời dừng giải
quyết vụ án vì có những lý do nhất định làm cho vụ án không thể tiếp tục giải quyết
được, khi những lý do đó khơng cịn nữa thì được giải quyết vụ án”.20 Quan điểm
này thể hiện được tính chất tạm dừng việc giải quyết vụ án và tiếp tục giải quyết khi
căn cứ tạm đình chỉ khơng cịn; tuy nhiên, định nghĩa vẫn chưa chỉ rõ căn cứ tạm
đình chỉ, cũng như việc chủ thể có thẩm quyền tạm đình chỉ giải quyết vụ án chưa
bao quát. Theo tác giả Đoàn Tấn Minh, “tạm đình chỉ giải quyết vụ án là việc Tịa
án có thẩm quyền tạm ngừng việc giải quyết vụ án hành chính khi có căn cứ do Luật
Tố tụng hành chính quy định cho đến khi lý do của việc tạm đình chỉ đó khơng
cịn”21. Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh cho rằng: “Tạm đình chỉ giải quyết
vụ án là việc Tịa án có thẩm quyền tạm dừng việc giải quyết vụ án hành chính khi
có căn cứ tạm đình chỉ do Luật Tố tụng hành chính quy định. Vụ án sẽ được tiếp tục
đưa ra xét xử khi căn cứ tạm đình chỉ khơng cịn.”22 Hai quan điểm này có phần đầy
đủ nội hàm hơn so với các khái niệm phân tích ở trên nhưng chưa thể hiện được giai
đoạn áp dụng của việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Bên cạnh đó khái niệm của
Đại học Luật Hà Nội cũng chưa nhấn mạnh vụ án sẽ tiếp tục giải quyết khi căn cứ
tạm đình chỉ khơng còn.
Nghiên cứu các quy định của Luật TTHC năm 2015 về tạm đình chỉ giải quyết
vụ án, có thể thấy rằng tạm đình chỉ giải giải quyết vụ án là việc áp dụng của Tồ án
có thẩm quyền trong q trình giải quyết vụ án hành chính sau khi đã tiến hành thụ
lý vụ án. Bởi lẽ, vụ án hành chính chỉ phát sinh khi Tịa án đã tiến hành thủ tục thụ
lý, lúc này mới xác định được thẩm quyền của Tòa án theo cấp giải quyết vụ án
hành chính. Cụ thể, tạm đình chỉ giải quyết vụ án chỉ áp dụng trong giai đoạn chuẩn
19
Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, Luật Tố tụng hành chính Việt Nam- Những nội dung cơ bản, câu
hỏi và tình huống, Nguyễn Thị Thương Huyền, NXB Lao động, tr.139
20
Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật Tố tụng hành chính, NXB Cơng an nhân dân, tr. 298
21
Đồn Tấn Minh (2011), Bình luận khoa học Luật Tố tụng hành chính và văn bản áp dụng giải quyết khiếu
nại hành chính tại Tòa, NXB Lao động, tr. 102
22
Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật Tố tụng hành chính Việt Nam, NXB Hồng ĐứcHội Luật gia Việt Nam, tr. 277
13
bị xét xử, xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm vụ án hành chính. Tạm đình chỉ giải
quyết vụ án không áp dụng trong thủ tục xem xét lại bản án quyết định theo thủ tục
giám đốc thẩm và tái thẩm vụ án hành chính. Tịa án cấp phúc thẩm ra quyết định
tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án khi có căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án23.
Trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, pháp luật khơng quy định về tạm đình chỉ giải
quyết vụ án mà chỉ quy định về tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án là vì cấp phúc
thẩm là cấp xét xử lại vụ án khi bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực bị
kháng cáo, kháng nghị. Do vậy, khi Tòa án cấp phúc thẩm phát hiện Tịa án cấp sơ
thẩm có vi phạm về việc quyết định tạm đình chỉ thì khơng thể ra quyết định tạm
đình chỉ giải quyết vụ án mà phải đề nghị chủ thể có thẩm quyền kháng nghị theo
thủ tục giám đốc thẩm để xem xét lại vì lúc này quyết định tạm đình chỉ đó đã có
hiệu lực thi hành. Nếu Tòa án cấp phúc thẩm phát hiện căn cứ tạm đình chỉ trong
giai đoạn xét xử phúc thẩm thì Tịa án quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ
án, khơng quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính.
Quyết định việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án khi và chỉ khi xuất hiện các căn
cứ làm gián đoạn việc giải quyết vụ án. Những căn cứ này tác động trực tiếp đến
quá trình giải quyết vụ án, Tịa án khơng thể tiếp tục giải quyết vụ án, buộc phải tạm
dừng. Như vậy, căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án phải có liên quan đến vụ án
đang được giải quyết. Tính liên quan thể hiện ở việc căn cứ phát sinh liên quan đến
chứng cứ, chứng minh trong vụ án, liên quan đến đương sự trong vụ án, thời hạn
giải quyết,... Tuy nhiên, các căn cứ không thể tùy nghi cho chủ thể áp dụng mà phải
được quy định cụ thể, rõ ràng trong Luật TTHC, tránh trường hợp lạm dụng, ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Hình thức tạm đình chỉ phải bằng một quyết định. Bởi vì đây là một quyết
định mang tính pháp lý, ảnh hưởng đến quyền lợi của đương sự trong vụ án. Quyết
định này được tống đạt cho đương sự, Viện kiểm sát. Do đó, buộc phải thể hiện
bằng một hình thức cụ thể là văn bản.
Như vậy, khái niệm tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính phải đầy đủ các
nội hàm: là một quyết định của Toà án có thẩm quyền, được áp dụng trong giai
đoạn chuẩn bị xét xử, xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm vụ án, không được ban
23
Điều 228 Luật Tố tụng hành chính năm 2015
14
hành tùy nghi mà phải dựa trên căn cứ của Luật TTHC và vụ án phải được tiếp tục
giải quyết khi căn cứ ấy khơng cịn.
Theo đó, tác giả Trần Linh Huân đưa ra khái niệm khá hoàn chỉnh: “Tạm đình
chỉ giải quyết vụ án hành chính là việc Tịa án có thẩm quyền sau khi thụ lý giải
quyết vụ án hành chính đã ra quyết định tạm dừng việc giải quyết vụ án khi phát
hiện có căn cứ tạm đình chỉ theo quy định của Luật Tố tụng hành chính; vụ án sẽ
được tiếp tục đưa ra giải quyết khi căn cứ đó khơng cịn.”24. Tuy nhiên, khái niệm
này đề cập đến giai đoạn áp dụng còn chung chung, chưa cụ thể.
Trên cơ sở nghiên cứu và tiếp thu ý kiến của các nhà nghiên cứu Luật học, tác
giả đưa ra khái niệm tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính như sau: Tạm đình
chỉ giải quyết vụ án hành chính là việc trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, xét xử sơ
thẩm, xét xử phúc thẩm vụ án, Tồ án có thẩm quyền quyết định tạm dừng việc giải
quyết vụ án khi có căn cứ theo quy định của Luật Tố tụng hành chính và Tồ án tiếp
tục giải quyết vụ án khi lý do tạm đình chỉ khơng cịn.
Tạm đình chỉ giải quyết vụ án khơng phải là một cách giải quyết vụ án mà nó
chỉ có ý nghĩa tạm dừng tiến trình tố tụng trong một thời gian.25
1.1.3. Đặc điểm và ý nghĩa của tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính
a) Đặc điểm
Việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án chỉ là việc tạm thời ngừng giải quyết vụ án
trong một thời gian, chứ không phải chấm dứt việc giải quyết vụ án, đình chỉ tố
tụng. Vì trên thực tế, vụ án hành chính chỉ bị tạm dừng giải quyết trong một thời
hạn mà sau đó sẽ phải tiếp tục giải quyết cho đến cùng bằng việc đưa vụ án hành
chính ra xét xử hoặc Tồ án quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đó. Chính vì vậy,
pháp luật quy định “bỏ ngõ” việc xử lý tạm ứng án phí, lệ phí mà đương sự đã nộp,
việc khơng xố tên vụ án trong sổ thụ lý, trách nhiệm đôn đốc, theo dõi việc khắc
phục lý do dẫn đến tạm đình chỉ hay quy định về tiếp tục giải quyết vụ án khi lý do
tạm đình chỉ khơng cịn. Pháp luật khơng quy định thời hạn tạm đình chỉ, mà việc
tạm đình chỉ dài hay ngắn phụ thuộc vào diễn biến của căn cứ tạm đình chỉ. Khi căn
cứ khơng cịn, thì phải đưa vụ án ra tiếp tục giải quyết. Điều này chứng tỏ, vụ án
24
Trần Linh Huân (2014), tlđd (9), tr. 11
Nguyễn Thị Huyền (2013), Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hành chính, Luận văn thạc sĩ, Đại học Luật TP.
Hồ Chí Minh, tr. 25
25
15
hành chính vẫn đang và sẽ được tiếp tục giải quyết và quy định về tạm đình chỉ
khơng phải là một cách giải quyết vụ án hành chính.
Tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, tạm đình chỉ giải quyết vụ án khơng phải là một cách giải quyết vụ
án. Đây là đặc điểm quan trọng của tạm đình chỉ giải quyết vụ án.
Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án
buộc phải ban hành một trong ba loại quyết định: đưa vụ án ra xét xử, tạm đình chỉ
giải quyết vụ án và đình chỉ giải quyết vụ án thay cho việc đánh dấu bước ngoặc của
quá trình giải quyết vụ án hoặc kết thúc việc giải quyết vụ án. Theo đó, quyết định
tạm đình chỉ không làm kết thúc vụ án, cũng không phải là kết quả giải quyết cuối
cùng của vụ án đó. Quyết định này chỉ làm tạm thời ngừng tố tụng trong một thời
gian để chủ thể có thẩm quyền có thêm thời gian xác minh, thu thập tài liệu phục vụ
cho việc giải quyết vụ án được chính xác, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự và chất lượng hoạt động xét xử. Khi những nội dung cần làm rõ đã được
sáng tỏ thì vụ án tiếp tục được khơi phục giải quyết. Trong khi đó, quyết định đình
chỉ giải quyết vụ án làm cho vụ án chấm dứt, là một hình thức giải quyết vụ án theo
con đường tố tụng. Quyết định đình chỉ làm kết thúc cả về thủ tục và giải quyết nội
dung vụ việc khởi kiện.26 Cho nên, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án không
phải là một cách giải quyết vụ án.
Thứ hai, căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính do Luật TTHC
quy định.
Nước ta nằm trong hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa, nguồn luật chủ yếu là
nguồn thành văn, nguồn không thành văn chỉ là nguồn bổ sung. Bên cạnh đó, Thẩm
phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật27 nên các phán
quyết của Tòa án đều phải dựa trên cơ sở pháp luật.
Mặt khác, nguyên tắc của Luật TTHC là giải quyết vụ án kịp thời, khách quan
và công bằng đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Ngun tắc
Tồ án xét xử kịp thời thể hiện thông qua việc Toà án xét xử kịp thời trong thời hạn
do luật quy định. Trong trình tự tố tụng, các giai đoạn của quá trình tố tụng được
26
Nguyễn Thục Đoan (2013), Đình chỉ giải quyết vụ án hành chính, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật, Đại
học Luật TP. Hồ Chí Minh, tr. 9
27
Khoản 2 Điều 103 Luật Tố tụng hành chính năm 2015
16
quy định cụ thể và mạch lạc, thời hạn giải quyết vụ án quy định cụ thể và cụ thể hố
trong từng giai đoạn. Đó là điều kiện cần để đảm bảo nguyên tắc xét xử kịp thời.
Đảm bảo đúng thời hạn luật định trong quá trình giải quyết vụ án hành chính là yêu
cầu nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Tuy nhiên, trong q
trình tố tụng, có những sự kiện pháp lý phát sinh làm cho q trình tố tụng khơng
thể liên tục và xuyên suốt được. Nếu Thẩm phán bất chấp giải quyết thì có thể
khơng đảm bảo quyền tham gia tố tụng của đương sự. Do đó, việc Tồ án ra quyết
định tạm đình chỉ giải quyết vụ án có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự.28 Việc dừng hoặc tạm dừng việc giải quyết vụ án
phải dựa trên những quy định cụ thể. Đặc điểm này nhằm đảm bảo các quyền tố
tụng của đương sự, đảm bảo tính chính xác, đúng đắn và áp dụng thống nhất quy
định của pháp luật về tạm đình chỉ, cũng tránh sự áp dụng tuỳ tiện quy định về tạm
đình chỉ giải quyết vụ án hành chính nhằm những mục đích khác nhau. Theo đó,
Tồ án chỉ được ban hành quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính khi
có căn cứ quy định theo Luật TTHC năm 2015. Các quyết định tạm đình chỉ giải
quyết vụ án hành chính khơng dựa trên căn cứ quy định sẽ khơng đảm bảo tính hợp
pháp, có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính được áp dụng ở
giai đoạn chuẩn bị xét xử, xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm vụ án hành chính.
Căn cứ tạm đình chỉ dựa trên các sự kiện pháp lý khách quan nên những căn
cứ này có thể xảy ra ở bất kì giai đoạn nào của tố tụng hành chính như: chuẩn bị xét
xử, xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm vụ án. Tuy nhiên, nếu có căn cứ tạm đình
chỉ ở giai đoạn xét xử phúc thẩm thì Tịa án quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc
thẩm vụ án mà khơng phải là tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Như vậy, cần phân biệt
giữa tạm đình chỉ giải quyết vụ án và tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành
chính. Về cơ bản căn cứ áp dụng, hậu quả pháp lý của hai quy định này là giống
nhau29. Tuy nhiên, hai quy định này có sự khác biệt nhất định. So với tạm đình chỉ
giải quyết vụ án thì tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm chỉ làm tạm dừng hoạt động tố
tụng xét xử phúc thẩm vụ án. Thẩm quyền ban hành quyết định tạm đình chỉ xét xử
phúc thẩm là Hội đồng xét xử gồm ba Thẩm phán, khơng có Hội thẩm nhân nhân.
28
Nguyễn Thị Hạnh (2013), Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hành chính, Luận văn tốt nghiệp cử nhân Luật,
Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, tr. 28
29
Áp dụng quy định tại Điều 141 và Điều 142 Luật Tố tụng hành chính năm 2015
17
Thủ tục ban hành quyết định có thể tại phiên tòa hoặc phiên họp. Và một điểm khác
biệt nữa là quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm có hiệu lực thi hành ngay,
không bị kháng cáo, kháng nghị như quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án.30
Thứ tư, tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính chỉ mang tính chất tạm thời,
khơng phải là dừng hẳn việc giải quyết vụ án hành chính. Chính vì vậy mà đa số các
căn cứ tạm đình chỉ quy định theo cách dùng từ “Cần đợi kết quả…” hoặc “…chưa
xác định được…”. Những căn cứ này mang tính tạm thời và sẽ thay đổi trong tương
lai. Khi đó vụ án sẽ tiếp tục được giải quyết. Theo đó, vụ án tạm dừng có tính chất
tạm thời nên vụ án hành chính khơng bị xố tên trong sổ thụ lý, mà chỉ ghi chú là
tạm đình chỉ giải quyết và vẫn tiếp tục theo dõi. Tạm ứng án phí, lệ phí được lưu
giữ và xử lý khi vụ án được tiếp tục giải quyết. Đây là đặc điểm phân biệt với việc
đình chỉ giải quyết vụ án hành chính (dừng hẳn việc giải quyết vụ án).
Thứ năm, về hậu quả pháp lý. Tạm đình chỉ khơng phải làm chấm dứt hồn
tồn q trình giải quyết vụ án sau đó nên khi lý do tạm đình chỉ khơng cịn, Tồ án
phải tiếp tục giải quyết vụ án. Khi đó, Tồ án phải ra quyết định về việc tiếp tục giải
quyết vụ án hành chính và huỷ bỏ quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành
chính. Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án có thể bị kháng cáo và kháng nghị
theo thủ tục phúc thẩm. Tuy nhiên, điểm cần lưu ý là quyết định tạm đình chỉ xét xử
phú thẩm có hiệu lực thi hành ngay.
Thứ sáu, thời hạn tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính là khơng xác định.
Trong q trình giải quyết vụ án, khi phát hiện các căn cứ cho việc tạm đình chỉ thì
Tồ án quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính và khi lý do tạm đình
chỉ khơng cịn, Tồ án ra quyết định tiếp tục giải quyết vụ án hành chính và huỷ bỏ
quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Như vậy, thời hạn tạm đình chỉ giải quyết
vụ án được tính kể từ khi ban hành quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án đến khi
Toà án ban hành quyết định tiếp tục giải quyết vụ án hành chính và huỷ bỏ quyết
định tạm đình chỉ.
Bên cạnh quy định về tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính, pháp luật Tố
tụng hành chính cịn có một số quy định về việc tạm dừng việc giải quyết vụ án có
tính chất tương tự với tạm đình chỉ. Tuy nhiên, cùng với tính chất tạm dừng giải
quyết nhưng mỗi quy định có những đặc điểm khác nhau, giúp phân biệt và áp dụng
30
Khoản 2 Điều 228 Luật Tố tụng hành chính năm 2015
18
đúng quy định của pháp luật, đảm bảo quá trình giải quyết vụ án đúng đắn và chính
xác nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng. Đó là quy
định về hỗn phiên tồ và tạm ngừng phiên tồ.
Hỗn phiên tồ là việc chuyển, thay đổi thời điểm mở phiên toà sang thời
điểm khác muộn hơn. Có thể hiểu là việc Tồ án chuyển thời điểm tiến hành phiên
tồ đã định trước đó sang thời điểm khác muộn hơn khi có những căn cứ pháp luật
quy định. Các căn cứ này chủ yếu liên quan đến việc vắng mặt của người tham gia
tố tụng, thay đổi người tiến hành tố tụng,… Nếu thời hạn tạm đình chỉ giải quyết vụ
án hành chính là khơng xác định thì thời hạn hỗn là xác định, thời điểm mở lại
phiên toà được ấn định cụ thể trong Quyết định hỗn phiên tồ. Thời hạn hỗn
khơng q 30 ngày hoặc không quá 15 ngày đối với thủ tục rút gọn. Thẩm quyền
tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính có thể là Thẩm phán được phân cơng giải
quyết vụ án hành chính hoặc Hội đồng xét xử, tuỳ thuộc vào giai đoạn tiến hành tố
tụng. Việc ban hành quyết định hỗn phiên tồ thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét
xử và thường được tiến hành ở thủ tục bắt đầu phiên toà.
Tạm ngừng phiên toà được hiểu là việc Tồ án khơng thể tiếp tục tiến hành
các hoạt động tố tụng trong thời gian nhất định khi có căn cứ do pháp luật quy định.
Các căn cứ đó chủ yếu phát sinh do đột ngột về tình trạng sức khoẻ hoặc sự kiện bất
khả kháng, trở ngại khách quan, hoặc những phát hiện tại Tồ nhưng khơng thể bổ
sung hay giải quyết ngay được,… Thời hạn tạm ngừng là xác định, không quá 30
ngày kể từ ngày Toà án quyết định tạm ngừng phiên toà. Việc tạm ngừng phiên tồ
khơng thể hiện bằng hình thức là quyết định mà được ghi vào biên bản phiên toà.
Thẩm quyền quyết định việc tạm ngừng phiên toà là Hội đồng xét xử. Việc tạm
ngừng phiên tồ có thể là thủ tục phát sinh việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án khi đã
hết thời hạn tạm ngừng phiên toà mà lý do tạm ngừng chưa khắc phục được. Khi đó,
Hội đồng xét xử ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án.
Như vậy, tuy về bản chất có điểm giao thoa giữa các quy định về việc tạm
dừng mang tính chất tạm thời, nhưng mỗi quy định có những đặc điểm riêng về thời
hạn, thẩm quyền áp dụng và được áp dụng trong những căn cứ nhất định. Có thể
khái quát sự khác nhau các quy định trên như sau:
19
Tiêu chí
Thẩm quyền
Tạm đình chỉ
Thẩm phán/ Hội đồng
xét xử
Giai đoạn áp Chuẩn bị xét xử/ xét
xử sơ thẩm/ phúc
dụng
thẩm
Hoãn phiên toà
Hội đồng xét xử
Tạm ngừng phiên toà
Hội đồng xét xử
Xét xử sơ thẩm/ phúc
thẩm
Xét xử sơ thẩm/ phúc
thẩm
Thời hạn
Không xác định
Không quá 30 ngày/ 15 Không quá 30 ngày
ngày
Thời điểm
tiếp tục
Khơng xác định
Ấn định trong quyết
định hỗn
Khi lý do tạm ngừng
khơng cịn (khơng xác
định, tối đa khơng q
30 ngày)
Hình thức
thể hiện
Quyết định tạm đình
chỉ/ Quyết định tiếp
tục giải quyết vụ án
Quyết định hỗn phiên
tồ/ Thơng báo mở lại
phiên tồ (nếu thay đổi
thời gian và địa điểm
trong quyết định hoãn)
Ghi nhận trong biên
bản phiên tồ/ Khơng
quy định về hình thức
văn bản thể hiện việc
tiếp tục giải quyết
Căn cứ áp
dụng
Khoản 1 Điều 141
Khoản 1 Điều 162 Luật
Luật TTHC năm 2015 TTHC năm 2015
(sự vắng mặt của người
tiến hành tố tụng,
người tham gia tố
tụng,…)
Khoản 1 Điều 187 Luật
TTHC năm 2015
(tình trạng sức khoẻ,
bất khả kháng, trở ngại
khách quan, những sự
việc phát sinh ngay tại
phiên tồ khơng thể
giải quyết ngay được)
b) Ý nghĩa
Ý nghĩa đối với đương sự
Việc Toà án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính có ý nghĩa
quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Điều này
xuất phát từ hai khía cạnh.
Thứ nhất, Tồ án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính có ý
nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đặc
biệt là quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện là bên yếu thế trong quan hệ