BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
LÝ THANH SANG
BIỆN PHÁP GIỮ NGƯỜI
TRONG TRƯỜNG HỢP KHẨN CẤP
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
BIỆN PHÁP GIỮ NGƯỜI
TRONG TRƯỜNG HỢP KHẨN CẤP
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chun ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60380104
Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Huỳnh Tấn Duy
Học viên: Lý Thanh Sang
Lớp: Cao học Luật Sóc Trăng, Khóa 02
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn
cấp theo luật tố tụng hình sự Việt Nam” là cơng trình nghiên cứu do chính tơi thực
hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Lê Huỳnh Tấn Duy. Các nội dung,
thông tin được trình bày trong luận văn là trung thực. Tơi xin chịu hoàn toàn trách
nhiệm về lời cam đoan trên của mình.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 2018
Tác giả
Lý Thanh Sang
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Biện pháp ngăn chặn
: BPNC
Bộ luật Hình sự
: BLHS
Bộ luật Tố tụng hình sự
Cảnh sát điều tra
: BLTTHS
: CSĐT
Trách nhiệm hình sự
Vụ án hình sự
: TNHS
: VAHS
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. CĂN CỨ GIỮ NGƯỜI TRONG TRƯỜNG HỢP KHẨN CẤP ... 6
1.1. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về căn cứ giữ người
trong trường hợp khẩn cấp ................................................................................... 6
1.2. Thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về
các căn cứ giữ người trong trường hợp khẩn cấp ............................................ 15
1.3. Kiến nghị hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về
căn cứ giữ người trong trường hợp khẩn cấp ................................................... 22
Kết luận Chương 1 .................................................................................................. 25
CHƯƠNG 2. THỦ TỤC GIỮ NGƯỜI TRONG TRƯỜNG HỢP KHẨN CẤP ...
................................................................................................................................... 26
2.1. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về thủ tục giữ người
trong trường hợp khẩn cấp ................................................................................. 26
2.2. Thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về
thủ tục giữ người trong trường hợp khẩn cấp .................................................. 29
2.3. Kiến nghị hồn thiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về
thủ tục giữ người trong trường hợp khẩn cấp .................................................. 39
Kết luận Chương 2 .................................................................................................. 42
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 43
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giữ người trong trường hợp khẩn cấp là một trong những BPNC có tính chất
cưỡng chế, tác động đến những quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp và pháp
luật ghi nhận. Các quy định về giữ người trong trường hợp khẩn cấp là cơ sở để các
cơ quan có thẩm quyền tác động hợp pháp đến quyền cơ bản của công dân, kịp thời
ngăn chặn họ tiếp tục phạm tội, ngăn chặn hậu quả gây ra do hành vi phạm tội mà
họ định thực hiện, ngăn chặn việc họ bỏ trốn, tiêu hủy chứng cứ, thực hiện những
hành vi khác gây khó khăn cho hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi
hành án; từ đó tạo điều kiện cho việc thu thập, củng cố chứng cứ, mở rộng điều tra
vụ án được diễn ra nhanh chóng, khách quan, đúng quy định của pháp luật.
Giữ người trong trường hợp khẩn cấp được quy định tại Điều 110 BLTTHS
năm 2015 và thay thế cho biện pháp “Bắt người trong trường hợp khẩn cấp” quy
định tại Điều 81 BLTTHS năm 2003. Sự sửa đổi này một mặt nhằm đảm bảo phù
hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013: “Không ai bị bắt nếu khơng có quyết
định của Tồ án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân,
trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định”1.
BLTTHS năm 2003 quy định khi có căn cứ bắt khẩn cấp, các cơ quan có thẩm
quyền được phép bắt trước sau đó mới đề nghị Viện kiểm sát phê chuẩn lệnh bắt.
Mặt khác, nhằm khắc phục những bất cập, hạn chế sau hơn 10 năm thi hành các quy
định liên quan đến bắt người trong trường hợp khẩn cấp của BLTTHS năm 2003
như: khắc phục quy định mang tính chất định tính, chưa cụ thể về căn cứ bắt khẩn
cấp dẫn đến việc bắt oan, bắt sai trường hợp hoặc bắt người rồi nhưng Viện kiểm
sát không phê chuẩn.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu tác giả nhận thấy các quy định của BLTTHS năm
2015 về biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp vẫn còn những hạn chế
nhất định như: Căn cứ giữ người vẫn chưa được quy định cụ thể, rõ ràng, còn mang
nặng yếu tố chủ quan của cơ quan tiến hành áp dụng biện pháp giữ người; quy định:
“Có căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng
hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng” (điểm a khoản 1 Điều 110 BLTTHS năm
2015) chưa tương thích với quy định tại khoản Điều 14 Bộ luật hình sự năm 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2017) về TNHS trong giai đoạn chuẩn bị phạm tội; quy định
1
Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013.
2
về thủ tục giữ người trong trường hợp khẩn cấp chưa rõ ràng, chặt chẽ. Từ những
hạn chế, bất cập trong quy định của BLTTHS năm 2015 về giữ người trong trường
hợp khẩn cấp dẫn đến thực tiễn áp dụng biện pháp này cịn gặp khó khăn, lúng túng.
Bên cạnh đó, vẫn cịn xảy ra tình trạng giữ người trong trường hợp khẩn cấp sai thủ
tục, vi phạm các quy định về căn cứ, thủ tục giữ người.
Trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện công cuộc cải cách tư pháp theo tinh
thần Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị Về một số nhiệm vụ
trọng tâm cơng tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày
25/4/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49-NQ/TW
ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, việc
tiếp tục nghiên cứu các quy định của BLTTHS năm 2015 về biện pháp biện pháp giữ
người trong trường hợp khẩn cấp và thực tiễn áp dụng nhằm đưa ra những giải pháp
hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng BPNC này trong thực tiễn giải quyết
vụ án hình sự ở nước ta trong thời gian tới là một nhu cầu cấp thiết. Vì vậy, tác giả đã
chọn đề tài “Biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp theo Luật Tố tụng hình
sự Việt Nam” làm đề tài luận văn tốt nghiệp Cao học luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong khoa học pháp lý chưa có nhiều cơng trình nghiên cứu về biện pháp giữ
người trong trường hợp khẩn cấp. Tuy nhiên, do biện pháp này được xây dựng trên
cơ sở kế thừa từ biện pháp bắt người trong trường hợp khẩn cấp được quy định
trong BLTTHS năm 2003 nên có thể kể đến một số cơng trình nghiên cứu có liên
quan như sau:
Về giáo trình, sách chun khảo có các cơng trình như: PGS.TS Nguyễn Ngọc
Chí (2014), “Chương 11 - Điều tra vụ án hình sự”, Giáo trình luật Tố tụng hình sự
Việt Nam, NXB Đại học quốc gia Hà Nội; Phạm Thanh Bình (1992), Một trăm lời
giải đáp về bắt giữ, khám xét, NXB Công an nhân dân, Hà Nội; Nguyễn Vạn Nguyên
(2002), Một trăm câu hỏi đáp về bắt, giam, giữ và khám xét đúng pháp luật, tìm hiểu
pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội; Giáo trình
Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, (2012), Trường Đại học Luật Thành Phố Hồ Chí
Minh, NXB Hồng Đức; Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, (2010), Trường
Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân, năm 2010; Trần Quang Tiệp, (2006),
Biện pháp bắt người trong trường hợp khẩn cấp. Qua tìm hiểu tác giả nhận thấy các
3
sách, giáo trình này tập trung viết về biện pháp bắt người trong trường hợp khẩn cấp
theo BLTTHS năm 2003, chưa có cơng trình nào nghiên cứu về biện pháp giữ người
trong trường hợp khẩn cấp theo quy định của BLTTHS năm 2015.
Bên cạnh giáo trình, sách chuyên khảo như đã liệt kê ở trên, thì trong khoa học
pháp lý có một số bài viết tạp chí có liên quan đến giữ người trong trường hợp khẩn
cấp như: Hồng Đình Thanh (2012), “Một số bất cập về tạm giữ và thủ tục bắt
người trong trường hợp khẩn cấp trong BLTTHS năm 2003”, Tạp chí Tịa án nhân
dân, (23); Ngơ Văn Vịnh, Nguyễn Văn Tuyến (2014), “Một số kiến nghị hoàn thiện
biện pháp bắt người trong trường hợp khẩn cấp”, Tạp chí Khoa học kiểm sát, Đại
học kiểm sát Hà Nội (4); Phan Thanh Mai (1998), “Việc bắt người trong trường hợp
khẩn cấp, Tạp chí Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội (5); Ngô Văn Vinh, Ngô
Thanh Nhàn (2018), “Một số vấn đề trao đổi về biện pháp giữ người trong trường
hợp khẩn cấp”, Tạp chí Tịa án nhân dân (5); Nguyễn Hồng Thiện (2017), “Quy
định về biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp theo BLTTHS năm 2015”,
Tạp chí Kiểm sát (11);...
Nhìn chung các cơng trình nghiên cứu khoa học trên chủ yếu phân tích, bình
luận và đánh giá về biện pháp bắt người trong trường hợp khẩn cấp được quy định
bởi BLTTHS năm 2003. Đối với biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp
trong BLTTHS năm 2015 mới có hiệu lực thi hành nên hiện nay chưa có nhiều tác
giả nghiên cứu về biện pháp này. Trong số các cơng trình được tác giả liệt kê chỉ có
hai bài viết tạp chí viết về biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp theo
BLTTHS năm 2015. Tuy nhiên hai bài viết này chỉ dừng lại ở việc phân tích khái
quát quy định của luật, đánh giá quy định và đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện
pháp luật mà chưa đi sâu vào phân tích quy định của luật về căn cứ, thủ tục giữ
người trong trường hợp khẩn cấp, khảo sát và đánh giá thực tiễn áp dụng biện pháp
này trên thực tế, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện
pháp này. Đặc biệt chưa có một cơng trình khoa học nào nghiên cứu sâu sắc và tồn
diện về biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp dưới góc độ ứng dụng nên
đây cũng là định hướng nghiên cứu mới trong cơng trình khoa học này của tác giả.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ quy định của BLTTHS năm
2015 về căn cứ, thủ tục giữ người trong trường hợp khẩn cấp cũng như khảo sát các
4
vụ án, vụ việc xảy ra trong thực tế để chỉ ra những vướng mắc, bất cập còn tồn tại
trong quy định của BLTTHS năm 2015 và thực tiễn áp dụng về căn cứ, thủ tục giữ
người trong trường hợp khẩn cấp. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất kiến nghị hoàn
thiện quy định của BLTTHS năm 2015 và một số giải pháp khác nhằm nâng cao
hiệu quả áp dụng quy định của pháp luật về biện pháp giữ người trong trường hợp
khẩn cấp.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn xác định các nhiệm vụ:
+ Phân tích, làm rõ căn cứ áp dụng và thủ tục áp dụng biện pháp giữ người
trong trường hợp khẩn cấp được quy định trong BLTTHS năm 2015;
+ Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng quy định của BLTTHS năm 2015 về
căn cứ áp dụng và thủ tục áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp.
Trên cơ sở đó, đưa ra kiến nghị hoàn thiện quy định của BLTTHS năm 2015
về căn cứ, thủ tục áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp và các
giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng BPNC này trong thực tiễn.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Luận văn tập trung nghiên cứu những quy định của BLTTHS năm 2015 về căn
cứ và thủ tục giữ người trong trường hợp khẩn cấp; so sánh với BLTTHS năm
2003. Bên cạnh đó, luận văn cịn nhận xét và đánh giá thực tiễn áp dụng các quy
định này để tìm ra những khó khăn, hạn chế và bất cập.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài
+ Về thời gian: từ khi BLTTHS năm 2015 có hiệu lực pháp luật (ngày
01/01/2018) đến nay.
+ Về không gian: tác giả chủ yếu tập trung nghiên cứu, khảo sát các vụ án trên
trên địa bàn 03 tỉnh Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Để thực hiện đề tài, tác giả vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử làm phương pháp luận.
Các phương pháp cụ thể được sử dụng để thu thập, phân tích và xử lý thơng
tin gồm:
5
- Phương pháp so sánh được sử dụng để làm rõ những điểm giống và khác
nhau trong các quy định về giữ người trong trường hợp khẩn cấp trong BLTTHS
năm 2015 và BLTTHS năm 2003.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp được sử dụng để phân tích các nội dung,
vấn đề cần nghiên cứu, trình bày khái quát kết quả nghiên cứu.
- Phương pháp thống kê dùng để tổng hợp các số liệu về vụ án trên thực tế để
từ đó đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về giữ người trong
trường hợp khẩn cấp.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ làm phong phú thêm cho khoa học luật TTHS
những nội dung về biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp. Đây cũng là tài
liệu tham khảo cho giảng viên, sinh viên chuyên ngành luật và những người có quan
tâm về vấn đề này.
Đề tài cũng đã làm rõ các vướng mắc, hạn chế còn tồn tại trong quy định của
pháp luật và thực tiễn từ đó đóng góp ý kiến nhằm hoàn thiện quy định của pháp
luật tố tụng hình sự. Đề tài có thể được tham khảo trong hoạt động lập pháp để góp
phần vào việc hồn thiện quy định của pháp luật TTHS về biện pháp giữ người
trong trường hợp khẩn cấp cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng trên thực tế.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
gồm hai chương:
Chương 1. Căn cứ giữ trường trong trường hợp khẩn cấp
Chương 2. Thủ tục giữ trường trong trường hợp khẩn cấp
6
CHƯƠNG 1
CĂN CỨ GIỮ NGƯỜI TRONG TRƯỜNG HỢP KHẨN CẤP
1.1. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về căn cứ giữ người
trong trường hợp khẩn cấp
Giữ người trong trường hợp khẩn cấp là một BPNC được quy định trong
BLTTHS năm 2015 (Điều 110) để thay thế cho biện pháp bắt người trong trường
hợp khẩn cấp được quy định trong BLTTHS năm 2003 (Điều 81). Quá trình áp
dụng Điều 81 cho thấy còn nhiều bất cập như: khi có một trong các căn cứ được
quy định tại khoản 1 Điều này thì người có thẩm quyền được ra lệnh bắt người
trong trường hợp khẩn cấp và thi hành ngay lệnh bắt, sau đó người có thẩm quyền
phải gửi lệnh bắt, hồ sơ về việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp để Viện kiểm
sát cùng cấp xét phê chuẩn. Như vậy, theo quy định này thì cơ quan có thẩm quyền
sẽ bắt trước và đề nghị phê chuẩn sau. Điều này là chưa phù hợp với tinh thần của
Hiến pháp năm 2013 “Không ai bị bắt nếu khơng có quyết định của Tịa án, quyết
định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát, trừ trường hợp bắt người phạm tội quả
tang”; chưa phù hợp với nguyên tắc “Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân
thể” (Điều 10 BLTTHS năm 2015). Vì vậy, BLTTHS năm 2015 đã thay thế bằng
tên gọi giữ người trong trường hợp khẩn cấp2 và sửa đổi, bổ sung một số vấn đề về
căn cứ, thẩm quyền và thủ tục áp dụng nhằm đáp ứng nhu cầu của thực tiễn, đảm
bảo quyền con người trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Giữ người trong trường hợp khẩn cấp là biện pháp mang tính cấp bách được
những người có thẩm quyền tiến hành trước khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự.
Đối tượng bị áp dụng biện pháp này là những người chưa bị khởi tố về hình sự, chưa
phải là bị can, bị cáo. Mục đích của việc áp dụng biện pháp giữ người trong trường
hợp khẩn cấp nhằm kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội đang chuẩn bị được thực
hiện cũng như ngăn chặn những hành vi gây khó khăn, cản trở đối với các hoạt động
tố tụng, đảm bảo hiệu quả của các hoạt động tố tụng, góp phẩn xác định sự thật của
vụ án. Giữ người trong trường hợp khẩn cấp là BPNC mang tính nghiêm khắc trong
tố tụng hình sự, khi áp dụng sẽ hạn chế quyền tự do của người bị áp dụng biện pháp
này. Vì vậy, để đảm bảo việc áp dụng thống nhất biện pháp này trong thực tiễn, hạn
chế sự tùy liện, lạm quyền của các cơ quan, người có thẩm quyền cũng như nhằm
2
Ngô Văn Vịnh, Ngô Thanh Nhàn, (2018), “Một số vấn đề trao đổi về biện pháp giữ người trong trường hợp
khẩn cấp”, Tạp chí Tịa án nhân dân, (5), tr.26.
7
đảm bảo quyền con người của những người bị áp dụng BPNC này thì BLTTHS năm
2015 đã quy định căn cứ áp dụng biện pháp này như sau:
Theo khoản 1 Điều 110 BLTTHS năm 2015 quy định ba căn cứ giữ người
trong trường hợp khẩn cấp như sau:
Căn cứ thứ nhất, có đủ căn cứ để xác định một người đang chuẩn bị thực
hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Để có thể giữ
người trong trường hợp này cần phải có đủ hai điều kiện:
Một là, có đủ căn cứ để xác định một người đang chuẩn bị thực hiện tội phạm.
Việc thực hiện tội phạm có thể trải qua nhiều giai đoạn khác nhau như hình thành ý
định phạm tội, biểu lộ ý định phạm tội, chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, tội
phạm hoàn thành. Trong trường hợp này cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận nguồn tin
về tội phạm và qua kiểm tra, xác minh có đủ căn cứ để xác định một người đang
chuẩn bị phạm tội. Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn cơng cụ, phương tiện
hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm (lựa chọn thời gian, địa
điểm hay bày mưu, tính kế cho việc thực hiện tội phạm) hoặc thành lập, tham gia
nhóm tội phạm trừ những trường hợp luật định3. Như vậy hành vi chuẩn bị phạm tội
chỉ là những hành vi tạo điều kiện vật chất hoặc tinh thần giúp cho việc thực hiện
hành vi phạm tội xảy ra hoặc có thể xảy ra thuận lợi, dễ dàng chứ chưa phải là
những hành vi khách quan được quy định trong cấu thành tội phạm cụ thể. Nếu xác
định được một người đang thực hiện hành vi khách quan được quy định trong cấu
thành tội phạm cụ thể thì người có thẩm quyền được tiến hành biện pháp bắt người
trong trường hợp phạm tội quả tang theo Điều 111 BLTTHS năm 2015 chứ không
phải biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp. Hành vi phạm tội quả tang là
những hành vi khách quan rõ ràng, cụ thể bất kỳ ai cũng có thể nhận biết được nên
pháp luật TTHS quy định bất kỳ ai cũng có quyền bắt người phạm tội quả tang. Tuy
nhiên, khác với hành vi phạm tội quả tang, hành vi chuẩn bị phạm tội là những hành
vi khơng đơn giản, chưa có sự rõ ràng, cụ thể nên khơng phải ai cũng có nhận biết
được mà phải là những người có trình độ chun môn nghiệp vụ và phải trải qua
những biện pháp nghiệp vụ, biện pháp tố tụng để kiểm tra, xác minh mới có thể kết
luận về hành vi này4. Vì vậy, phải là những chủ thể có thẩm quyền được pháp luật
quy định mới được giữ người trong trường hợp khẩn cấp nhằm hạn chế sự tùy tiên,
3
4
Khoản 1 Điều 14 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Phan Thanh Mai (1998), “Việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp”, Tạp chí Luật học (5), tr.54.
8
oan sai, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị áp dụng. Những
hành vi này tuy chưa trực tiếp gây thiệt hại đến lợi ích của các cá nhân, cơ quan, tổ
chức, quyền lợi của nhà nước nhưng nó đã đe dọa xâm hại đến các lợi ích này vì
vậy, cần ngăn chặn ngay để bảo vệ các lợi ích trên.
Hai là, tội phạm đang chuẩn bị được thực hiện phải là tội phạm rất nghiêm
trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Tuy hành vi chuẩn bị phạm tôi đe dọa
gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ nhưng không phải
hành vi chuẩn bị phạm tội nào cũng phải chịu TNHS và cơ quan có thẩm quyền nếu
phát hiện đều sẽ được giữ người trong trường hợp khẩn cấp để ngăn chặn hành vi
chuẩn bị phạm tội đó. Theo quy định của BLTTHS năm 2015 thì người có thẩm
quyền chỉ được áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp nếu tội
phạm đang chuẩn bị được thực hiện là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt
nghiêm trọng. Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do BLHS quy định
đối với tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù; Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là
tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao
nhất của khung hình phạt do Bộ luật hình sự quy định đối với tội ấy là từ trên 15
năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình5. Điều luật khơng cho phép giữ
người đang chuẩn bị thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng.
Như vậy, khi muốn giữ người trong trường hợp khẩn cấp thì cơ quan, người có
thẩm quyền phải thu thập được đầy đủ các chứng cứ để xác định một người có hành
vi chuẩn bị thực hiện tội phạm và tội phạm họ đang chuẩn bị thực hiện phải là tội
phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng được quy định trong
Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). So với BLTTHS năm 2003
thì việc quy định căn cứ này trong BLTTHS năm 2015 đã rõ ràng hơn và chặt chẽ
hơn, góp phần hạn chế sự tùy tiện trong việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp.
Tuy nhiên, việc quy định căn cứ giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với
người chuẩn bị phạm tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng theo tác giả còn
một số bất cập sau:
Căn cứ giữ người trong trường hợp khẩn cấp chưa đảm bảo sự tương thích giữa
BLHS và BLTTHS. Cụ thể, BLTTHS năm 2015 quy định cơ quan có thẩm quyền
được giữ người trong trường hợp khẩn cấp khi có đủ căn cứ xác định một người đang
5
Điểm c, d khoản 1 Điều 9 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
9
chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Quy định
này khơng có sự thay đổi so với BLTTHS năm 2003. Quy định trong BLTTHS năm
2003 về bắt người trong trường hợp khẩn cấp đã đảm bảo sự tương thích với quy định
tại Điều 17 Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) vì người
chuẩn bị phạm tội chỉ phải chịu TNHS khi họ chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng
hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Như vậy, theo quy định một người chỉ phải chịu TNHS
trong trường hợp chuẩn bị phạm tội và có thể bị áp dụng biện pháp “Bắt người trong
trường hợp khẩn cấp” nếu người đó chuẩn bị thực hiện một tội phạm rất nghiêm
trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Quy định này nhằm mục đích ngăn chặn kịp thời
các hành vi phạm tội trong trường hợp có đủ cơ sở để khẳng định một người đang
chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng nên cần bắt
ngay, để ngăn chặn kịp thời việc người đó gây thiệt hại cho xã hội. Tuy nhiên, tại
khoản 2 Điều 14 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định người chuẩn
bị phạm một trong các tội sau đây thì phải chịu TNHS:
a. Điều 108 (tội phản bội Tổ quốc); Điều 110 (tội gián điệp); Điều 111 (tội
xâm phạm an ninh lãnh thổ); Điều 112 (tội bạo loạn); Điều 113 (tội khủng bố nhằm
chống chính quyền nhân dân); Điều 114 (tội phá hoại cơ sở vật chất – kỹ thuật của
nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam); Điều 117 (tội làm, tàng trữ, phát tán
hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam); Điều 118 (tội phá rối an ninh); Điều 119 (tội chống phá
trại giam); Điều 120 (tội tổ chức, cưỡng ép, xúi giục người khác trốn đi nước ngồi
hoặc trốn ở lại nước ngồi nhằm chống chính quyền nhân dân); Điều 121 (tội trốn
đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngồi nhằm chống chính quyền nhân dân);
b) Điều 123 (tội giết người); Điều 134 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác);
c) Điều 168 (tội cướp tài sản); Điều 169 (tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản);
d) Điều 299 (tội khủng bố); Điều 300 (tội tài trợ khủng bố); Điều 301 (tội bắt
cóc con tin); Điều 302 (tội cướp biển); Điều 303 (tội phá hủy cơng trình, cơ sở,
phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia); Điều 324 (tội rửa tiền).
Với quy định này có thể xảy ra các trường hợp bất cập sau đây:
+ Trường hợp thứ nhất, có những tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm
trọng được quy định tại điểm a, b, c, d khoản 2 Điều 14 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2017) người chuẩn bị phạm tội phải chịu TNHS nhưng cơ quan có thẩm
10
quyền lại không được áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp để kịp
thời ngăn chặn hành vi chuẩn bị phạm tội của họ mà phải để họ thực hiện hành vi
khách quan được quy định trong cấu thành tội phạm cụ thể thì mới được bắt quả tang.
Trong trường hợp này cơ quan có thẩm quyền không được áp dụng biện pháp giữ
người trong trườg hợp khẩn cấp là chưa phù hợp với mục đích của biện pháp giữ
người trong trường hợp khẩn cấp vì mục đích của biện pháp này là để kịp thời ngăn
chặn tội phạm nhằm đảm bảo kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ
quan, tổ chức, của Nhà nước đang có nguy cơ bị hành vi phạm tội gây thiệt hại. Mặt
khác, việc áp dụng kịp thời biện pháp này cũng sẽ đảm bảo cho các hoạt động tố tụng
tiếp theo nhằm truy cứu TNHS đối với người thực hiện hành vi chuẩn bị phạm tội.
+ Trường hợp thứ hai, có trường hợp người thực hiện hành vi chuẩn bị phạm tội
rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng nhưng theo quy định của BLHS họ sẽ
không phải chịu TNHS. Theo quy định của BLTTHS năm 2015 thì cơ quan có thẩm
quyền vẫn được áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với họ.
Việc giữ người trong trường hợp này sẽ kịp thời ngăn chặn hành vi chuẩn bị phạm tôi
đe dọa gây thiệt hại rất lớn hoặc đặc biệt lớn cho xã hội. Tuy nhiên, sau khi giữ người
cơ quan có thẩm quyền lại phải trả tự do cho người bị giữ vì họ khơng phải chịu
TNHS, điều này có thể dẫn đến hệ lụy xấu trong tâm lý của quần chúng nhân dân đối
với hoạt động giữ người của cơ quan có thẩm quyền. Như vậy, việc áp dụng biện
pháp giữ người trong trường hợp này không đáp ứng được mục đích để truy cứu
TNHS. Qua phân tích ở trên, rõ ràng chưa có sự nhất quán của nhà làm luật về mục
đích áp dụng BPNC giữ người trong trường hợp khẩn cấp, cụ thể: nếu giữ người
trong trường hợp khẩn cấp đặt ưu tiên cao nhất cho mục đích kịp thời ngăn chặn hành
vi chuẩn bị phạm tội để bảo vệ lợi ích của cá nhân, cơ quan, tổ chức, của Nhà nước
trước nguy cơ bị hành vi phạm tội gây thiệt hại thì biện pháp giữ người trong trường
hợp khẩn cấp sẽ được áp dụng đối với mọi hành vi chuẩn bị phạm tội mà không phụ
thuộc vào việc hành vi chuẩn bị phạm tội đó có thuộc trường hợp phải chịu TNHS
theo quy định của BLHS hay không. Quy định này sẽ khắc phục được khó khăn,
vướng mắc trên thực tiễn vì trong nhiều trường hợp việc xác định loại tội phạm mà
người đó đang chuẩn bị thực hiện có phải là tội phạm rất nghiêm, đặc biệt nghiêm
trọng hay khơng là rất khó khăn. Nhất là đối với những tội phạm có cấu thành vật
chất, hậu quả xảy ra là dấu hiệu định tội, định khung tăng nặng để xác định loại tội
phạm. Trong những trường hợp này, quá trình thực hiện tội phạm mới ở giai đoạn
11
chuẩn bị phạm tội, người chuẩn bị phạm tội chưa thực hiện hành vi khách quan của
tội phạm, chưa gây ra thiệt hại nên không thể xác định được người đó chuẩn bị phạm
tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trong hay không. Trong khi yêu cầu khẩn cấp,
cấp bách đang được đặt ra là cần xác minh nhanh chóng loại tội phạm phạm để quyết
định áp dụng hay không áp dụng việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp. Do đó,
nếu luật quy định giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với mọi hành vi chuẩn bị
phạm tội sẽ bảo vệ tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức,
của Nhà nước đang có nguy cơ bị tội phạm xâm hại và hạn chế được những khó khăn
trong thực tiễn áp dụng. Tuy nhiên, quy định này sẽ dẫn đến việc mở rộng phạm vi
các trường hợp được giữ người trong trường hợp khẩn cấp, không phù hợp với
nguyên tắc hiến định việc bảo vệ quyền con người của người bị áp dụng biện pháp
này. Ngược lại, nếu mục đích của việc áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp
khẩn cấp bên cạnh việc kịp thời ngăn chặn tội phạm còn nhằm đảm bảo việc truy cứu
TNHS đối với hành vi chuẩn bị phạm tội thì giữ người trong trường hợp khẩn cấp sẽ
chỉ được áp dụng đối với những hành vi chuẩn bị phạm tội mà theo quy định của
BLHS người thực hiện hành vi chuẩn bị phạm tội phải chịu TNHS.
Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, BLTTHS năm 2015 lại không quy định căn
cứ áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp theo một trong hai trường
hợp ở trên. Vì vậy dẫn đến tình trạng có loại tội phạm theo quy định của BLHS người
thực hiện hành vi chuẩn bị phạm tội phải chịu TNHS thì khơng được áp dụng biện
pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp để kịp thời ngăn chặn tội phạm và đảm
bảo hiệu quả hoạt động tố tụng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác định sự thật
khách quan của vụ án. Ngược lại có những trường hợp hành vi chuẩn bị phạm tội
không phải chịu TNHS nhưng cơ quan có thẩm quyền lại được áp dụng biện pháp giữ
người trong trường hợp khẩn cấp để ngăn chặn hành vi chuẩn bị phạm tội rồi sau đó
phải trả tự do cho người bị giữ. Như vậy, BLTTHS năm 2015 quy định căn cứ áp
dụng giữ người trong trường hợp khẩn cấp như hiện nay là căn cứ vào tính chất, mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi chuẩn bị phạm tội và điều này chưa có sự tương
thích với quy định của luật nội dung là BLHS. Đi ngược lại với mối quan hệ giữa luật
nội dung với luật hình thức. Luật hình thức phải được xây dựng trên nền tảng các quy
định của luật nội dung và phù hợp, tương thích với các quy định của luật nội dụng. Vì
vậy, theo tác giả quy định của BLTTHS năm 2015 về căn cứ giữ người trong trường
hợp này cần được xem xét, sửa đổi cho phù hợp.
12
Mặt khác, BLTTHS năm 2015 chưa có quy định cũng như chưa có hướng dẫn
của cơ quan có thẩm quyền về hiểu như thế nào là “Có đủ căn cứ để xác định” một
người đang chuẩn bị thực hiện tội phạm. Thực tiễn cơ quan có thẩm quyền có thể
xác định thông qua việc theo dõi các đối tượng và biện pháp nghiệp vụ khác, qua
kiểm tra, xác minh nguồn tin về tội phạm hay còn những căn cứ nào khác. Việc
khơng có quy định cũng như hướng dẫn cụ thể về căn cứ này có thể dẫn đến việc
hiểu và áp dụng không thống nhất trên thực tế, dẫn đến sự tùy tiện, lạm quyền của
các chủ thể trong việc áp dụng biện pháp này hoặc cũng có thể dẫn đến tâm lý an
tồn, sợ sai nên người có thẩm quyền khơng quyết đốn trong việc áp dụng.
Căn cứ thứ hai: người cùng thực hiện tội phạm hoặc bị hại hoặc người có
mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt nhìn thấy và xác nhận đúng là người đã thực
hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn.
Đây là trường hợp tội phạm đã xảy ra nhưng vì những lý do khác nhau mà
người phạm tội không bị bắt lúc đang thực hiện tội phạm. Việc giữ người trong
trường hợp này phải đáp ứng điều kiện sau:
Người cùng thực hiện tội phạm hoặc bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra
tội phạm chính mắt nhìn thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm.
Đây là những người đã có mặt tại nơi xảy ra tội phạm vào thời điểm hành vi phạm
tội được thực hiện. Họ là những người đã trực tiếp chứng kiến sự việc phạm tội xảy
ra và xác nhận đúng người đã thực hiện hành vi phạm tội. Quy định này nhằm bảo
đảm tính chính xác của thông tin về người thực hiện hành vi phạm tội mà họ đã
cung cấp. Mặt khác khả năng quan sát, nhận thức sự việc và đánh giá vấn đề của các
chủ thể là khác nhau vì vậy việc xác nhận của các chủ thể này cần phải được kiểm
tra, xác minh bởi các chủ thể có thẩm quyền nhằm hạn chế việc giữ người sai đối
tượng và không đúng căn cứ. Trong trường hợp người xác nhận không trực tiếp
chứng kiến hành vi phạm tội được thực hiện mà chỉ gián tiếp biết được về người có
khả năng đã thực hiện hành vi phạm tội thì cơ quan có thẩm quyền khơng được giữ
người trong trường hợp khẩn cấp.
Xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn, BPNC nói chung và giữ
người trong trường hợp khẩn cấp nói riêng là những biện pháp mang tính lựa chọn.
Việc áp dụng các biện pháp này chỉ được đặt ra trong những trường hợp cần thiết và
nhằm những mục đích nhất định chứ không phải được áp dụng đối với tất cả các vụ
án. Nếu đối tượng bị người khác xác nhận mà khơng có hành vi bỏ trốn hoặc không
13
có khả năng bỏ trốn thì khơng cần thiết phải áp dụng biện pháp này. Việc giữ người
trong trường hợp này mang tính khẩn cấp, cấp bách nhằm ngăn chặn người đã thực
hiện hành vi phạm tội bỏ trốn. Việc đối tượng bỏ trốn sẽ gây khó khăn cho các hoạt
động tố tụng nhằm làm sáng tỏ sự thật vụ án. Tuy nhiên, BLTTHS năm 2015 không
quy định cũng như chưa có hướng dẫn về căn cứ để xác định việc người thực hiện
hành vi phạm tội sẽ bỏ trốn. Việc luật khơng có quy định sẽ dẫn đến sự tùy tiện, lạm
quyền trong thực tiễn áp dụng cũng như sự không thống nhất về cách hiểu đối với căn
cứ này. Đối tượng bỏ trốn ở đây có thể hiểu theo nghĩa rộng không chỉ là những hành
vi cụ thể chúng tỏ họ bỏ trốn hoặc hành vi chuẩn bị bỏ trốn mà có thể cịn bao gồm cả
những khả năng thực tế để cho rằng họ có thể bỏ trốn (nhân thân xấu hoặc căn cứ vào
tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội) hoặc có thể khó khăn
trong việc triệu tập đối tượng như đối tượng khơng có nơi cư trú rõ ràng...
Qua phân tích trên, chúng tơi cho rằng BLTTHS năm 2015 cần quy định cũng
như có hướng dẫn cụ thể về việc ngăn chặn đối tượng bỏ trốn. Mặt khác cần quy
định mở rộng sự cần thiết phải áp dụng biện pháp giữ người đối với đối tượng đã bị
người khác xác nhận họ đã thực hiện hành vi phạm tội nhằm đảm bảo hiệu quả của
hoạt động tố tụng ngăn chặn đối tượng gây khó khăn cho các hoạt động tố tụng chứ
khơng chỉ bó hẹp đối với căn cứ đối tượng bỏ trốn. Ví dụ như: đối tượng có thể tiêu
hủy chứng cứ, thống nhất lời khai, đe dọa người khác khai báo chống lại mình hoặc
khơng có nơi trú rõ ràng… Mặt khác, tác giả cho rằng việc điều luật sử dụng thuật
ngữ bị hại trong căn cứ này là chưa phù hợp vì theo quy định tại Điều 62 BLTTHS
năm 2015 bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội
phạm gây ra. Thời điểm xuất hiện tư cách bị hại từ khi nào trong khoa học pháp lý
hiện nay vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau. Về mặt nội dung từ khi cá nhân bị
hành vi phạm tội trực tiếp gây thiệt hại về thể chất, tinh thần hoặc tài sản thì họ đã
là người bị thiệt hại. Tuy nhiên về mặt thủ tục TTHS nếu các cơ quan có thẩm
quyền chưa bắt tay vào quá trình tố tụng để giải quyết vụ án làm phát sinh quan hệ
pháp luật thì sẽ chưa có các chủ thể tham gia tố tụng. Theo đó, chỉ sau khi cơ quan
có thẩm quyền tiếp nhận nguồn tin, kiểm tra xác minh mà xác định được có dấu
hiệu tội phạm để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, chứng minh được thiệt hại về
thể chất, tinh thần, tài sản do hành vi phạm tội gây ra thì tư cách bị hại mới được
cơng nhận. Cịn trong q trình tiếp nhận và giải quyết nguồn tin về tội phạm mà
chưa khởi tố vụ án hình sự thì cá nhân xác nhận về người đã thực hiện hành vi
14
phạm tội có thể tồn tại với tư cách người tố giác hoặc người báo tin về tội phạm. Vì
vậy, tác giả cho rằng đây cũng là một vấn đề cần được xem xét để hoàn thiện trong
BLTTHS năm 2015 về căn cứ này.
Căn cứ thứ ba: có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở hoặc nơi làm
việc hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần
ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ. Để giữ người theo
trường hợp khẩn cấp này cũng cần phải đáp ứng đủ hai điều kiện sau đây:
Có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở hoặc nơi làm việc hoặc trên
phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm. Dấu vết của tội phạm bao gồm
vật chứng (vật được sử dụng làm công cụ phương tiện phạm tội, vật mang dấu vết
tội phạm, vật là đối tượng của tội phạm), những tài liệu có liên quan đến tội phạm
tìm thấy trong người hoặc tại chỗ ở hoặc nơi làm việc hoặc trên phương tiện của
người bị nghi thực hiện tội phạm. Đây là những người mà cơ quan có thẩm quyền
chưa có đủ chứng cứ để khẳng định họ là người đã thực hiện hành vi phạm tội
nhưng do tìm được dấu vết của tội phạm ở trên người, nơi ở, nơi làm việc, phương
tiện của họ nên họ bị nghi là đã thực hiện hành vi phạm tội. Những dấu vết này
thường được phát hiện thông qua tố giác của cá nhân, khám xét người, chỗ ở, chỗ
làm việc, phương tiện, hoặc kiểm tra hành chính…
Cần giữ ngay để ngăn chặn việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ. Sau
khi phát hiện dấu vết tội phạm để giữ người trong trường hợp khẩn cấp cơ quan có
thẩm quyền cần có căn cứ để xác định nếu không giữ ngay, người bị nghi thực hiện
tội phạm có thể sẽ bỏ trốn hoặc có hành động tiêu hủy chứng cứ, gây khó khăn cho
hoạt động tố tụng. Tuy nhiên, BLTTHS năm 2015 cũng chưa có quy định cũng như
chưa có văn bản hướng dẫn về căn cứ này nhằm đảm bảo việc áp dụng thống nhất.
Trên thực tế các hành vi được coi là căn cứ để ngăn chặn việc người bị nghi thực
hiện tội phạm bỏ trốn cũng tương tự như các hành vi đã được trình bày trong căn cứ
giữ người trong trường hợp khẩn cấp thứ hai. Bên cạnh đó, người bị nghi thực hiện
tội phạm có hành vi tiêu hủy chứng cứ thì cũng có thể quyết định giữ khẩn cấp. Vì
luật chưa có quy định tiêu chí cụ thể để xác định việc người bị tình nghi sẽ bỏ trốn
hoặc tiêu hủy dấu vết nên việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp này phụ thuộc
chủ yếu vào nhận thức, đánh giá của người có thẩm quyền ra lệnh giữ.
Xuất phát từ thực tiễn đấu tranh và phòng chống tội phạm, BLTTHS năm 2015
cũng bổ sung thêm việc phát hiện dấu vết tội phạm tại “nơi làm việc hoặc trên phương
15
tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm” là những căn cứ để áp dụng BPNC này. Tác
giả đồng tình với quan điểm cho rằng BLTTHS năm 2015 quy định về căn cứ giữ
người thứ ba này còn thiếu “nơi học tập”. “Nơi học tập” có sự khác biệt với chỗ ở và
nơi làm việc6. Trong thực tế nếu cơ quan có thẩm quyền phát hiện có dấu vết tội phạm
ở nơi học tập của người đó thì có được ra lệnh giữ người hay không. Tác giả cho rằng
đây là một vấn đề cịn thiếu sót trong quy định của BLTTHS năm 2015.
1.2. Thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về
các căn cứ giữ người trong trường hợp khẩn cấp
Quy định về giữ người trong trường hợp khẩn cấp của BLTTHS năm 2015
mới có hiệu lực từ ngày 01/01/2018, chính vì vậy chưa có số liệu thống kê cụ thể về
việc áp dụng biện pháp này trên thực tế của các cơ quan có thẩm quyền. Trong
phạm vi luận văn này tác giả đã tiến hành khảo sát và đánh giá đối với 10 vụ việc
mà người có thẩm quyền đã ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp ở 03 tỉnh
Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu7. Qua việc nghiên cứu 10 trường hợp áp dụng biện
pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, tác giả có một số nhận xét như sau:
Thứ nhất, trong số các căn cứ giữ người trong trường hợp khẩn cấp thì căn cứ
ở điểm b khoản 1 Điều 110 là phổ biến nhất (9/10 vụ). Căn cứ giữ người trong
trường hợp khẩn cấp ở điểm c khoản 1 Điều 110 có 1/10 vụ; căn cứ giữ người trong
trường hợp khẩn cấp ở điểm a khoản 1 Điều 110 qua khảo sát thực tiễn áp dụng tại
các địa phương ở trên thì chưa có trường hợp nào được áp dụng trên thực tế.
Thứ hai, nhìn chung các trường hợp giữ người trong trường hợp khẩn cấp trên
thực tế là có căn cứ và đúng theo quy định tại Điều 110 BLTTHS năm 2015. Điều
này được chứng minh qua 02 vụ án sau đây8:
Vụ án 1:
Lý Thanh B sinh ngày 11/5/1999, thường trú ấp Đai Úi, xã Phú Mỹ, huyện Mỹ
Tú, tỉnh Sóc Trăng có mối quan hệ là anh ruột của Lý Thị Bích V sinh ngày
28/9/2003 và Lý Thị Giang C sinh ngày 5/2/2007. Vào khoảng 19 giờ ngày
20/4/2018, B sau khi uống rượu về, lúc này trong nhà chỉ có V và C đang xem ti vi,
B kêu V vào buồng giăng mùng để B ngủ. Khi V vào buồng thì B cầm theo cây dao
6
Ngô Văn Vịnh & Ngô Thanh Nhàn (2018), tlđd (2), tr.27.
Xem phụ lục của Luận văn.
8
Ngoài hai vụ án được dẫn chứng ở trên, việc người có thẩm quyền áp dụng đúng đắn quy định của
BLTTHS năm 2015 về căn cứ giữ người trong trường hợp khẩn cấp còn được thể hiện trong các vụ án khác
được nêu trong phụ lục của Luận văn.
7
16
yếm vào trong buồng, rồi để cây dao ở đầu giường. Thấy V đang giăng mùng B nảy
sinh ý định giao cấu với V. Vì thế, B kêu V “nằm đó ngủ đi”, V nằm xuống giường
rồi đắp mền để ngủ. B lên giường ngồi và đòi giao cấu với V. V khơng đồng ý nên
đứng dậy đi ra ngồi thì B lấy tay ngăn lại, V vẫn tiếp tục địi đi ra ngồi thì B dùng
tay phải đánh trúng vào phía sau đầu bên phải của V. V khóc địi đi ra ngồi, B tiếp
tục đánh vào phía sau đầu bên trái của V một cái nữa khiến V càng khóc to. B lấy
cây dao để ở đầu giường chỉ vào mặt V và dọa nếu V không im lặng sẽ chém, V
khóc to hơn, B sợ bị phát hiện nên để lại cây dao lại đầu giường rồi đi ra ngoài ngủ.
Thấy B ra ngoài nên V mở cửa chạy ra ngoài và báo sự việc đến cơ quan cơng an.
Q trình làm việc B cịn thừa nhận vào khoảng tháng 01/2018 sau khi B uống
rượu về nhà chỉ có V, C và N đang nằm ngủ trên giường ở nhà trước, B mới leo lên
giường nằm giữa C và N. Lúc này V thức dậy bật đèn pin thì thấy B nên đi ra nhà
sau để ngủ. B nằm khoảng 5 phút thì nảy sinh ý định giao cấu với C nhưng không
thực hiện được do vào thời điểm đó C khóc lớn và B sợ bị phát hiện.
Trên cơ sở tin tố giác của V, C ngày 22/4/2018 Phó Thủ trưởng Cơ quan cảnh
sát điều tra cơng an tỉnh Sóc Trăng đã ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp
số 03 đối với Lý Thanh B về tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi” theo Điều 142
BLHS. Căn cứ giữ người trong trường hợp này thuộc điểm b khoản 1 Điều 110
BLTTHS năm 2015. Việc cơ quan có thẩm quyền áp dụng căn cứ tại điểm b khoản
1 Điều 110 để giữ B trong trường hợp khẩn cấp là hồn tồn chính xác. Tuy nhiên,
việc cơ quan có thẩm quyền sử dụng tư cách bị hại đối với V, C trong quá trình xác
minh tố giác về tội phạm và trong quyết định số 06 Quyết định phê chuẩn lệnh bắt
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp của VKSND tỉnh Sóc Trăng theo chúng tơi
là chưa đúng vì thời điểm này Cơ quan điều tra chưa ra quyết định khởi tố vụ án
hình sự. Tư cách của V, C mới chỉ là người tố giác về tội phạm theo Điều 56
BLTTHS năm 2015 chứ chưa phải là bị hại theo Điều 62 BLTTHS năm 2015. Việc
xác định chính xác tư cách tham gia tố tụng của các chủ thể này có ý nghĩa rất quan
trọng đối với việc giải quyết đúng đắn vụ án cũng như đảm bảo quyền và lợi ích
hợp pháp cho họ khi tham gia tố tụng.
Vụ án 2:
Vào khoảng 7giờ ngày 25/1/2018 Thạch Sươl sinh năm 1959 cư trú tại xã An
Thạnh Nam, huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng đi đến nhà ơng Võ Văn Hồng
ngụ cùng ấp để chơi. Khi đến nhà ơng Hồng thì ơng Hồng đang nấu cơm và rủ
Thạch Sươl nhậu, lúc này tại nhà ơng Hồng có cháu T sinh ngày 4/11/2013 hàng
17
xóm kế bên nhà ơng Hồng sang chơi. Sau khi ông Hoàng và Thạch Sươl đã nhậu
hết một xị rượu thì nghỉ, ơng Hồng ra nhà phía sau để ăn cơm, còn Thạch Sươl lên
giường nhà trước đắp mền nằm ngủ.
Trong lúc Thạch Sươl nằm ngủ thì cháu T đi đến giường treo lên ngồi trên
bụng của Thạch Sươl, dùng tay đùa giỡn trên mặt làm Thạch Sươl thức giấc, kéo
mền ra khỏi người, trong quá trình kéo mền thì kéo theo quần của cháu T đến dưới
đầu gối, lúc này Thạch Sươl nảy sinh ý định và thực hiện hành vi giao cấu với cháu
T. Lúc này ơng Hồng từ nhà sau đi tới kéo mền lên thì nhìn thấy và đánh, chửi
Thạch Sươl. Thạch Sươl bỏ đi về nhà, sau đó ơng Hồng báo cho gia đình T và gia
đình T báo cho cơng an xã.
Ngày 25/1/2018 Phó Thủ trưởng Cơ quan cảnh sát điều tra công an tỉnh Sóc
Trăng đã ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp số 02 đối với Thạch Sươl về
hành vi “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi” Điều 142 BLHS. Căn cứ mà Cơ quan điều
tra đã sử dụng để giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Thạch Sươl theo
điểm b khoản 1 Điều 110 BLTTHS năm 2015 là hồn tồn chính xác. Ơng Võ Văn
Hồng có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trơng thấy và xác nhận đúng thạch
Sươl đã thực hiện hành vi giao cấu với T.
Việc áp dụng chính xác các căn cứ giữ người trong trường hợp khẩn cấp trên
thực tế đã kịp thời ngăn chặn người bị nghi thực hiện tội phạm bỏ trốn, tiêu hủy dấu
vết tội phạm, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc chứng minh tội phạm, đảm
bảo giải quyết đúng đắn VAHS.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được thì việc áp dụng căn cứ giữ
người trong trường hợp khẩn cấp trong thời gian qua cũng gặp phải một số hạn chế,
vướng mắc sau đây:
Thứ nhất, một số trường hợp trên thực tiễn áp dụng các căn cứ giữ người
trong trường hợp khẩn cấp cịn chưa chính xác mà ngun nhân là do nhận thức về
pháp luật của các chủ thể còn hạn chế. Thực trạng này phần nào được phản ánh qua
những vụ án sau:
Vụ án 3:
Khoảng 16 giờ ngày 19/5/2018 lực lượng Công an đến mời Đặng Thanh Phúc,
(sinh ngày 30/5/1996, thường trú tại ấp Mỹ Lợi, xã Nhơn Mỹ, huyện Kế Sách, tỉnh
Sóc Trăng) để kiểm tra, xác minh vụ Cướp giật tài sản tại ấp An Nhơn, xã Thới An
Hội. Đúng lúc này, Phúc đang giữ bao thuốc Jet bên trong có chứa ma túy. Khi thấy
18
lực lượng Cơng an, Phúc lấy gói thuốc có chứa ma túy đá đi lại chỗ bàn ghế đá
trước hàng ba nhà rồi vứt gói ma túy dưới băng ghế đá. Cơ quan CSĐT huyện Kế
Sách phát hiện và tiến hành lập biên bản thu giữ tang vật.
Sau khi tiến hành giám định, Phịng Kỹ thuật hình sự Cơng an tỉnh Sóc Trăng
ra bản Kết luận giám định số 21/GĐMT-PC54 ngày 20/5/2018 với nội dung: Mẫu
tinh thể được niêm phong gửi giám định là ma túy, khối lượng (trọng lượng)
0,848gam, là Methamphetamine. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh
mục II, STT 67, Nghị định 82 ngày 19/7/2013 của Chính phủ. Do đó, ngày
20/5/2018 Phó Thủ trưởng Cơ quan cảnh sát điều tra đã ra lệnh giữ người trong
trường hợp khẩn cấp số 01 đối với Đặng Thanh Phúc về hành vi tàng trữ trái phép
chất ma túy căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 110 BLTTHS năm 2015.
Đối với vụ án trên chúng tôi cho rằng việc Cơ quan điều tra ra lệnh giữ người
trong trường hợp khẩn cấp đối với Đặng Thanh Phúc về hành vi tàng trữ trái phép
chất ma túy là chưa đúng về mặt bản chất. Ban đầu lực lượng Công an đến mời
Phúc để kiểm tra, xác minh vụ cướp giật tài sản tại ấp An Nhơn, xã Thới An Hội.
Sau đó, lực lượng Công an huyện Kế Sách đưa Phúc về nhà thuộc ấp Mỹ Lợi, Nhơn
Mỹ tiến hành khám xét và Cơ quan CSĐT huyện Kế Sách tiến hành lập biên bản và
ra lệnh giữ ngươi trong trường hợp khẩn cấp. Trường hợp này tuy tìm thấy dấu vết
tội phạm (gói ma túy) tại chỗ ở của Đặng Thanh Phúc nhưng dấu vết này lại cho
phép khẳng định chính xác, rõ ràng việc Đặng Thanh Phúc đang thực hiện hành vi
tàng trữ trái phép chất ma túy thì cơ quan có thẩm quyền bắt người và lập biên bản
bắt người trong trường hợp phạm tội quả tang chứ không phải giữ người trong
trường hợp khẩn cấp. Trường hợp qua kiểm tra mà phát hiện dấu vết của tội cướp
giật tài sản và gói ma túy tại chỗ ở của Phúc thì Cơ quan điều tra phải lập biên bản
giữ người trong trường hợp khẩn cấp về hành vi bị tình nghi cướp giật tài sản và
biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.
Đây là những hoạt động nhằm đảm bảo tính hợp pháp của chứng cứ cũng như có ý
nghĩa quan trọng trong việc xác định các vấn đề thuộc về nội dung của vụ án.
Vụ án 4:
Hoàng Lập Nhân và Nguyễn Tuấn Kiệt có mối quan hệ quen biết nhau do có
quan hệ giao dịch mua bán đồ cổ. Nhân biết Kiệt có tượng bằng đồng đổi màu
(đồng đen) nên hẹn gặp nhau để xem hàng. Ngày 3/1/2018, Nhân hẹn Kiệt gặp nhau
tại quán nước ở Thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng để giao dịch mua bán. Nhân đi
19
cùng với Ông Hua-Kuo-Liang (Hoa Quốc Lương, sinh 1954, quốc tịch Đài LoanTrung Quốc, ông Lương đưa tiền cho Nhân để mua hàng). Khi đến Thị xã Ngã Năm
thì ơng Nhân và Lương có xem hàng rồi đồng ý mua với giá 1.6 tỷ đồng, Nhân đưa
tiền cho Kiệt xong thì có u cầu Kiệt đi TP. Hồ Chí Minh với mục đích để thử
hàng lại xem thật hay giả nhưng Kiệt không đồng ý. Thấy vậy, Nhân ngồi lên xe mô
tô của Kiệt và buộc Kiệt phải đi TP. Hồ Chí Minh. Lúc này, Nguyễn Văn Hiển, sinh
năm 1966, cư trú tại huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau (bạn của Kiệt) điều khiển chở
Nhân ngồi giữa, Kiệt ngồi sau chạy được một đoạn thì dừng lại cho Nhân và Kiệt
xuống xe nói chuyện với nhau. Cùng lúc này xe ôtô chở ông Lương chạy theo phía
sau cũng dừng lại. Sau đó Nhân đi bộ đến xe ơ tơ thì Hiển điều khiển xe chở Kiệt
chạy đi. Thấy vậy, Nhân truy hơ bị hai đối tượng dùng hung khí khống chế cướp đi
số tiền 240 triệu đồng nên đến công an thị xã Ngã Năm trình báo.
Ngày 4/1/2018 Cơ quan điều tra công an Thị xã Ngã Năm ra lệnh giữ người
trong trường hợp khẩn cấp đối với Kiệt và Hiển với lý do dùng hung khí khống chế
người khác để chiếm đoạt tài sản, căn cứ áp dụng là điểm b khoản 1 Điều 110
BLTTHS năm 2015. Ngày 5/1/2018 Cơ quan điều tra công an Thị xã Ngã Năm ra
lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp và ra quyết định tạm giữ đối với
Kiệt và Hiển. Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp được VKSND thị xã
Ngã Năm ra quyết định phê chuẩn. Ngày 7/1/2018 Cơ quan điều tra công an Thị xã
Ngã Năm ra quyết định gia hạn tạm giữ lần 1 đối với Kiệt và Hiển. Quyết định gia
hạn tạm giữ cũng được VKSND thị xã Ngã Năm ra quyết định phê chuẩn. Đến ngày
10/1/2018 VKSND Thị xã Ngã Năm ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ và trả
tự do đối với Kiệt và Hiển vì chưa có đủ căn cứ để tiếp tục tạm giữ.
Qua vụ án này có thể thấy, tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ việc không đảm
bảo căn cứ giữ người, bắt người. Vụ việc xảy ra khơng có người chứng kiến, khơng
ai biết có đối tượng sử dụng hung khí khống chế bị hại lấy tiền, không thu giữ được
vật chứng liên quan đến vụ cướp. Chỉ có lời khai của Nhân nhưng Cơ quan điều tra
đã ra lệnh giữ người và lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp và Viện
kiểm sát thống nhất phê chuẩn. Việc giữ người trong trường hợp này là chưa đảm
bảo căn cứ quy định tại Điều 110 BLTTHS năm 2015; chưa đánh giá đầy đủ, toàn
diện, khách quan các tài liệu chứng chứng cứ đã thu thập ban đầu9.
9
VKSND tỉnh Sóc Trăng, Thông báo rút kinh nghiệm số 63/TB-VKS-P2 về công tác kiểm sát bắt, tạm giữ,
tạm giam, ngày 19/3/2018.
20
Thứ hai, ngoài các trường hợp kể trên, trên thực tiễn áp dụng căn cứ giữ người
trong trường hợp khẩn cấp cũng gặp phải vướng mắc đối với vụ việc sau:
La Văn A có hành vi cậy cửa đột nhập vào nhà anh B là hàng xóm trộm cắp
một chiếc xe máy trị giá 10 triệu đồng. Sau khi phát hiện bị mất xe, anh B đã mở
camera để xem lại thì thấy A là người đã trộm cắp nên đã trình báo đồng thời cung
cấp thiết bị lưu trữ video ghi hình ảnh A trộm cắp xe. Cơ quan điều tra căn cứ điểm
b khoản 1 Điều 110 BLTTHS năm 2015 ra lệnh giữ người trong trong trường hợp
khẩn cấp đối với A. Tại cơ quan điều tra, A đã thừa nhận hành vi trộm cắp tài sản
của mình10.
Đối với vụ án này trong thực tiễn hiện có hai quan điểm xử lý như sau:
Quan điểm thứ nhất: Việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với La
Văn A là đúng, bởi lẽ anh B là người bị hại đã chính mắt và xác nhận đúng A là
người đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Theo điểm b khoản 1 Điều 110
BLTTHS năm 2015 thì có căn cứ giữ người trong trường hợp khẩn cấp.
Quan điểm thứ hai: Anh B chỉ nhìn thấy A thực hiện hành vi trộm cắp tài sản
trên camera chứ khơng chính mắt nhìn thấy A đang thực hiện hành vi trộm cắp tài
sản. Do đó khơng có căn cứ giữ người trong trường hợp khẩn cấp theo điểm b
khoản 1 Điều 110 BLTTHS năm 2015.
Theo tác giả trong trường hợp này mặc dù đủ căn cứ để xác định anh A đã
thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của anh B nhưng việc áp dụng căn cứ ở điểm b
khoản 1 Điều 110 BLTTHS trong trường hợp này là chưa chính xác. Bởi vì rõ ràng
điểm b khoản 1 Điều 110 BLTTHS quy định người cùng thực hiện tội phạm, bị hại
hoặc người khác phải chính mắt nhìn thấy (trực tiếp) và xác nhận đúng người bị
nghi thực hiện tội phạm. Ở đây anh B khơng chính mắt nhìn thấy A thực hiện hành
vi phạm tội nên không thể áp dụng căn cứ này. Tuy nhiên, giả sử trong trường hợp
này nếu có căn cứ rõ ràng để khẳng định A sẽ bỏ trốn thì cơ quan có thẩm quyền
phải giải quyết như thế nào nếu không được áp dụng biện pháp giữ người trong
trường hợp khẩn cấp đối với A. Qua vụ án này, chúng ta có thể nhận thấy mặc dù
quy định tại điểm b khoản 1 Điều 110 yêu cầu người cùng thực hiện tội phạm, bị
hại hoặc người khác phải chính mắt nhìn thấy người mà họ tố giác đã thực hiện
hành vi phạm tội để đảm bảo tính chính xác và thận trọng khi áp dụng căn cứ, đảm
10
Đặng Bá Hưng, VKSND huyện Sơn Động, truy cập
ngày 22/7/2018.