BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
ĐẶNG MINH TRUNG
ỦY THÁC THU THẬP CHỨNG CỨ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
ỦY THÁC THU THẬP CHỨNG CỨ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60380103
Người hướng dẫn khoa học: Pgs.Ts Nguyễn Thị Hoài Phương
Học viên: Đặng Minh Trung
Lớp: Cao học Luật, khóa 21
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học từ cơng sức,
suy nghĩ, nghiên cứu của tác giả, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học
của Pgs.Ts Nguyễn Thị Hoài Phương. Các số liệu, các tư liệu, những kết quả
nghiên cứu được trình bày trong luận văn này là trung thực. Luận văn chưa từng
được cơng bố dưới bất kỳ hình thức nào. Tơi hồn tồn chịu trách nhiệm về lời
cam đoan của mình.
Tác giả
Đặng Minh Trung
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
Từ được viết tắt
BLTTDS 2015
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
QĐ
Quyết định
TAND
Tòa án nhân dân
UTTA
Ủy thác Tòa án
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. YÊU CẦU ĐỐI VỚI VIỆC ỦY THÁC VÀ QUYẾT ĐỊNH ỦY
THÁC THU THẬP CHỨNG CỨ ....................................................................... 6
1.1. Yêu cầu đối với việc ủy thác thu thập chứng cứ .................................... 6
1.2. Nội dung và hình thức của Quyết định ủy thác thu thập chứng cứ
trong lãnh thổ Việt Nam ................................................................................17
CHƯƠNG 2. TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC CHỦ THỂ TRONG QUÁ
TRÌNH THỰC HIỆN ỦY THÁC THU THẬP CHỨNG CỨ ........................23
2.1. Trách nhiệm của chủ thể ủy thác thu thập chứng cứ ..........................23
2.2. Trách nhiệm của chủ thể nhận ủy thác thu thập chứng cứ ................30
Kết luận Chương 2 .............................................................................................36
KẾT LUẬN .........................................................................................................37
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hoạt động chứng minh của Tịa án nói chung, cũng như hoạt động thu
thập chứng nói riêng có ý nghĩa quan trọng trong việc tìm ra sự thật khách quan
của vụ việc dân sự, bảo đảm cho Tịa án có những phán quyết hợp tình, hợp lý,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Trong quá trình giải quyết
vụ việc dân sự có nhiều trường hợp Tịa án khơng thể tự mình thu thập chứng cứ
được. Để giải quyết vấn đề này, luật quy định cho Tòa án đang thụ lý, giải quyết
vụ việc dân sự (còn gọi là chủ thể ủy thác thu thập chứng cứ) có quyền ủy thác
thu thập chứng cứ cho Tòa án khác trong lãnh thổ Việt Nam hoặc ủy thác thu
thập chứng cứ cho cơ quan có thẩm quyền khác ở nước ngồi (còn gọi là chủ thể
nhận ủy thác thu thập chứng cứ). Quy định này giúp cho Tòa án giải quyết vụ
việc dân sự có thể thu được chứng cứ ở ngồi địa giới hành chính do mình quản
lý để giải quyết toàn diện vụ việc dân sự.
Bộ luật Tố tụng dân sự 2004, sửa đổi bổ sung 2011 dành Điều 93 với 04
khoản và các văn bản hướng dẫn để quy định về hoạt động ủy thác thu thập
chứng cứ của Tòa án. Tuy nhiên, pháp luật về hoạt động ủy thác thu thập chứng
cứ có một số quy định chưa cụ thể, chưa rõ ràng, chưa đầy đủ nên thực tiễn áp
dụng pháp luật về hoạt động ủy thác thu thập chứng cứ cịn nhiều bất cập, cách
hiểu khơng thống nhất dẫn đến việc ủy thác kém hiệu quả, thời gian giải quyết
vụ việc bị kéo dài. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 có hiệu lực ngày 01 tháng 7
năm 2016 cũng dành 05 khoản tại Điều 105 quy định về vấn đề này. Pháp luật
ngày càng hồn thiện, nhưng vẫn cịn những vướng mắc, bất cập khi áp dụng vào
thực tiễn.
Ngoài ra, hoạt động ủy thác thu thập chứng cứ kém hiệu quả sẽ làm cho
thời gian giải quyết vụ án kéo dài, vụ án được giải quyết khơng tồn diện gây
khó khăn phiền hà trong nhân dân, làm cho pháp luật không bảo vệ một cách tốt
nhất quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.
Do đó, làm rõ những bất cập, vướng mắc của pháp luật, đưa ra các giải
pháp, các kiến nghị sửa đổi luật để pháp luật về hoạt động ủy thác thu thập
chứng cứ được áp dụng thống nhất là một yêu cầu cấp bách. Chính vì vậy, học
2
viên chọn đề tài “Ủy thác thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự Việt Nam”
làm Luận văn cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hoạt động thu thập chứng cứ là mảng đề tài thường được chọn để nghiên
cứu với nhiều góc độ khác nhau tùy thuộc vào vấn đề, nội dung mà các tác giả
quan tâm. Tuy nhiên, hoạt động ủy thác thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự
là một cách thức, một biện pháp thu thập chứng cứ thì chưa có một cơng trình
khoa học nào nghiên cứu.
Ở góc độ nghiên cứu chung về thu thập chứng cứ có một số tác giả đề cập
đến hoạt động ủy thác thu thập chứng cứ trong tác phẩm của mình như sau:
- Hà Thái Thơ (2013), Hoạt động thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự
Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường đại học Luật Thành phố Hồ Chí
Minh. Cơng trình này nghiên cứu về hoạt động thu thập chứng cứ của đương sự
và Tịa án trong q trình giải quyết vụ việc dân sự. Trong đó, Luận văn đề cập
đến hoạt động ủy thác thu thập chứng cứ của Tòa án dưới góc độ sơ lược quy
định của pháp luật.
- Trương Việt Hồng (2014), Hoạt động thu thập chứng cứ của Tịa án sơ
thẩm trong q trình giải quyết vụ án dân sự, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường
đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Cơng trình này cũng nghiên cứu về lý luận
và thực tiễn hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án sơ thẩm. Trong đó, tác giả
dành một phần nhỏ đề cập đến hoạt động ủy thác thu thập chứng cứ của Tòa án theo
quy định của pháp luật .
- Trần Quốc Dũng (2010), Hoạt động thu thập chứng cứ trong tố tụng dân
sự, Khóa luận cử nhân, Trường đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Khóa luận
này nghiên cứu về hoạt động ủy thác thu thập chứng cứ ở các khía cạnh chủ thể ủy
thác thu thập chứng cứ và các biện thu thập chứng cứ theo quy định Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2004.
Ngồi các cơng trình nêu trên, một số tác giả có các bài viết được đăng trên
các tạp chí chuyên ngành như:
3
- Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẳng (2015), “Thu thập chứng cứ trong giải
quyết vụ án dân sự - Những khó khăn vướng mắc và giải pháp”, Tạp chí Tịa án
nhân dân, (4). Nội dung bài viết xoay quanh các vấn đề quy định của Bộ luật tố
tụng dân sự về thu nhập chứng cứ, các biện pháp thu thập chứng cứ của Tịa án,
những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động trên và kiến nghị một số giải pháp
khắc phục. Trong đó có đề cập đến những vướng mắc trong hoạt động ủy thác tư
pháp ngoài lãnh thổ Việt Nam.
Các nghiên cứu trên có đề cập hoạt động ủy thác thu thập chứng cứ của Tòa
án và là nguồn tư liệu để học viên tham khảo nhằm hồn thiện luận văn của mình.
Tuy nhiên, các nghiên cứu trên chỉ tiếp cận vấn đề trên cơ sở quy định của pháp
luật, chưa đối chiếu thực tiễn để xem quy định của pháp luật có phù hợp thực tiễn
hay khơng, có bất cập, vướng mắc gì hay khơng. Do đó, những nghiên cứu trên vẫn
chưa có giải pháp, kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về ủy thác thu thập
chứng cứ trong tố tụng dân sự.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Luận văn đi sâu vào nghiên cứu các quy định pháp luật về hoạt động ủy
thác thu thập chứng cứ của Tòa án gồm chủ thể nhận ủy thác, các biện pháp ủy
thác thu thập chứng cứ, chi phí thực hiện ủy thác thu thập chứng cứ, quyết định
ủy thác thu thập chứng cứ, trách nhiệm của chủ thể ủy thác, chủ thể nhận ủy
thác thu thập chứng cứ. Tìm hiểu thực tiễn hoạt động ủy thác thu thập chứng cứ
về các nội dung trên, từ đó chỉ ra những hạn chế, bất cập của pháp luật nhằm
đưa ra các kiến nghị áp dụng thống nhất quy định của pháp luật về hoạt động
ủy thác thu thập chứng cứ của Tòa án trong thực tiễn.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là các quy định của Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2015 về hoạt động ủy thác thu thập chứng cứ trong tố tụng dân
sự và việc áp dụng các quy định này vào thực tiễn và kiến nghị hoàn thiện những
quy định về hoạt động ủy thác thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự.
Phạm vi nghiên cứu: Tác giả chỉ giới hạn nghiên cứu những vấn đề còn
bất cập, vướng mắc trong hoạt động ủy thác thu thập chứng cứ theo quy định của
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Phân tích những bất cập, vướng mắc trong quy
4
định pháp luật và thực tiễn áp dụng để từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm hồn
thiện pháp luật. Luận văn chủ yến nghiên cứu về hoạt động ủy thác thu thập
chứng cứ trong lãnh thổ Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn tác giả đã chọn các phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích được tác giả sử dụng ở chương 1, chương 2 để
làm rõ các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về hoạt động ủy thác thu thập
chứng cứ trong tố tụng dân sự. Phương pháp này cũng được tác giả sử dụng để
làm rõ những khó khăn, vướng mắc của việc áp dụng các quy định của pháp luật
hiện hành về hoạt động ủy thác thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự, những
nguyên nhân tạo ra những bất cập của luật, từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm
hoàn thiện quy định của pháp luật hoặc đưa ra giải pháp để pháp luật được nhận
thức và áp dụng thống nhất trong thực tiễn.
- Phương pháp so sánh được sử dụng ở mục 1.1, 1.2, 2.1.1, 2.2 dùng để so
sánh đối chiếu giữa quy định giữa luật cũ với luật mới; giữa các quyết định ủy
thác, trả lời ủy thác của nhiều Tòa án nhằm làm rõ những bất cập trong hoạt
động ủy thác thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự.
- Phương pháp tổng hợp được tác giả sử dụng để tổng kết, tập hợp các kết
quả đã phân tích, đã thu thập được để đưa ra kết luận đối với các vấn đề đã
nghiên cứu.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Ý nghĩa khoa học của luận văn: Luận văn đã giải quyết một số vấn đề cơ
bản về lý luận, quy định của pháp luật và thực tiễn của hoạt động ủy thác thu
thập chứng cứ trong tố tụng dân sự. Luận văn đã có cái nhìn khách quan về các
quy định của pháp luật về hoạt động ủy thác thu thập chứng cứ khi áp dụng vào
thực tiễn để thấy được những bất cập, vướng mắc, những chưa hoàn thiện của
pháp luật. Góp phần hồn thiện các quy định của pháp luật còn vướng mắc trong
thực tiễn áp dụng về hoạt động ủy thác thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự.
5
Giá trị ứng dụng của đề tài: Luận văn này có thể sử dụng để làm tài liệu
tham khảo cho các Thẩm phán, Thẩm tra viên,Thư ký, Luật sư. Ngoài ra, luận
văn cịn có thể sử dụng để học tập, nghiên cứu.
7. Bố cục và nội dung cơ bản của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo nội dung
luận văn bao gồm 02 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Yêu cầu đối với việc ủy thác và quyết định ủy thác thu thập
chứng cứ
Chương 2: Trách nhiệm của các chủ thể trong quá trình ủy thác thu thập
chứng cứ
6
CHƯƠNG 1
YÊU CẦU ĐỐI VỚI VIỆC ỦY THÁC
VÀ QUYẾT ĐỊNH ỦY THÁC THU THẬP CHỨNG CỨ
1.1. Yêu cầu đối với việc ủy thác thu thập chứng cứ
1.1.1. Phân biệt ủy thác thu thập chứng cứ với ủy thác tống đạt văn bản
tố tụng
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS 2015) quy định: Tịa án có
quyền ủy thác cho Tịa án khác hoặc cơ quan có thẩm quyền lấy lời khai của
đương sự, lấy lời khai người làm chứng, thẩm định tại chỗ, định giá tài sản hoặc
các biện pháp khác để thu thập chứng cứ, xác minh các tình tiết của vụ việc dân
sự1. Các biện pháp đã được liệt kê như lấy lời khai, thẩm định tại chỗ, định giá là
rõ ràng nên các Tòa án áp dụng thống nhất, nhưng đối với các biện pháp khác
được quy định tại Điều 105 BLTTDS 2015 thì có ý kiến khác nhau.
Đây là một quy định dự phòng trường hợp thực tiễn xét xử của Tịa án có
những biện pháp thu thập chứng cứ, xác minh các tình tiết của vụ việc dân sự
ngoài các biện pháp được nêu tên cụ thể tại Điều 105 Bộ luật tố tụng dân sự. Các
biện pháp khác ngoài các biện pháp đã được liệt kê trên phải là những biện pháp
nhằm để thu thập chứng cứ hoặc xác minh các tình tiết vụ việc dân sự. Như vậy,
thực chất các biện pháp luật quy định dự phòng là những hoạt động thu thập
chứng cứ, xác minh các tình tiết của vụ việc dân sự.
Quy định này là cần thiết. Bởi lẽ, ngoài các biện pháp ủy thác chứng cứ đã
được liệt kê, thực tiễn xét xử Thẩm phán còn sử dụng nhiều biện pháp khác để
ủy thác thu thập chứng cứ như: Xác minh, ghi nhận tập quán ở địa phương, đối
chất giữa người làm chứng với các đương sự trong trường hợp người làm chứng
khơng thể đến Tịa án được. Quy định dự phòng sẽ giúp pháp luật bao quát hết
các biện pháp thu thập chứng cứ trong thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự
của Tòa án trong lãnh thổ Việt Nam, các biện pháp thu thập chứng cứ tại các
điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và dự liệu cả trường hợp ủy thác thu
thập chứng cứ với các quốc gia khác theo nguyên tắc có đi có lại.
1
Khoản 1 Điều 105 BLTTDS 2015
7
Hiện nay, thực tiễn có hai cách hiểu khác nhau về các biện pháp khác theo
quy định tại khoản 1 Điều 105 BLTTDS 2015.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Các biện pháp khác ở đây được hiểu là các
biện pháp nhằm tìm ra các chứng cứ các tình tiết để chứng minh cho yêu cầu của
nguyên đơn là có cơ sở, là hợp pháp hoặc khơng có cơ sở, khơng hợp pháp và
bản chất của các biện pháp này là tìm ra chứng cứ làm sáng tỏ nội dung của vụ
việc dân sự. Đây là quy định dự liệu trường hợp luật không bao quát hết các biện
pháp ủy thác thu thập chứng cứ mà Tòa án Việt Nam áp dụng trong thực tiễn, dự
liệu cả trường hợp luật nước ngồi quy định mà nước đó với Việt Nam là thành
viên của điều ước quốc tế có quy định về vấn đề này và đồng thời dự liệu trường
hợp pháp luật của các nước áp dụng nguyên tắc có đi có lại có các biện pháp thu
thập chứng cứ ngồi các biện pháp đã liệt kê trong luật.
Quan điểm thứ hai: Các biện pháp khác này bao gồm cả các biện pháp thu
thập chứng cứ luật chưa dự liệu hết và kể cả các hoạt động tố tụng khác nhằm
giúp cho hoạt động xét xử của Tòa án như tống đạt thơng báo thụ lý vụ án, thơng
báo hịa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định thẩm định tại chỗ, quyết
định định giá tài sản...
Để làm rõ hai quan điểm này, chúng ta đi vào tìm hiểu các quyết định ủy
thác thu thập chứng cứ của Tòa án cụ thể:
Nhiều Tòa án Việt Nam xem việc ủy thác tống đạt các văn bản tố tụng
cũng là biện pháp khác của hoạt động ủy thác thu thập chứng cứ được quy định
tại Điều 105 Bộ luật tố tụng dân sự.
Ví dụ, Quyết định ủy thác thu thập chứng cứ số 272/2016/QĐ-UTTA
ngày 23 tháng 2 năm 2016 của Tịa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về “Dân
sự” giữa nguyên đơn: Bà Đỗ Minh Kim và bị đơn: Ơng Đỗ Chí Cơng. Tại quyết
định trên, Tịa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã ủy thác cho Tòa án nhân
dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau tống đạt thơng báo hịa giải, giấy triệu tập
đương sự cho ơng Đỗ Chí Cơng.
Tương tự, Quyết định ủy thác thu thập chứng cứ số 30/2016/QĐ-UTTA
ngày 25 tháng 5 năm 2016 của Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng
Nai về “Dân sự” giữa nguyên đơn: Bà Đỗ Thị Dạ Hương và bị đơn: Bà Đỗ Thị
Tư. Tại quyết định trên, Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai đã
8
ủy thác cho Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau tống đạt quyết
định đình chỉ giải quyết vụ án cho đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn.
Ngoài ra, Quyết định ủy thác thu thập chứng cứ số 106/2016/QĐ-UTTA
ngày 08 tháng 3 năm 2016 của Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng
Nai về “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” giữa ngun
đơn: Bà Trương Thị Ngỗn và bị đơn: Ơng Lê Văn Thuận, bà Nguyễn Thị Kim
Thu. Tại quyết định trên, Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai
vừa ủy thác cho Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau tống đạt cho
bà Trần Thị Phương Mai Thông báo về việc yêu cầu tổ chức thẩm định giá tài
sản vừa ủy thác cho Tòa án thành phố Cà Mau lấy lời khai của bà Trần Thị
Phương Mai
Như vậy, thực tiễn xét xử, nhiều Tòa án đã đồng nhất việc ủy thác thu
thập chứng cứ với ủy thác tống đạt văn bản tố tụng và xem hoạt động ủy thác
tống đạt các văn bản tố tụng như là một phần của ủy thác thu thập chứng cứ hay
nói cách khác những Tịa án trên xem hoạt động tống đạt văn bản tố tụng là biện
pháp khác luật đã dự liệu tại khoản 1 Điều 105 BLTTDS 2015.
Thực chất hoạt động tống đạt các văn bản tố tụng của Tịa án khơng phải
là hoạt động thu thập chứng cứ. Bởi lẽ, chứng cứ là những gì có thật được đương
sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân giao nộp cho Tòa án hoặc do Tòa án tự thu thập
theo trình tự thủ tục luật định và được Tịa án sử dụng làm căn cứ để xác định
yêu cầu hay phản đối yêu cầu của đương sự là có căn cứ và hợp pháp 2. Trong
khi, việc ủy thác tống đạt các văn bản tố tụng là việc Tòa án thông báo cho các
đương sự, người làm chứng biết về hoạt động tố tụng của Tòa án để họ biết tham
gia vào hoạt động tố tụng mà Tòa án đã thông báo và kết quả của hoạt động này
là để chứng minh Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ cho những người
tham gia tố tụng. Do đó, chúng khơng phải là căn cứ để Tịa án chấp nhận yêu
cầu hoặc phản đối yêu cầu của đương sự hay nói cách khác kết quả của ủy thác
tống đạt văn bản tố tụng không làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án.
Ngoài ra, hoạt động tống đạt các văn bản tố tụng không phải chỉ ủy thác
một lần có kết quả là giải quyết được vụ án mà còn phải tống đạt hợp lệ nhiều
lần mới đưa vụ án ra xét xử vụ được. Chẳng hạn, tống đạt quyết định đưa vụ án
2
Điều 93 BLTTDS 2015
9
ra xét xử hai lần thì Tịa án mới có quyền giải quyết vụ án nếu đương sự vắng tại
phiên tòa. Trong khi, hoạt động ủy thác thu thập chứng cứ nếu khơng nhận được
kết quả trả lời thì chỉ cần ủy thác một lần là Tòa án đã giải quyết được vụ án3.
Do đó, hoạt động ủy thác tống đạt các văn bản tố tụng không phải là hoạt
động ủy thác thu thập chứng cứ.
Vấn đề ở đây, các Tịa án có phải hiểu hoạt động tống đạt văn bản tố tụng
là hoạt động ủy thác thu thập chứng cứ hay khơng rất khó xác định nhưng có thể
khẳng định đây là một cách thức để hoạt động xét xử của Tịa án nhanh chóng,
thuận lợi.
Hoạt động ủy thác tống đạt các văn bản tố tụng là một nhu cầu của thực
tiễn. Các Tòa án khi cần tống đạt các văn bản tố tụng ở ngoài địa giới hành chính
do mình quản lý thì cách thuận lợi nhất và nhanh nhất là ủy thác cho Tịa án nơi
có đương sự cần triệu tập, cần thông báo. Bởi lẽ, nếu Tòa án tự đi tống đạt các
văn bản tố tụng cho đương sự ở ngồi địa giới hành chính do mình quản lý thì
việc đi lại tốn thời gian, chi phí cao, khơng hiệu quả vì khơng quen đường. Nhu
cầu ủy thác tống đạt các văn bản tố tụng của Tòa án thực tế cao hơn so với hoạt
động ủy thác ủy thác thu thập chứng cứ của Tòa án. Cụ thể, năm 2016, Tòa án
nhân dân huyện Trần Văn Thời ủy thác cho Tòa án khác để thu thập chứng cứ là
7 vụ, trong khi ủy thác tống đạt các văn bản tố tụng như thông báo thụ lý, thơng
báo hịa giải, quyết định tạm đình chỉ, giấy triệu tập đương sự là 11 vụ. Do đó,
hoạt động ủy thác tống đạt các văn bản tố tụng có ý nghĩa và tầm quan trọng to
lớn trong việc giúp Tòa án đẩy nhanh tiến độ giải quyết các vụ việc dân sự, thời
gian giải quyết các vụ việc dân sự khơng bị kéo dài. Ngồi ra, khi tống đạt các
văn bản tố tụng pháp luật quy định phải tống đạt đủ số lần, hợp lệ thì Tịa án mới
giải quyết vụ án trong trường hợp đương sự vắng mặt, nếu không tống đạt đầy
đủ và hợp lệ các văn bản tố tụng là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng là căn
cứ để Tòa án cấp trên hủy bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới.
Kiến nghị: Trước thực tiễn trên, Tòa án nhân dân tối cao nên có cơng văn
hướng dẫn cho Tịa án nhân dân các cấp hiểu thống nhất theo hướng các biện
pháp khác quy định tại khoản 1 Điều 105 BLTTDS 2015 là các biện pháp thu
thập chứng cứ nhằm chấp nhận, bác bỏ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, phản
3
Khoản 5 Điều 105 BLTTDS 2015
10
tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Ngồi
ra, theo tác giả luật nên ghi nhận hoạt động ủy thác tống đạt các văn bản tố tụng
vào trong luật. Việc ghi nhận này sẽ giúp cho hoạt động ủy thác tống đạt các văn
bản tố tụng của Tịa án có cơ sở pháp lý, đồng thời giúp luật thích ứng với thực
tiễn. Hiện nay, khi luật chưa được sửa đổi thì Tịa án nhân dân tối cao nên có
cơng văn hướng dẫn cụ thể hoạt động phối hợp tống đạt các văn bản tố tụng giữa
các Tòa án để hoạt động ủy thác tống đạt các văn bản tố tụng đạt hiệu quả và có
giá trị pháp lý trong thực tiễn.
1.1.2. Xác định Tòa án nhận ủy thác trong lãnh thổ Việt Nam
Tại khoản 1 Điều 105 BLTTDS 2015 quy định: Tịa án giải quyết vụ việc
dân sự có thể ra quyết định ủy thác cho Tòa án khác thực hiện yêu cầu ủy thác.
Như vậy, chủ thể nhận ủy thác trong lãnh thổ Việt Nam là Tòa án nhân dân.
Đối với hoạt động ủy thác thu thập chứng cứ bên trong lãnh thổ Việt Nam
thì chủ thể nhận ủy thác thu thập chứng cứ là Tòa án nơi được ủy thác. Quy định
như trên, chúng ta có quyền hiểu Tịa án ủy thác có quyền ủy thác thu thập
chứng cứ cho Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án nhân dân cấp tỉnh và cả Tòa án
nhân dân cấp cao. Vấn đề đặt ra là Tòa án nhân dân cấp dưới có quyền ủy thác
thu thập chứng cứ cho Tồ án nhân dân cấp trên và ngược lại hay không? Vấn đề
này, luật không quy định cụ thể, rõ ràng nên có quan điểm khác nhau. Có những
quan điểm cho rằng: “Mặc dù luật không quy định cụ thể nhưng theo chúng tôi
việc ủy thác thu thập chứng cứ chỉ có thể thực hiện bởi Tịa án cùng cấp (Tịa án
cấp huyện này với Tòa án cấp huyện khác, Tòa án cấp tỉnh này với Tòa án cấp
tỉnh khác)”4.
Bên cạnh đó, trong thực tiễn, Tịa án cũng có cách hiểu và áp dụng như sau:
Ví dụ: Quyết định ủy thác thu thập chứng cứ số 2172/2016/QĐ-TTCC
ngày 19 tháng 7 năm 2016 của Tịa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về
“Tranh chấp chia tài sản chung” giữa nguyên đơn: Bà Đỗ Minh Kim và bị đơn:
Ơng Đỗ Chí Cơng. Tại quyết định ủy thác thu thập chứng cứ trên, Tịa án nhân
dân thành phố Hồ Chí Minh đã trực tiếp yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Cà
Mau, tỉnh Cà Mau thực việc ủy thác.
4
Đoàn Tấn Minh, Nguyễn Ngọc Điệp, Bình luận khoa học BLTTDS năm 2015, NXB Lao động, tr.108.
11
Ví dụ: Quyết định ủy thác thu thập chứng cứ số 30/2016/QĐUT-TA ngày
25 tháng 5 năm 2016 của Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai về
“Tranh chấp hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn: Bà
Đỗ Dạ Hương và bị đơn: Bà Đỗ Thị Tư. Tại quyết định ủy thác thu thập chứng
cứ trên, Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai đã ủy thác thu thập
chứng cứ cho Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.
Như vậy, thực tiễn các Tòa án dù cấp tỉnh hay cấp huyện đều chỉ ủy thác
cho Tòa án nhân dân cấp huyện. Điều này xuất phát từ việc Tòa án nhân dân cấp
huyện nơi có chứng cứ cần thu thập sẽ thực hiện việc ủy thác một cách nhanh
nhất, hiệu quả nhất, thuận tiện nhất các yêu cầu ủy thác. Tác giả chưa phát hiện
trường hợp nào Tòa án nhân dân cấp huyện ủy thác cho Tòa án nhân dân cấp tỉnh.
Theo tác giả, hoạt động ủy thác thu thập chứng cứ là hoạt động tố tụng
nhằm tạo điều kiện tháo gỡ khó khăn cho các Tịa án đang giải quyết vụ việc dân
sự nhưng nó cũng tạo điều kiện thuận lợi nhất để Tịa án nhận ủy thác hồn
thành việc ủy thác nên ủy thác cho Tòa án nhân dân cấp huyện nơi cư trú của
đương sự, nơi có chứng cứ cần thu thập, nơi có tình tiết sự kiệc cần xác minh là
thuận tiện nhất.
Bên cạnh đó, việc ủy thác cũng phải tiến hành theo nguyên tắc ngang cấp
hoặc thấp hơn để không hạn chế quyền ủy thác của Tịa án. Theo thác giả Tịa án
cấp tỉnh có quyền ủy thác cho Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tịa án cấp huyện cịn
Tịa án cấp huyện chỉ có quyền ủy thác cho Tòa án nhân dân cấp huyện nơi cần
ủy thác.
Do đó, luật nên sửa đổi theo hướng xác định giới hạn rõ chủ thể nhận ủy
thác để pháp luật được hiểu thống nhất, khơng cịn nhiều ý kiến khác nhau như
hiện nay.
Một vấn đề khác đặt ra: Tịa án nhân dân cấp tỉnh có quyền ủy thác thu
thập chứng cứ cho Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc tỉnh đó hay khơng.
Vấn đề này hiện nay có hai quan điểm đối lập với nhau:
Quan điểm 1: Tòa án nhân dân cấp tỉnh có quyền ủy thác cho Tịa án
nhân dân cấp huyện thuộc tỉnh vì khơng có quy định nào cấm việc ủy thác trên.
Hơn nữa, Tòa án nhân dân cấp huyện sẽ thuận lợi hơn trong hoạt động thu thập
chứng cứ.
12
Quan điểm 2: Tịa án nhân dân cấp tỉnh khơng được ủy thác cho Tòa án
nhân dân cấp huyện thuộc tỉnh. Vì Tịa án chỉ có quyền ủy thác cho Tòa án khác
thu thập chứng cứ khi chứng cứ cần thu thập ở ngoài phạm vi lãnh thổ, địa giới
do mình quản lý. Như vậy, chứng cứ cần thu thập trong trường hợp này nằm
trong địa giới hành chính của Tịa án ủy thác nên khơng được quyền ủy thác thu
thập chứng cứ.
Những người theo quan điểm 2 cho rằng: “Về mặt ngun tắc thì mổi đơn
vị Tịa án chỉ có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi địa giới hành chính
huyện, tỉnh đã được xác định. Điều này có nghĩa là mổi đơn vị Tịa án khơng
được phép tiến hành các hoạt động ngoài địa giới hành chính mà mình đã được
xác định thẩm quyền theo lãnh thổ”5.
Tác giả thống nhất với quan điểm 2: Tòa án chỉ được ủy thác khi chứng
cứ nằm ngoài địa giới hành chính do mình quản lý nên trong địa giới hành chính
do mình quản lý thì khơng phát sinh hoạt động ủy thác thu thập chứng cứ.
Do đó, Tịa án nhân dân cấp tỉnh khơng có quyền ủy thác thu thập chứng
cứ cho Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc địa giới hành chính của tỉnh. Lý do,
Tịa án nhân dân cấp huyện thuộc phạm vi quản lý của Tòa án nhân dân cấp tỉnh
nên không phát sinh hoạt động ủy thác thu thập chứng cứ.
Kiến nghị: Từ những phân tích trên, theo tác giả, khoản 3 Điều 105
BLTTDS 2015 nên sửa đổi như sau: “ 1. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân
sự, Tịa án có thể ra quyết định ủy thác để Tòa án nhân dân ngang cấp hoặc cấp
thấp hơn tại nơi thuận lợi nhất, ngoài địa giới hành chính do mình quản lý hoặc
cơ quan có thẩm quyền quy định tại khoản 4 Điều này lấy lời khai của đương sự,
người làm chứng, thẩm định tại chỗ, tiến hành định giá tài sản hoặc các biện
pháp khác để thu thập chứng cứ, xác minh các tình tiết của vụ việc dân sự”. Quy
định như trên sẽ giúp xác định rõ ràng chủ thể nhận ủy thác trong lãnh thổ Việt
Nam, đồng thời giúp cho quy định của pháp luật rõ ràng và pháp luật được hiểu
thống nhất.
1.1.3. Xác định chi phí khi thực hiện ủy thác thu thập chứng cứ
* Thứ nhất: Chi phí khi thực hiện ủy thác thu thập chứng cứ trong lãnh
thổ Việt Nam
5
Đồn Tấn Minh, Nguyễn Ngọc Điệp (2015), Bình luận khoa học BLTTDS năm 2015, NXB Lao động, tr.108.
13
Chi phí ủy thác thu thập chứng cứ là chi phí để Tịa án nhận ủy thác thực
hiện các cơng việc ủy thác như là lấy lời khai đương sự, người làm chứng, thẩm
định tại chỗ, tiến hành định giá tài sản hoặc các biện pháp khác để thu thập
chứng cứ, xác minh các tình tiết của vụ việc dân sự.
Hiện nay, BLTTDS 2015 và các văn bản dưới luật khơng có quy định về
chi phí ủy thác thu thập chứng cứ trong lãnh thổ Việt Nam nên các Tòa án khi ủy
thác thu thập chứng cứ khơng có thu chi phí từ các đương sự.
Trong q trình thực hiện việc ủy thác thì các Tịa án có hai quan điểm về
việc có cần thu chi phí ủy thác thu thập chứng cứ từ các đương sự hay không.
Quan điểm 1: Các đương sự khơng phải chịu chi phí ủy thác. Bởi lẽ, đây
là trường hợp Tòa án xét thấy cần thiết phải thu thập thêm chứng cứ mới giải
quyết tồn diện vụ án. Do đó, việc ủy thác thu thập chứng cứ là trách nhiệm của
Tòa án.
Quan điểm 2: Ngược hoàn toàn với quan điểm thứ nhất, quan điểm này
cho rằng các đương sự phải có nghĩa vụ chứng minh. Việc Tòa án ủy thác thu
thập chứng cứ là làm thay cho đương sự, để hổ trợ đương sự thuận lợi trong việc
thu thập thu thập chứng cứ. Do đó, đương sự phải chịu chi phí ủy thác thu thập
chứng cứ.
Tác giả thống nhất với quan điểm hai: Tòa án cần phải thu chi phí ủy thác
thu thập chứng cứ tương ứng với công việc được ủy thác từ các đương sự. Điều
này xuất phát từ nghĩa vụ chứng minh là của đương sự.
Hơn nữa, theo quy định tại Điều 217 BLTTDS 2015 quy định: Nguyên
đơn không nộp tiền tạm ứng chi phí giám định và các chi phí tố tụng khác là một
trong những căn cứ để Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án6.
Việc thu chi phí từ các đương sự sẽ giúp cho Tòa án nhận ủy thác có chi
phí thực hiện u cầu ủy thác và sẽ kích thích được sự tích cực trong thực hiện
những cơng việc ủy thác của Tịa án nhận ủy thác, góp phần làm cho việc ủy thác
được thực hiện nhanh chóng, đúng quy định của pháp luật.
Mục đích của việc thu chi phí ủy thác để cho Tịa án nhận ủy thác có tiền
chi phí thực hiện u cầu ủy thác. Thực tế, những công việc được ủy thác là những
công việc phát sinh và công việc này không được dự trù trong kinh phí được phân
6
Điểm d khoản 1 Điều 217 BLTTDS 2015
14
bổ hàng năm cho hoạt động của Tòa án. Do đó, nếu Tịa án khơng thu chi phí ủy
thác từ các đương sự thì Tịa án sẽ lấy kinh phí từ kinh phí hoạt động của đơn vị
để thực hiện thay công việc của người khác. Điều này không thể tạo nên tính tích
cực trong thực hiện các yêu cầu ủy thác của các Tịa án nhận ủy thác.
Bình luận phần chứng minh và chứng cứ trong BLTTDS 2015, PGS.TS
Nguyễn Minh Hằng cho rằng: “ Lý do phần lớn các Tòa án hay các cơ quan khác
nhận ủy thác nhận ủy thác thường cho rằng đó là làm hộ, làm thay Tòa án ủy thác
nên tinh thần trách nhiệm thực hiện không cao, không đảm bảo thời gian ủy thác”7.
Thực tiễn Tịa án nhận ủy thác vừa phải bỏ cơng sức của mình lại vừa phải
xuất kinh phí của mình ra để chi phí cho việc ủy thác. Do đó, Tịa án nhận ủy
thác thường kết hợp cơng việc của Tịa với cơng việc ủy thác và khi nào Tịa án
có cơng việc ở nơi được ủy thác thì kết hợp làm để giảm chi phí ủy thác. Do đó,
khi thực hiện những cơng việc được ủy thác, nhiều Tịa án không chủ động thực
hiện việc ủy thác nên thời gian ủy thác bị vi phạm có một nguyên nhân lớn là do
khơng có chi phí cho việc thực hiện ủy thác. Theo tác giả, cần phải quy định các
đương sự phải có trách nhiệm nộp chi phí ủy thác thu thập chứng cứ.
Hiện nay, pháp luật khơng có quy định về việc thu nộp chi phí ủy thác, cơ
chế thu chi chi phí, các khoản chi phí phải nộp nên cần có văn bản hướng dẫn về
chi phí ủy thác trong lãnh thổ Việt Nam để làm căn cứ, cơ sở để Tòa án trong cả
nước áp dụng pháp luật thống nhất.
Kiến nghị: Theo tác giả, Tòa án nhân dân tối cao cần ban hành nghị quyết
hướng dẫn theo hướng: Quy định chi phí ủy thác thu thập chứng cứ là chi phí
thực tế thực hiện cơng việc ủy thác gồm chi phí đi lại tống đạt văn bản tố tụng, đi
lại thực hiện công việc ủy thác; chi phí tổ chức thực hiện cơng việc ủy thác, chi
phí trả cho những người trong Hội đồng thẩm định tại chỗ, Hội đồng định giá,
chi phí khác có liên quan đến việc thực hiện yêu cầu ủy thác. Đối với việc thu
chi chi phí ủy thác thu thập chứng cứ thì giải pháp trước mắt phải thực hiện là:
Khi Tịa án được ủy thác nhận được yêu cầu ủy thác thì Tịa án được ủy thác
thơng báo cho Tịa án ủy thác đã nhận được quyết ủy thác và thông báo số tiền
tạm ứng chi phí ủy thác thu thập chứng cứ. Tòa án ủy thác sẽ thu từ nguyên đơn,
7
Nguyễn Minh Hằng (2015), “Bình luận phần chứng minh và chứng cứ trong BLTTDS 2015”, Bình luận
những điểm mới trong BLTTDS năm 2015, NXB Hồng Đức- Hội Luật gia Việt Nam, tr.142.
15
người yêu cầu số tiền trên và chuyển cho Tòa án nhận ủy thác thông qua tài
khoản ngân hàng. Sau khi thực hiện ủy thác xong thì Tịa án nhận ủy thác trả kết
quả và gửi kèm theo Bảng thanh tốn, chứng từ chi phí ủy thác cho Tịa án ủy
thác để đối chiếu với đương sự. Trường hợp tạm ứng lệ phí thừa thì Tịa án nhận
ủy thác hồn cho Tịa án ủy thác thơng qua tài khoản ngân hàng; thiếu thì đương
sự tiếp tục nộp cho Tịa án ủy thác để chuyển cho Tòa án nhận uỷ thác. Biện
pháp lâu dài, phải dự trù nguồn kinh phí ủy thác cho Tòa án hàng năm để Tòa án
chủ động hoạt động. Trong quá trình giải quyết vụ án nếu phát sinh ủy thác thu
thập thu thập chứng cứ thì Tòa án sẽ tuyên án buộc các đương sự nộp vào ngân
sách nhà nước. Để việc thu chi được rõ ràng, minh bạch.
*Thứ hai: Chi phí ủy thác thu thập chứng cứ ra nước ngồi
Đối với chi phí ủy thác tư pháp về dân sự, trong thời gian qua do pháp luật
khơng quy định rõ ràng chi phí ủy thác thu thập chứng cứ, các khoản thu chi cụ
thể, cách thức thu, thanh tốn các chi phí ủy thác trên nên Tịa án u cầu ủy thác
khơng thu chi phí ủy thác mà chỉ thu lệ phí 150.000 đồng, cịn chi phí dịch ra ngơn
ngữ nước ngồi thì Tịa án yêu cầu đương sự đến liên hệ trực tiếp Văn phịng cơng
chứng hoặc Phịng Tư pháp cấp huyện để được dịch ra ngôn ngữ cần dịch và trực
tiếp nộp tiền chi phí dịch thuật theo yêu cầu của các cơ quan, tổ chức trên. Theo
đánh giá của Tòa án nhân dân tối cao gởi cho Bộ Tư pháp để thông báo kết quả
công tác tương trợ tư pháp năm 2015 thể hiện: Việc không quy định rõ cơ chế thu
nộp chi phí ủy thác đối với hoạt động ủy thác ở nước ngoài là một nguyên nhân để
hoạt động này khơng có kết quả cao trong thực tiễn8.
Để khắc phục tình trạng trên, Tịa án nhân dân tối cao phối hợp với Bộ Tư
pháp và Bộ Ngoại giao ban hành Thông tư liên tịch số 12/2016/TTLT-BTPBNG-TANDTC ngày 19 tháng 10 năm 2016 thay thế Thông tư liên tịch số
15/2011/TTLT BTP-BNG-TANDTC ngày 15 tháng 9 năm 2011 của Bộ Tư
pháp, Bộ Ngoại giao, Tịa án nhân dân tối cao có quy định cụ thể chi phí thực
hiện ủy thác thu thập chứng cứ về dân sự của Việt Nam ra nước ngồi bao gồm
phí, lệ phí và chi phí thực tế theo quy định của pháp Việt Nam và pháp luật quốc
8
Thông báo số 271/TANDTC-HTQT ngày 19 tháng 10 năm 2015 của Tòa án nhân dân tối cao về kết quả
thực hiện công tác tương trợ tư pháp năm 2015.
16
gia được ủy thác9. Quy định này giúp cho hoạt động thu, nộp chi phí ủy thác thu
thập chứng cứ ra nước ngồi có căn cứ, dễ dàng thực hiện. Các đương sự biết
được các khoản chi phí họ phải nộp, Tịa án cũng có căn cứ để thơng báo cho các
đương sự nộp chi phí ủy thác. Thơng tư trên có quy định cách thức thu, nộp chi
phí thực tế ủy thác tư pháp, cụ thể: Chi phí thực tế trong nước do người có nghĩa
vụ nộp thanh tốn trực tiếp cho người cung cấp dịch vụ. Chi phí thực tế do cơ
quan có thẩm quyền của nước ngồi thu thì phân làm hai trường hợp. Trường
hợp 1, chi phí thực tế xác định được trước theo quy định của pháp luật nước
ngồi thì người có nghĩa vụ nộp chi phí phải thanh tốn trực tiếp với cơ quan có
thẩm quyền của nước ngồi phù hợp quy định của pháp luật Việt Nam10. Trường
hợp 2, chi phí thực tế chưa xác định hoặc đã xác định được nhưng cơ quan có
thẩm quyền của nước ngồi chưa u cầu nộp thì người có nghĩa vụ nộp phải
nộp tạm ứng 3.000.000 đồng tại Cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh. Ngồi ra,
thơng liên tịch số 12 cịn quy định về cách thức chi, thanh tốn chi phí ủy thác
trong trường hợp 211. Quy định như trên đảm bảo cho việc thu và nộp chi phí sẽ
được áp dụng trong thực tiễn. Tuy nhiên, trong trường hợp 1, Thông tư quy định
cho đương sự trực tiếp nộp tiền cho cơ quan có thẩm quyền nước ngồi là gây
khó khăn cho đương sự. Bởi lẽ, Tịa án có thẩm quyền của Việt Nam khi liên hệ
với cơ quan có thẩm quyền của nước ngồi đã khơng liên hệ trực tiếp mà phải
thông qua các cơ quan trung ương của hai nước thì người dân liên hệ trực tiếp để
thanh tốn chi phí ủy thác sẽ rất khó khăn. Hơn nữa, các chi phí này sẽ được Tịa
án quyết định ai phải chịu trong bản án nên cần phải thông qua cơ quan có thẩm
quyền để xác định chính xác số tiền đương sự phải nộp và phải có chứng cứ
đương sự đã nộp để Tịa án có cơ sở quyết định trong bản án, quyết định. Hơn
nữa, cùng là thu, nộp số tiền ủy thác thu thập chứng cứ ra nước ngoài nhưng
pháp luật quy định hai cách thu nộp khác nhau là quy định tùy tiện, gây khó
khăn cho Tịa án, đương sự trong hoạt động ủy thác thu thập chứng cứ.
9
Khoản 2 Điều 6 Thông tư liên tịch số: 12/2016/TTLT-BTP-BNG-TANDTC ngày 19 tháng 10 năm 2016
quy định về trình tự, thủ tục tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự
10
Điểm a khoản 2 Điều 7 Thông tư liên tịch số: 12/2016/TTLT-BTP-BNG-TANDTC ngày 19 tháng 10 năm
2016 quy định về trình tự, thủ tục tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự
11
Điều 8 Thông tư liên tịch số: 12/2016/TTLT-BTP-BNG-TANDTC ngày 19 tháng 10 năm 2016 quy định
về trình tự, thủ tục tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự
17
Kiến nghị: Theo tác giả cần phải sửa đổi, bổ sung điểm a khoản 2 Điều 7
Thông tư liên tịch số 12/2016/TTLT-BTP-BNG-TANDTC ngày 19 tháng 10
năm 2016 như sau: “a) Trường hợp chi phí thực tế đã xác định được theo quy
định của phía nước ngồi tại thời điểm cơ quan có thẩm quyền yêu cầu ủy thác
tư pháp của Việt Nam lập hồ sơ, cơ quan có thẩm quyền yêu cầu ủy thác tư pháp
của Việt Nam thông báo cho người có nghĩa vụ nộp chi phí thực hiện ủy thác tư
pháp của Việt Nam phải nộp toàn bộ chi phí thực hiện ủy thác và chi phí phục vụ
việc chuyển tiền ra nước ngoài tại cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh nơi cơ
quan có thẩm quyền ủy thác tư pháp về dân sự của Việt Nam có trụ sở”.
1.2. Nội dung và hình thức của Quyết định ủy thác thu thập chứng cứ
trong lãnh thổ Việt Nam
1.2.1. Nội dung của quyết định ủy thác thu thập chứng cứ
Khoản 2 Điều 105 BLTTDS 2015 quy định: Trong quyết định ủy thác
phải ghi rõ tên, địa chỉ của nguyên đơn, bị đơn, quan hệ tranh chấp và những
biện pháp thu thập chứng cứ mà Tòa án ủy thác yêu cầu Tòa án nhận ủy thác
thực hiện.
Quy định trên đã giúp cho Tòa án trong cả nước cơ bản ghi thống nhất nội
dung trong quyết định ủy thác thu thập chứng cứ. Tuy nhiên vấn đề đặt ra trong
hoạt động thực tiễn là những nội dung đã quy định có phải là những nội dung cơ
bản, Tịa án có quyền thêm những nội dung khác khi xét thấy cần thiết hay Tòa
án chỉ được quyền ghi các nội dung theo quy định pháp luật.
Hiện nay, trong ngành Tòa án có hai quan điểm:
Quan điểm 1 cho rằng: Quy định của pháp luật là bắt buộc khơng ai có
quyền thêm bớt. Vì luật đã quy định rõ ràng, đầy đủ và có mẫu hướng dẫn nên
các Tịa án khi ra quyết định ủy thác chỉ được phép ghi những nội dung được ghi
nhận trong luật.
Quan điểm 2: Ngược hoàn toàn quan điểm thứ nhất, quan điểm này cho
rằng những nội dung quy định trong luật chỉ là nội dung bắt buộc phải có trong
các quyết định ủy thác, cịn tùy vào trường hợp, vụ việc cụ thể Tòa án có thể ghi
thêm những nội dung khác để làm rõ hơn yêu cầu ủy thác thu thập chứng cứ.
Tác giả đồng tình với quan điểm 2. Vì luật khơng thể dự liệu hết các tình
huống xãy ra trong thực tế nên quy định của pháp luật chỉ khái quát nội dung mà
18
các quyết định cần phải có, cịn các nội dung khác thì tùy theo thực tế cần làm rõ
những vấn đề gì chúng ta thêm vào để Tịa án nhận ủy thác hiểu và thực hiện dễ
dàng yêu cầu ủy thác.
Về việc ghi tên, địa chỉ của người tham gia tố tụng, tại khoản 2 Điều 105
BLTTDS 2015 quy định: Trong quyết định ủy thác phải ghi rõ tên, địa chỉ của
nguyên đơn, bị đơn. Quy định này chưa đầy đủ vì trong nhiều vụ án cịn có
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng. Đặc biệt, trường hợp
Tòa án cần ủy thác thu thập chứng cứ để lấy lời khai người làm chứng, người
liên quan mà không ghi họ tên, địa chỉ của họ là không hợp lý, Tòa án nhận ủy
thác căn cứ vào địa chỉ nào để thực hiện các yêu cầu ủy thác.
Để làm rõ thực tế các Tòa án đã ghi những nội dung gì trong các quyết
định ủy thác, tác giả xin đưa ra một số ví dụ như sau:
Quyết định ủy thác thu thập chứng cứ số 12/2015/QĐ-UTTA ngày 14
tháng 7 năm 2015 của Tòa án nhân dân huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An về “Chia
tài sản chung” giữa nguyên đơn: Bà Huỳnh Thị Kim Hồng và bị đơn: Ông
Nguyễn Văn Hoàng. Tại quyết định trên, ngoài ghi các nội dung theo quy định,
Tòa án nhân dân huyện Thủ Thừa cịn ghi thêm họ tên, địa chỉ người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan và phần tóm tắt nội dung vụ án.
Tương tự, Quyết định ủy thác thu thập chứng cứ số 04/2014/QĐ-UTTA
ngày 25 tháng 9 năm 2014 của Tòa án nhân dân huyện Định Quán, tỉnh Đồng
Nai về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” giữa nguyên đơn: Bà Võ Thị
Phấn, Ông Lương Văn Lợi với bị đơn: ông Phan Văn Nơi. Tại phần quyết định,
sau khi yêu cầu các cơng việc cần ủy thác Tịa án trên đã tóm tắt nội dung vụ án.
Trong khi đó có nhiều Tịa án khơng ghi tóm tắt nội dung vụ việc trong
quyết định ủy thác.
Tại Quyết định số 262/2016/QĐ-UTTA ngày 09 tháng 5 năm 2016 của
Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau về việc “Tranh chấp thừa
kế quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn: Bà Thái Cẩm Tú và các đồng nguyên
đơn với bị đơn: Ông Thái Bá Tước. Tại quyết định ủy thác trên, Tòa án nhân dân
huyện Trần Văn Thời khơng có tóm tắt nội dung vụ án.
Tương tự, Quyết định ủy thác số 56/2015/QĐUT-TA ngày 17 tháng 8 năm
2015 của Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai về việc “Tranh chấp
19
hợp đồng thuê nhà” giữa nguyên đơn: Bà Trần Thị Phương Mai với bị đơn: Ông
Phạm Bá Hùng, bà Nguyễn Thị Bích Thủy. Tại quyết định trên, Tịa án nhân dân
huyện Nhơn Trạch tỉnh Đồng Nai cũng khơng tóm tắt nội dung vụ án.
Từ những quyết định ủy thác thu thập chứng cứ trên thì có hai vấn đề cần
đặt ra là:
Thứ nhất: có cần đưa nội dung vụ việc dân sự vào trong quyết định ủy
thác hay không ?
Thứ hai: Ngồi ngun đơn, bị đơn thì có ghi họ tên, địa chỉ người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng trong quyết định hay không ?
Đối với việc ghi tên, địa chỉ người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì
hầu như các Tịa đều thống nhất ghi vào trong quyết định nếu vụ việc dân sự có
họ tham gia. Đối với nội dung của vụ án thì có Tịa ghi, có Tịa lại khơng ghi làm
cho việc áp dụng pháp luật về vấn đề này tùy tiện, không thống nhất.
Theo quy định của pháp luật, quyết định ủy thác khơng bắt buộc phải có
nội dung vụ việc dân sự nên trong thực tế giải quyết các vụ việc dân sự, có
những trường hợp Tịa án nhận ủy thác không thể thực hiện những công việc ủy
thác đạt kết quả tốt, lý do Tòa án được ủy thác không biết nội dụng vụ việc nên
khi thực hiện u cầu ủy thác Tịa án nhận ủy thác khơng biết những vấn đề
trọng tâm cần hỏi, cần làm rõ, cần xác minh, cần thu thập dẫn đến những vấn đề
cần hỏi thì khơng hỏi, những vấn đề khơng cần hỏi lại hỏi sâu. Do đó, những
cơng việc thực hiện của Tịa án nhận ủy thác khơng đáp ứng u cầu của Tịa án
ủy thác.
Theo tác giả, việc ghi tóm tắt nội dung vụ án vào trong các quyết định ủy
thác làm cho các yêu cầu ủy thác rõ ràng, dễ hiểu và cũng hạn chế được tình
trạng Tịa án nhận ủy thác không biết thực hiện ủy thác thu thập chứng cứ cần
tập trung trọng tâm vào vấn đề gì. Ngồi ra, nội dung ủy thác cần được ghi nhận
ở phần nào cũng cần phải hướng dẫn. Vì có Tịa án ghi trước u cầu ủy thác,
nhưng cũng có quyết định ghi tại phần yêu cầu ủy thác thu thập chứng cứ.
Kiến nghị: Từ những phân tích trên, theo tác giả, tại khoản 2 Điều 105 Bộ
luật tố tụng dân sự quy định: “2. Trong quyết định ủy thác phải ghi rõ tên, địa chỉ
của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm
chứng (nếu có), tóm tắt nội dung vụ án, quan hệ tranh chấp, và những công việc
20
cụ thể ủy thác để thu thập chứng cứ”. Điều này sẽ giúp cho quyết định ủy thác
thu thập chứng cứ đầy đủ, rõ ràng, Tòa án nhận ủy thác dễ thực hiện các yêu cầu
ủy thác.
1.2.2. Hình thức của quyết định ủy thác thu thập chứng cứ
Về hình thức của quyết định của ủy thác thu thập chứng cứ trong lãnh thổ
Việt Nam đã có mẫu hướng dẫn thống nhất tại mẫu số 13-DS được ban hành
kèm theo Nghị quyết 01/2017/NQ – HĐTP ngày 13 tháng 01 năm 2017 của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Tại mẫu trên khơng có người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, khơng có nội dung vụ việc dân sự. Về
cơ bản mẫu trên vẫn không thay đổi so với mẫu số 05, ban hành kèm theo Nghị
quyết 04/2012/NQ-HĐTP ngày 03 tháng 12 năm 2012 của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao. Như vậy, hướng dẫn như trên vẫn không sát với thực
tiễn, không đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn và thể hiện quan điểm những
quy định trong luật là quy định bắt buộc, khơng được thêm hay bớt đi. Như phân
tích ở phần nội dung quyết định ủy thác thu thập chứng cứ thì việc ghi nhận nội
dung vụ việc dân sự vào trong quyết định là cần thiết, tuy nhiên ghi nhận nội
dung trên vào đâu trong quyết định là một vấn đề thực tiễn đặt ra.
Tác giả lấy lại 02 quyết định được ví dụ ở phần trên để làm rõ nội dung
này:
Quyết định ủy thác thu thập chứng cứ số 12/2015/QĐ-UTTA ngày 14
tháng 7 năm 2015 của Tòa án nhân dân huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An về “Chia
tài sản chung” giữa nguyên đơn: Bà Huỳnh Thị Kim Hồng và bị đơn: Ơng
Nguyễn Văn Hồng. Tại quyết định trên, ngồi ghi các nội dung theo quy định,
Tịa án nhân dân huyện Thủ Thừa cịn ghi thêm phần tóm tắt nội dung vụ án vào
kế tiếp sau khi ghi tên, địa chỉ của người tham gia tố tụng.
Quyết định ủy thác thu thập chứng cứ số 04/2014/QĐ-UTTA ngày 25
tháng 9 năm 2014 của Tòa án nhân dân huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai về việc
“Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” giữa nguyên đơn: bà Võ Thị Phấn, ông
Lương Văn Lợi với bị đơn: ông Phan Văn Nơi. Tại phần quyết định, sau khi yêu
cầu các công việc cần ủy thác Tịa án trên đã tóm tắt nội dung vụ án.
Như vậy, những quyết định trên đều có ghi nội dung vụ án vào trong
quyết định ủy thác thu thập chứng cứ, nhưng thứ tự sắp xếp khác nhau. Theo tác