Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Pháp luật về doanh nghiệp xã hội của vương quốc anh và hàn quốc kinh nghiệm cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 82 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

LÊ NHẬT BẢO

PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI
CỦA VƯƠNG QUỐC ANH VÀ HÀN QUỐC
- KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH LUẬT KINH TẾ

TP HỒ CHÍ MINH-7-2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI
CỦA VƯƠNG QUỐC ANH VÀ HÀN QUỐC
- KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60380107

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Bùi Xuân Hải
Học viên: Lê Nhật Bảo
Lớp: Cao học luật kinh tế
Khóa: 22

Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2017

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi, được
thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Bùi Xuân Hải. Những phân
tích, kiến nghị được đề xuất dựa trên quá trình tìm hiểu, nghiên cứu của cá nhân và
các cơng trình đã trích dẫn nguồn ở danh mục tài liệu tham khảo.
Tác giả luận văn

Lê Nhật Bảo


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT

Từ viết tắt

Nội dung

1

BLDS

Bộ luật Dân sự

2

CIC


Cơng ty vì lợi ích cộng đồng
(Community Interest Company)

3

DNXH

Doanh nghiệp xã hội

4

LDN

Luật Doanh nghiệp
Luật Cơng ty (Kiểm tốn, Kiểm tra và
Doanh nghiệp cộng đồng) 2004 của Vương

5

Luật Công ty 2004

6

Luật Công ty 2006

quốc Anh
(Companies (Audit, Investigations and
Community Enterprise) Act 2004)
Luật Công ty 2006 của Vương quốc Anh
(Companies Act 2006)

Nghị định số 20141 năm 2007 hướng dẫn

7

8

Nghị định số 20141

Quy chế CIC 2005

một số điều của Luật Phát triển doanh
nghiệp xã hội Hàn Quốc
(Enforcement Decree of The Social
Enterprise Promotion Act 20141)
Quy chế về Cơng ty vì lợi ích cộng đồng
2005 của Vương quốc Anh
(The Community Interest Company
Regulations 2005)


MỤC LỤC
Phần mở đầu ..............................................................................................................1
Chương 1. Những vấn đề lý luận về doanh nghiệp xã hội .....................................9
1.1. Khái niệm và đặc điểm doanh nghiệp xã hội .....................................................9
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp xã hội..................................................................9
1.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp xã hội ..........................................................14
1.2. Vai trò của pháp luật về doanh nghiệp xã hội..................................................18
1.2.1. Đối với chủ sở hữu của doanh nghiệp xã hội ...........................................18
1.2.2. Đối với doanh nghiệp xã hội ....................................................................19
1.2.3. Đối với Nhà nước .....................................................................................21

1.2.4. Đối với xã hội ...........................................................................................21
1.3. Các vấn đề cần điều chỉnh về doanh nghiệp xã hội .........................................22
1.3.1. Tiêu chí xác định mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp xã hội ..............22
1.3.2. Thủ tục đăng ký doanh nghiệp xã hội ......................................................24
1.3.3. Hình thức pháp lý của doanh nghiệp xã hội .............................................25
1.3.4. Những hỗ trợ, ưu đãi của Nhà nước đối với doanh nghiệp xã hội ...........27
1.4. Sự cần thiết học tập kinh nghiệm nước ngoài để hoàn thiện pháp luật về doanh
nghiệp xã hội ở Việt Nam .......................................................................................28
Chương 2. Một số vấn đề cơ bản của pháp luật doanh nghiệp xã hội ở Vương
quốc Anh và Hàn Quốc - những kiến nghị cho Việt Nam ...................................34
2.1. Về tiêu chí xác định mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp xã hội .................34
2.1.1. Về vấn đề xã hội mà doanh nghiệp xã hội đăng ký giải quyết.................34
2.1.1.1. Theo pháp luật của Anh và Hàn Quốc ...............................................34
2.1.1.2. Những nhận xét và kiến nghị cho Việt Nam.......................................38
2.1.2. Về tỷ lệ lợi nhuận tối thiểu dùng để tái đầu tư phục vụ các mục tiêu mà
doanh nghiệp xã hội đã đăng ký giải quyết ........................................................40
2.1.2.1. Theo pháp luật của Anh và Hàn Quốc ...............................................40
2.1.2.2. Những nhận xét và kiến nghị cho Việt Nam.......................................42
2.2. Về thủ tục đăng ký doanh nghiệp xã hội .........................................................45
2.2.1. Thủ tục đăng ký Cơng ty vì lợi ích cộng đồng theo pháp luật Anh .........45
2.2.2. Thủ tục đăng ký doanh nghiệp xã hội theo pháp luật Hàn Quốc .............47
2.2.3. Những nhận xét và kiến nghị cho Việt Nam ............................................49
2.3. Về hình thức pháp lý của doanh nghiệp xã hội................................................51
2.3.1. Mơ hình Cơng ty vì lợi ích cộng đồng theo pháp luật Anh ......................52


2.3.2. Hình thức pháp lý của doanh nghiệp xã hội theo pháp luật Hàn Quốc ....54
2.3.3. Những nhận xét và kiến nghị cho Việt Nam ............................................55
2.4. Về các chính sách, hỗ trợ cho doanh nghiệp xã hội.........................................60
2.4.1. Theo pháp luật Anh ..................................................................................60

2.4.2. Theo pháp luật Hàn Quốc .........................................................................62
2.4.3. Những nhận xét và kiến nghị cho Việt Nam ............................................63
Kết luận ....................................................................................................................67
Danh mục tài liệu tham khảo


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Mơ hình doanh nghiệp xã hội (DNXH) xuất hiện lần đầu tiên ở nước Anh vào
khoảng thế kỉ thứ 17 nhằm mục đích giải quyết các vấn đề của cộng đồng bằng việc
sử dụng giải pháp kinh doanh, vì những hiệu quả của mơ hình này mà nó đã được
nhân rộng ở hầu khắp các nước Tây Âu, Bắc Mỹ và trở thành phong trào rộng lớn
trên thế giới như hiện nay kể từ năm 1980. Cũng vì thế mà pháp luật điều chỉnh về
DNXH đã được nhiều quốc gia trên thế giới ghi nhận từ khá sớm.1
Trong hơn ba thế kỷ qua, DNXH ở nước Anh đã không ngừng phát triển cả về
chất lượng và số lượng. DNXH đã góp phần giải quyết nhiều vấn đề xã hội phát
sinh tại Anh, chẳng hạn như thất nghiệp, phân biệt đối xử, thu nhập thấp, tội phạm,
chăm sóc sức khỏe, thúc đẩy xã hội phát triển mạnh mẽ và bền vững.2 Nghiên cứu
gần đây đã cho thấy rằng nhóm người thiểu số (da màu) hoạt động DNXH nhiều
hơn số người da trắng ở Anh.3 Theo thống kê vào năm 2007, tại Anh có khoảng
55.000 DNXH, 80% trong số đó là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, 5% tổng số lao
động trong khu vực doanh nghiệp.4 Đến năm 2015, ở Anh có khoảng 70.000
DNXH, với 24 tỷ bảng đóng góp cho nền kinh tế, sử dụng hơn 1 triệu lao động.5 Để
có được kết quả khả quan như vậy, Chính phủ Anh đã ban hành nhiều chính sách hỗ
trợ giúp DNXH phát triển, thiết kế cả một mơ hình cơng ty mới dành riêng cho
DNXH (Community Interest Company). Đây là lần đầu tiên trong 100 năm trở lại
đây, nước Anh có thêm một loại hình doanh nghiệp được bổ sung. Góp phần đáp
ứng mong đợi của các DNXH về một loại hình doanh nghiệp đặc thù hoạt động vì

cộng đồng. Đến thời điểm tháng 5/2016, có hơn 12,000 CIC được đăng ký thành lập
và đi vào hoạt động,6 chiếm khoảng 20% tổng số lượng các hình thức pháp lý
DNXH tại Anh (chỉ đứng sau mơ hình Company Limited by Guarantee).7 CIC đã
vượt qua nhiều thử thách và sự hoài nghi để phát triển rộng khắp nước Anh, với sự
Nguyễn Đình Cung, Lưu Minh Đức, Phạm Kiều Oanh và Trần Thị Hồng Gấm (2012), Doanh nghiệp xã hội
tại Việt Nam: khái niệm, bối cảnh và chính sách, Hà Nội, tr. 01.
2
Department of Trade and Industry (2002), Social Enterprise: a strategy for success, United Kingdom, tr. 13.
3
Cabinet Office (2006), Social Enterprise Action Plan: Scaling New Heights, United Kingdom, tr. 17.
4
Simon Li và Thomas Wong (2007), Social enterprise policies of the United Kingdom, Spain and Hong
Kong, Research and Library Services Division Legislative Council Secretariat, Hong Kong, tr. 13.
5
Frank Villeneuve-Smith và Nick Temple, “State of Social Enterprise Survey 2015”, truy cập tại địa chỉ:
truy cập
ngày 06/11/2016.
6
“What is a CIC?”, truy cập tại địa chỉ: truy cập ngày
02/12/2016.
7
Frank Villeneuve-Smith và Nick Temple, tlđd (05).
1


2

đa dạng về quy mô và lĩnh vực hoạt động.8 Kinh nghiệm của Vương quốc Anh về
mơ hình CIC cần được Việt Nam nghiên cứu để hoàn thiện pháp luật về DNXH.
Trong khi đó ở Hàn Quốc, nhận thấy các hiệu quả kinh tế xã hội mà DNXH

đem lại cho cộng đồng, Nhà nước đã tìm cách khuyến khích và nhân rộng mơ hình
này trên phạm vi tồn quốc bằng cách ban hành khung pháp lý điều chỉnh về
DNXH từ năm 2007. Các nỗ lực của Chính phủ, đặc biệt là việc ban hành các quy
định pháp luật về DNXH, trong đó có Luật Phát triển DNXH Hàn Quốc 2007
(Social Enterprise Promotion Act 2007), đã tạo thành đòn bẩy mạnh mẽ giúp
DNXH phát triển,9 qua đó góp phần đáng kể để giảm bớt áp lực xã hội về chăm sóc
người già, tạo việc làm cho giới trẻ và lực lượng lao động nghèo. Đến đầu năm
2010, Hàn Quốc đã có 288 DNXH được cấp chứng nhận, tạo việc làm cho hơn 7000
cơng nhân. Đến cuối năm 2013, có 950 DNXH, giải quyết việc làm cho 13,108
công nhân (chiếm 27% dân số ở độ tuổi lao động).10 Các hoạt động chính của
DNXH ở Hàn Quốc là phúc lợi xã hội (chiếm 20,7%), tái chế sản phẩm (16,3%),
các dịch vụ chăm sóc (13,1%), ngồi ra cịn có các dịch vụ giáo dục, y tế và văn
hóa.11 Pháp luật DNXH Hàn Quốc nổi bậc với các tiêu chí định lượng cụ thể xác
định DNXH, các chính sách hỗ trợ, thúc đẩy DNXH phát triển, đồng thời đảm bảo
được việc giám sát hoạt động của DNXH để DNXH đi đúng mục tiêu của mình.
Ở Việt Nam, trên thực tế nhiều tổ chức, hội, quỹ có dáng dấp của DNXH đã
manh nha xuất hiện từ thời bao cấp, hoạt động của các tổ chức này đã đem lại nhiều
lợi ích cho xã hội.12 Tuy nhiên, sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, hành
lang pháp lý điều chỉnh về DNXH chỉ chính thức được thừa nhận kể từ Luật Doanh
nghiệp 2014 (LDN 2014). Kể từ đây, thuật ngữ và bản chất pháp lý của DNXH đã
được luật hóa. Tuy nhiên, LDN 2014 với 213 điều luật nhưng chỉ vỏn vẹn có một
điều luật quy định về DNXH (Điều 10), chưa đủ để cụ thể nhiều vấn đề pháp lý của
mơ hình này. Nghị định số 96/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày 19 tháng 10 năm
2015 quy định chi tiết một số điều của Luật Doanh nghiệp (Nghị định số

8

Luke Fletcher (2015), Governance for Community Interest Companies, Bates Wells Braithwaite, United
Kingdom, tr. 07.
9

Eric Bidet và Hyung-Sik Eum (2011), “Social enterprise in South Korea: history and diversity”, Tạp chí
Social Enterprise Journal Vol. 7 No. 1, tr. 83.
10
Wayne Visser (2016), The World Guide to Sustainable Enterprise - Volume 2: Asia Pacific, Nxb. Greenleaf
Publishing, tr. 149.
11
Eric Bidet và Hyung-Sik Eum, tlđd (09), tr. 78.
12
Hội đồng Anh, Trung tâm Tia sáng và Trung tâm Hỗ trợ Sáng kiến phát triển cộng đồng (2011), Báo cáo
kết quả khảo sát doanh nghiệp xã hội Việt Nam năm 2011, Hà Nội, tr. 06-07.


3

96/2015/NĐ-CP) ra đời nhằm quy định cụ thể nhiều vấn đề về DNXH mà LDN
2014 chưa thể hoàn thành sứ mệnh của mình, song những quy định đó vẫn cịn
nhiều vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu làm rõ hơn.
Nếu như pháp luật về các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam đã ra đời và phát
triển ngay từ thời gian đầu của thời kì đổi mới, quá trình xây dựng và thực thi pháp
luật đã đem lại nhiều kinh nghiệm quý báu cho việc hoàn thiện pháp luật về doanh
nghiệp. Cịn đối với pháp luật về DNXH thì lại quá “non trẻ”, nhận thức của xã hội
về DNXH cũng chưa cao và đặc biệt là thực tiễn pháp lý tại Việt Nam về DNXH
cịn ít. Chính vì vậy, nhu cầu tiếp thu, học hỏi các nước đã có nhiều kinh nghiệm
trong việc xây dựng pháp luật về DNXH là cần thiết cho nước ta.
Trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế
giới, quá trình cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sẽ diễn ra khốc liệt hơn và hệ lụy
tất yếu là nhiều vấn đề xã hội mà cộng đồng phải hứng chịu. DNXH sẽ là hỗ trợ đắc
lực cho Nhà nước trong việc giải quyết các hậu quả đó. Và vì vậy, khoa học pháp lý
về DNXH cần được quan tâm nghiên cứu nhiều hơn, trong đó có tìm hiểu kinh
nghiệm của các nước để hoàn thiện pháp luật của Việt Nam. Chính vì thế mà tác giả

mạnh dạn lựa chọn đề tài “Pháp luật về doanh nghiệp xã hội của Vương quốc
Anh và Hàn Quốc - kinh nghiệm cho Việt Nam” để làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
2.1. Các cơng trình nghiên cứu trong nước
Những cơng trình tiêu biểu:
(i) Các bài viết trên các tạp chí chun ngành:
- Vũ Phương Đơng (2012), “Doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam – Cần một mơ
hình để phát triển”, Tạp chí Luật học, số 9/2012. Bài viết trình bày một số quan
niệm về DNXH trên thế giới và kinh nghiệm xây dựng mơ hình DNXH tại Vương
quốc Anh, từ đó đề xuất một số điểm mà Việt Nam có thể học tập, đặc biệt tác giả
Vũ Phương Đơng có kiến nghị cấy ghép mơ hình Community Interest Company của
Anh vào Việt Nam.
- Vũ Thị Hịa Như (2015), “Hồn thiện quy định pháp luật Việt Nam về doanh
nghiệp xã hội”, Tạp chí Luật học, số 3/2015. Thơng qua bài viết này, tác giả Vũ Thị
Hòa Như chứng minh rằng hàng lang pháp lý về DNXH hiện hành của nước ta chưa
hoàn thiện và đề xuất phương hướng để xây dựng pháp luật trong thời gian tới. Tác
giả bài viết có các kiến nghị như xây dựng lộ trình mở rộng phạm vi hoạt động của


4

DNXH, quy định chi tiết một số chính sách hỗ trợ và ưu đãi phát triển của Nhà
nước đối với DNXH…
- Phan Thị Thanh Thủy (2015), “Doanh nghiệp xã hội theo Luật Doanh nghiệp
năm 2014”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 6/2015. Bài viết này trình bày và
phân tích các quy định nổi bậc về DNXH, bao gồm: khái niệm DNXH, quyền và
nghĩa vụ của DNXH, có sự phân biệt với các mơ hình kinh doanh khác như doanh
nghiệp truyền thống, doanh nghiệp thực hiện trách nhiệm xã hội… Đây là nguồn lý
luận cần thiết để thực hiện luận văn này.
Các bài viết trên đã góp phần nêu ra một số vấn đề lý luận về DNXH ở Việt

Nam, chỉ ra những điểm cần được tiếp tục xây dựng, hoàn thiện trong thời gian tới.
Tuy nhiên, các bài viết chỉ dừng lại ở việc trình bày một số vấn đề mang tính chất
gợi mở, chưa có sự lý giải đầy đủ, cũng như những kiến nghị còn mang tính khái
qt, cần được làm rõ thêm.
(ii) Các cơng trình được thực hiện ở quy mơ khóa luận và đề tài nghiên cứu
khoa học.
- Nguyễn Đình Cung, Lưu Minh Đức, Phạm Kiều Oanh và Trần Thị Hồng
Gấm (2012), Doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam: khái niệm, bối cảnh và chính sách,
Hà Nội. Đây là các cơng trình được thực hiện công phu, nhiều vấn đề về DNXH
được các tác giả đầu tư nghiên cứu làm rõ, chẳng hạn như lịch sử hình thành và phát
triển của DNXH trên thế giới và ở Việt Nam, đặc biệt là tìm hiểu khái quát kinh
nghiệm hoạt động của DNXH ở một số nước, trong đó có Anh và Hàn Quốc. Kết
quả nghiên cứu của cơng trình là nguồn tài liệu vơ cùng quý báu cho hệ thống các
tài liệu tìm hiểu về DNXH ở Việt Nam, các số liệu, thống kê trong cơng trình này là
cơ sở quan trọng để tác giả triển khai thực hiện đề tài luận văn của mình.
- Nguyễn Thanh Hằng (2016), Những vấn đề pháp lý về mơ hình doanh nghiệp
xã hội - Nhu cầu triển khai thực tế, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà
Nội. Khóa luận này đã trình bày một số vấn đề lý luận về DNXH ở Việt Nam, cũng
như có so sánh với pháp luật DNXH ở Anh dù còn rất khái quát, và tác giả Nguyễn
Thanh Hằng cũng có đề xuất các kiến nghị cho LDN 2014. Tuy nhiên, vì ở cấp độ
khóa luận bị hạn chế về số trang nên nhiều vấn đề pháp lý về DNXH chưa được
phân tích sâu làm rõ.
2.2. Các cơng trình nghiên cứu ở nước ngoài về pháp luật doanh nghiệp
xã hội của Anh và Hàn Quốc


5

- Cabinet Office (2006), Social Enterprise Action Plan: Scaling New Heights,
United Kingdom. Cơng trình được thực hiện bởi các chun gia của Văn phòng

Khu vực thứ Ba (Office of the Third Sector), thuộc Văn phòng Nội các (Cabinet
Office) của Vương quốc Anh. Về bản chất thì đây là tài liệu trình bày các chiến
lược hành động của Chính phủ Anh trong việc hỗ trợ để DNXH phát triển, nhưng
tài liệu cũng đã góp phần mơ tả rõ nét bản chất về DNXH tại Anh, cũng như những
tác động tích cực mà DNXH đã đem lại cho xã hội. Qua đó cho thấy sự cần thiết
đến vai trò Nhà nước trong việc hỗ trợ, ban hành khung pháp lý cho môi trường
hoạt động của DNXH.
- Simon Li và Thomas Wong (2007), Social enterprise policies of the United
Kingdom, Spain and Hong Kong, Research and Library Services Division
Legislative Council Secretariat, Hong Kong. Kết quả nghiên cứu của các tác giả này
đã chỉ ra khái niệm, đặc điểm và các vấn đề pháp lý về DNXH của các nước (Anh,
Tây Ban Nha và Hồng Kong). Một trong những vấn đề mà hai tác giả này nghiên
cứu là mơ hình Community Interest Company của Vương quốc Anh, đây là một
trong những nguồn tài liệu quan trọng phục vụ việc thực hiện luận văn này.
- Eric Bidet và Eum Hyung-Sik (2011), “Social enterprise in South Korea:
history and diversity”, Tạp chí Social Enterprise Journal Vol. 7, No. 1. Cơng trình
đã tìm hiểu lịch sử hình thành của DNXH Hàn Quốc, bắt nguồn trong lòng xã hội
dân sự và các phong trào của công dân trước khi được Chính phủ ưu tiên trong các
chương trình nghị sự của mình. Kết quả là sự ra đời khung pháp lý ghi nhận mơ
hình DNXH, và các chính sách hỗ trợ, thúc đẩy cho sự phát triển của DNXH. Bài
viết còn phân tích sự tác động tích cực do Luật Phát triển DNXH đem lại cho xã hội
Hàn Quốc.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Tác giả thực hiện đề tài này với mục đích nghiên cứu pháp luật DNXH của
Vương quốc Anh và Hàn Quốc, từ đó rút ra các bài học kinh nghiệm cho Việt Nam,
gồm có các nhiệm vụ cụ thể sau đây:
(i) Những vấn đề lý luận về DNXH để làm rõ khái niệm, đặc điểm của DNXH,
có sự phân biệt với các doanh nghiệp truyền thống và tổ chức thiện nguyện.
(ii) Phân tích và đánh giá một số quy định pháp luật hiện hành về DNXH của
Vương quốc Anh và Hàn Quốc để phát hiện ra những điểm thích hợp mà Việt Nam

có thể học hỏi. Từ đó nêu ra các điểm hạn chế, bất cập của pháp luật nước ta và dựa


6

trên những kinh nghiệm của Anh, Hàn Quốc để đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn
thiện pháp luật DNXH Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Với phạm vi của luận văn này, tác giả không tham vọng nghiên cứu toàn bộ
các quy định pháp luật về DNXH của Anh và Hàn Quốc, để đảm bảo kết quả nghiên
cứu có độ sâu nhất định nên tác giả chỉ tìm hiểu những quy định rõ ràng và tiêu biểu
nhất về DNXH của hai nước này, gồm có 04 vấn đề: (i) tiêu chí xác định DNXH;
(ii) thủ tục đăng ký DNXH; (iii) hình thức pháp lý của DNXH; (iv) các chính sách
hỗ trợ DNXH từ phía Nhà nước.
Vì Vương quốc Anh quan niệm DNXH là khái niệm dùng để chỉ mục đích của
hành vi kinh doanh nên hình thức pháp lý của DNXH rất đa dạng. Tương ứng với
các hình thức pháp lý khác nhau thì DNXH sẽ chịu sự điều chỉnh bởi các đạo luật
tương ứng (luật về công ty, luật về hợp tác xã, luật về các tổ chức từ thiện…). Để
nhận được các chính sách hỗ trợ từ Nhà nước và các tổ chức trung gian, chính bản
thân các DNXH phải chính minh hiệu quả xã hội do mơ hình kinh doanh của mình
đem lại cho cộng đồng như các chủ thể kinh doanh khác. Riêng mơ hình cơng ty
Community Interest Company - loại hình cơng ty đặc biệt dành riêng cho DNXH,
được điều chỉnh bởi: (1) Luật Công ty 2006 (Companies Act 2006); (2) Phần 2 của
Luật Cơng ty (Kiểm tốn, Kiểm tra và Doanh nghiệp cộng đồng) 2004 (Part 2
Companies (Audit, Investigations and Community Enterprise) Act 2004)13; (3) Quy
chế về Công ty vì lợi ích cộng đồng 2005 (The Community Interest Company
Regulations 2005)14. Theo đó, Điều 6 Luật Cơng ty 2006 xác định CIC được điều
chỉnh bởi Phần 2 của Luật Công ty 2004 (từ Điều 26 đến Điều 63). Quy định về
CIC trong Luật Cơng ty 2004 chủ yếu mang tính nguyên tắc, như chế độ trách
nhiệm, phân phối lợi nhuận, chuẩn mực đặt tên, thủ tục đăng ký CIC, trách nhiệm

báo cáo của CIC, quy chế về cơ quan xét duyệt CIC… Những vấn đề khác liên quan
đến quản trị CIC thì về nguyên tắc vẫn thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Công ty
2006. Để hướng dẫn các quy định về CIC trong Luật Công ty 2004, Vương quốc
Anh đã ban hành Quy chế CIC 2005. Đây cũng chính là các quy định rõ ràng nhất
về DNXH của Vương quốc Anh. Vậy nên, việc nghiên cứu pháp luật về DNXH của

Trong luận văn này, để thuận tiện trong việc trích dẫn, tác giả viết tắt Luật Cơng ty (Kiểm toán, Kiểm tra
và Doanh nghiệp cộng đồng) 2004 của Vương quốc Anh là “Luật Công ty 2004”.
14
Trong luận văn này, để thuận tiện trong việc trích dẫn, tác giả viết tắt Quy chế về Cơng ty vì lợi ích cộng
đồng 2005 của Vương quốc Anh là “Quy chế CIC 2005”.
13


7

Vương quốc Anh sẽ được tác giả tập trung chủ yếu vào mơ hình CIC được quy định
trong các văn bản pháp luật nêu trên.
Đối với Hàn Quốc thì DNXH được điều chỉnh chủ yếu bởi Luật Phát triển
DNXH 2007, được sửa đổi vào năm 2009 và 2010 (Social Enterprise Promotion
Act), ngồi ra cịn có Nghị định số 20141 được Chính phủ Hàn Quốc ban hành năm
2007 nhằm hướng dẫn một số điều của Luật Phát triển DNXH (Enforcement Decree
of The Social Enterprise Promotion Act).15 Việc tìm hiểu pháp luật về DNXH tại
Hàn Quốc được tác giả tập trung vào các văn bản này.
Ngồi việc tìm hiểu các văn bản pháp luật trên, tác giả còn nghiên cứu ở các
quy định pháp luật điều chỉnh về DNXH của nước ta, trọng tâm là LDN 2014 và
Nghị định số 96/2015/NĐ-CP.
5. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu được tác giả sử dụng trong luận văn:
- Phương pháp lịch sử được sử dụng để nghiên cứu về quá trình hình thành và

phát triển của DNXH. Phương pháp này được tác giả sử dụng chủ yếu tại Chương 1
để tìm hiểu về sự ra đời và phát triển DNXH tại Anh, Hàn Quốc và Việt Nam.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp được sử dụng toàn luận văn, nhằm nghiên
cứu các quan niệm về DNXH và nghiên cứu pháp luật DNXH. Từ sự phân tích đó,
tác giả sẽ tổng hợp để xây dựng nên các kiến nghị cho Việt Nam.
- Phương pháp so sánh được tác giả sử dụng nhằm:
(i) Tìm ra những khác biệt giữa DNXH với các doanh nghiệp truyền thống ở
Chương 1.
(ii) So sánh một số quy định pháp luật về DNXH của Vương quốc Anh và Hàn
Quốc với Việt Nam, để từ đó tìm ra các điểm thích hợp mà Việt Nam có thể học
hỏi. Việc so sánh này được thực hiện tập trung ở Chương 2.
6. Các điểm mới, các đóng góp mới về mặt lý luận
Các đóng góp về mặt lý luận:
(i) Cung cấp một số quan niệm và đặc điểm DNXH, làm tiền đề cho việc
nghiên cứu pháp luật DNXH của Anh và Hàn Quốc cũng như so sánh với Việt
Nam.
(ii) Nêu ra những vai trò của pháp luật về DNXH và một số vấn đề mà pháp
luật cần điều chỉnh đối với DNXH.
Nghị định số 20141 năm 2007 của Hàn Quốc đã được sửa đổi vào các năm 2008, 2009, 2010, 2012 và
2013. Vì vậy, trong luận văn này, tác giả sử dụng “Nghị định số 20141” hợp nhất qua các lần sửa đổi.
15


8

(iii) Phân tích một số quy định pháp luật tiêu biểu nhất của Anh và Hàn Quốc
về DNXH, so sánh với Việt Nam để chỉ ra các hạn chế. Trên cơ sở tìm hiểu pháp
luật Anh và Hàn Quốc, tác giả đề xuất các kiến nghị cho Việt Nam.
Cơng trình là nguồn tài liệu tham khảo cho việc tìm hiểu học tập các mơn học
có liên quan đến Luật Doanh nghiệp và đóng góp vào hệ thống lý luận pháp lý về

DNXH.


9

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI
1.1. Khái niệm và đặc điểm doanh nghiệp xã hội
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp xã hội
Vương quốc Anh là nơi mà DNXH được ra đời sớm nhất và có phong trào
phát triển nhất hiện nay trên thế giới.16 Theo đó, DNXH xuất hiện đầu tiên tại
London vào năm 1665, khi đại dịch hồnh hành đã khiến nhiều gia đình giàu có,
vốn là các chủ xưởng cơng nghiệp và cơ sở thương mại rút khỏi thành phố, để lại
tình trạng thất nghiệp tăng nhanh trong nhóm dân nghèo lao động. Trong bối cảnh
đó, Thomas Firmin đã đứng ra thành lập một xí nghiệp sản xuất và sử dụng nguồn
tài chính cá nhân cung cấp nguyên liệu cho nhà máy để tạo và duy trì việc làm cho
1.700 cơng nhân. Ngay từ khi thành lập, ơng tun bố xí nghiệp khơng theo đuổi
mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận và số lợi nhuận sẽ được chuyển cho các quỹ từ thiện.17
Tiếp đến, trường dạy xe sợi, dệt vải được mở ở Liverpool năm 1790 là những
DNXH đầu tiên trong lĩnh vực giáo dục và tạo việc làm cho những người mù nghèo
khổ. Hàng loạt sáng kiến xã hội khác như đào tạo nghề đi biển, nghề mộc cho trẻ
em, sử dụng nguồn thu từ các hàng cà phê cũng được ghi nhận trong thời gian này.
Ngồi ra cịn có các mơ hình tổ chức cho phép người lao động ký kết hợp đồng lao
động và làm chủ hoạt động kinh doanh, cũng như phân phối lợi nhuận, như hợp tác
xã (Co-op), hội ái hữu (Provident Society), làng nghề (Industrial Society).18
Sang thế kỉ 20, cuộc Đại suy thoái (1929-1933) đã lan rộng ra tất cả các lĩnh
vực, trở thành cuộc khủng hoảng toàn diện. Hàng triệu người thất nghiệp và mất
nhà cửa. Trong bối cảnh đó, học thuyết kinh tế Keynes ra đời, với quan điểm cho
rằng nền kinh tế thị trường không có khả năng tự điều tiết, vì vậy, để thúc đẩy sự
phát triển đều đặn, nhà nước phải trực tiếp can thiệp và điều tiết vào kinh tế19. Kể từ

sau Thế chiến thứ II, Luật Bảo hiểm quốc gia năm 1946 được nước Anh ban hành
với đặc trưng của mô hình “nhà nước phúc lợi” nhấn mạnh đến tính tồn diện về

Simon Li và Thomas Wong, tlđd (04), tr. 06.
Nguyễn Đình Cung, Lưu Minh Đức, Phạm Kiều Oanh và Trần Thị Hồng Gấm, tlđd (01), tr. 01.
18
Nguyễn Đình Cung, Lưu Minh Đức, Phạm Kiều Oanh và Trần Thị Hồng Gấm, tlđd (01), tr. 01.
19
Trần Thị Bình, “Quan niệm của một số học thuyết kinh tế cận, hiện đại về vai trò nhà nước trong nền kinh
tế thị trường và sự vận dụng ở Việt Nam”, truy cập tại địa chỉ: />21_7.pdf, truy cập ngày 25/5/2016.
16
17


10

phạm vi, lĩnh vực, lợi ích của những người tham gia, trong đó nhà nước chịu trách
nhiệm chính về mặt tài chính. Kể từ đó, hoạt động của các DNXH đã giảm sút. 20
Đến năm 1965, phong trào thương mại cơng bằng xuất hiện tại Anh, tiêu biểu
là chương trình “giúp bằng cách bán” được phát động bởi tổ chức phi chính phủ
Oxfam đã rất thành cơng. Năm 1970, các mơ hình kinh doanh khác nhau bắt đầu
dùng hình thức kinh doanh để hướng đến một xã hội tốt đẹp. Đến năm 1979, khi
Thủ tướng Margaret Thatcher lên nắm quyền, bà chủ trương thu hẹp vai trò của Nhà
nước, từ đó các dịch vụ cơng, phúc lợi xã hội được thực hiện thông qua các tổ chức
dân sự và tư nhân. Đây chính là tiền đề quan trọng để DNXH có thể phát triển mạnh
thành một phong trào rộng khắp có diện mạo như ngày nay.
Từ năm 1980, các doanh nghiệp tạo thu nhập để thực hiện mục tiêu xã hội
tăng vọt. Những doanh nghiệp như vậy thường được gọi là “doanh nghiệp xã hội”
(social enterprises), thuật ngữ này chưa có định nghĩa chính thức vào thời điểm
đó.21 Đến năm 1981, trong tác phẩm “Social Audit a Management Tool for Cooperative Working” của tác giả Freer Spreckley, cụm từ “social enterprises” được

định nghĩa,22 và thuật ngữ này cũng bắt đầu được sử dụng phổ biến ở Anh kể từ
đây. Tuy nhiên, thuật ngữ “social enterprises” có thật sự bắt nguồn từ Anh hay
khơng thì chưa có một sự khẳng định chắc chắn, bởi có nghiên cứu cho rằng thuật
ngữ này được dùng đầu tiên ở Ý vào năm 1980.23
Nhận thấy xu hướng và tiềm năng phát triển DNXH, từ cuối những năm 1990
một số nghiên cứu chuyên sâu và các tổ chức trung gian hỗ trợ DNXH đã bắt đầu
được thành lập. Đến nay đã có hàng trăm tổ chức trung gian hỗ trợ DNXH ở Anh.
Hiện nay Liên minh DNXH (Social Enterprise Alliance) là tổ chức trung gian có
mạng lưới hoạt động rộng và có ảnh hưởng nhất trên lĩnh vực này.24
Đến năm 1999, trong ấn phẩm “Enterprise and Social Exclusion”, Chính phủ
Anh đã mơ tả khái qt về các DNXH như là nhóm các tổ chức giải quyết các vấn
đề xã hội, môi trường thông qua các hoạt động kinh doanh.25 Tiếp theo sau đó, vào

Phạm Thị Hồng Điệp (2012), “Những thách thức với các nhà nước phúc lợi châu Âu trong thế kỉ XXI”,
Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội, số 28, tr. 61.
21
Simon Li và Thomas Wong, tlđd (04), tr. 06.
22
Freer Spreckley (1981), Social Audit A Management Tool for Co-operative Working, Nxb. Beechwood
College, tr. 02.
23
Jacques Defourny và Marthe Nyssens (2010), “Social enterprise in Europe: At the crossroads of market,
public policies and third sector”, Tạp chí Policy and Society, số 29, tr. 231.
24
Nguyễn Đình Cung, Lưu Minh Đức, Phạm Kiều Oanh và Trần Thị Hồng Gấm, tlđd (01), tr. 06.
25
Cabinet Office, tlđd (03), tr. 10.
20



11

năm 2002, Bộ Thương mại và Công nghiệp Anh lần đầu tiên đưa ra định nghĩa về
DNXH trong “Social Enterprise: a strategy for success”, theo đó: DNXH là một mơ
hình kinh doanh với mục tiêu chính là xã hội, sử dụng hầu hết lợi nhuận để tái đầu
tư cho xã hội hoặc cho cộng đồng hơn là hướng tới mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận
cho cổ đơng hoặc chủ sở hữu.26 Mặc dù Vương quốc Anh là nơi có lịch sử phát
triển DNXH sớm nhất trên thế giới và thuật ngữ DNXH đã được sử dụng từ những
năm 1980, nhưng mãi đến năm 2002 định nghĩa về DNXH mới được Chính phủ
Anh thừa nhận một cách rõ ràng. Cách định nghĩa này rất toàn diện, bám sát những
đặc điểm cơ bản của DNXH. Một là, DNXH tại Anh được sử dụng để chỉ mục đích
của hành vi kinh doanh (the purpose of a business), chứ không phải với tư cách là
một hình thức pháp lý (not its legal form).27 Hai là, mục tiêu xã hội được đặt ra như
một sứ mệnh cơ bản và trước tiên của việc thành lập tổ chức đó. Ba là, về nguyên
tắc lợi nhuận được tái phân phối lại cho cộng đồng, không phải cho cá nhân mang
tính chất tư lợi.
Hiện nay, DNXH ở Anh hoạt động dưới rất nhiều hình thức tổ chức và địa vị
pháp lý khác nhau, DNXH có thể chỉ là một thương nhân đơn lẻ hoặc ở quy mô lớn
hơn như Công ty trách nhiệm hữu hạn (Limited Company), Cơng ty vì lợi ích cộng
đồng (Community Interest Company), các Hợp tác xã (Co-operative Societies) và
các Hội vì lợi ích cộng đồng (Community Benefit Societies hoặc BenComms).28
Trong đó, mơ hình CIC là hình thức pháp lý duy nhất dành riêng cho DNXH tại
Anh. 29
Trong khi đó, pháp luật Hàn Quốc tiếp cận thuật ngữ DNXH ở khía cạnh khác.
Theo Khoản 1 Điều 2 Luật Phát triển DNXH năm 2007 (được sửa đổi, bổ sung năm
2009, 2010) của Hàn Quốc thì “DNXH là doanh nghiệp được chứng nhận phù hợp
với Điều 7 của Luật này nhằm theo đuổi mục tiêu xã hội, nâng cao chất lượng cuộc
sống của người dân bằng việc cung cấp cho nhóm yếu thế những dịch vụ xã hội
hoặc công việc trong khi tiến hành kinh doanh, ví như việc sản xuất và bán hàng
Department of Trade and Industry, tlđd (02), tr. 13.

[A social enterprise is a business with primarily social objectives whose surpluses are principally reinvested
for that purpose in the business or in the community, rather than being driven by the need to maximise profit
for shareholders and owners].
27
Department for Business Innovation and Skill, “A Guide to Legal Forms for Social Enterprise 2011”, truy
cập tại địa chỉ: />-guide-legal-forms-for-social-enterprise.pdf, truy cập ngày 11/11/2016.
28
Cabinet Office, tlđd (03), tr. 13.
29
Phan Thị Thanh Thủy (2015), “Hình thức pháp lý của doanh nghiệp xã hội: Kinh nghiệm nước Anh và một
số gợi mở cho Việt Nam”, Tạp chí Khoa học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, số 04/2015, tr. 58.
26


12

hóa, dịch vụ”.30 Theo Khoản 1 Điều 7 Luật Phát triển DNXH thì DNXH phải đáp
ứng các yêu cầu về mục tiêu xã hội theo Điều 8 và được xác nhận bởi Bộ trưởng Bộ
Việc làm và Lao động. DNXH theo pháp luật Hàn Quốc phải đáp ứng ba tiêu chí:
(i) theo đuổi mục tiêu xã hội; (ii) tham gia vào các hoạt động kinh doanh; (iii) và có
xác nhận của Nhà nước.31 Hàn Quốc khơng có loại hình doanh nghiệp dành riêng
cho DNXH, vậy nên các chủ sở hữu sẽ dựa vào các hình thức pháp lý được Luật
Phát triển DNXH thừa nhận để đăng ký DNXH với cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Pháp luật Hàn Quốc quy định rất chi tiết các tiêu chí xác định phạm trù
“mục tiêu xã hội” của Hàn Quốc.
Vì những hiệu quả của mơ hình DNXH mà nó đã được nhân rộng ở hầu khắp
các nước Tây Âu, Bắc Mỹ và trở thành phong trào rộng lớn trên thế giới như hiện
nay. Vậy nên ngồi Vương quốc Anh và Hàn Quốc thì hiện nay trên thế giới cịn có
nhiều quan niệm khác nhau về DNXH, tiêu biểu là các định nghĩa dưới đây.
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (Organization for Economic Cooperation and Development - OECD) định nghĩa rằng “DNXH là những tổ chức

hoạt động dưới nhiều hình thức pháp lý khác nhau vận dụng tinh thần doanh nhân
nhằm theo đuổi cùng lúc cả hai mục tiêu xã hội và kinh tế. DNXH thường cung cấp
các dịch vụ xã hội và làm việc cho các nhóm yếu thế ở cả thành thị và nơng thơn.
Ngồi ra, DNXH cịn cung cấp các dịch vụ cộng đồng trên các lĩnh vực giáo dục,
văn hóa, mơi trường”.32 Theo định nghĩa này thì DNXH sẽ thực hiện song song cả
mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội từ khi thành lập. Mục tiêu xã hội được chú trọng
hơn thể hiện ở việc DNXH cung cấp các dịch vụ cộng đồng trên các lĩnh vực: văn
hóa, giáo dục, mơi trường… Tuy nhiên, nếu cho rằng DNXH là tổ chức hoạt động
dưới các hình thức pháp lý (legal forms) khác nhau thì các cơ quan như: cơ quan
nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội… cũng có thể trở thành DNXH là điều bất hợp
[The term “social enterprise” refers to an enterprise certified in accordance with Article 7 as one that
pursues a social objective, such as raising local residents 'quality of life, etc., by providing vulnerable groups
with social services or jobs while conducting business activities, such as the production and sale of goods
and services, etc].
31
Noh Hee-Jin, “Developing Social Enterprises in Korea”, truy cập tại địa chỉ: www.kcmi.re.kr/common/Do
wnloadw.asp?Fid=2989&fgu=002001&fty=004003, truy cập ngày 01/11/2016.
32
OECD, “The Social Enterprise Sector: A Conceptual Framework”, truy cập tại địa chỉ: d.o
rg/cfe/leed/37753595.pdf, truy cập ngày 03/5/2017.
[Social enterprises are organisations that take different legal forms to pursue both social and economic
goals with an entrepreneurial spirit. Social enterprises typically engage in delivery of social services and
work integration services for disadvantaged groups and communities, whether in urban or rural area. In
addition, social enterprises are also emerging in the provision of community services, including in the
educational, cultural and environmental fields].
30


13


lý.33 Hơn nữa, cụm từ “vận dụng tinh thần doanh nhân” không phải là thuật ngữ dễ
hiểu và vấn đề phân phối lợi nhuận không được đề cập trong định nghĩa này. Vậy
nên định nghĩa DNXH của OECD chưa phải là một định nghĩa rõ ràng.
Theo quan điểm của Liên minh DNXH Malaysia (Social Enterprise Alliance
Malaysia) thì “DNXH là các tổ chức có mục tiêu chính vì xã hội (chẳng hạn như
giảm nghèo đói hoặc bảo vệ mơi trường) và sử dụng việc kinh doanh của khu vực tư
nhân để duy trì sự tồn tại của mình”.34 Hay theo giải thích của Từ điển
“Business Dictionary” thì “DNXH là một loại hình kinh doanh nhằm tạo ra thu
nhập để giải quyết các vấn đề xã hội và môi trường”.35 Các quan điểm này chưa nêu
bật được mục tiêu xã hội là sứ mệnh để thành lập và duy trì trong suốt quá trình
hoạt động của DNXH. Theo các cách hiểu như trên thì DNXH gần như bị đánh
đồng với các doanh nghiệp truyền thống, làm cho DNXH dễ bị nhầm lẫn với việc
doanh nghiệp thực hiện trách nhiệm xã hội. Trên thực tế, để xây dựng hình ảnh tốt
đẹp với người tiêu dùng, nhiều doanh nghiệp sẵn sàng tuyên bố các sứ mệnh xã hội
của mình một cách hào phóng để tạo lập hình ảnh tốt đẹp và thân thiện với khách
hàng, người tiêu dùng. Tuy nhiên, có sự khác biệt rất lớn giữa DNXH và doanh
nghiệp thực hiện trách nhiệm xã hội (vấn đề này tác giả trình bày ở mục 1.2). Vậy
nên các quan điểm trên không đủ cơ sở để phân loại rõ ràng mức độ cam kết “vì xã
hội” hay “vì lợi nhuận” của một tổ chức.36
Như vậy, hiện nay trên thế giới có nhiều quan điểm khác nhau về DNXH, sự
khác biệt này xuất phát từ nhu cầu xây dựng các chính sách khác nhau đối với
DNXH. Chẳng hạn như ở Vương quốc Anh, Nhà nước thường không hỗ trợ trực
tiếp cho các DNXH mà thông qua các tổ chức, mạng lưới trung gian. Vậy nên để
khuyến khích và mở rộng phạm vì các chủ thể được xem là DNXH, Chính phủ Anh
đã xây dựng định nghĩa về DNXH khá thơng thống. Cách quan niệm như vậy nhận
được sự ủng hộ bởi nhiều tổ chức trung gian kết nối cộng đồng DNXH. Khác với
Anh, Hàn Quốc mong muốn có những ưu đãi và hỗ trợ trực tiếp cho DNXH, nên

Nguyễn Thanh Hằng (2016), Những vấn đề pháp lý về mơ hình doanh nghiệp xã hội - Nhu cầu triển khai
thực tế, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 08.

34
Social Enterprise Alliance Malaysia, “What is social enterprise?”, truy cập tại địa chỉ: ialen
terprise.org.my/what-is-social-enterprise/, truy cập ngày 03/5/2017. [Social enterprises are: (i) organisations
that have a social cause as their primary mission, such as poverty reduction or preserving the environment,
and (ii) use a private sector business model to sustain themselves].
35
Business Dictionary, “Social Enterprise”, truy cập tại địa chỉ: />n/social-enterprise.html, truy cập ngày 18/4/2017.
36
Nguyễn Đình Cung, Lưu Minh Đức, Phạm Kiều Oanh và Trần Thị Hồng Gấm, tlđd (01), tr. 05.
33


14

việc xác định DNXH được pháp luật quy định khá chặt chẽ nhằm đảm bảo các
chính sách ưu đãi của Nhà nước đến đúng đối tượng. Mỗi khái niệm khác nhau đó
thường có những điểm tích cực và những điểm hạn chế riêng. Tuy nhiên, tựu chung
thì tác giả cho rằng DNXH có dấu hiệu cơ bản là được thành lập để giải quyết các
vấn đề xã hội bằng phương án kinh doanh, trong đó có việc phân phối phần lớn lợi
nhuận để tái đầu tư nhằm giải quyết các vấn đề xã hội mà DNXH đó theo đuổi.
Phần dưới đây sẽ làm rõ hơn về các đặc điểm cơ bản của DNXH.
1.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp xã hội
Thứ nhất, DNXH có các hoạt động kinh doanh để giải quyết các vấn đề xã hội
nhằm đem lại lợi ích cho cộng đồng
Pháp luật của Anh và Hàn Quốc không có khái niệm chung về “doanh nghiệp”
(enterprise) mà chỉ đưa ra định nghĩa pháp lí về từng loại hình doanh nghiệp, nội
hàm của khái niệm doanh nghiệp được giải nghĩa thơng qua việc chế định đặc điểm
pháp lí của những hình thức tổ chức kinh doanh cụ thể (cá nhân kinh doanh, hợp
danh, công ty...).37 Khái niệm doanh nghiệp đồng nghĩa với khái niệm chủ thể kinh
doanh (business entity), theo đó doanh nghiệp là các chủ thể pháp luật (cá nhân

hoặc tổ chức), được xác lập tư cách theo quy định của pháp luật để hoạt động kinh
doanh.38 Do đó, thuật ngữ “social enterprise” thể hiện một trong các đặc điểm cơ
bản của DNXH là phải có các hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, phạm trù “kinh
doanh” ở đây cần được hiểu trong mối quan hệ biện chứng với “mục tiêu giải quyết
các vấn đề xã hội”. Đặc điểm này được làm rõ hơn thông qua sự so sánh với hoạt
động của các hình thức tổ chức thiện nguyện và các doanh nghiệp truyền thống.
Hoạt động kinh doanh là nét đặc thù và thế mạnh của DNXH so với các tổ
chức phi chính phủ, phi lợi nhuận, các quỹ từ thiện (gọi chung là “tổ chức thiện
nguyện”) chỉ đơn thuần nhận tài trợ và thực hiện các chương trình xã hội. Các tổ
chức này cũng mong mỏi giải quyết các vấn đề xã hội, tuy nhiên các tổ chức thiện
nguyện sử dụng phần lớn là chương trình từ thiện với nguồn vốn tài trợ là chủ yếu.
Nguồn thu có được từ các khoản đóng góp được các tổ chức phi chính phủ phục vụ
trực tiếp cho xã hội và được cộng đồng đón nhận một cách bị động. Phạm vi phụ
thuộc có thể bao gồm cả sứ mệnh, định hướng và địa bàn hoạt động. Nói cách khác,

Sarah Riches và Vida Allen (2009), Business Law, Pearson Education Limited, United Kingdom, tr. 307.
Đồng Ngọc Ba (2004), “Quan niệm về doanh nghiệp – một số vấn đề phương pháp luận”, Tạp chí Luật
học, số 02/2004, tr. 10.
37
38


15

các tổ chức thiện nguyện bị chi phối bởi các nhà tài trợ, tính độc lập và tự chủ bị
hạn chế.
Một khi mà việc tiếp cận các nguồn vốn một cách thụ động và khơng có các
biện pháp để phát triển nguồn vốn này thì tất yếu các dự án, chương trình mà các tổ
chức thiện nguyện xây dựng sẽ khó cơ hội thực hiện trong thời gian dài. Các dự án
vốn đứt đoạn và có tính biệt lập; do đó hiệu quả xã hội mà các giải pháp xã hội của

tổ chức thiện nguyện đem lại thường không vượt quá phạm vi và thời hạn của dự
án. Trong khi đó, DNXH thơng qua các hoạt động sản xuất, đầu tư để tiêu thụ sản
phẩm trên thị trường nhằm chủ động tìm kiếm nguồn vốn cho tổ chức mình để đạt
được mục tiêu xã hội. DNXH không phá vỡ các quy luật cạnh tranh, khơng bóp
méo thị trường, vì vậy mà DNXH tạo ra lao động, sản phẩm, dịch vụ, trong khi các
tổ chức thiện nguyện hoạt động phi lợi nhuận, sản phẩm hay dịch vụ từ các tổ chức
này khơng tn thủ quy luật thị trường và có nguy cơ bóp méo thị trường. Và vì tự
chủ hoạt động kinh doanh nên chính các DNXH phải đối diện với áp lực hồn thiện
mình theo các quy luật của nền kinh tế thị trường để tối ưu hóa hiệu quả kinh tế
nhằm thực hiện mục tiêu xã hội đã đặt ra, trong suốt q trình đó, đối tượng được
hưởng lợi (người lao động và/hoặc khách hàng của DNXH) sẽ trưởng thành hơn và
ít nhất là một sinh kế bền vững để tự lập. Vì thế mà DNXH cải thiện căn bản sự độc
lập, tự chủ và tính bền vững cho tổ chức cũng như giải pháp xã hội mà tổ chức đưa
ra.39
Hoạt động kinh doanh của DNXH cũng không giống như hoạt động kinh
doanh như ở các doanh nghiệp truyền thống. Cụ thể: ở doanh nghiệp truyền thống,
các nhà đầu tư dựa vào thị trường để tìm ra nhu cầu của khách hàng, từ đó lên kế
hoạch và chiến lược đầu tư, sản xuất kinh doanh hàng hóa, cung ứng dịch vụ và
thông qua hàng loạt các hoạt động kinh doanh được điều tiết bởi các quy luật của
nền kinh tế thị trường để đạt được mục đích cuối cùng là lợi nhuận. Nói cách khác,
chính lợi nhuận trở thành động lực để nhà đầu tư quyết định tìm giải pháp kinh
doanh, đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng và tối đa hóa lợi nhuận cho mình,
có được lợi nhuận, tức nhà đầu tư đã thành công.
Trong khi đó, đối với DNXH thì yếu tố “lợi nhuận” khơng phải là yếu tố quyết
định đến sự ra đời của DNXH mà chính từ các vấn đề đang tồn tại trong xã hội. Các
vấn đề xã hội trở thành động lực để các nhà đầu tư tìm kiếm và quyết định mơ hình
39

Nguyễn Đình Cung, Lưu Minh Đức, Phạm Kiều Oanh và Trần Thị Hồng Gấm, tlđd (01), tr. 15.



16

kinh doanh phù hợp, suy cho cùng thì nhà đầu tư sử dụng phương thức kinh doanh
để giải quyết vấn đề xã hội mà họ đã phát hiện ra. Đối tượng được hưởng lợi từ việc
kinh doanh của DNXH chủ yếu không phải là các chủ sở hữu DNXH - người đã bỏ
vốn và cơng sức cho DNXH của mình, thay vào đó là các vấn đề về xã hội, môi
trường… Một khi vấn đề xã hội được giải quyết thì mục đích của DNXH đã đạt
được, dù có thể chính DNXH khơng thu về được lợi nhuận, thậm chí bị thua lỗ. Nói
cách khác, việc kinh doanh của DNXH đã bao trùm trong nó việc giải quyết các vấn
đề xã hội để đem lại lợi ích cho cộng đồng, lợi nhuận chỉ như là biện pháp trung
gian để đạt được mục tiêu. Ví dụ: tổ chức Oxfam mở các nhà xưởng sản xuất hàng
thủ công để giúp đỡ các trẻ em cơ nhỡ có việc làm ổn định (chương trình cịn được
gọi là “help by sell”).40 Có thể thấy rằng, chính việc tổ chức sản xuất hàng thủ cơng
như vậy đã góp phần giải quyết việc làm cho các em có hồn cảnh khó khăn.
Dù rằng doanh nghiệp truyền thống và DNXH đều hoạt động theo cơ chế thị
trường, nghĩa là phải có doanh thu và chịu sự tác động bởi các quy luật thị trường,
tuy nhiên chúng khác nhau về bản chất và đích đến. Sẽ thiếu chính xác nếu xem đặc
điểm kinh doanh tách rời ra khỏi mục tiêu vì xã hội khi tìm hiểu về DNXH. Cho
nên có quan điểm cho rằng “DNXH có thể có lợi nhuận, thậm chí cần lợi nhuận để
phục vụ mục tiêu xã hội nhưng khơng vì lợi nhuận mà vì xã hội”41.
Thứ hai, DNXH phải sử dụng phần lớn lợi nhuận để tái đầu tư nhằm giải
quyết các vấn đề xã hội mà DNXH theo đuổi
Đặc điểm này góp phần chỉ rõ sự khác biệt giữa doanh nghiệp truyền thống
với DNXH. Hình dung một cách đơn giản, doanh nghiệp truyền thống như những
người bình thường trong xã hội, họ kiếm ra tiền và dùng số tiền ấy chi tiêu cho cuộc
sống, sử dụng vào nhu cầu của họ. Còn đối với DNXH thì hoạt động vì cộng đồng.
Lợi nhuận thu về sẽ được tái đầu tư để phục vụ cho cộng đồng. Số tiền mà DNXH
tái đầu tư như vậy không nhất thiết phải là tất cả lợi nhuận mà họ thu được, số còn
lại được DNXH sử dụng để trả lương, ổn định hoạt động kinh doanh, phát triển

doanh nghiệp, hoặc thậm chí là trả cho các chủ sở hữu để khuyến khích việc đầu tư
Matthew Anderson, “A History of Fair Trade in Contemporary Britain: From Civil Society Campaigns to
Corporate Compliance”, truy cập tại địa chỉ: />PA29&lpg=PA29&dq=oxfam+helping+by+selling&source=bl&ots=XQWlJVvAQl&sig=xS6-OPOXHX_vq
TKOMo49ql5M9kM&hl=vi&sa=X&ved=0ahUKEwjcm8jq3ofTAhVNO7wKHVmLA4oQ6AEIPTAF#v=on
epage&q=oxfam%20helping%20by%20selling&f=false, truy cập ngày 03/3/2017.
41
Võ Sỹ Mạnh (2015), Doanh nghiệp xã hội theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014 nhìn từ góc độ
quyền tự do kinh doanh, Tài liệu Hội thảo Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư năm 2014: những đổi mới
nhằm hiện thực hóa quyền tự do kinh doanh, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, tr. 50.
40


17

nhiều hơn vào các DNXH. Cũng vì đặc điểm này mà thường thì DNXH khơng được
xem là con đường làm giàu, muốn làm giàu cần tìm đến các hình thức kinh doanh
khác.
Hiện nay DNXH hay bị nhầm lẫn với trách nhiệm xã hội (TNXH) của doanh
nghiệp.42 TNXH là cam kết nỗ lực cải thiện chất lượng cuộc sống của cộng đồng
thơng qua q trình kinh doanh và đóng góp của các doanh nghiệp một cách tự
nguyện.43 Có ba hướng chính trong hoạt động nhằm thực hiện TNXH của doanh
nghiệp: (i) bảo hộ lao động, (ii) tạo điều kiện lao động thuận lợi cho người lao động,
(ii) bảo vệ môi trường và tham gia vào việc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở địa
phương.44 Thực hiện TNXH góp phần tạo thêm danh tiếng cho doanh nghiệp, nó
đảm bảo tính bền vững của doanh nghiệp trong xã hội, cộng đồng và như thế, xét về
phương diện trường tồn, đó là nhu cầu nội tại trong phát triển của doanh nghiệp.45
Như vậy, về cơ bản thì DNXH khác với TNXH của một doanh nghiệp theo
đuổi lợi ích lợi nhuận thuần túy.46 Bản chất của TNXH là ghi nhận sự cam kết tự
nguyện của doanh nghiệp thực hiện hững chuẩn mực đạo đức và xã hội vì mục tiêu
con người và phát triển bền vững, mang tính chất là hoạt động bổ sung của doanh

nghiệp, doanh nghiệp thực hiện TNXH vẫn là các doanh nghiệp thông thường vẫn
với mục tiêu và bản chất tìm kiếm lợi nhuận. Trong khi đó, tơn chỉ, mục đích và
tồn bộ hoạt động của DNXH là để giải quyết vấn đề xã hội đã xác định ngay từ khi
thành lập và được duy trì trong suốt quá trình hoạt động.
Thứ ba, DNXH thường có cấu trúc sở hữu mang tính xã hội
Ngồi hai đặc điểm cơ bản trên đây thì trong cơng trình nghiên cứu “Doanh
nghiệp xã hội tại Việt Nam: khái niệm, bối cảnh và chính sách”, sau khi khảo sát và
tìm hiểu hoạt động của nhiều DNXH trên thế giới, các tác giả của công trình này đã
chỉ ra thêm các đặc điểm khác của DNXH - dù đây không phải là các đặc điểm phổ
biến ở mọi DNXH, như: sở hữu mang tính xã hội; phục vụ nhu cầu của nhóm đáy
Phan Thị Thanh Thủy (2015), “Doanh nghiệp xã hội theo Luật Doanh nghiệp năm 2014”, Tạp chí Dân chủ
và pháp luật, số 6 (279), tr. 26.
43
Philip Kotler và Nancy Lee (2005), “Corporate Social Responsibility Doing the Most Good for Your
Company and Your Cause”, truy cập tại địa chỉ: />Responsibility.html?id=2ppzhuJyyPgC&redir_esc=y, truy cập ngày 02/01/2017.
44
Trần Hoàng Hải (2016), “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: Khái niệm, các mơ hình và kinh nghiệm
đối với các doanh nghiệp”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 07 (101), tr. 5.
45
Nguyễn Như Phát (2013), “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: Một số vấn đề lý luận”, Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật, số 07, tr. 32.
46
Konrad Adenauer Stiftung Seoul và John McDonald (2014), Corporate Social Responsibility in Korea,
KAS Journal on Contemporary Korean Affairs, tr. 99.
42


18

(nhóm nghèo, yếu thế nhất xã hội); sáng kiến từ cơ sở, mang tính tự phát, tính liên

kết và cở mở rộng rãi…47 Trong số các đặc điểm này thì việc DNXH có cấu trúc sở
hữu mang tính xã hội sẽ ảnh hướng đến việc tổ chức quản lý của DNXH.
Trong việc quản lý và điều hành của DNXH thường có sự tham gia của cộng
đồng hoặc các bên liên quan, các bên hưởng lợi... Điều này cho phép DNXH có tính
tự chủ cao. Tiêu biểu là trường hợp của các Hợp tác xã hoạt động theo mơ hình
DNXH. Trên thực tế, hầu hết các DNXH đều có cấu trúc quản lý cởi mở và dân
chủ. Yêu cầu gắn kết với cộng đồng, các bên hưởng lợi và một số lượng đối tác
đơng đảo, trong khi mục đích xã hội được đặt ở vị trí tối cao, khiến các DNXH sẵn
sàng chia sẻ “quyền lực” của mình với tất cả các bên liên quan. Đáng chú ý, ở nhiều
DNXH khái niệm đối nhân - đối vốn không được áp dụng như tại các công ty cổ
phần hay TNHH truyền thống.48
1.2. Vai trò của pháp luật về doanh nghiệp xã hội
1.2.1. Đối với chủ sở hữu của doanh nghiệp xã hội
Trước những vấn đề của cộng đồng như tệ nạn xã hội, thất nghiệp, ơ nhiễm
mơi trường… chúng ta thường có nhiều lựa chọn để giải quyết những tình trạng
này, chẳng hạn như thông qua các hoạt động cứu trợ của Nhà nước, hoạt động thiện
nguyện của các tổ chức từ thiện hay việc các doanh nghiệp thực hiện trách nhiệm xã
hội… Bên cạnh đó, với sự phát triển của xã hội, các vấn đề xã hội được giải quyết
thông qua các hoạt động kinh doanh bởi sự sáng tạo của các nhà đầu tư. Đối với các
chủ sở hữu DNXH thì pháp luật về DNXH đóng vai trị quan trọng trong việc mở
rộng và đảm bảo quyền tự do kinh doanh cho các nhà đầu tư.
Bên cạnh quyền tự do kinh doanh để tìm kiếm lợi nhuận nhằm làm giàu chính
đáng, nhu cầu tổ chức sản xuất kinh doanh để giải quyết các vấn đề xã hội của các
nhà đầu tư là hiện thực, vậy nên việc pháp luật ghi nhận quyền được thành lập
DNXH sẽ góp phần mở rộng quyền tự do kinh doanh cho các nhà đầu tư. Hệ thống
pháp luật về DNXH minh bạch và hiệu quả với khả năng dự báo trước được những
tác động của Nhà nước đối với DNXH, bao gồm cả những chính sách hỗ trợ của
Nhà nước, sẽ có ý nghĩa tích cực trong việc khuyến khích các nhà đầu tư bỏ vốn và
cơng sức vào DNXH.49


Nguyễn Đình Cung, Lưu Minh Đức, Phạm Kiều Oanh và Trần Thị Hồng, tlđd (01), tr. 08-10.
Nguyễn Đình Cung, Lưu Minh Đức, Phạm Kiều Oanh và Trần Thị Hồng, tlđd (01), tr. 08.
49
Cabinet Office, tlđd (03), tr. 13.
47
48


19

Thông qua pháp luật về DNXH, các nhà đầu tư biết được những điều kiện tối
thiểu nào để thành lập DNXH. Từ đó, nhà đầu tư cân nhắc để chuẩn bị trước các
điều kiện về vốn, nhân lực, các vấn đề xã hội nào cần giải quyết và phương án kinh
doanh phù hợp… Điều này nhằm góp phần cho ra đời những DNXH đủ khả năng
để tham gia vào thị trường.
Ngồi ra, việc pháp luật ghi nhận DNXH cịn tác động đến chính bản thân
những người trong nhóm yếu thế, thơi thúc họ tìm đến phương án kinh doanh phù
hợp nhất với bản thân mình để tự thốt khỏi hồn cảnh khó khăn và giúp đỡ cộng
đồng.50
1.2.2. Đối với doanh nghiệp xã hội
Vai trò của DNXH được biểu hiện rõ nét trong nền kinh tế thị trường. Theo
đó, một mặt cơ chế thị trường thúc đẩy các doanh nghiệp dân doanh tìm cách tối ưu
hóa sản xuất kinh tế để thu được nhiều lợi nhuận, mặc khác đây cũng là nơi mà
khoảng cách giàu nghèo được phơi bày. Nhu cầu bảo vệ môi sinh và an sinh xã hội
mà việc điều tiết bằng cạnh tranh tỏ ra bất lực, chất thải ảnh hưởng nghiêm trọng
đến cuộc sống con người.51 Các cá nhân và tổ chức thiện nguyện với nguồn vốn chủ
yếu dựa vào tài trợ tuy có nhiều dự án thiết thực nhưng lại eo hẹp kinh tế. Bên cạnh
đó có rất nhiều nhóm xã hội thực hiện song song hoạt động xã hội và hoạt động
kinh tế để có nguồn lợi nhuận ổn định, duy trì hoạt động nhưng những hoạt động
kinh tế này chủ yếu là tự phát, khơng có đường lối chiến chược cụ thể. Sự có mặt

của các DNXH là một động thái tích cực trong cơng tác xã hội bởi chính sự tận tâm
và nguồn kinh tế ổn định mà các mơ hình này tạo nên.52 Việc ghi nhận về mặt pháp
lý đối với DNXH là cách mà Nhà nước chính thức và cơng khai thừa nhận vai trò
của DNXH, làm cơ sở để DNXH có thể “chính danh ngơn thuận” tham gia vào các
quan hệ pháp luật, góp phần cùng với Nhà nước khắc phục những khiếm khuyết của
nền kinh tế thị trường.
Pháp luật về DNXH đảm bảo các DNXH đi đúng mục tiêu vì xã hội. DNXH
khác với các doanh nghiệp khác ở mục tiêu kinh doanh, vì mục tiêu này mà Nhà
nước có các chính sách hỗ trợ, cịn xã hội có cái nhìn thiện cảm hơn đối với DNXH,
Cabinet Office, tlđd (03), tr. 13.
Phạm Duy Nghĩa (2015), Giáo trình Luật kinh tế, Nxb. Công an nhân dân, tr. 94-95.
52
Gordon Allinson, Paul Braidford, Maxine Houston, Fred Robinson và Ian Stone, “Business support for
social enterprises: findings from a longitudinal study”, truy cập tại địa chỉ: />uploads/system/uploads/attachment_data/file/32229/12-566-business-support-for-social-enterprises-longitudi
nal.pdf, truy cập ngày 17/5/2017.
50
51


×