Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng theo luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 83 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

BÙI THỊ DẬU

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

Chun ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số: 60380104

Người hướng dẫn khoa học: TS. Vũ Thị Thúy
Học viên: Bùi Thị Dậu
Lớp: Cao học luật, Khóa1, Kon Tum

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn Thạc sĩ
Luật học “Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “phạm tội lần đầu và thuộc
trường hợp ít nghiêm trọng” theo luật hình sự Việt Nam” là hồn tồn trung thực
và khơng trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực. Các thơng tin, tài liệu
trình bày trong luận văn đã được ghi rõ nguồn gốc. Luận văn này là cơng trình
nghiên cứu của cá nhân tơi dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Vũ Thị Thúy.


Tơi xin hồn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn

Bùi Thị Dậu


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS

: Bộ luật Hình sự

TNHS

: Trách nhiệm hình sự


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài ....................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ..............................................................................2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................6
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................6
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ..................................................................................6
6. Dự kiến các kết quả nghiên cứu và địa chỉ ứng dụng ....................................7
7. Cơ cấu của luận văn ..........................................................................................7
CHƢƠNG 1. TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ “PHẠM
TỘI LẦN ĐẦU” ........................................................................................................8
1.1. Thực tiễn áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “phạm tội lần
đầu” trong Bộ luật Hình sự Việt Nam .................................................................8

1.2. Kiến nghị hƣớng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự về tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “phạm tội lần đầu” ..........................................21
TIỀU KẾT CHƢƠNG 1 .........................................................................................24
CHƢƠNG 2. TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ PHẠM
TỘI “THUỘC TRƢỜNG HỢP ÍT NGHIÊM TRỌNG” ....................................25
1.1. Thực tiễn áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phạm tội
“thuộc trƣờng hợp ít nghiêm trọng” trong Bộ luật hình sự Việt Nam ..........25
2.2. Kiến nghị hƣớng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự về tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phạm tội “thuộc trƣờng hợp ít nghiêm trọng”
...............................................................................................................................37
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 .........................................................................................39
KẾT LUẬN ..............................................................................................................41
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Khi quy định những chế tài trong các điều luật ở Phần các tội phạm của Bộ
luật hình sự (BLHS), nhà làm luật, một mặt, xuất phát từ tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội của tội phạm, mặt khác, tạo điều kiện để Tịa án có khả năng cá thể
hóa hình phạt đối với người phạm tội. Do đó, BLHS quy định Tịa án có quyền lựa
chọn và quyết định một hình phạt tương ứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho
xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo trong từng trường hợp cụ thể.
Do tính đa dạng, phức tạp của tội phạm nên để cá thể hố trách nhiệm hình
sự được triệt để, các nhà làm luật trước hết phải phân chia tội phạm thành các nhóm
tội, các tội khác nhau, trong mỗi tội có khung hình phạt khác nhau (chỉ có một số ít
tội chỉ có khung hình phạt duy nhất). Trong mỗi khung hình phạt của một tội thì
mức độ nguy hiểm cho xã hội biểu hiện cũng khác nhau. Do đó, nhà làm luật phải

quy định các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự chung để áp dụng
cho các trường hợp phạm tội trong một khung hình phạt nhất định. “Các tình tiết
giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự trong một vụ án cụ thể, đối với người
phạm tội cụ thể chỉ làm cho tội phạm thay đổi mức độ nguy hiểm trong phạm vi vụ
án đó và cũng chỉ làm cho tội phạm thay đổi mức độ nguy hiểm trong phạm vi một
cấu thành chứ khơng làm thay đổi tính chất của tội phạm ấy”.1
Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (TNHS) là các tình tiết làm giảm
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội trong phạm vi một khung hình
phạt so với các trường hợp phạm tội tương tự khác nhưng khơng có tình tiết giảm
nhẹ đó. Các tình tiết giảm nhẹ TNHS là một trong những căn cứ để đánh giá tính
chất nguy hiểm của hành vi và khả năng cải tạo giáo dục của bị cáo, là một trong
những căn cứ quan trọng để cơ quan, người tiến hành tố tụng có cái nhìn tồn diện
khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội. Các tình tiết giảm nhẹ TNHS
khơng có ý nghĩa trong việc định tội và định khung hình phạt, mà chỉ có ý nghĩa
trong việc lượng hình. Việc ghi nhận quy định này trong BLHS có ý nghĩa lý luận
và thực tiễn quan trọng. Bởi vì, nó khơng những chỉ thể hiện tính nhân đạo, khoan
hồng của luật hình sự mà còn đáp ứng được các yêu cầu của nguyên tắc cá thể hóa
hình phạt trong áp dụng pháp luật đối với người phạm tội.
1

Đinh Văn Quế (2000), Các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Nxb Chính trị Quốc gia, tr.8.


2
“Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” là một tình tiết giảm
nhẹ TNHS thể hiện rõ chính sách hình sự của Nhà nước là trừng trị kết hợp giáo
dục, vừa đáp ứng yêu cầu cá thể hóa hình phạt vừa thể hiện rõ tính nhân đạo, khoan
hồng đối với người phạm tội. Đây không phải là tình tiết giảm nhẹ TNHS mới được
quy định trong BLHS năm 2015 mà nó được quy định trong BLHS Việt Nam từ
năm 1985. Về cơ bản, tình tiết này vẫn được giữ nguyên qua nhiều lần BLHS có

sửa đổi, bổ sung hoặc thay mới và hiện được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51
BLHS năm 2015.
Tình tiết này rất thường được áp dụng trong các bản án hình sự nhưng khơng
phải tịa án nào cũng áp dụng đúng với bản chất của nó. Có nhiều quan điểm khác
nhau về việc áp dụng tình tiết này, về việc hiểu như thế nào là “phạm tội lần đầu”
và phạm tội “thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”?. Trong thực tiễn áp dụng pháp
luật, do cách hiểu không giống nhau nên đã dẫn đến việc áp dụng không thống nhất,
thiếu nhất quán của các Tòa án địa phương, cùng một trường hợp nhưng có tịa án
áp dụng, có tịa án lại khơng cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS này.
Điều này dẫn đến sự tùy tiện trong áp dụng pháp luật và không đảm bảo sự công
bằng giữa những người phạm tội.
Mặt khác, trong quy định của pháp luật hình sự, Nghị quyết của Hội đồng
thẩm phán Tồ án nhân dân tối cao từ trước đến nay cũng chưa có hướng dẫn áp
dụng nào đối với tình tiết giảm nhẹ TNHS này. Trong quá trình nghiên cứu, bản
thân học viên cũng có tìm tịi, lục khảo nhưng đến nay vẫn chưa tìm thấy luận văn
hay cơng trình khoa học nào nghiên cứu chuyên sâu, chi tiết về tình tiết giảm nhẹ
TNHS “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”. Có một số bài báo
đăng trên các tạp chí chun ngành trao đổi về tình tiết giảm nhẹ TNHS này nhưng
chủ yếu dừng lại ở từng vụ án cụ thể chưa có tính khái qt, tổng hợp để có thể áp
dụng đối với tất cả các trường hợp phạm tội. Để tránh những bất cập trong việc áp
dụng tình tiết này trên thực tế thì việc có một cách hiểu nhất quán và một hướng dẫn
áp dụng thống nhất là rất cần thiết. Với những lý do nêu trên, học viên quyết định
lựa chọn đề tài:“Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: “phạm tội lần đầu và
thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” trong luật hình sự Việt Nam” làm Luận văn
thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định của BLHS có ảnh hưởng rất quan
trọng đến chính sách xử lý hình sự, ảnh hưởng đến cơ quan Tòa án mà cụ thể là



3
quyết định của Hội đồng xét xử khi quyết định hình phạt đồng thời ảnh hưởng đến
cá nhân người phạm tội, nên có nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học ở những mức
độ khác nhau, cụ thể như sau:
Trong thời gian qua đã có một số khóa luận, luận văn, luận án tiến sĩ luật học
ở các cơ sở nghiên cứu và đào tạo luật như Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí
Minh, Trường Đại học luật Hà Nội có nhiều đề tài nghiên cứu về các tình tiết giảm
nhẹ TNHS trong BLHS Việt Nam nói chung, trong đó có đề cập đến tình tiết giảm
nhẹ TNHS “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” chẳng hạn như:
Luận án tiến sĩ của tác giả Trần Thị Quang Vinh (2000), Các tình tiết giảm nhẹ
TNHS trong luật hình sự Việt Nam; Luận văn thạc sĩ của tác giả Trần Thị Túc
(2002), Các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo Điều 46 BLHS Việt Nam; Phạm Thị
Thanh Nga (2004), Tình tiết giảm nhẹ TNHS trong việc định tội danh và quyết định
hình phạt, Luận văn thạc sĩ luật học; Trần Thị Thu Hà (2005), Quyết định hình phạt
nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Khóa
luận tốt nghiệp, Trường Đại học luật Hà Nội...
Bên cạnh đó, có một số sách nghiên cứu về luật hình sự có đề cập đến tình
tiết giảm nhẹ TNHS “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” như:
Trần Thị Quang Vinh, (2005), Các tình tiết giảm nhẹ TNHS trong luật hình sự Việt
Nam, Nhà xuất bản chính trị quốc gia; ng Chung Lưu chủ biên (2003), Bình luận
khoa học BLHS 1999, Bộ Tư pháp, Viện khoa học pháp lý, Nhà xuất bản chính trị
quốc gia, Hà Nội; Đinh Xuân Quế (2004), Bình luận khoa học BLHS (phần chung),
Nhà xuất bản TP. Hồ Chí Minh; Chủ biên Nguyễn Ngọc Hịa, Giáo trình Luật hình
sự Việt Nam tập 1 của Trường Đại học luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân năm
2005; ThS. Đinh Văn Quế (2000), Các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ TNHS, Nxb
Chính trị Quốc gia...
Ngồi ra, cịn có một số bài viết được đăng trên các tạp chí khoa học pháp lý
chủ yếu dừng lại ở mức độ trao đổi, tranh luận về một số vấn đề lý luận cũng như
thực tiễn áp dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS mà chưa có sự phân tích một cách hệ
thống để đưa là khái niệm về tình tiết “phạm tội lần đầu” và phạm tội “thuộc trường

hợp ít nghiêm trọng” như: Nguyễn Như Cường (2004), Về tình tiết giảm nhẹ quy định
điểm h khoản 1 Điều 46 BLHS, Tạp chí Tịa án nhân dân tối cao, số 15; Phạm Hồng
Hải (2006), Bàn về nhận thức và áp dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS, Tạp chí kiểm
sát số 17/2006; Trịnh Tiến Việt (2004), Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS
trong BLHS 1999 và một số kiến nghị, Tạp chí Tịa án nhân dân tối cao số 13, tháng


4
7/2004; Trần Thị Quang Vinh, Các tình tiết giảm nhẹ TNHS trong Luật hình sự Việt
Nam, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Viện hàn lâm KHXH Việt Nam, 2002, số 172,
trang 58-64; Trần Thị Quang Vinh, Ảnh hưởng của các tình tiết giảm nhẹ của BLHS,
Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Viện hàn lâm KHXH Việt Nam, 2001, số 159 trang
15-23;Trần Đình Thắng, Các tình tiết giảm nhẹ TNHS, Nghiên cứu lập pháp-Văn
phòng QH 10, số 14, trang 60-63; Dương Xuân Tuấn, Các tình tiết giảm nhẹ TNHS
của BLHS Việt Nam, Tạp chí Tịa án nhân dân tối cao, 2004, số 14, trang 2728;Nguyễn Hữu Minh, Vận dụng Các tình tiết giảm nhẹ TNHS của BLHS, Tạp chí
Tịa án nhân dân tối cao, 2002, số 01; Dương Tuyết Miên, Các tình tiết giảm nhẹ
TNHS theo BLHS 1999, Tạp chí Tịa án nhân dân tối cao, 2003, số 01...
Trong các cơng trình khoa học nêu trên đều nghiên cứu về quyết định hình
phạt trong luật hình sự nói chung hoặc các tình tiết giảm nhẹ TNHS trong luật hình
sự Việt Nam nói riêng, mà khơng có cơng trình nghiên cứu chuyên sâu về tình tiết
giảm nhẹ TNHS “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”. Trong đó,
nổi bật là các bài viết của Tiến sĩ Trần Thị Quang Vinh và Thạc sĩ Đinh Văn Quế,
so với những tác giả khác hai tác giả này có sự phân tích sâu hơn về tình tiết giảm
nhẹ TNHS “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”.
Theo quan điểm của ơng Đinh Văn Quế thì: “Phạm tội lần đầu là từ trước tới
nay chưa phạm tội lần nào, nếu các lần phạm tội trước đó đã bị xử lý và đã hết thời
hiệu thì lần phạm tội mới này vẫn không được coi là phạm tội lần đầu”2. Đốivới các
trường hợp đã thực hiện hành vi phạm tội, chưa bị kết án nhưng đã hết thời hiệu
truy cứu trách nhiệm hình sự, nay lại bị xét xử về hành vi phạm tội mới hoặc đã
thực hiện hành vi phạm tội hoặc chưa bị kết án và chưa hết thời hiệu truy cứu trách

nhiệm hình sự, nay bị xét xử trong cùng một lần về nhiều hành vi phạm tội liệu có
được coi là phạm tội lần đầu hay khơng thì chưa thấy nói đến.
“Thuộc trường hợp ít nghiêm trọng: trước hết, bao gồm các tội ít nghiêm
trọng theo quy định ở khoản 3 Điều 8 BLHS (1999). Tức là tội phạm gây nguy hại
không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến 3
năm tù… Ngoài những tội ít nghiêm trọng, người phạm tội lần đầu đối với các tội
nghiêm trọng, nhưng do các tình tiết đặc biệt của vụ án làm cho trường hợp phạm
tội cụ thể đó thành ít nghiêm trọng thì cũng thuộc tình tiết giảm nhẹ này. Tuy nhiên
chỉ coi là trường hợp ít nghiêm trọng, nếu khung hình phạt đối với tội ấy có mức
2

Đinh Văn Quế (2000), Các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Nxb Chính trị Quốc gia, tr.75.


5
thấp nhất từ 3 năm trở xuống và khi quyết định hình phạt, Tịa án cũng chỉ xử phạt
bị cáo không quá 3 năm tù”3.
Tiến sĩ Trần Thị Quang Vinh cho rằng: “Phạm tội lần đầu là trường hợp lần
đầu tiên thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà theo quy định của pháp luật
hình sự là tội phạm”4. Tuy nhiên, tiến sĩ lại cho rằng “được coi là phạm tội lần đầu
ngay cả trong trường hợp người phạm tội trước đó đã bị kết án về một tội phạm,
nhưng tội phạm đó đã được xóa án”5.
Đối với tình tiết phạm tội “thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”, tiến sĩ đã đưa
ra các tiêu chí để phân biệt “trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng” với “tội phạm ít
nghiêm trọng”, nhưng chưa chỉ ra như thế nào là phạm tội “thuộc trường hợp ít
nghiêm trọng”.
Khi nghiên cứu đề tài này, ngoài những vấn đề đã được nghiên cứu ở trên, đối
với tình tiết “phạm tội lần đầu”, tác giả sẽ nghiên cứu thêm về các trường hợp trước
đó đã phạm tội và bị kết án nhưng đã được xoá án, nay lại bị xét xử về hành vi phạm
tội mới; đã thực hiện hành vi phạm tội, chưa bị kết án nhưng đã hết thời hiệu truy cứu

trách nhiệm hình sự, nay lại bị xét xử về hành vi phạm tội mới; đã thực hiện hành vi
phạm tội, chưa bị kết án và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, nay bị
xét xử trong cùng một lần về nhiều hành vi phạm tội có được xem là phạm tội lần đầu
hay khơng?. Đối với tình tiết phạm tội “thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”, tác giả sẽ
nghiên cứu trường hợp phạm tội ở mức độ ít nghiêm trọng (có thể là tội phạm rất
nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng nhưng hành vi phạm tội có mức độ nguy
hiểm thấp hơn đáng kể so với các trường hợp phạm tội khác được quy định trong
cùng một khung hình phạt; hoặc người phạm tội có vị trí, vai trị khơng đáng kể trong
vụ án đồng phạm) thì có được xem là thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hay khơng ?.
Trên cơ sở đó, đưa ra khái niệm “phạm tội lần đầu” và phạm tội “thuộc trường hợp ít
nghiêm trọng”, đề xuất một số kiến nghị giải thích tình tiết này trong các văn bản
hướng dẫn áp dụng BLHS để có cách hiểu và áp dụng thống nhất.
Như vậy, Tuy có nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học, nhưng chưa có cơng
trình nào phân tích một cách độc lập quy định của tình tiết giảm nhẹ TNHS “Phạm
3

Đinh Văn Quế (2000), Các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Nxb Chính trị Quốc gia,
tr. 75, 76.
4
Trần Quang Vinh( 2005), Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam, nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, tr. 119.
5
Trần Quang Vinh( 2005), Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam, nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, tr. 119.


6
tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”. Trong khi cả lý luận và thực tiễn
tồn tại nhiều ý kiến khác nhau. Đây cũng chính là một lý do để học viên muốn đóng
góp quan điểm của riêng mình khi bàn về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

này. Đề xuất một số kiến nghị giải thích tình tiết này trong các văn bản hướng dẫn
áp dụng BLHS để có cách hiểu và áp dụng thống nhất.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là tìm hiểu và phân tích những vướng mắc trong thực
tiễn áp dụng tình tiết giảm nhẹ TNHS “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít
nghiêm trọng”, từ đó đề xuất một số kiến nghị giải thích tình tiết này trong các văn
bản hướng dẫn áp dụng BLHS để có cách hiểu và áp dụng thống nhất.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Nghiên cứu lý luận và phân tích quy định của BLHS năm 2015 về tình tiết
giảm nhẹ TNHS “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”.
- Kiến nghị giải thích tình tiết giảm nhẹ TNHS “phạm tội lần đầu và thuộc
trường hợp ít nghiêm trọng” trong các văn bản hướng dẫn áp dụng BLHS và những
giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định này của BLHS.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu quy định tình tiết giảm nhẹ TNHS “phạm tội lần đầu và
thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” trong luật hình sự Việt Nam, kết hợp với việc
khảo sát và đánh giá tình hình áp dụng quy định trong thực tiễn xét xử của một số
Tòa án nhân dân các cấp và các nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế để kiến
nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng quy định này.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy định tình tiết giảm nhẹ TNHS
“phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” trong luật hình sự Việt
Nam của một số tòa án nhân dân các cấp ở Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp phân tích luật, nhằm phân tích và giải thích các quy định của
pháp luật về tình tiết giảm nhẹ TNHS “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít



7
nghiêm trọng” trong luật hình sự Việt Nam. Đồng thời, tác giả cũng phân tích, đánh
giá các quan điểm khoa học khác nhau về tình tiết này.
-Phương pháp điều tra xã hội học (phát Phiếu khảo sát): tiến hành khảo sát
để tìm hiểu thực tiễn áp dụng và quan điểm của các thẩm phán, kiểm sát viên, luật
sư về tình tiết giảm nhẹ TNHS này.
-Phương pháp nghiên cứu án điển hình: nghiên cứu các bản án hình sự đã có
hiệu lực pháp luật có áp dụng tình tiết giảm nhẹ TNHS “phạm tội lần đầu và thuộc
trường hợp ít nghiêm trọng”. Từ đó phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng tình tiết
giảm nhẹ TNHS này.
6. Dự kiến các kết quả nghiên cứu và địa chỉ ứng dụng
Luận văn dự kiến xây dựng được khái niệm về tình tiết giảm nhẹ TNHS “phạm
tội lần đầu và phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” để các cơ quan có thẩm
quyền ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng tình tiết giảm nhẹ này được thống nhất.
Bên cạnh đó, luận văn mong muốn sẽ là một tài liệu nghiên cứu, tham khảo
đóng góp trong cơng tác nghiên cứu khoa học pháp lý hình sự nói chung, góp phần
thiết thực đối với các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng và
tham gia tố tụng như Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, luật sư… trong quá trình
xét xử các vụ án hình sự, đảm bảo việc tuyên bản án hình sự đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật và đạt hiệu quả của mục đích hình phạt đối với người phạm tội.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, Nội
dung của luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “phạm tội lần đầu”.
1.1. Thực tiễn áp dụng tình tiết giảm nhẹ TNHS “phạm tội lần đầu” trong
BLHS Việt Nam .
1.2. Kiến nghị hướng dẫn áp dụng quy định của BLHS về tình tiết giảm nhẹ
TNHS “phạm tội lần đầu”.

Chương 2. Tình tiết giảm nhẹ TNHS phạm tội “thuộc trường hợp ít nghiêm
trọng”.
2.1. Thực tiễn áp dụng tình tiết giảm nhẹ TNHS phạm tội “thuộc trường hợp
ít nghiêm trọng” trong BLHS Việt Nam.
2.2. Kiến nghị hướng dẫn áp dụng quy định của BLHS về tình tiết giảm nhẹ
TNHS phạm tội “thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”.


8
CHƢƠNG 1
TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
“PHẠM TỘI LẦN ĐẦU”
1.1. Thực tiễn áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “phạm tội
lần đầu” trong Bộ luật Hình sự Việt Nam
Phạm tội lần đầu là một vế của tình tiết giảm nhẹ TNHS “Phạm tội lần đầu
và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” được quy định trong BLHS. Trong thực tiễn
xét xử, các Tồ án có áp dụng tình tiết giảm nhẹ TNHS này đối với bị cáo khi quyết
định hình phạt. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có giải thích hoặc hướng dẫn chính
thức nào về tình tiết giảm nhẹ TNHS này.
Về lý luận cũng như thực tiễn xét xử, việc xác định khái niệm “phạm tội lần
đầu” có nhiều ý kiến khác nhau:6
Ý kiến thứ nhất cho rằng, phạm tội lần đầu là lần đầu bị đưa ra xét xử. Vì
chỉ có Tồ án mới có thẩm quyền quyết định hình phạt, nên khi một người bị Tồ án
đưa ra xét xử thì mới có việc quyết định hình phạt và chỉ khi quyết định hình phạt
thì Tồ án mới căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ TNHS (Điều 50 BLHS năm 2015).
Nếu người phạm tội đã có nhiều lần vi phạm pháp luật nhưng chưa lần nào bị Tồ
án kết án thì vẫn được coi là phạm tội lần đầu. Ví dụ: Năm 2010, Nguyễn Văn A đã
hai lần bị Công an phường xử phạt vi phạm hành chính với hình thức cảnh cáo về
hành vi trộm cắp; năm 2011, A lại trộm cắp tài sản trị giá 2.000.000 đồng và bị truy
tố theo khoản 1 Điều 138 BLHS năm 1999; khi quyết định hình phạt đối với

Nguyễn Văn A, Tồ án nhân dân huyện xác định Nguyễn Văn A “phạm tội lần đầu
và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”.
Đồng ý với quan điểm này, nhiều Tòa án đã cho bị cáo được hưởng tình tiết
giảm nhẹ TNHS “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” khi lần
đầu tiên bị cáo bị kết án.
Trong năm vụ án được tác giả khảo sát7 các bị cáo đều đã có một đến hai tiền
sự và tội phạm đang bị xét xử là lần đầu tiên các bị cáo bị Tòa án xét xử, nên Hội
đồng xét xử vẫn cho rằng các bị cáo phạm tội lần đầu và cho các bị cáo được hưởng
6

Tại mục 11, phần I của Dự thảo lần 2 giải đáp các vấn đề nghiệp vụ của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn:
“Phạm tội lần đầu là từ trước đến nay chưa phạm tội lần nào. Nếu trước đó đã phạm tội và bị kết án, nhưng
đã được xóa án tích hoặc chưa bị kết án, nhưng đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa bị
kết án, chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự nay bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong cùng lần
phạm tội sau, thì khơng được coi là phạm tội lần đầu”.
7
Xem Phụ lục II.1 đến II.5.


9
tình tiết giảm nhẹ TNHS “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”
quy định tại điểm h khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999.
Tác giả tán thành quyết định của Hội đồng xét xử trong 5 vụ án trên về việc
áp dụng tình tiết giảm nhẹ TNHS “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm
trọng” cho các bị cáo. Bởi lẽ, các hành vi vi phạm pháp luật và bị xử phạt vi phạm
hành chính đã nêu trong các vụ án không phải là tội phạm. Điểm i khoản 1 Điều 51
BLHS năm 2015 sử dụng thuật ngữ “phạm tội” chứ không sử dụng thuật ngữ “hành
vi vi phạm pháp luật”. Các bị cáo mặc dù đã bị xử phạt hành chính nhưng những
hành vi đó khơng phải là tội phạm. Do vậy, khi họ phạm tội lần đầu tiên và bị kết án
thì vẫn thuộc trường hợp phạm tội lần đầu. Các hành vi bị xử phạt vi phạm hành

chính được căn cứ để xem xét nhân thân của bị cáo khi quyết định hình phạt như
tăng mức hình phạt, khơng cho bị cáo được hưởng án treo...
Tuy nhiên, tác giả khơng đồng tình với quan điểm “phạm tội lần đầu là lần
đầu bị đưa ra xét xử”. Việc bị cáo lần đầu tiên bị tịa án đưa ra xét xử khơng đồng
nhất với việc họ lần đầu tiên trong đời phạm tội. Vì lần đầu tiên đưa ra xét xử nhưng
có thể bị cáo phạm tội hai lần trở lên, hoặc cho hai tội khác nhau trở lên.
Ý kiến thứ hai cho rằng, người đã bị đưa ra xét xử nhiều lần, nhưng trước
khi bị đưa ra xét xử lần này, nếu hành vi phạm tội trước đó đã được xố án tích vẫn
được coi là phạm tội lần đầu. Ví dụ: Năm 2002, Nguyễn Văn M bị Toà án nhân dân
huyện Q kết án 6 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội đánh bạc theo khoản 1
Điều 248 BLHS năm 1999, đã được xố án tích. Ngày 25/12/2008, Nguyễn Văn M
lại bị bắt về tội “Đánh bạc” và bị truy tố theo khoản 1 Điều 248 BLHS năm 1999.
Khi xét xử và quyết định hình phạt đối với Nguyễn Văn M, Toà án nhân dân huyện
Q xác định Nguyễn Văn M “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”.
Những người theo quan điểm này cho rằng, mặc dù trước đó bị cáo đã từng
bị xét xử nhiều lần nhưng những lần phạm tội này đều đã được xóa án tích, nên họ
coi như chưa từng phạm tội.
Khi tiến hành khảo sát, tác giả nhận thấy đa số luật sư (37/45), kiểm sát viên
(32/63) và một số thẩm phán (20/139) được hỏi đồng ý với quan điểm này8. Tuy
nhiên, tác giả không đồng ý với lập luận nêu trên. Bởi lẽ, nếu bị cáo đã bị xét xử
nhiều lần thì cho dù những lần phạm tội trước đó đã được xóa án tích thì trên thực
tế bị cáo cũng đã từng phạm tội.
8

Xem Phụ lục I.2


10
Tại Bản án số 31/2016/HSST, ngày 21/9/2016 của Tòa án nhân dân huyện
Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam, xét xử bị cáo Nguyễn Minh Sơn về tội “trộm cắp tài

sản” theo khoản 1 Điều 138 BLHS năm 1999. Nhân thân của bị cáo đã từng bị xét
xử về tội “Trộm cắp tài sản”, đã được xóa án tích (Phụ lục II.6).
Trong Bản án này, Luật sư bào chữa cho bị cáo cho rằng: Bị cáo phạm tội lần
đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng và đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo
được hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại điểm h khoản 1 Điều 46 BLHS
năm 1999.
Tuy nhiên, yêu cầu của Luật sư không được Viện kiểm sát và Hội đồng xét
xử chấp nhận với lý do mặc dù bị cáo đã được xóa án tích nhưng bị cáo đã từng
phạm tội và đã bị xét xử nên không phải là phạm tội lần đầu.
Tác giả đồng ý với lập luận của Viện kiểm sát và Hội đồng xét xử trong vụ
án này. Bởi lẽ, việc bị cáo đã được xóa án tích thì khi phạm tội mới sẽ không bị coi
là tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm. BLHS quy định “người được xóa án tích coi
như chưa bị kết án”, có nghĩa là họ được xóa bỏ tiền án. Quy định này nhằm khuyến
khích họ tuân thủ pháp luật để trở thành người có ích cho xã hội, thể hiện sự nhân
đạo của Nhà nước đối với người bị kết án, nhưng điều này khơng có nghĩa rằng họ
chưa từng bị kết án. Chưa bị kết án và chưa phạm tội là hai khái niệm khác nhau về
bản chất. Trên thực tế hành vi phạm tội của họ đã xảy ra, nhân thân của họ sẽ không
giống với một người lần đầu tiên thực hiện hành vi phạm tội.
Ý kiến thứ ba cho rằng, phạm tội lần đầu là trường hợp một người thực hiện
một hoặc một số hành vi phạm tội nhưng chưa bị xử lý hoặc bị xét xử lần nào hoặc
đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, lần đưa ra xét xử này là lần đầu tiên.
Ví dụ: Ngày 24/1/2009, Lưu Thị T bị bắt quả tang đang vận chuyển 30 kg pháo nổ;
trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra phát hiện ngày 20/12/2008, Lưu Thị L đã
mua bán 40 kg pháo nổ. Với hành vi phạm tội như trên, Viện kiểm sát nhân dân Quận
H truy tố Lưu Thị L về tội “vận chuyển, buôn bán hàng cấm” theo khoản 1 Điều 155
BLHS năm 1999. Khi xét xử và quyết định hình phạt Tồ án nhân dân Quận H đã xác
định Lưu Thị L “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”.
Những người theo quan điểm này cho rằng, chỉ Tòa án mới có thẩm quyền
tuyên bố một người có tội hay khơng, một người khi bị Tồ án đưa ra xét xử thì mới
có việc quyết định hình phạt và chỉ khi quyết định hình phạt thì Tồ án mới căn cứ

vào các tình tiết giảm nhẹ TNHS. Các hành vi phạm tội trước đó họ chưa bị Tịa án
xét xử nên khi đưa ra xét xử lần đầu tiên cùng với lần phạm tội sau thì vẫn là phạm


11
tội lần đầu. Nếu tất cả các hành vi phạm tội đó thuộc trường hợp ít nghiêm trọng thì
bị cáo vẫn được hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS “phạm tội lần đầu và thuộc trường
hợp ít nghiêm trọng”. Tương tự như vậy, bị cáo đã từng phạm tội nhưng những lần
phạm tội này chưa bị xét xử và tới thời điểm họ phạm tội mới thì những lần phạm
tội trước đó đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự nên khơng cịn là tội
phạm nữa. Vì vậy, khi họ phạm tội mới, thì đó là phạm tội lần đầu.
Theo tác giả, quan điểm này là không hợp lý bởi vì điểm i khoản 1 Điều 51
BLHS năm 2015 sử dụng thuật ngữ “phạm tội lần đầu” chứ không quy định “bị xét
xử lần đầu”. Các hành vi phạm tội của bị cáo trước đó mặc dù chưa bị xét xử nhưng
thực tế đã xâm phạm các quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ, nên nó là tội
phạm. Các hành vi phạm tội đó khi bị đưa ra xét xử lần đầu tiên cùng với hành vi
phạm tội sau, thì bị cáo đã phạm tội thuộc trường hợp “phạm tội 02 lần trở lên” là
tình tiết tăng nặng TNHS được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015
hoặc thuộc trường hợp “phạm tội nhiều lần” được quy định tại Điều 55 BLHS năm
2015. Khơng thể vừa áp dụng tình tiết giảm nhẹ TNHS “phạm tội lần đầu và thuộc
trường hợp ít nghiêm trọng”, vừa áp dụng tình tiết tăng nặng TNHS quy định tại điểm
g khoản 1 Điều 52 BLHS hoặc Điều 55 BLHS được, rõ ràng điều này là không hợp
lý. Theo tác giả, bị cáo đã từng phạm tội nhưng những lần phạm tội này chưa bị xét
xử và tới thời điểm họ phạm tội mới thì những lần phạm tội trước đó đã hết thời hiệu
truy cứu TNHS, thì lần phạm tội mới này khơng cịn là phạm tội lần đầu. Thời hiệu
truy cứu TNHS là thời hạn do BLHS quy định mà khi hết thời hạn đó người phạm tội
không bị truy cứu TNHS. Trong trường hợp này, bị cáo đã phạm tội, nhưng không bị
xử lý về hành vi phạm tội đã gây ra do hết thời hiệu truy cứu TNHS.
Qua Bản án số 31/2016/HSST ngày 29/8/2016 của Tòa án nhân dân huyện
Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam xét xử bị cáo Huỳnh Văn Quang về tội “Trộm cắp tài sản”

theo khoản 1 Điều 138 BLHS năm 1999(Phụ lục II.7) và Bản án số 29/2010/HSST
ngày 21/5/2010 của Tòa án nhân dân huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai xét xử bị cáo Đinh
Ly và Trần Minh Dũng về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 BLHS năm
1999 (Phụ lục II.9) cho thấy:
Bị cáo Quang đã 2 lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, các bị cáo Ly và
Dũng đã 3 lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, trong mỗi lần tài sản trộm cắp đều
đủ định lượng để cấu thành một tội phạm độc lập. Hành vi của các bị cáo thuộc
trường hợp “Phạm tội nhiều lần” là tình tiết tăng nặng TNHS được quy định tại
điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS năm 1999. Các Bị cáo được đưa ra xét xử lần đầu


12
tiên cho tất cả hành vi trộm cắp tài sản chứ không phải các bị cáo mới phạm tội lần
đầu. Do vậy, Hội đồng xét xử không những áp dụng thiếu tình tiết tăng nặng TNHS
mà việc cho các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS “phạm tội lần đầu và
thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” cũng khơng hợp lý.
Theo Bản án số 11/2007/HSST của Tòa án nhân dân huyện Krông Păk, tỉnh
Đắk Lắk xét xử bị cáo Lê Quang Thuấn về tội “Trộm cắp tài sản“ theo khoản 1
Điều 138 BLHS năm 1999 và tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo
điểm a khoản 1 Điều 140 BLHS năm 1999(Phụ lục II.8), bị cáo Thuấn đã phạm hai
tội ở hai thời điểm khác nhau, hành vi của bị cáo là phạm nhiều tội. Do vậy, mặc dù
cả hai tội bị cáo phạm đều “thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” nhưng bị cáo khơng
phải là “phạm tội lần đầu”. Việc Hội đồng xét xử áp dụng điểm h khoản 1 Điều 46
BLHS năm 1999 cho bị cáo là không phù hợp.
Ý kiến thứ tư cho rằng, phạm tội lần đầu là trường hợp trước đây bị cáo
chưa phạm tội lần nào và hành vi phạm tội bị xét xử trong vụ án này là lần phạm
tội đầu tiên của bị cáo. Nếu bị cáo đã bị kết án nhưng chưa được xố án tích hoặc
đã được xố án tích, hoặc đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì lần
phạm tội mới này vẫn không được coi là phạm tội lần đầu. Nếu người phạm tội tuy
trước đó chưa phạm tội lần nào nhưng lần bị đưa ra xét xử lần này lại bị truy cứu

trách nhiệm hình sự về nhiều tội khác nhau thì cũng khơng được coi là “phạm tội
lần đầu”. Ví dụ: Đặng Văn Q bị truy tố về tội “cố ý gây thương tích” theo khoản 1
Điều 104 và tội “dâm ô đối với trẻ em” theo khoản 1 Điều 116 BLHS năm 1999.
Trước khi bị truy tố về hai tội này, Đặng Văn Q chưa phạm tội lần nào.
Theo quan điểm này thì các ví dụ nêu ở 3 quan điểm đầu đều không được coi
là “phạm tội lần đầu”, chỉ coi là “phạm tội lần đầu” khi bị xét xử người phạm tội
chưa một lần nào có hành vi phạm tội và lần phạm tội này cũng chỉ bị truy trách
nhiệm hình sự về một tội và tội đó thuộc trường hợp ít nghiêm trọng.
Kết quả khảo sát cho thấy quan điểm thứ tư nhận được nhiều ý kiến tán
thành nhất. Tác giả cho rằng, quan điểm này có nhiều nội dung hợp lý và hồn tồn
đồng ý rằng: phạm tội lần đầu là từ trước tới nay chưa phạm tội lần nào. Nếu bị cáo
đã bị kết án và chưa được xoá án hoặc đã được xoá án, hoặc đã hết thời hiệu truy
cứu TNHS thì lần phạm tội mới này không được coi là phạm tội lần đầu. Nếu người
phạm tội tuy trước đó chưa phạm tội lần nào nhưng lần bị đưa ra xét xử này lại bị
truy cứu TNHS về nhiều tội khác nhau thì cũng khơng được coi là phạm tội lần đầu.


13
Có quan điểm cho rằng “nếu trước lần phạm tội này, bị cáo đã bị xử lý hành
chính”, thì lần phạm tội mới này vẫn không được coi là phạm tội lần đầu. Tác giả
cho rằng hành vi bị xử lý hành chính khơng phải là tội phạm, khơng được điều
chỉnh bởi quy phạm pháp luật hình sự nên trước lần phạm tội này bị cáo được coi là
chưa phạm tội. Do vậy, lần phạm tội được đưa ra xét xử này là lần phạm tội đầu
tiên, nếu tội phạm đó thuộc trường hợp ít nghiêm trọng thì bị cáo phải được hưởng
tình tiết giảm nhẹ TNHS “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”
quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015.
Bên cạnh đó, tác giả cho rằng nội dung ý kiến thứ tư vẫn chưa đầy đủ. Cụ
thể, đối với trường hợp người phạm tội tuy trước đó chưa phạm tội lần nào nhưng
lần bị đưa ra xét xử lần này lại bị truy cứu TNHS về nhiều hành vi phạm tội khác
nhau thì cũng khơng được coi là phạm tội lần đầu. Thực tế cho thấy, nhiều hành vi

phạm tội có thể cấu thành cùng một tội (mỗi hành vi đều đủ yếu tố cấu thành tội
phạm, hay nói cách khác hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp “phạm tội
02 lần trở lên”), cũng có thể nhiều hành vi đó cấu thành nhiều tội khác nhau. Cả hai
trường hợp này đều khơng phải là phạm tội lần đầu.
Có quan điểm cho rằng trường hợp cùng một lúc bị cáo phạm đồng thời hai
tội trở lên và bị xét xử trong cùng một vụ án thì vẫn xem là “phạm tội lần đầu”. Ví
dụ: Bị cáo làm giấy tờ giả, tài liệu của cơ quan, tổ chức để lừa đảo chiếm đoạt
5.000.000 đồng, hoặc bị cáo sử dụng súng để cướp tài sản và bị đưa ra xét xử trong
cùng một vụ án. Tác giả đồng tình với quan điểm này. Bởi vì: Một hành vi phạm tội
có thể thõa mãn nhiều cấu thành tội phạm. “Căn cứ vào mối quan hệ giữa các cấu
thành tội phạm mà hành vi phạm tội thỏa mãn dấu hiệu, chúng ta có thể chia các
hành vi phạm tội thành hai nhóm như sau: -Nhóm thứ nhất, các cấu thành tội phạm
có mối quan hệ giữa cấu thành chung và cấu thành riêng. -Nhóm thứ hai, các cấu
thành tội phạm khơng có mối quan hệ giữa cấu thành chung và cấu thành riêng”9.
Các ví dụ đã nêu thuộc nhóm thứ hai. Khoản 1 Điều 341 BLHS năm 2015 quy định:
“người nào làm giả con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan tổ chức hoặc sử
dụng con dấu, tài liệu, giấy tờ đó thực hiện hành vi trái pháp luật…”, nên dấu hiệu
cấu thành cơ bản của tội này là phải có việc “thực hiện hành vi trái pháp luật” thì bị
cáo mới phạm tội theo Điều 341. Khi bị cáo có hành vi dùng giấy tờ, tài liệu giả này
để lừa đảo thì bị cáo cùng một lúc phạm hai tội “làm giả tài liệu của cơ quan, tổ
9

Phan Anh Tuấn (2000), “Định tội danh trong trường hợp một hành vi thỏa mãn dấu hiệu của nhiều cấu
thành tội phạm”, Tạp chí Khoa học pháp luật (02).


14
chức” và “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tương tự bị cáo có hành vi dùng súng để
cướp tài sản thì bị cáo đã cùng một lúc phạm hai tội “Cướp tài sản” và “Sử dụng trái
phép vũ khí quân dụng”. Xét về mặt thời gian các tội này được thực hiện đồng thời;

do vậy, đó là lần đầu tiên bị cáo phạm tội. Khi hai tội này cùng bị đưa ra xét xử
trong cùng một vụ án thì phải xem đây là trường hợp bị cáo “phạm tội lần đầu”. Tuy
nhiên, việc có cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS “phạm tội lần đầu và
thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” theo điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015
hay khơng cịn phụ thuộc vào việc đánh giá mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội
có “thuộc trường hợp ít nghiêm trọng ” hay khơng.
Tại bản án số 01/2017/HSST ngày 13/01/20017 của Tòa án nhân dân huyện
Chư Sê, tỉnh Gia Lai xét xử bị cáo Kpă Wi cùng đồng bọn về tội “Trộm cắp tài sản”
theo khoản 1 Điều 138 BLHS năm 1999 (Phụ lục II.12), bị cáo Wi đã 3 lần thực
hiện hành vi trộm cắp tài sản, mỗi lần tài sản trộm cắp đều đủ cấu thành tội phạm,
nên hành vi của bị cáo thuộc trường hợp “phạm tội nhiều lần” là tình tiết tăng nặng
TNHS được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS năm 1999. Vì vậy, mặc dù
tổng giá trị tài sản mà bị cáo trộm cắp được là thuộc trường hợp ít nghiêm trọng
nhưng Hội đồng xét xử vẫn khơng cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS
“phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” tại điểm h khoản 1 Điều 46
BLHS 1999.
Tại Bản án số 67/2010/HSST ngày 16/11/2010 của Tòa án nhân dân huyện
Chư Sê, Tỉnh Gia Lai xét xử các bị cáo Ngô Xuân Quý, Nguyễn Trọng Nghĩa, Lê
Văn Anh về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 BLHS năm 1999, trong
đó năm 2005 bị cáo Quý đã bị xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, đã
được xóa án tích (Phụ lục II.10) và Bản án số 32/2012/HSST ngày 30/5/2012 của
Tòa án nhân dân huyện Chư Sê, Tỉnh Gia Lai xét xử các bị cáo Lê Văn Chung, Lê
Văn Năm (Năm Tu) và Trương Văn Mạnh về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1
Điều 138 BLHS năm 1999, trong đó, bị cáo Năm đã có một tiền án về tội “Trộm
cắp tài sản”, đã được xóa án tích (Phụ lục II.11), luật sư bào chữa cho các bị cáo
Quý và Anh cho rằng: bị cáo Q chưa có tiền án, tiền sự (vì bị cáo đã được xóa án
tích thì xem như chưa bị kết án), phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm
trọng, tại phiên tịa đã thành khẩn khai báo. Sau khi bị phát hiện đã ra đầu thú, bị
cáo đã tác động gia đình bồi thường thiệt hại. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng
khoản 1 Điều 138; điểm b, h, p khoản 1 Điều 46; khoản 1, 2 Điều 60 BLHS năm

1999 xử phạt bị cáo từ 5-12 tháng tù cho hưởng án treo.


15
Tuy nhiên, yêu cầu của luật sư không được Hội đồng xét xử chấp nhận vì:
Xét nhân thân của bị cáo thì thấy rằng năm 2005 bị cáo đã từng có hành vi trộm cắp
tài sản và bị xử phạt tù, nhưng sau khi đã được xố án tích bị cáo khơng nhận ra lỗi
lầm trước đây mà lại có hành vi trộm cắp tài sản. Hành vi của bị cáo không phải là
phạm tội lần đầu nên mặc dù hành vi phạm tội của bị cáo là ít nghiêm trọng bị cáo
vẫn khơng được hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS “phạm tội lần đầu và thuộc trường
hợp ít nghiêm trọng” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999. Đề
nghị của luật sư khơng có căn cứ nên không được chấp nhận.
Tương tự, đối với bị cáo Năm, Hội đồng xét xử cũng không cho bị cáo
được hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít
nghiêm trọng”.
Tác giả hồn tồn đồng ý với nhận định của Hội đồng xét xử trong 2 vụ án
này. Các bị cáo đã từng bị kết án, mặc dù đã được xóa án tích nhưng không thể xem
là bị cáo phạm tội lần đầu. Việc Hội đồng xét xử không cho các bị cáo được hưởng
tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại điểm h khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999 là
hợp lý.
Tại Bản án số 46/2015/HSST ngày 29/8/2015 của Tòa án nhân dân huyện
Krông Nô, tỉnh Đắk Nông xét xử bị cáo Huỳnh Văn Luân và đồng bọn về tội “Trộm
cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 BLHS năm 1999, có bị cáo Trần Văn Vương đã
có 01 tiền án (Phụ lục II.23).
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình
tiết giảm nhẹ TNHS “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” quy
định tại điểm h khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999 cho cả hai bị cáo.
Tuy nhiên, đề nghị của Kiểm sát viên không được Hội đồng xét xử chấp
nhận với lập luận: “Đối với Trần Văn Vương tuy bị cáo không chủ động rủ rê
nhưng khi bị cáo Luân rủ bị cáo đã đồng ý cùng thực hiện hành vi trộm cắp tài sản.

Bị cáo đã bị Tòa án nhân dân huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định xử phạt 15 tháng tù về
tội “trộm cắp tài sản”, đã chấp hành xong hình phạt ngày 28/8/2014 nhưng chưa
được xóa án tích, bị cáo khơng lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện bản thân
mà tiếp tục nhiều lần thực hiện hành vi phạm tội. Đây là tình tiết tăng nặng TNHS
“phạm tội nhiều lần” và “tái phạm” được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48
BLHS năm 1999. Bị cáo Huỳnh Văn Luân là người trực tiếp rủ rê bị cáo Vương và
cùng Vương 02 lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, là tình tiết tăng nặng TNHS
“phạm tội nhiều lần” được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS năm 1999”.


16
Vì vậy, Hội đồng xét xử đã áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm g khoản 1 Điều
48; điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999 xử phạt bị cáo Trần Văn Vương 09
tháng tù và xử phạt bị cáo Huỳnh Văn Luân 06 tháng tù.
Trong vụ án này, tác giả đồng ý với điều khoản mà Hội đồng xét xử đã áp
dụng đối với các bị cáo. Vì, rõ ràng đề nghị của Viện kiểm sát là chưa thỏa đáng.
Chỉ riêng việc các bị cáo 02 lần thực hiện tội phạm, mỗi lần định lượng đều đủ cấu
thành tội phạm thì hành vi của các bị cáo đã không thuộc trường hợp phạm tội lần
đầu, hơn nữa bị cáo Vương đã có một tiền án chưa được xóa án tích thì khơng thể
áp dụng tình tiết phạm tội lần đầu. Mặc dù tội phạm mà các bị cáo gây ra thuộc
trường hợp ít nghiêm trọng thì các bị cáo cũng khơng thể được hưởng tình tiết giảm
nhẹ TNHS sự theo điểm h khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999 được.
Tại Bản án số 53/2012/HSST ngày 16/8/2012 của Tòa án nhân dân huyện
Chư Sê, tỉnh Gia Lai xét xử các bị cáo Nguyễn Thị Đào và đồng bọn về tội “Đánh
bạc” theo khoản 1 Điều 248 BLHS năm 1999, có bị cáo Nguyễn Thị Nga đã có một
tiền sự về hành vi “đánh bạc” (Phục lục II.13).
Trong phần Xét thấy của Bản án, Hội đồng xét xử nhận định:
“Đối với Nguyễn Thị Nga là người tham gia đánh bầu cua được thua bằng
tiền, bị cáo đã sử dụng 2.00.000 đồng để đánh bạc. Mặc dù số tiền không lớn nhưng
xét nhân thân của bị cáo đã có một tiền sự: Ngày 23/02/2012 bị công an xã Ia H’lốp,

Chư Sê, Gia Lai xử phạt hành chính 1.500.000 đồng về hành vi đánh bầu cua được
thua bằng tiền. Bị cáo không lấy đó làm bài học để từ bỏ thói ham mê cờ bạc mà chỉ
trong thời gian ngắn ngày 05/4/2012 bị cáo lại tiếp tục có hành vi đánh bạc. Điều
này thể hiện thái độ coi thường pháp luật của bị cáo. Do đó, phải cách ly bị cáo ra
khỏi đời sống xã hội một thời gian mới thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật”.
Hội đồng xét xử đã áp dụng khoản 1 Điều 248; điểm p khoản 1, 2 Điều 46
BLHS năm 1999 xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Nga 08 tháng tù.
Trong vụ án này, quyết định của Hội đồng xét xử không hợp lý, gây bất lợi
cho bị cáo. Bị cáo Nga bị Ủy ban nhân dân xã xử phạt hành chính về hành vi đánh
bạc đầu tiên vì hành vi này chưa đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” theo Điều 248
BLHS năm 1999, có nghĩa là bị cáo chưa phạm tội mà chỉ có hành vi phạm pháp (vi
phạm hành chính). Do vậy, lần phạm tội “Đánh bạc” bị Tòa án xét xử là lần đầu
tiên, bị cáo bị xét xử theo khoản 1 Điều 248 BLHS năm 1999 là tội phạm ít nghiêm
trọng. Nên đáng lẽ bị cáo phải được hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS “phạm tội lần
đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 46


17
BLHS năm 1999. Đối với tiền sự của bị cáo chỉ nên xem xét để đánh giá nhân thân
của bị cáo.
Tiến hành khảo sát ngẫu nhiên tại 200 bản án hình sơ thẩm của Tịa án nhân
dân cấp huyện ở các tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Đắk Lắk, Đắk Nông, Quảng Nam,
Thanh Hóa10 thì cả bốn trường hợp đã nêu trên đều có Hội đồng xét xử nhận định bị
cáo phạm tội lần đầu nên cho hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS “phạm tội lần đầu và
thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Trong đó có thể thấy, nếu bị cáo lần đầu tiên
phạm tội và tội đó thuộc trường hợp ít nghiêm trọng thì các bản án đều áp dụng tình
tiết giảm nhẹ TNHS “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”.
Nhưng nếu bị cáo đã có tiền sự, tiền án (đã được xố án tích), bị cáo phạm tội hai
lần trở lên hoặc hai tội trở lên thì có tồ án áp dụng, có tồ án lại khơng áp dụng
tình tiết giảm nhẹ TNHS này. Ngay trong một tỉnh, một tòa án, trong cùng một

trường hợp thì mỗi thẩm phán cũng có cách đánh giá và áp dụng khác nhau.
Qua kết quả khảo sát ý kiến của 217 thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư cho
thấy đa số đều đã từng áp dụng hoặc đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ TNHS
“phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”. Tuy nhiên, hiểu như thế
nào là phạm tội lần đầu, thì nhận được nhiều ý kiến khác nhau:
Phạm tội lần đầu là:

Ý kiến đồng ý

Là trường hợp lần đầu tiên trong đời phạm tội.

217

Là trường hợp trước đó đã phạm tội và bị kết án nhưng đã
được xoá án, nay lại bị xét xử về hành vi phạm tội mới.

89

Là trường hợp đã thực hiện hành vi phạm tội, chưa bị kết
án nhưng đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự,
nay lại bị xét xử về hành vi phạm tội mới;

108

Là trường hợp đã thực hiện hành vi phạm tội, chưa bị kết
án và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, nay
bị xét xử trong cùng một lần về nhiều hành vi phạm tội.

63


Ý kiến khác

0

Như vậy, đối với quan điểm phạm tội lần đầu là trường hợp lần đầu tiên
trong đời phạm tội, những người được khảo sát đều thống nhất cao. Tuy nhiên,
10

Xem phụ lục III.1


18
ngồi trường hợp này thì cũng có nhiều ý kiến cho rằng nên bổ sung các trường hợp
còn lại cũng là phạm tội lần đầu.
Tác giả tán thành quan điểm này, bởi nó xác định sự tồn tại khách quan của
một hành vi nguy hiểm cho xã hội không phụ thuộc vào việc con người có nhận
thức được hay chưa. Các trường hợp cịn lại khơng thể xem là phạm tội lần đầu. Bởi
vì tình tiết giảm nhẹ TNHS “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”
là “tình tiết phản ánh đặc điểm nhân thân ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm của
hành vi và người phạm tội”11, một người lần đầu tiên trong đời phạm tội rõ ràng
khác hẳn với một người đã từng có tiền án, đã phạm tội nhiều lần, hoặc phạm nhiều
tội về mức độ nguy hiểm. Việc bị cáo lần đầu tiên bị tịa án đưa ra xét xử khơng
đồng nhất với việc họ lần đầu tiên trong đời phạm tội. Vì có thể họ đã từng trên một
lần phạm tội và những lần này chưa bị đưa ra xét xử. Không thể lấy việc bị cáo lần
đầu tiên đưa ra xét xử để làm căn cứ cho rằng bị cáo mới phạm tội lần đầu. Nếu vẫn
cho các trường hợp còn lại là phạm tội lần đầu sẽ thiếu sự công bằng và khó để cá
thể hóa hình phạt, đồng thời làm giảm ý nghĩa khoan hồng trong chính sách hình sự
của tình tiết giảm nhẹ TNHS này.
Điểm cần lưu ý là muốn áp dụng tình tiết giảm nhẹ TNHS “phạm tội lần đầu
và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS

năm 2015 thì chỉ “phạm tội lần đầu” là chưa đủ mà hành vi phạm tội của bị cáo phải
“thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”. Khi không hội tụ hai điều kiện “phạm tội lần
đầu” và “thuộc trương hợp nghiêm trọng” như luật định, việc phạm tội lần đầu chỉ
là biểu hiện thuộc nhân thân người phạm tội và nếu có giá trị giảm nhẹ thì nó được
xác định theo căn cứ nhân thân chứ không phải căn cứ về hành vi phạm tội.
Tuy vậy, thực tiễn xét xử cho thấy không phải lúc nào các Toà án cũng áp
dụng đủ hai vế này. Có Tồ án chỉ xác định “bị cáo phạm tội lần đầu” mà không xác
định xem bị cáo phạm tội có thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hay không nhưng
vẫn áp dụng điểm h khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự 1999; có Tồ án cũng biết là
bị cáo phạm tội không phải là lần đầu mà chỉ thuộc trường hợp lần đầu bị đưa ra xét
xử nhưng cũng áp dụng điểm h khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999. Ngược lại có
Tồ án cho rằng bị cáo có nhiều hành vi phạm tội cùng một tội, nhưng nếu tách
riêng từng hành vi ra thì chưa cấu thành tội phạm và tội phạm đó là tội phạm ít
nghiêm trọng nhưng Toà án lại cho rằng bị cáo phạm tội nhiều lần chứ khơng phải
11

Nguyễn Ngọc Hịa (2005), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam tập 1, Trường Đại học luật Hà Nội, tr. 266, 267,
Nxb Công an nhân dân.


19
là phạm tội lần đầu. Ví dụ: Ngày 03/4/2008, Phạm Quốc T trộm cắp tài sản trị giá
800.000 đồng, ngày 13/4/2008 T lại trộm cắp tài sản trị giá 1.200.000 đồng và ngày
31/5/2008 T lại trộm cắp tài sản có giá trị 300.000 đồng thì bị bắt và bị truy tố về tội
trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 138 BLHS năm 1999. Trong trường hợp này,
nếu tách từng hành vi của Phạm Quốc T thì chưa có lần nào cấu thành tội trộm cắp,
nhưng nếu tính cả 3 lần trộm cắp thì hành vi của Phạm Quốc T mới cấu thành tội
trộm cắp tài sản và thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 138 BLHS năm
1999 có mức cao nhất của khung hình phạt là ba năm tù và là tội phạm ít nghiêm
trọng, nên hành vi của Phạm Quốc T được coi là phạm tội lần đầu và thuộc trường

hợp ít nghiêm trọng. Có trường hợp chỉ nhận định bị cáo phạm tội lần đầu nhưng
vẫn cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS này. Có trường hợp vừa nhận
định bị cáo phạm tội nhiều lần và áp dụng tình tiết tăng nặng TNHS tại điểm g
khoản 1 Điều 48 BLHS năm 1999 vừa cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ
TNHS “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”. Có trường hợp mặc
dù bị cáo có đủ cả hai vế nhưng hội đồng xét xử lại không áp dụng tình tiết giảm
nhẹ TNHS này.
Tại Bản án số 72 ngày 13/12/2010 của Tịa án nhân dân huyện Krơng Păk,
Đắk Lắk xét xử bị cáo Nguyễn Văn Cương về tội “Cố ý gây thương tích” theo
khoản 2 Điều 104 BLHS năm 1999. (Phụ lục II.14), Hội đồng xét xử nhận định: Xét
nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu. Trong quá trình điều tra
và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bồi thường một phần
thiệt hại đã gây ra. Nguyên nhân dẫn bị cáo đến con đường phạm tội có một phần
lỗi của người bị hại. Đây là các tình tiết giảm nhẹ TNHS được quy định tại điểm b,
h, p khoản 1, 2 Điều 46 BLHS năm 1999. Do đó, cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo
phầm phần mức hình phạt, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.
Theo tác giả, trong vụ án này thì hành vi gây thương tích của bị cáo Cương là
nghiêm trọng, bị cáo chém liên tiếp nhiều nhát vào các vị trí khác nhau trên người
bị hại, khi người bị hại bỏ chạy bị cáo vẫn đuổi theo và tiếp tục chém thể hiện sự
quyết liệt trong hành vi và ý chí của bị cáo. Hậu quả đã gây tổn hại sức khỏe cho
người bị hại với tỉ lệ 55% (gần mức cao nhất của khoản 2 Điều 104 Bộ luật Hình sự
năm 1999). Việc bị cáo phạm tội lần đầu trong trường hợp này khơng có ý nghĩa
trong việc làm giảm nhẹ tính nguy hiểm do hành vi của bị cáo gây ra và cũng không
thỏa mãn điều kiện cần và đủ để được áp dụng tình tiết giảm nhẹ TNHS “phạm tội
lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”.


20
Tại Bản án số 44/2010/HSST ngày 17/8/2010 của Tòa án nhân dân huyện
Đức Cơ, Gia Lai xét xử bị cáo Lê Văn Quế về tội “Cố ý gây thương tích” theo

khoản 2 Điều 104 BLHS năm 1999 (Phụ lục II.21), bị cáo phạm tội theo khoản 2
Điều 104 BLHS năm 1999 là tội nghiêm trọng. Tuy nhiên, chúng ta chưa bàn đến
việc hành vi của bị cáo có thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hay khơng, nhưng việc
Hội đồng xét xử chỉ nhận định trong bản án là bị cáo “phạm tội lần đầu” thì chưa đủ
căn cứ để cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS tại điểm h khoản 1 Điều
BLHS năm 1999.
Tại Bản án số 13/2012/HSST ngày 15/2/2012 của Tòa án nhân dân huyện
Chư Sê, tỉnh Gia Lai xét xử bị cáo Đinh Văn Trung cùng đồng bọn về tội “Cố ý gây
thương tích” theo điểm a, i khoản 1 Điều 104 BLHS năm 1999.(Phụ lục II.18), các
bị cáo bị truy tố và xét xử theo khoản 1 Điều 104 BLHS năm 1999 là tội phạm ít
nghiêm trọng, các bị cáo lần đầu tiên trong đời phạm tội, nhưng Hội đồng xét xử lại
không cho các bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS “phạm tội lần đầu và thuộc
trường hợp ít nghiêm trọng”.
Tại Bản án số 22/2010/HSST ngày 23/12/2010 của Tòa án nhân dân huyện
Yên Định, tỉnh Thanh Hóa xét xử bị cáo Lê Thị Liên cùng đồng bọn về tội “Tổ
chức đánh bạc” theo khoản 1 Điều 249 BLHS năm 1999(Phụ lục II.22), Hội đồng
xét xử đã nhận định các bị cáo “phạm tội nhiều lần” thuộc trường hợp được quy
định tại điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS năm 1999, nhưng ở phần sau lại đồng thời
nhận định “các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”. Rõ
ràng hai nhận định này có sự mâu thuẫn với nhau, đã là phạm tội nhiều lần (02 lần)
thì khơng thể là phạm tội lần đầu, cho dù tất cả các lần phạm tội thuộc trường hợp ít
nghiêm trọng thì các bị cáo vẫn khơng thể được hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS
“phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” được.
Tóm lại, để áp dụng tình tiết giảm nhẹ TNHS “phạm tội lần đầu và thuộc
trường hợp ít nghiêm trọng” thì “phạm tội lần đầu” là điều kiện cần nhưng chưa đủ,
điều kiện cần và đủ đó là nó phải được kết hợp với điều kiện thứ hai “thuộc trường
hợp ít nghiêm trọng”, nếu thiếu điều kiện thứ hai này thì “phạm tội lần đầu” khơng
cịn là tình tiết giảm nhẹ TNHS, khơng có ý nghĩa trong việc làm giảm nhẹ tính
chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và cũng không phải là căn cứ để cơ
quan, người tiến hành tố tụng căn cứ, cân nhắc, xem xét khi quyết định hình phạt

đối với người phạm tội.


×