TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÌNH SỰ
NGUYỄN NGỌC PHÚC
MSSV: 0855030174
HỒN THIỆN
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999
VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHÓA: 2008 – 2012
NGƢỜI HƢỚNG DẪN: ThS. VŨ THỊ THÚY
GIẢNG VIÊN KHOA LUẬT HÌNH SỰ
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2012
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÌNH SỰ
NGUYỄN NGỌC PHÚC
MSSV: 0855030174
HỒN THIỆN
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999
VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHÓA: 2008 – 2012
NGƢỜI HƢỚNG DẪN: ThS. VŨ THỊ THÚY
GIẢNG VIÊN KHOA LUẬT HÌNH SỰ
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2012
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
CHƢƠNG I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC ...... 1
1.1
KHÁI NIỆM CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC .......................................... 1
1.2 LỊCH SỬ VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRONG LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM ................................................................................................................... 3
1.2.1
Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945: ..................................... 3
1.2.2
Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám 1945 đến năm 1985: .......................... 8
1.2.3
Giai đoạn từ năm 1985 đến nay: .................................................................. 9
1.3 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT MỘT SỐ QUỐC GIA VỀ CÁC TỘI XÂM
PHẠM TÌNH DỤC .................................................................................................... 13
1.3.1
Các tội xâm phạm tình dục trong BLHS Liên bang Nga: ......................... 14
1.3.2
Các tội xâm phạm tình dục trong BLHS Thụy Điển: ................................ 16
1.3.3
Các tội xâm phạm tình dục trong BLHS Cộng hòa nhân dân Trung Hoa: 19
CHƢƠNG II. CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ
NĂM 1999 ..................................................................................................................... 21
2.1
TỘI HIẾP DÂM .............................................................................................. 21
2.1.1
Định nghĩa: ................................................................................................ 21
2.1.2
Dấu hiệu pháp lý: ....................................................................................... 21
2.1.3
Tình tiết định khung tăng nặng: ................................................................. 24
2.2
TỘI HIẾP DÂM TRẺ EM .............................................................................. 28
2.2.1
Định nghĩa: ................................................................................................ 28
2.2.2
Dấu hiệu pháp lý: ....................................................................................... 28
2.2.3
Tình tiết định khung tăng nặng: ................................................................. 30
2.3
TỘI CƯỠNG DÂM .......................................................................................... 30
2.3.1
Định nghĩa: ................................................................................................ 30
2.3.2
Dấu hiệu pháp lý: ....................................................................................... 30
2.3.3
Tình tiết định khung tăng nặng: ................................................................. 33
2.4
TỘI CƯỠNG DÂM TRẺ EM .......................................................................... 33
2.4.1
Định nghĩa: ................................................................................................ 33
2.4.2
Dấu hiệu pháp lý: ....................................................................................... 33
2.4.3
Tình tiết định khung tăng nặng: ................................................................. 35
2.5
TỘI GIAO CẤU VỚI TRẺ EM ....................................................................... 35
2.5.1
Định nghĩa: ................................................................................................ 35
2.5.2
Dấu hiệu pháp lý: ....................................................................................... 35
2.5.3
Tình tiết định khung tăng nặng: ................................................................. 36
2.6
TỘI DÂM Ô ĐỐI VỚI TRẺ EM ..................................................................... 37
2.6.1
Định nghĩa: ................................................................................................ 37
2.6.2
Dấu hiệu pháp lý: ....................................................................................... 37
2.6.3
Tình tiết định khung tăng nặng: ................................................................. 38
2.7
TỘI MUA DÂM NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN .......................................... 38
2.7.1
Định nghĩa: ................................................................................................ 38
2.7.2
Dấu hiệu pháp lý: ....................................................................................... 39
2.7.3
Tình tiết định khung tăng nặng: ................................................................. 40
CHƢƠNG III. THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH
SỰNĂM 1999 VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN
THIỆN ........................................................................................................................... 42
3.1 THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH VÀ KIẾN NGHỊ
HOÀN THIỆN ........................................................................................................... 43
3.1.1
Các quy định về dấu hiệu pháp lý: ............................................................. 43
3.1.2
Các quy định về tình tiết định khung tăng nặng: ....................................... 50
3.2 KIẾN NGHỊ HỒN THIỆN BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VỀ BỔ
SUNG TỘI DANH MỚI ............................................................................................ 56
KẾT LUẬN
PHẦN MỞ ĐẦU
1.
Tính cấp thiết của đề tài
Điều 71 Hiến pháp năm 1992 quy định “Cơng dân có quyền bất khả xâm phạm về
thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm”. Sự
ghi nhận này đòi hỏi nhà nước phải thiết lập cơ chế hữu hiệu để bảo vệ những quyền
thiết thân đó của con người. Vì vậy, nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật
thuộc các ngành luật khác nhau làm cơng cụ đấu tranh phịng, chống tương ứng với
mức độ nguy hiểm của mỗi hành vi xâm phạm đến các quyền trên. Trong đó, pháp luật
hình sự được xem là công cụ sắc bén, hiệu quả nhất. Khẳng định như vậy, vì chỉ có
pháp luật hình sự mới quy định về tội phạm (hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội) và
hình phạt để trừng trị và giáo dục những người thực hiện hành vi này. Hiện nay, thông
qua việc ban hành và áp dụng quy định BLHS năm 1999, các quyền nói trên đã được
đảm bảo một cách cơ bản. Tuy nhiên, do các yếu tố khách quan (biến động của các
điều kiện kinh tế, xã hội) cũng như chủ quan (sự hạn chế về trình độ, kỹ thuật lập pháp)
nên BLHS hiện hành không tránh khỏi tồn tại những bất cập dẫn đến sự hạn chế trong
việc đấu tranh phịng, chống tội phạm nói chung và tội phạm xâm phạm các quyền bất
khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của con người nói riêng.
Nhận thức được điều đó, cơng tác nghiên cứu và hoàn thiện quy định của BLHS luôn
được quan tâm. Vừa qua, tại kỳ họp thứ 5 (năm 2009) Quốc hội khóa XII đã thơng qua
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS hiện hành nhưng “lần này chỉ sửa đổi
những vấn đề thực sự bức xúc gây khó khăn, trở ngại cho cơng tác đấu tranh phịng,
chống tội phạm, góp phần đáp ứng u cầu của tiến trình hội nhập quốc tế, cịn các vấn
đề khác cần được nghiên cứu kỹ về mọi mặt để phục vụ cho việc sửa đổi cơ bản, toàn
diện BLHS trong thời gian tới” [2, tr.2]. Thực tế cho thấy, các quy định của BLHS hiện
hành vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề, trong đó có quy định về những hành vi xâm phạm
đến các quyền cơ bản nói trên. Vì vậy, cần phải tiếp tục nghiên cứu để cung cấp đầy đủ
cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hồn thiện.
Trong thời gian qua, tình hình tội phạm xâm phạm tình dục đang có những diễn
biến phức tạp, trong khi thực tiễn áp dụng cũng cho thấy còn tồn tại nhiều vướng mắc
ở các nội dung khác nhau (tội phạm, hình phạt) trong quy định của BLHS đối với loại
tội phạm này. Bên cạnh đó, thực tế đã và đang tồn tại những hành vi khác cũng nguy
hiểm đáng kể cho xã hội, xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm, tự do tình dục
nhưng lại chưa được quy định trong BLHS. Thực trạng trên đã gây hạn chế không nhỏ
cho công tác đấu tranh phịng, chống đối với các tội phạm xâm phạm tình dục, mà hệ
quả là quyền bất khả xâm phạm về tình dục (quyền bất khả xâm phạm về danh dự,
nhân phẩm) chưa được bảo vệ với hiệu quả cao nhất bằng pháp luật hình sự.
Từ những lý do trên, người viết chọn đề tài “Hoàn thiện quy định của Bộ luật
Hình sự năm 1999 về các tội xâm phạm tình dục” để thực hiện khóa luận tốt nghiệp.
2.
Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến nội dung của đề tài dưới góc độ pháp lý hình sự đã có một số cơng
trình nghiên cứu ở cấp độ khóa luận của một số tác giả sau: Các tội xâm phạm tình dục
lý luận và thực tiễn, Nguyễn Thị Thanh, 2008; Các tội xâm phạm tình dục trẻ em dưới
góc độ pháp lý hình sự, những vấn đề lý luận và thực tiễn, Lê Đức Trịnh, 2010; Các tội
xâm phạm tình dục trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam lý luận và thực tiễn, Cao
Thị Mỹ Hằng, 2010. Còn lại, phần lớn là những bài viết công bố trên các tạp chí
chuyên ngành khoa học pháp lý (Nhà nước và pháp luật, Tòa án nhân dân, Luật học,
Kiểm sát, Dân chủ và pháp luật). Trong đó, có một số bài viết tiêu biểu như: Hoàn
thiện các quy định pháp luật hình sự về các tội xâm phạm tình dục trẻ em, Tạp chí Tịa
án nhân dân, số 05, năm 2002 của Phạm Mạnh Hùng; Về tội hiếp dâm quy định tại
Điều 111, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 02, năm 2004 của Nguyễn Hiểu Khanh;
Hoàn thiện quy định của BLHS năm 1999 về các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự
của con người, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 8 (169), năm 2010 của Đỗ Đức Hồng
Hà.
Những nghiên cứu kể trên là nguồn tài liệu tham khảo q báu cho chúng tơi
trong q trình thực hiện khóa luận. Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy rằng, về mặt phạm
vi, phần lớn các nghiên cứu này chủ yếu tập trung vào các quy định về những tội danh
có đối tượng tác động là trẻ em; về mặt nội dung thì hầu hết tập trung phân tích và kiến
nghị sửa đổi liên quan đến quy định hiện hành mà chưa đề cập đến vấn đề tội phạm hóa
đối với những hành vi đã và đang xâm hại nghiêm trọng đến quyền bất khả xâm phạm
về tình dục như dâm ơ người từ đủ mười sáu (16) tuổi trở lên,.... Ngoài ra, kể cả đối với
những vấn đề đã được các nghiên cứu trên nêu ra, chúng tôi cho rằng cũng còn tồn tại
những điểm cần tiếp tục được trao đổi và làm rõ hơn để có thể hồn thiện quy định của
BLHS về các tội phạm này một cách tốt nhất. Vì vậy, với cách tiếp cận và định hướng
hướng nghiên cứu khác, nghiên cứu của chúng tôi về đề tài “Hồn thiện quy định của
Bộ luật Hình sự năm 1999 về các tội xâm phạm tình dục” khơng trùng lặp với những
cơng trình đã được thực hiện.
3.
Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
Với khóa luận này, người viết xác định nghiên cứu của mình cần phải làm sáng tỏ
được toàn bộ nội dung trong quy định của BLHS hiện hành về các tội xâm phạm tình
dục. Đồng thời, phản ánh được thực trạng áp dụng các quy định này trong thực tiễn
(tập trung vào trình bày những hạn chế, vướng mắc). Từ đó, xây dựng được các giải
pháp nhằm định hướng cho việc hoàn thiện BLHS về những hạn chế đã được chỉ ra,
phục vụ cho việc nâng cao hiệu quả của BLHS trong cơng tác đấu tranh phịng, chống
tội phạm xâm phạm tình dục. Đây là mục tiêu tổng quát, quan trọng nhất của khóa
luận.
Để có thể đạt được mục tiêu nói trên, địi hỏi người viết phải thực hiện những
công việc sau:
Trước hết, làm rõ những vấn đề mang tính lý luận chung về đối tượng và phạm vi
nghiên cứu.
Thứ hai, tiến hành phân tích quy định của BLHS về các tội xâm phạm tình dục
(dấu hiệu pháp lý, hình phạt áp dụng).
Thứ ba, nghiên cứu, tham khảo trong lịch sử luật hình sự nước ta cũng như một
số nước trên thế giới về các tội xâm phạm tình dục.
Thứ tư, thực hiện việc đánh giá về tính hiệu quả của những quy định này trong
thực tiễn áp dụng, qua đó xác định tồn tại cần hồn thiện.
Cuối cùng là trên cơ sở, kết quả của các nhiệm vụ trên tiến hành nghiên cứu, đề
xuất những giải pháp hoàn thiện quy định của BLHS.
4.
Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là lý luận, thực tiễn áp dụng các quy
định của BLHS năm 1999 về các tội xâm phạm tình dục và giải pháp hoàn thiện.
Đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu chỉ dưới góc độ pháp lý hình sự và nội
dung những quy định của BLHS năm 1999 về các tội xâm phạm tình dục (gồm bảy
(07) tội danh quy định từ Điều 111 đến Điều 116 của chương XII và Điều 256 của
chương XIX).
5.
Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử đồng thời ứng dụng các phương pháp nghiên cứu
cụ thể của chuyên ngành khoa học pháp lý. Trong đó, để đạt được mục tiêu của đề tài,
người viết chú trọng sử dụng: phương pháp phân tích, phương pháp lơ-gích pháp lý,
phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh và phương pháp tổng hợp.
6.
Ý nghĩa của đề tài
Đề tài được thực hiện một cách nghiêm túc, khoa học, dựa trên cơ sở lý luận và
thực tiễn rõ ràng, với phạm vi, mục tiêu như đã trình bày có thể xem đây là cơng trình
nghiên cứu mang tính tồn diện về các tội xâm phạm tình dục. Qua đó, góp phần bổ
sung vào hệ thống tri thức của khoa học Luật hình sự Việt Nam và đặc biệt đề xuất các
kiến nghị đóng góp cho sự hồn thiện của BLHS năm 1999.
7.
Bố cục của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, với những mục
tiêu, nhiệm vụ đặt ra, nội dung khóa luận được xây dựng theo kết cấu như sau:
Chương I: Khái quát chung về các tội xâm phạm tình dục
Chương II: Các tội xâm phạm tình dục trong Bộ luật Hình sự năm 1999
Chương III: Thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về các
tội xâm phạm tình dục và kiến nghị hồn thiện
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD:ThS.Vũ Thị Thúy
CHƢƠNG I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC
1.1 KHÁI NIỆM CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC
Hiện nay, luật hình sự Việt Nam chưa có định nghĩa chính thức về khái niệm các
tội xâm phạm tình dục. Trong khi đó, việc xây dựng một định nghĩa chuẩn xác, để có
thể xác định rõ nội hàm các tội xâm phạm tình dục có ý nghĩa rất quan trọng. Vì vậy,
chúng tơi xác định đây vấn đề đầu tiên cần làm rõ của đề tài.
Trên cơ sở định nghĩa chung về tội phạm:“Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã
hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt”1 [20, tr.42]; và loại quan hệ
xã hội trực tiếp bị các tội phạm này xâm hại (khách thể) - cụ thể ở đây là tình dục,
chính xác hơn đó là quyền bất khả xâm phạm về tình dục và tự do tình dục – một trong
những quyền cơ bản của con người được pháp luật ghi nhận và bảo vệ, chúng tôi xây
dựng định nghĩa về các tội xâm phạm tình dục với nội dung như sau: Các tội xâm
phạm tình dục là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền bất khả
xâm phạm và tự do tình dục của con người, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu
hình phạt.
Đối chiếu định nghĩa này với quy định của Bộ luật Hình sự (sau đây gọi tắt là
BLHS) năm 1999, chúng tôi xác định các tội xâm phạm tình dục gồm những tội danh
sau:
Tội hiếp dâm (Điều 111), tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112), tội cưỡng dâm
(Điều 113), tội cưỡng dâm trẻ em (Điều 114), tội giao cấu với trẻ em (Điều 115), tội
dâm ô đối với trẻ em (Điều 116), những tội này đều thuộc chương XII của BLHS.
Tội mua dâm người chưa thành niên (Điều 256) thuộc chương XIX của
BLHS, với cách sắp xếp điều luật như hiện nay, khách thể của tội mua dâm người chưa
Được xem là quan điểm chính thống của khoa học luật hình sự Việt Nam và cũng phù hợp với định
nghĩa về tội phạm tại khoản 1 – Điều 8 BLHS năm 1999.
1
SVTH: Nguyễn Ngọc Phúc
Trang 1
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD:ThS.Vũ Thị Thúy
thành niên được xác định là trật tự công cộng nhưng chúng tôi cho rằng tội phạm này
không chỉ xâm phạm đến quan hệ xã hội nói trên mà cịn xâm phạm đến sự phát triển
lành mạnh về thể chất, tâm sinh lý và quyền bất khả xâm phạm về tình dục của người
chưa thành niên (đặc biệt là trẻ em) và chính yếu tố này mới phản ánh cao nhất tính
nguy hiểm cho xã hội của nó.
Chúng tơi xác định như vậy là dựa trên sự so sánh bản chất của tội phạm này với
các tội phạm xâm phạm tình dục được quy định tại chương XII BLHS cũng như từ sự
phân tích những khía cạnh khác xung quanh đặc điểm của đối tượng tác động và hậu
quả của nó. Cụ thể, so sánh giữa tội mua dâm người chưa thành niên (Điều 256) với tội
giao cấu với trẻ em (Điều 115), xét trường hợp đối tượng tác động là trẻ em từ đủ mười
ba (13) tuổi đến dưới mười sáu (16) tuổi cho thấy, mặt khách quan của hai tội này đều
cùng tồn tại hành vi giao cấu thuận tình, chỉ khác nhau ở dấu hiệu có hay khơng việc
người phạm tội dùng lợi ích vật chất để đổi lấy việc giao cấu. Cơ sở để quy định tội
giao cấu với trẻ em là xuất phát từ mục đích bảo vệ trẻ em, những cá thể còn non nớt,
chưa phát triển đầy đủ tâm sinh lý có được sự phát triển bình thường, lành mạnh về thể
chất và tinh thần. Vì vậy, nếu cũng với đối tượng ấy và cùng hành vi tương tự chỉ bổ
sung dấu hiệu dùng yếu tố vật chất để đổi lấy việc giao cấu, theo chúng tôi, khách thể
của tội mua dâm thành niên phải gồm cả: quyền phát triển lành mạnh, được bảo vệ, tơn
trọng về tình dục của người chưa thành niên lẫn trật tự công cộng, có như vậy mới thực
sự phản ánh đầy đủ sự nguy hiểm của tội phạm này. Quan điểm này cũng đã nhận được
sự đồng thuận của nhiều nhà khoa học luật hình sự Việt nam2. Hành vi mua dâm người
2
Đinh Văn Quế (Bình luận khoa học BLHS*Phần các tội phạm, tập IX, Các tội xâm phạm an tồn
cơng cộng, trật tự công cộng, NXB.TpHCM, Tp.HCM, 2006, tr.376); Viện nghiên cứu khoa học pháp
lý (Bình luận BLHS Phần các tội phạm, NXB.Chính trj quốc gia,Hà Nội, 1999, tr.465); Nguyễn Đức
Mai (Bình luận khoa học BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 Phần các tội phạm, Nxb.Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr.649); Đinh Thế Hƣng – Trần Văn Biên (Bình luận BLHS nước Cộng
hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã sửa đổi, bổ sung năm 2009, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2010, tr.62).
SVTH: Nguyễn Ngọc Phúc
Trang 2
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD:ThS.Vũ Thị Thúy
chưa thành niên thể hiện sự chà đạp lên danh dự, nhân phẩm của người chưa thành
niên, xem họ như công cụ để thỏa mãn nhu cầu tình dục của mình. Người phạm tội
thường lợi dụng sự non nớt của người của người chưa thành niên để thực hiện hành vi
của mình. Trong khi đó, người bán dâm là những người chưa thành niên, bản thân họ
chưa có khả năng nhận và đánh giá đầy đủ về tính chất và hậu quả về việc bán dâm của
mình. Từ đó, chúng tơi xác định tội mua dâm người chưa thành niên cũng thuộc các tội
xâm phạm tình dục bên cạnh những tội danh thuộc chương XII đã nêu ở trên.
1.2 LỊCH SỬ VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRONG LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM
Các tài liệu lịch sử cho thấy, các tội xâm phạm tình dục không phải là hiện tượng
mới trong lịch sử xã hội và pháp luật Việt Nam. Nhưng với điều kiện kinh tế, xã hội và
ý thức hệ khác nhau nên các quy định về những tội phạm này ở mỗi thời kỳ tồn tại
những đặc điểm riêng. Nghiên cứu những quy định trên, một mặt nhằm làm rõ quá
trình phát triển của pháp luật hình sự, mặt khác, trên cơ sở đó rút ra những kinh nghiệm
phục vụ cho việc hồn thiện quy định của pháp luật hình sự hiện hành đối với loại tội
phạm này là cần thiết.
1.2.1 Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945:
Theo sử liệu, trong thời kỳ phong kiến, các triều đại lớn của nước ta đều ban hành
các bộ luật để quản lý xã hội. Đây là loại văn bản chứa đựng các quy định điều chỉnh
nhiều loại quan hệ xã hội trong đó chủ yếu là về hình sự và được xem là nguồn chủ yếu
bên cạnh các loại văn bản khác (dụ, chiếu, điển…). Điển hình là bộ Hình thư (đời Lý),
bộ Quốc triều hình luật và Hình thư (đời Trần), Quốc triều hình luật (đời Hậu Lê) và
Hồng Việt luật lệ (đời Nguyễn). Tuy nhiên, do “bộ Hình Thư thời Lý, các bộ luật thời
Trần cho đến nay cũng đều bị thất truyền” [26, tr.9] nên việc khảo cứu chỉ giới hạn ở
phạm vi bộ Quốc triều hình luật (đời Lê) và bộ Hồng Việt luật lệ (đời Nguyễn).
Quốc triều hình luật (cịn gọi là Luật hình triều Lê hay Luật Hồng Đức), về thời
SVTH: Nguyễn Ngọc Phúc
Trang 3
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD:ThS.Vũ Thị Thúy
điểm ban hành chính xác bộ luật này hiện vẫn chưa được xác định thống nhất. Tuy
nhiên, theo những nghiên cứu gần đây của Viện Sử học Việt Nam, thể hiện tại bản dịch
Quốc triều hình luật3, thì bộ luật này được ban hành từ thời vua Lê Thái Tổ, sau đó tiếp
tục bổ sung, hồn chỉnh ở các đời sau với đóng góp lớn nhất là của vua Lê Thánh
Tơng. Quốc triều hình luật gồm sáu (06) quyển, chia thành nhiều chương với 722 điều.
Trong đó, tội phạm xâm phạm tình dục được quy định tại chương Thông gian thuộc
quyển thứ 3. Chương này gồm mười (10) điều, quy định các tội danh khác nhau liên
quan đến tình dục, trong đó chỉ gồm ba (3) điều quy định về các tội xâm phạm tình
dục. Đó là Điều 403, Điều 404 và Điều 409:
“403. [ Điều 3 ] – Hiếp dâm thì xử tội lưu hay tội chết và phải nộp tiền tạ hơn
tiền tạ về tội gian dâm thường một bậc; nếu làm người đàn bà bị thương thì bị xử tội
nặng hơn tội đánh người bị thương một bậc. Nếu làm người đàn bà bị chết thì điền sản
kẻ phạm tội phải trả cho nhà người bị chết.”
404. [ Điều 4 ] – Gian dâm với con gái nhỏ từ 12 tuổi trở xuống, dù người con
gái thuận tình, cũng xử tội như tội hiếp dâm.
…
409. [ Điều 9 ] – Ngục quan và ngục lại, ngục tốt gian dâm với những đàn bà,
con gái có việc kiện thì xử tội nặng hơn tội gian dâm thường một bậc. Đàn bà con gái
mà thuận tình thì giảm tội ba bậc; bị hiếp thì khơng xử tội.” [26, tr.157-158]
Có thể thấy, các điều luật này chỉ nêu tên hành vi mà khơng có sự mô tả dấu hiệu
cụ thể. Như đối với tội hiếp dâm (Điều 403), hồn tồn khơng có nội dung mơ tả cấu
thành tội này. Tuy nhiên, khi đối chiếu với Điều 404, chúng tơi thấy rằng có thể hiểu
3
Bản dịch của Nguyễn Ngọc Nhuận, Nguyễn Tá Nhí (Quốc triều hình luật * Luật hình triều Lê,
Nxb.Thành phố Hồ Chí Minh, Tp.Hồ Chí Minh, 2003).
SVTH: Nguyễn Ngọc Phúc
Trang 4
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD:ThS.Vũ Thị Thúy
hiếp dâm sẽ là hành vi gian dâm nhưng khơng có sự thuận tình của người phụ nữ. Sự
thuận tình của người phụ nữ là yếu tố quyết định.
Điểm đáng lưu ý là tại Điều 404, thể hiện sự bảo vệ trẻ em với tư tưởng rất tiến
bộ khi quy định trong mọi trường hợp, hành vi gian dâm với con gái nhỏ mười hai (12)
tuổi trở xuống (dù thuận tình hay khơng) cũng đều bị xử như tội hiếp dâm. Cách tiếp
cận này rất giống với quy định của BLHS hiện hành. Phân tích Điều 403, thấy rằng
Quốc triều hình luật cũng đã có sự phân hóa trách nhiệm hình sự, thể hiện ở quy định
về hình phạt nặng hơn trong trường hợp hiếp dâm mà còn làm người đàn bà bị thương.
Với sự thống trị của tư tưởng Nho giáo, tiết hạnh được là được xem phẩm giá
quan trọng hàng đầu của người phụ nữ nên hình phạt đối với tội phạm này khá nghiêm
khắc (chỉ gồm hai (02) loại hình phạt nặng nhất trong chế độ ngũ hình của pháp luật
phong kiến là: lưu và tử).
Đến bộ Hoàng Việt luật lệ (được ban hành vào năm 1815, đời vua Gia Long,
được xem là “hoàn chỉnh và đầy đủ nhất của thư tịch luật pháp Việt Nam” [29, tr.XI]
gồm 398 điều, chia thành 22 quyển). Trong đó, các tội xâm phạm tình dục gồm tám
(08) điều (từ Điều 332 đến Điều 339) quy định tại chương Phạm gian thuộc quyển 18.
Tại chương Phạm gian, trừ Điều 333 quy định về hành vi ép buộc thê thiếp, con
gái phạm gian dâm, các điều luật cịn lại đều có quy định về hành vi cưỡng gian bên
cạnh hành vi hòa gian, điêu gian, gọi chung là gian dâm. Hòa gian là “nam nữ đồng ý
làm chuyện gian riêng” [30, tr.903], điêu gian là “gian phu chuốt lời dụ dỗ điêu ngoa
[30, tr.903], còn cưỡng gian được hiểu là “phụ nữ bị sức mạnh không thể chống cự nổi,
là chuyện bất đắc dĩ” [30, tr.903]. Mỗi điều luật (tương ứng với một tội danh) bao gồm
cả ba (03) hành vi cưỡng gian, hòa gian và điêu gian. Tuy nhiên, hình phạt đối với mỗi
hành vi sẽ khác nhau (cưỡng gian nặng hơn hòa gian, điêu gian). Vì nghiên cứu trong
phạm vi các tội xâm phạm tình dục nên chúng tơi chỉ phân tích quy định về hành vi
cưỡng gian. Bảy điều luật quy định bảy tội danh nhưng thực chất đều về cùng một
SVTH: Nguyễn Ngọc Phúc
Trang 5
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD:ThS.Vũ Thị Thúy
hành vi cưỡng gian chỉ khác ở dấu hiệu về mối quan hệ, địa vị giữa các bên, gồm:
phạm gian dâm (Điều 332); thân thuộc tương gian (Điều 334); vu chấp gian ông (Điều
335); nô tỳ, kẻ làm công gian với vợ của gia trưởng (Điều 336); cư tang dữ tăng đạo
phạm gian (Điều 338); lương tiện tương gian (hành hèn cùng gian – Điều 339). Cách
quy định như vậy phần nào đã phản ánh tư tưởng phân biệt giai cấp, sang hèn và sự bất
bình đẳng trong xã hội lúc bấy giờ. Riêng đối với hành vi cưỡng gian thuộc tội thân
thuộc tương gian được liệt vào một trong mười tội thập ác (nội loạn) nên khơng những
bị áp dụng hình phạt nghiêm khắc mà cịn phải chịu những bất lợi khác như: khơng
được nghị giảm dù thuộc diện bát nghị (Điều 4), không được miễn chịu hình phạt khi
có ân xá như khi phạm các tội thường khác (Điều 15).
Bên cạnh đó, Hồng Việt luật lệ cũng đã thể hiện tính nhân văn, tiến bộ khi quy
định “bị cưỡng hiếp, người phụ nữ khơng có tội” [30, tr.903], “gian dâm con gái 12
tuổi trở xuống, dù hòa đồng cũng buộc tội theo chỗ cưỡng” [30, tr.903], bởi “bé gái 12
tuổi trở xuống, tình chưa phát, vốn khơng có lịng dâm, lại dễ bị lừa, lại bị khống chế,
tức cũng có hịa tình nhưng do bị dối gạt cho nên hòa gian cũng đồng kẻ cưỡng gian”
[30, tr.904], cho thấy sự kế thừa tinh thần của Quốc triều hình luật.
Các quy định này cũng cho thấy, luật hình sự thời Nguyễn bước đầu đã có sự
phân chia về các giai đoạn thực hiện tội phạm, khi định ra cưỡng gian gồm cưỡng gian
thành và cưỡng gian chưa thành và có sự phân hóa hình phạt đối với chúng (Điều 332:
“gian thành treo cổ”, “chưa gian thành phạt trăm trượng, lưu 3000 dặm” [30, tr.903].
Tương tự Quốc triều hình luật, hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục trong
Hồng Viêt luật lệ cũng rất nghiêm khắc (phần lớn là tử hình – chém, treo cổ). Điều
này một mặt phản ánh thái độ phản ứng mạnh của nhà nước, xã hội lúc bấy giờ đồng
thời thể hiện tính pháp trị sâu sắc của pháp luật phong kiến.
Nghiên cứu hai bộ luật tiêu biểu nói trên đã giúp chúng ta có cái nhìn khái qt về
các tội xâm phạm tình dục trong pháp luật hình sự phong kiến. Có thể nhận định rằng,
SVTH: Nguyễn Ngọc Phúc
Trang 6
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD:ThS.Vũ Thị Thúy
tuy cịn những hạn chế không tránh khỏi bởi yếu tố lịch sử, nhưng ở đó vẫn tồn tại
những giá trị đáng được ghi nhận.
Năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu nổ súng xâm lược nước ta. Đến giai đoạn
những năm 1883 – năm 1884, với sự kiện triều đình nhà Nguyễn lần lượt ký hiệp ước
Hácman (Harmand) và hiệp ước Patơnốt (Patenotre), Việt Nam chính thức trở thành
thuộc địa của Pháp. Thực hiện chính sách chia để trị, thực dân Pháp chia nước ta ra làm
ba kỳ với ba chế độ khác nhau nên pháp luật, trong đó pháp luật hình sự trong thời kỳ
này cũng có nét đặc thù:
Ở Nam kỳ (cùng với Đà Nẵng, Hà Nội và Hải Phịng): áp dụng Hình luật
Pháp tu chính (hình luật canh cải) do sắc lệnh ngày 31 tháng 12 năm 1912 cùng những
sắc lệnh sửa đổi sắc lệnh này do chính quyền thực dân ban hành.
Ở Trung kỳ thì áp dụng bộ Hồng Việt Hình luật (cải biên từ Hoàng Việt
luật lệ) ban bố do Dụ ngày 03 tháng 07 năm 1933 và nghị định của ngun Tồn quyền
Đơng dương ngày 04 tháng 07 năm 1933 cùng những Dụ và nghị định sửa đổi bộ luật.
Trong số 424 điều luật, Hồng Việt hình luật có tám (08) điều (Điều 300 – Điều 307)
để quy định tội phạm gian dâm. Nhìn chung, “về tội danh và nội dung cơ bản của các
điều luật về các tội phạm gian trong Hồng việt hình luật có sự tương đồng và khá phù
hợp với các tội tương ứng trong Hồng Việt luật lệ.” [33, tr.196]
Cịn tại Bắc kỳ lại áp dụng bộ Luật hình An-nam ban bố do Dụ ngày 25
tháng 08 năm 1921 và nghị định của nguyên Tồn quyền Đơng Dương ngày 02 tháng
12 năm 1921 cùng những dụ và nghị định sửa đổi bộ luật này. Bộ luật này gồm 328
điều, trong đó có tám (08) điều quy định liên quan đến các tội xâm phạm tình dục.
Qua đó cho thấy, cùng với việc sử dụng pháp luật hình sự làm cơng cụ để đàn áp,
cai trị nhân dân ta, các BLHS thời thuộc địa cũng đã có sự ghi nhận, bảo vệ một trong
những quyền thiết thân của con người – quyền được tôn trọng và bảo vệ về tình dục.
SVTH: Nguyễn Ngọc Phúc
Trang 7
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD:ThS.Vũ Thị Thúy
1.2.2 Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám 1945 đến năm 1985:
Cách mạng tháng Tám thành cơng, nhà nước dân chủ cộng hịa được thành lập, đã
đánh dấu chấm hết cho chế độ phong kiến và ách thống trị của thực dân. Tuy nhiên, do
điều kiện chưa cho phép nên Chính phủ lâm thời đã ban hành Sắc lệnh số 03 (ngày
10/10/1945) quy định “Cho đến khi ban hành những bộ luật pháp duy nhất cho toàn
cõi nước Việt Nam, các luật lệ hiện hành ở Bắc, Trung và Nam bộ vẫn tạm thời giữ
nguyên như cũ, nếu những luật lệ ấy không trái với những điều thay đổi ấn định trong
sắc lệnh này” (Điều 1). Như vậy, về cơ bản, nguồn của pháp luật hình sự trong khoảng
thời gian này vẫn là các văn bản được áp dụng trong thời kỳ Pháp thuộc. Do đó, quy
định về các tội phạm tình dục hầu như khơng có sự thay đổi so với giai đoạn trước.
Đến năm 1955 và đặc biệt là từ ngày 10/7/1959, với việc Tòa án nhân dân tối cao
ban hành Chỉ thị số 772-TATC, “các cơ quan tư pháp Việt Nam không còn áp dụng
pháp luật của chế độ cũ nữa” [32, tr.121]. Như vậy, từ thời điểm này trở đi, pháp luật
hình sự sẽ được áp dụng theo các quy định mới. Nhưng vì điều kiện và u cầu của
hồn cảnh lịch sử nên trong giai đoạn này, các tội xâm phạm tình dục khơng được một
sắc lệnh hay pháp lệnh nào quy định, việc xét xử dựa trên án lệ (các Tổng kết thực tiễn
xét xử của Tòa án nhân dân tối cao), đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước [18,
tr.5]. Trong đó, có các văn bản quan trọng sau:
Chỉ thị số 1024 ngày 15/06/1960 của Tòa án nhân dân tối cao về hướng dẫn
xử lý tội hiếp dâm. Tuy nhiên, “nội dung hướng dẫn còn chưa được tồn diện” [18,
tr.388], quy định về hình phạt cũng chưa tương xứng với tính chất nguy hiểm của hành
vi.
Các Báo cáo tổng kết của Tòa án nhân dân tối cao trong những năm sau
(1961 – 1966), đã rút kinh nghiệm về đường lối xử lý tội hiếp dâm đồng thời còn bổ
sung hướng dẫn về những tội phạm mới như: cưỡng bách giao cấu (cưỡng dâm), tội
dâm ô.
SVTH: Nguyễn Ngọc Phúc
Trang 8
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD:ThS.Vũ Thị Thúy
Tồn diện nhất là phải kể đến Bản Tổng kết và hướng dẫn số 329-HS2 ngày
11/5/1967 của Tòa án nhân dân tối cao về đường lối xét xử tội hiếp dâm và các tội
phạm khác về mặt tình dục (thay thế Chỉ thị số 1024 và nội dung về các tội phạm này
trong các báo cáo trước đó), đã đề cập đến cả bốn tội phạm: hiếp dâm, cưỡng dâm
(cưỡng bách giao cấu), giao cấu với người dưới 16 tuổi và dâm ô (trái ý muốn và
khơng có giao cấu).
Sau khi đất nước thống nhất, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hịa miền Nam
Việt Nam đã ban hành Sắc luật 03-1976 (ngày 15/03/1976) quy định về các tội phạm
và hình phạt, với 12 điều, chia làm 4 chương (từ năm 1977 được áp dụng trên toàn
quốc theo hướng dẫn của Nghị định 76-CP ngày 25 tháng 3 năm 1977 của Hội đồng
Chính phủ). Trong đó, “có hai tội được nêu tội danh cụ thể (tội hiếp dâm và hiếp dâm
vị thành niên), còn các hành vi xâm phạm tình dục khác được quy định chung” [22,
tr.274] tại Điều 5 - Tội xâm phạm đến thân thể và nhân phẩm của công dân (gồm tội
cưỡng dâm, tội thông gian với gái vị thành niên và tội dâm ô – Thông tư 03-BTP/TT
năm 1976 của Bộ Tư pháp).
Nhìn chung, quy định về các tội xâm phạm tình dục trong giai đoạn những năm
1959 đến năm 1985 cịn mang tính rời rạc, chưa được quy định tập trung tại một văn
bản thống nhất và đảm bảo về mặt hiệu lực pháp lý, việc xét xử còn dựa theo nguyên
tắc tương tự nên không tránh khỏi tồn tại sự tùy tiện trong việc áp dụng pháp luật.
1.2.3 Giai đoạn từ năm 1985 đến nay:
Năm 1985, BLHS đầu tiên của nước ta được ban hành (có hiệu lực từ ngày
01/01/1986) đánh dấu bước phát triển quan trọng của luật hình sự Việt Nam, hồn
thiện hơn cơ sở pháp lý đấu tranh phịng, chống tội phạm nói chung và các tội xâm
phạm tình dục nói riêng. Cụ thể, quy định về các tội xâm phạm tình dục cùng những
nội dung về lượng hình định tội đã được thống nhất, rõ ràng hơn nên hiệu quả của công
tác đấu tranh với loại tội phạm này đã có những chuyển biến tích cực. Để đáp ứng hơn
SVTH: Nguyễn Ngọc Phúc
Trang 9
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD:ThS.Vũ Thị Thúy
nữa yêu cầu của thực tiễn, trong các năm 1989, năm 1991, năm 1992 và năm 1997,
Quốc hội đã tiến hành bốn (04) lần sửa đổi, bổ sung BLHS năm 1985. Trong đó, các
lần sửa đổi, bổ sung vào năm 1989, năm 1991 và năm 1997 là những lần có liên quan
trực tiếp đến các tội xâm phạm tình dục. Những thay đổi này được thực hiện theo
hướng bổ sung thêm tình tiết định khung tăng nặng đối các tội danh, điều chỉnh khung
hình phạt theo hướng nghiêm khắc hơn (năm 1989, năm 1991, năm 1997) và quy định
thêm các tội danh mới (trên cơ sở phân hóa trách nhiệm hình sự đối với các hành vi
xâm phạm tình dục đến đối tượng là trẻ em mà trước đó chỉ được xem tình tiết định
khung tăng nặng và u cầu hình sự hóa trước sự nguy hiểm của một số hành vi – năm
1997). Tổng kết lại, sau các lần sửa đổi, bổ sung này, quy định về các tội xâm phạm
tình dục trong BLHS năm 1985 gồm: Điều 112 (Tội hiếp dâm), Điều 112a (Tội hiếp
dâm trẻ em), Điều 113 (Tội cưỡng dâm), Điều 113a (Tội cưỡng dâm người chưa thành
niên), Điều 114 (Tội giao cấu với trẻ em), Điều 202a (Tội mua dâm người chưa thành
niên), Điều 202b (Tội dâm ô đối với trẻ em). Trong đó, lần sửa đổi thứ tư (năm 1997)
là có phạm vi rộng nhất, có thể xem đây là dấu mốc quan trọng trong q trình hồn
thiện quy định về các tội xâm phạm tình dục.
Ngày 21 tháng 12 năm 1999, BLHS năm 1999 được ban hành trên cơ sở kế thừa
BLHS năm 1985 (qua 04 lần sửa đổi, bổ sung). Do đó, về cơ bản quy định về các tội
xâm phạm tình dục trong BLHS năm 1999 khơng có nhiều thay đổi so với BLHS năm
1985. Trong BLHS năm 1999, quy định về các tội xâm phạm tình dục bao gồm: Điều
111 (Tội hiếp dâm), Điều 112 (Tội hiếp dâm trẻ em), Điều 113 (Tội cưỡng dâm), Điều
114 (Tội cưỡng dâm trẻ em), Điều 115 (Tội giao cấu với trẻ em), Điều 116 (Tội dâm ô
đối với trẻ em), Điều 256 (Tội mua dâm người chưa thành niên).
Đối chiếu với BLHS năm 1985 cho thấy, về mặt tội danh, BLHS năm 1999 đã bỏ
tội cưỡng dâm người chưa thành niên, thay vào đó là tội cưỡng dâm trẻ em (hành vi
cưỡng dâm đối tượng là người chưa thành niên từ đủ mười sáu (16) tuổi đến dưới mười
SVTH: Nguyễn Ngọc Phúc
Trang 10
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD:ThS.Vũ Thị Thúy
tám (18) tuổi được chuyển thành tình tiết định khung tăng nặng của tội cưỡng dâm) với
hình phạt nghiêm khắc hơn; đồng thời đã chuyển tội dâm ô đối với trẻ em về chương
XII (xâm phạm danh dự, nhân phẩm) thay vì quy định ở chương XIX (xâm phạm trật
tự cơng cộng), qua đó xác định đúng hơn khách thể của tội này. Bên cạnh đó, BLHS
năm 1999 cũng đã có sự bổ sung thêm dấu hiệu hành vi khách quan trong quy định về
cấu thành của tội hiếp dâm (“hành vi đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng
khơng thể tự vệ được của nạn nhân”) và tội dâm ô (xác định chủ thể phải là người đã
thành niên). Trong đó, bổ sung về hành vi khách quan của tội hiếp dâm chỉ nhằm làm
rõ và thống nhất trong thực tiễn áp dụng, đáng kể hơn vẫn là thay đổi ở tội dâm ơ đối
với trẻ em vì đã có sự giới hạn về phạm vi chủ thể. Ngoài ra, BLHS năm 1999 cũng đã
có sự thay đổi về tình tiết định khung tăng nặng của các tội danh, đáng lưu là ý việc bổ
sung tình tiết “Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội” – phản ánh yêu cầu của tình
hình xã hội; làm rõ tình tiết “Gây tổn hại sức khỏe nặng, rất nặng” ở BLHS năm 1985
thông qua việc lượng hóa theo tỷ lệ phần trăm thương tật cụ thể - nhằm đảm bảo pháp
luật được áp dụng chuẩn xác, loại trừ yếu tố định tính, vơ hình chung có thể tạo nên sự
tùy tiện trong áp dụng pháp luật ở các tội có xảy ra hành vi giao cấu. Cuối cùng là ở
quy định về hình phạt, đối với hình phạt chính (về loại hình phạt cũng như mức độ
nghiêm khắc) thì khơng có nhiều thay đổi, tiếp tục thể hiện sự nghiêm trị đối với những
hành vi xâm phạm tình dục, đặc biệt là trường hợp tác động đến người chưa thành niên,
nhất là trẻ em; về hình phạt bổ sung thì đã có sự thay đổi căn bản khi quy định hình
phạt bổ sung là “cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định từ một năm đến năm năm” cho cả sáu (06) tội danh (từ Điều 111 đến Điều 116),
được thiết kế thành một khoản trong điều luật của mỗi tội danh. Tại BLHS năm 1985,
hình phạt bổ sung nói trên chỉ dành cho các tội về hiếp dâm và cưỡng dâm (riêng đối
với hiếp dâm trẻ em còn có thể áp dụng hình phạt quản chế hoặc cấm cư trú – khoản 2
Điều 118 BLHS năm 1985).
SVTH: Nguyễn Ngọc Phúc
Trang 11
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD:ThS.Vũ Thị Thúy
Trong lần sửa đổi, bổ sung đầu tiên (bởi Luật số 37/2009/QH12), BLHS năm
1999 đã bỏ quy định hình phạt tử hình đối với tội hiếp dâm (khoản 3 Điều 111) – đây
là sửa đổi duy nhất liên quan đến các tội xâm phạm tình dục. Sự thay đổi này dựa trên
đánh giá: hiếp dâm tuy là “loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, nhưng quy định hình
phạt tù chung thân đối với tội này là đủ nghiêm khắc và vẫn bảo đảm để trừng trị, răn đe,
phòng ngừa chung” [2, tr.5].
Đối chiếu quy định của các BLHS (BLHS năm 1985, đặc biệt là BLHS năm
1999) với các văn bản thời kỳ những năm 1945 – năm 1985, chúng tôi thấy rằng, đối
với hành vi hiếp dâm hay cưỡng dâm, tuy về cơ bản, dấu hiệu pháp lý của các tội phạm
này là khơng có nhiều khác biệt nhưng ở BLHS năm 1999 đã có sự phân hóa rất rõ
ràng khi có sự phân tách về tội danh giữa hiếp dâm và hiếp dâm trẻ em, cưỡng dâm và
cưỡng dâm trẻ em, cũng như hoàn thiện hơn về các tình tiết định khung tăng nặng và
cả hình phạt áp dụng. Ngồi ra, cịn bổ sung thêm tội danh mới nhằm triệt để xử lý
hành vi xâm phạm tình dục của người chưa thành niên (nhất là trẻ em) thơng qua tội
phạm hóa hành vi mua dâm người chưa thành niên (quy định đầu tiên vào lần sửa đổi
thứ 04 của BLHS năm 1985, sau đó BLHS năm 1999 kế thừa). Tuy nhiên, đáng lưu ý
hơn cả là quy định về hành vi dâm ô. Theo Bản Tổng kết và hướng dẫn số 329-HS2
năm 1967, tội dâm ơ được thực hiện dưới hai hình thức: dâm ơ với người dưới mười
(16) tuổi trịn bất kể có sự đồng ý của họ hay không, và dâm ô trái ý muốn của người từ
mười sáu (16) tuổi tròn trở lên. Trong BLHS năm 1999, hành vi dâm ô chỉ bị xem là tội
phạm khi đối tượng bị xâm hại là trẻ em – Tội dâm ô đối với trẻ em, Điều 116 BLHS
năm 1999. Như vậy, BLHS năm 1999 (trước đó là BLHS năm 1985) đã phi tội phạm
hóa đối với dạng hành vi thứ hai của tội dâm ơ ở thời kỳ trước, thậm chí trước khi được
sửa đổi vào năm 1997, BLHS năm 1985 không xem hành vi dâm ô là tội phạm. Theo
chúng tôi, đây là “bước lùi” của BLHS hiện hành. Thực tiễn cho thấy quy định như
trên là đã bỏ lọt “tội phạm”, chưa phát huy được hiệu quả cao nhất để bảo vệ tối đa
quyền bất khả xâm phạm tình dục của mỗi cá nhân. Về vấn đề này, chúng tôi sẽ phân
SVTH: Nguyễn Ngọc Phúc
Trang 12
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD:ThS.Vũ Thị Thúy
tích cụ thể hơn tại chương III của đề tài.
Từ những phân tích ở trên, có thể thấy, quy định của pháp luật hình sự về các tội
xâm phạm tình dục ngày càng được hồn thiện qua các lần pháp điển hóa, thể hiện ở
nhiều phương diện. Những quy định này đã tạo cơ sở vững chắc cho cơng tác đấu tranh
phịng chống các hành vi xâm phạm tình dục, góp phần hình thành cơ chế hữu hiệu để
bảo vệ quyền bất khả xâm phạm, tự do về tình dục mà rộng hơn là nhân phẩm, danh dự
của con người. Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng cho thấy những quy định nói trên vẫn
tồn tại những bất cập nhất định, đồng thời thực tế đã và đang tồn tại một số hành vi
xâm phạm nghiêm trọng khách thể nói trên nhưng lại khơng được quy định trong
BLHS nên chưa có cơ sở để đấu tranh hiệu quả bằng cơng cụ pháp luật hình sự. Vì vậy,
việc nghiên cứu hồn thiện quy định trong BLHS năm 1999 là đòi hỏi khách quan và
cấp thiết.
1.3 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT MỘT SỐ QUỐC GIA VỀ CÁC TỘI XÂM
PHẠM TÌNH DỤC
Chúng tơi nghĩ rằng, bên cạnh tìm hiểu lịch sử, một nội dung khác không thể bỏ
qua đó là sự tham khảo các quy định tương ứng của pháp luật hình sự nước ngồi về
vấn đề này. Bởi, qua đó sẽ giúp có được sự đánh giá khách quan, toàn diện hơn đối với
các quy định hiện hành. Mặt khác, nó cịn cung cấp những kinh nghiệm quý báu từ ưu
điểm cũng như hạn chế trong quy định của pháp luật các nước. Tất cả những điều đó là
rất hữu ích cho việc nghiên cứu hồn thiện quy định của BLHS về các tội xâm phạm
tình dục.
Do điều kiện tiếp cận thơng tin cũng như vì tính phức tạp về nguồn pháp luật ở
mỗi quốc gia nên chúng tôi chỉ nghiên cứu trong phạm vi BLHS của một số quốc gia
sau:
SVTH: Nguyễn Ngọc Phúc
Trang 13
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD:ThS.Vũ Thị Thúy
1.3.1 Các tội xâm phạm tình dục trong BLHS Liên bang Nga:
Liên Bang Nga là quốc gia có nền khoa học pháp lý và trình độ lập pháp khá phát
triển. Khoa học luật hình sự cũng như BLHS hiện nay của chúng ta chịu ảnh hưởng
không nhỏ từ quốc gia này. Điều này cho thấy, việc tham khảo quy định của BLHS
Liên Bang Nga để hoàn thiện BLHS năm 1999 là cần thiết và cũng sẽ thuận lợi rất lớn
trong việc nghiên cứu.
BLHS hiện hành của Liên bang Nga được ban hành vào năm 1996 (có hiệu lực từ
ngày 01/01/1997) và đã trải qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung (các năm 1998, 1999, 2001,
2002, 2003, 2004, 2009, 2011 và 2012) [45]. Trong đó, quy định về các tội xâm phạm
tình dục được quy định tại chương 18 (Các tội xâm phạm quyền bất khả xâm phạm và
tự do về tình dục của con người) với năm (05) điều luật tương ứng với năm (05) tội
danh, gồm: tội hiếp dâm (Điều 131), tội tấn công tình dục (Violent sexual actions Điều 132), tội cưỡng dâm (Điều 133), tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi tình dục khác
với người dưới 16 tuổi (Điều 134) và tội thực hiện hành vi khiếm nhã (indecent actions
- Điều 135). Các tội danh này đã có những sửa đổi, bổ sung lớn trong thời gian gần đây
(năm 2009, năm 2011 và năm 2012). Qua so sánh, chúng tôi thấy rằng quy định của
BLHS Liên bang Nga và BLHS hiện hành của Việt Nam về các tội xâm phạm tình dục
có một số điểm khác biệt đáng lưu ý:
BLHS Liên bang Nga khơng chỉ quy định trách nhiệm hình sự đối với hành vi
giao cấu trái ý muốn hoặc miễn cưỡng của nạn nhân, hay giao cấu với người chưa đủ
tuổi quan hệ tình dục là tội phạm xâm phạm tình dục (thuộc các tội hiếp dâm, cưỡng
dâm, giao cấu với người dưới mười sáu (16) tuổi), mà còn đối với cả một số hành vi
khác mà BLHS năm 1999 khơng có. Đó là hành vi quan hệ tình dục đồng giới (nam với
nam, nữ với nữ), hành vi tình dục khác đối với một người mà trái với ý muốn của một
bên (tội tấn cơng tình dục – Điều 132) hay buộc họ phải miễn cưỡng đồng ý (một dạng
hành vi của tội cưỡng dâm – khoản 1 Điều 133) cũng như thực hiện hành vi tình dục
SVTH: Nguyễn Ngọc Phúc
Trang 14
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD:ThS.Vũ Thị Thúy
nói trên với người dưới độ tuổi quan hệ tình dục tuy có sự thuận tình của người đó
(thuộc tội thực hiện hành vi tình dục khác với người dưới mười sáu (16) tuổi – Điều
134).
Ngoài ra, về thủ đoạn người phạm tội sử dụng trong tội hiếp dâm, “dùng vũ lực,
đe dọa sử dụng vũ lực”, BLHS Liên bang Nga cho rằng đối tượng của hành vi này
không chỉ là người bị hiếp dâm mà cịn có thể là người khác. Nếu người phạm tội thực
hiện hành vi nói trên đối với những người này nhằm làm tê liệt ý chí và giao cấu trái ý
muốn của người bị hiếp dâm – Khoản 1, Điều 131 BLHS Liên Bang Nga: “Hiếp dâm,
là việc quan hệ tình dục bằng thủ đoạn sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực đối
với nạn nhân hoặc những người khác” [46].
Đối với tội cưỡng dâm, quy định của BLHS Liên Bang Nga về các thủ đoạn trong
tội này chỉ là các hành vi mang tính chất uy hiếp – “Buộc một người phải giao cấu,
quan hệ đồng tính nam, đồng tính nữ hoặc phạm vào những hành động tình dục khác
bằng những thủ đoạn như đe dọa tiết lộ bí mật, đe dọa phá hủy, gây tổn hại hoặc lấy đi
tài sản hoặc với lợi thế về vật chất hoặc sự phụ thuộc khác của nạn nhân.” (khoản 1
Điều 133 BLHS Liên Bang Nga) chứ không bao gồm những thủ đoạn khác khiến một
người phải miễn cưỡng giao cấu như quy định mang tính bao hàm hơn của BLHS năm
1999.
Một nội dung nữa đó là, đối với hành vi hiếp dâm, cưỡng dâm cũng như tấn cơng
tình dục (Violent sexual actions) đối với “trẻ em”, BLHS Liên bang Nga không xây
dựng thành những tội danh độc lập đối với chúng mà yếu tố này chỉ được xem là tình
tiết định khung tăng nặng trong các tội phạm tương ứng.
Như vậy, bên cạnh cách tiếp cận khá tương đồng, quy định về các tội xâm phạm
tình dục của BLHS Liên bang Nga tồn tại một số điểm khác biệt như đã trình bày,
trong đó có những nội dung rất cần được tham khảo cho việc hoàn thiện BLHS năm
1999.
SVTH: Nguyễn Ngọc Phúc
Trang 15