Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

skkn NV 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.13 KB, 6 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b> §iĨm sáng thẩm mỹ trong dạy học </b>
<b> tác phẩm trữ tình</b>


<b> </b>
<b>I / Lý do chọn đề tài.</b>


<b> M.Gorơki kể lại câu chuyện cảm động của anh thanh niên R kốp lần đầu tiên trong</b>
đời biết đánh vần. Đọc đến đâu anh vui sớng hể hả nhận ra điều kỳ diệu trong từng con
chữ. Mỗi chữ anh đọc lên nh đang thì thầm trò chuyện và giúp anh nhận biết thêm thế giới
xung quanh mình. Nh vậy là khi đến với tác phẩm văn chơng, ngời tiếp nhận đã đi từ vỏ
ngôn ngữ để nhận ra thế giới nghệ thuật của tác phẩm do tác giả dựng lên. Cịn ngơn ngữ
-những liên kết công thức vô tri vốn đợc ép khô trên giấy bỗng chốc chở nên có hồn bởi trí
tởng tợng phong phú của nhà văn và sự đồng cảm đầy nhạy cảm của ngời tiếp nhận.


Với vai trị là một giáo viên dạy mơn ngữ văn THCS, đợc cùng học sinh say sa đến với
từng tác phẩm văn học là một niềm vui,niềm hạnh phúc mà nghề mang lại.Dẫn dắt học


sinh đến với thế giới nghệ thuật trong tác phẩm


là giúp các em đến với cái hay cái đẹp, đến với thế giới nghệ thuật vô cùng phong phú và
sinh động do tài năng và trí tuệ ngời nghệ sỹ. Là hớng các em đến với bản chất của Chân
-Thiện - Mỹ… Cảm nhận, phát hiện đợc sự lao động nghệ thuật của nhà văn gửi gắm qua
tác phẩm là đã cùng nhà văn một lần nữa sáng tạo. Và điều quan trọng, là sau đó giúp các
em ứng dụng cái hay cái đẹp trong đời sống văn chơng nh thế nào trong cuộc đời thực là
một việc làm không phải dễ dàng. Từ văn chơng, từ những rung động rất tự nhiên trong
chính trái tim các em làm cho các em có cái nhìn rộng rãi, sâu sắc hơn, nhân văn hơn về
cuộc sống. Vậy là , ngời giáo viên giữ vai trò trung gian, cầu nối giữa tác phẩm văn chơng
và học sinh. Ngời giáo viên là ngời đầu tiên mang trọng trách đa học sinh vào thế giới văn
chơng. Là ngời tạo ra thái độ của học sinh về môn văn. Các em có thể có thiện cảm , hay
xa lánh văn chơng, ngời giáo viên dạy văn đóng một phần không nhỏ.



ý thức đợc tầm quan của mình trong dạy học, tơi đã rất nghiêm túc, và dày công chuẩn
bị nội dung bài giảng. Mỗi bài giảng văn , theo tơi có thành cơng hay khơng, chính là niềm
say mê vơ bờ bến của ngời thầy trên lớp, niềm hứng thú, xao động trong từng ánh mắt học
trị khi cùng cơ giáo vỡ dần từng ý nghĩa của văn chơng.


Vậy làm cách nào để mỗi con chữ, dụng ý của nhà văn bừng sáng lên trong trí tởng
t-ợng của các em - lứa tuổi đang tràn đầy khả năng liên tởng,tởng tt-ợng là một công việc
không đơn giản của ngời giáo viên. Do vậy tôi chọn nội dung này để bày tỏ suy nghĩ của
mình cùng với các đồng nghiệp để mong nhận đợc những ý kiến đóng góp bổ ích, q giá.


<b>iI . C¬ së lý luËn</b>


Tác phẩm văn học nào cũng tồn tại qua hệ thống ngôn ngữ vốn là vỏ vật chất của tác
phẩm. Con đờng đi vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm phải bắt đầu từ bớc tri giác ngơn
ngữ vốn đang là những kí hiệu câm lặng. Khơng cảm nhận đợc ngơn ngữ thì tác phẩm chỉ
là một tập hợp kí hiệu chết, khơng có linh hồn. Tri giác ngơn ngữ của ngời đọc làm cho tác
phẩm sống dậy,âm vang, cựa quậy. Khi cha hiểu đợc ngôn ngữ với dụng ý văn chơng của
nhà văn thể hiện trong tác phẩm thì ngời đọc phát âm lên những con chữ, là sự rời rạc vô
nghĩa. Những tập hợp ngôn từ là tập hợp những biểu tợng về sự vật,hiện tợng đời sống tự
nhiên,con ngời mà nhà văn dựng lên qua ngôn ngữ. Ngôn ngữ nghệ thuật là thứ ngôn ngữ
hàm ẩn,nhiều nghĩa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Có một yếu tố rất quan trọng tham gia tích cực trong quá trình đọc,đó là yếu tố tình
cảm . Nếu khơng có cảm xúc,việc đọc dễ là hoạt động sinh lý hơn là hoạt động tâm lý sáng
tạo, bởi trong tình trạng thờ ơ vơ cảm,việc đọc khơng thể là q trình biểu hiện và thanh
lọc cảm xúc thẩm mỹ của chủ thể tiếp nhận. Đọc sách cũng là quá trình liên tởng là hồi ức,
là tởng tợng để có thể tái hiện nh cảnh sống thực với con ngời “đi đứng nói năng với những
cảnh đời sinh động và cho nó diễn ra nh một cuốn phim trên màn ảnh của tởng tợng”. Đọc
bao giờ cũng gắn với nhu cầu nhận thức và khả năng vận dụng kinh nghiệm cá nhân.Phải
đọc để xác định giọng điệu nhà văn. Nói nh thế khơng có nghĩa muốn tiếp nhận, phải tìm


bằng đợc giống hệt giọng nhà văn mà là đọc để phát hiện ra bề sâu cấu trúc,sự ngân rung
và sức lan toả của nhịp điệu ngơn ngữ sao cho thích hợp nhất với việc diễn đạt nội dung
văn bản nghệ thuật. Bắng sự tập trung cao độ và sự rung cảm mạnh mẽ,đọc diễn cảm có
khả năng giúp học sinh “khai mở” những tình cảm thẩm mỹ,định hình ấn tợng tinh tế và
nhạy bén làm cơ sở quan trọng cho tiến trình nhận thức lý tính. Ngời ta nói “đọc giữa các
dịng thơ” chứ khơng


phải chỉ các câu thơ. Đọc câu thơ “Anh dắt em vào cõi Bác xa” dù đọc sáng


rõ cũng cha phải đọc đúng nếu không cảm nhận đợc chữ “cõi” mang dụng ý của tác giả.Từ
việc tri giác ngôn ngữ đến phát hiện ra điểm sáng ngơn ngữ là một q trình cảm thụ văn
học; đòi hỏi ngời tiếp nhận vừa phải tập trung cao độ,vừa có năng lực cảm thụ văn học.
<b>2 * T ác phẩm văn học là cấu tạo chặt chẽ của nghệ thuật ngôn từ . </b>


Ngời đọc đến với tác phẩm phải biết đánh thức cánh cửa ký hiệu của tác phẩm thơng
qua bớc tởng tợng tái hiện. Khơng có nớc rửa ảnh thì mọi chân dung hình ảnh chỉ nằm im
lìm trên một cuộn phim. Nhờ tởng tợng tái hiện thế giới nghệ thuật trong tác phẩm mới
hiện hình bao nhiêu bức tranh nhiều màu, với bao nhiêu con ngời khác nhau về diện mạo
tính cách. Dựng dậy đợc thế giới nghệ thuật là một công việc cần thiết của ngời giáo viên
trong giờ học văn.


Điểm sáng ngôn ngữ nằm trong chỉnh thể chặt chẽ của tác phẩm. Từ một từ, chi tiết,
hình ảnh, nhân vật sự kiện đều là những yếu tố hợp thành một chỉnh thể. Muốn hiểu đợc
điểm sáng ngôn ngữ phải đặt ngơn ngữ đó trong chỉnh thể tác phẩm. Mỗi chi tiết ngơn ngữ
đếu góp phần thể hiện t tởng chủ đề của tác phẩm. Phát hiện ra điểm sáng ngơn ngữ cũng
chính là đã phát hiện ra t tng ch .


<b>3 *Điểm sáng ngôn ngữ thể hiện ở sự lựa chọn từ ngữ giầu tính biểu cảm,tính hình t - </b>
<b>ợng.</b>



Khi đến với tác phẩm văn chơng,ngời tiếp nhận không tham lam mổ xẻ tất cả những
con chữ thể hiện trong văn bản. Phải bằng năng lực nhạy bén phát hiện ra những chi tiết
quan trọng, điểm sáng nghệ thuật mang dụng ý của nhà văn.


Đại thi hào Nguyễn Du là ngời tài hoa bậc thầy khi sử dụng ngôn ngữ. Ngời, việc,
cảnh, tình trong tác phẩm của ơng thờng đợc trình bày hàm súc, tinh tế, sắc sảo.


Miêu tả vẻ đẹp Thuý Kiều, Nguyễn Du không chú trọng nhiều đến đờng nét cụ thể.
Kiều đẹp trong văn chơng của Nguyễn Du chính là sức gợi ,sự tuởng tợng.


Làn thu thuỷ nét xuân sơn


Hoa ghen thua th¾m liƠu hên kÐm xanh”


Đối với các nhân vật phản diện,ông dùng từ rất đắc địa. Không tả nhiều, chỉ dùng một,
hai từ đặc sắc tả chân dung, nhân vật đợc lộ diện phơi bầy. Đó là mụ Tú “Thoắt trông nhờn
nhợt mầu da. ăn chi to lớn đẩy đà làm sao”.


Cái nớc da nhờn nhợt ẩm ớt vì khơng biết “ăn chi” đã cho ta hiểu bản chất


tối tăm của mụ trong nghề “buôn phấn ,bán hơng” hay bao nhiêu hy vọng sẽ đổi đợc đời
Kiều từ miệng Sở Khanh đã tắt ngấm trong lịng ngời đọc khi ơng cho hắn “lẻn” vào rủ
Kiều đi trốn.


Víi M· Giam Sinh lµ:


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Nếu vơ tình sẽ khơng thấy chỉ một chữ cho một ý thơ thơi Nguyễn Bính đã phải trằn
trọc hết đêm Và ông bật dậy, một câu thơ tài tình đợc thành hình : “Mộng một đêm qua,
mạ đã ngồi” . Cây lúa đợc ngời nông dân bao đời coi nh con ngời : nó sống, nó cử động, nó
ngồi, nó lớn rồi nó đứng cái… Hồn chữ nghĩa ngờ đâu lại đến từ điều thật nhất, gần nhất.


Từ ngữ vốn giầu đẹp ngay trong cuộc sống của chúng ta. Cuộc sống vốn nhiều mầu
sắc, đa cung bậc, tinh tế. Nhà văn thâm nhập vào cuộc sống, lắng nghe d âm ,sự chuyển
động tinh tế của cuộc sống, lựa chọn từ ngữ mang hơi thở của cuộc sống vào văn chơng –
chính là cuộc sống đang cựa quậy trong văn chơng.


Lại đến với những câu thơ mang hồn thơ Nguyễn Bính. Đó là tâm trạng xao xuyến
rạo rực của cơ thơn nữ theo lời hẹn đi tìm bạn tình trong hội chèo, ma bụi mùa xuân đã đợc
đôi má hồng, trái tim rừng rực tình xuân làm tan biến, đoạn đờng cô đến sao mà ngắn thế.
“ Ma nhỏ nên em không ớt áo


Thơn đồi cách có một thôi đê” .


Khi về, tâm trạng cô trái ngợc. Buồn bã thất vọng vì “anh bảo anh sang, anh chẳng
sang”. Cái thôi đê háo hức với bớc chân xăm xăm kia giờ đã thành đoạn đờng dài hút hắt
cô đơn:


“ áo mỏng che đầu ma nặng hạt
Có ngắn gì đâu một dải đê”.


Nh vậy, cùng một đoạn đờng bằng nhau đã trở thành dài ngắn khác nhau khi tâm trạng
nhân vật trữ tình khác nhau.


Làm chủ đợc từ ngữ, bắt mỗi từ ngữ phải phục vụ cho ý riêng mình là một việc khơng
dễ dàng với ngời sáng tác. Nhng nhận ra đợc từ hệ thống ngôn ngữ cấu thành văn bản đâu
là điểm sáng,đâu là thông điệp thẩm mỹ thì lại là cơng việc của ngời tiếp nhận.


<b>4* .Điểm sáng ngôn ngữ hay nghệ thuật ngôn từ còn đ ợc thể hiện ở các biện pháp tu</b>
<b>từ hợp lý.</b>


Biện pháp tu từ đợc sử dụng phù hợp sẽ tạo đợc giá trị đặc biệt trong biểu đạt, biểu


cảm. Đó là cách kết hợp ngôn ngữ đặc biệt ở một đơn vị ngơn ngữ nào đó trong một ngữ
cảnh cụ thể nhằm mục đích tạo ra một hiệu quả nhất định với ngời đọc, ngời nghe nh ấn
t-ợng về một hình ảnh, một cảm xúc, một thái độ.


Trong tiÕng ViƯt, biƯn ph¸p tu tõ rÊt đa dạng. với một văn bản nghệ


thuật, ngời ta có thể sử dụng một hoặc nhiều biện pháp tu từ khác nhau, thậm chí có thể
khai thác tối đa sức mạnh nghệ thuật của một vài biện pháp


tu t no đó. Điều này tạo nên dấu ấn cá nhân độc đáo trong nghệ thuật sử dụng các biện
pháp tu từ.


Ví dụ nhờ biện pháp so sánh mà đã cụ thể hố đợc những gì hết sức trừu tợng, khó cân
đong, đo đếm.: một cảm gíác khó diễn đạt bằng lời đợc cụ thể hố:


“ ThÊy em nh thÊy mỈt trêi


Chãi chang khã ngã, trao lêi khã trao”.


Hay đối với biện pháp tu từ ẩn dụ, nhân hoá thờng đợc sử dụng trong văn học. Chẳng
hạn các từ “anh hùng”, “hy sinh” vốn chỉ đợc dùng cho ngời lại đợc dùng để ngợi ca cây
tre Việt Nam : “Tre hy sinh để bảo vệ con ngời. Tre anh hùng lao động. Tre anh hùng chiến
đấu”. Nhờ ẩn dụ nhân hoá ngời ta có thể giãi bầy tình cảm với lồi vật, vật vô tri vô giác
nh những ngời bạn gần gũi:


Trâu ơi ta bảo trâu này


Trâu ra ngoài ruộng trâu cµy víi ta”.


Tơi đã từng đọc thầm nhiều lần và nể phục trớc những câu thơ trĩu nặng tâm trạng đợc


thể hiện tài tỡnh:


Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh những máy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một mầu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai


( Đoàn thị Điểm – “Chinh phơ ng©m”)


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

của mấy ngàn dâu ngăn cách. Bằng nghệ thuật điệp, tác giả điệp lại “ngàn dâu xanh ngắt
một màu” càng làm cho không gian trải rộng ra và nỗi lòng càng trống trải. Rõ ràng bằng
việc sử dụng phép tu từ hợp lý đã đem lại hiệu quả cao trong nội dung biểu đạt.


Ta thấy, nhà văn là ngời có vốn sống rộng,tâm hồn nhạy cảm,cảm nhận một cách tinh
tế các gam mầu cung bậc cuộc sống. Ngơn ngữ với đặc trng mang tính hình tợng và tính
thẩm mỹ đã giúp nhà văn tái hiện cuộc sống theo cách của mình. Mỗi từ ngữ, nghệ thuật tu
từ mang một dụng ý nghệ thuật của nhà văn. Làm sáng rõ nghệ thuật ngôn từ, dụng ý của
tác giả l một lần nữa ngà ời tiếp nhận đồng sáng tạo với tác giả.




<b>iII/ Mét số ứng dụng trong việc dạy tác phẩm cụ thể:</b>


Nhiệm vụ của ngời giáo viên dạy văn không chỉ dừng lại ở việc cảm thụ đúng những
thơng tin thẫm mỹ, mà cịn mang trọng trách khơi gợi định hớng cho học sinh những suy
nghĩ, những rung động cùng chiều với ngời sáng tác.


Vậy, đứng trớc một tác phẩm văn chơng, với những kí tự ngơn ngữ dày đặc thì đâu là
điểm sáng ngơn ngữ; Làm thế nào để khi tìm hiểu tác phẩm khơng sa vào lan man thiếu
trọng tâm? Đó là những câu hỏi đặt ra. Để cảm nhận đúng, cảm nhận sâu sắc tác phẩm cần


có nhiều yếu tố. Đó là năng lực cảm nhận; tái hiện hình tợng, liên tởng sáng tạo…Và
khơng phải đối tợng học sinh nào cũng có khả năng trên. Ngời giáo viên dạy văn khi bớc
vào lớp trớc hết phải tạo đợc khơng khí văn chơng; cho học sinh tìm hiểu cuộc đời sự
nghiệp của tác giả; hoàn cảnh sáng tác…Đặc biệt khâu đọc là một khâu quan trọng - đọc
diễn cảm phù hợp với tác phẩm đã bớc đầu cho các em cảm nhận cần thiết của tác phẩm.
Một yếu tố quan trọng nữa là việc đặt ra hệ thống câu hỏi. Chính dạng câu hỏi gợi tìm giúp
học sinh có điều kiện bày tỏ suy nghĩ của mình trớc những thơng tin thẩm mỹ.


Những bớc trên là những bớc thiết yếu mà giáo viên phải chủ đạo hớng dẫn học sinh
tìm hiểu trong quá trình lĩnh hội tác phẩm văn chơng trong chơng trình học. Mục đích cao
nhất trong dạy học ngữ văn đó là từ việc cả nhận tác phẩm văn học sẽ rèn luyện cho các em
những xúc cảm tinh tế về cuộc sống; có cái nhìn đầy tính nhân văn về cuộc sống, từ đó
hình thành đựoc những nhân cách tốt đẹp.


Từ việc thấm nhuần một cách sâu sắc vai trò của điểm sáng thẩm mỹ trong tác phẩm
văn chơng – Là một ngời giáo viên dạy ngữ văn tơi đã rèn cho mình kỹ năng cảm thụ nó.
Trớc một tác phẩm chỉ cần đi từ vỏ ngôn ngữ thông qua bớc đọc tôi đã cảm nhận tác phẩm
này cần dừng lại ở đâu, chỗ nào cần phân tích, cần so sánh, chỗ nào cần giảng bình… Xác
định đợc hớng q trình tiếp nhận tơi sẽ hình thành đợc các khâu lên lớp. Tất cả các bớc từ
việc tìm hiểu tác giả, hồn cảnh ra đời của tác phẩm, bớc đọc, tìm phơng thức biểu đạt,hay
bố cục…Đều phục vụ cho mục đích các em nắm đợc nội dung t tởng, giá trị nghệ thuật của
tác phẩm và cao nhất là nắm đợc thông điệp mà tác giả gửi gắm trong đó là gì.


Mặc dù tơi cha có điều kiện để dạy tất cả các khối lớp trong chơng trình Ngữ văn
THCS nhng thông qua các giờ lên lớp cụ thể, bằng phơng pháp riêng đặt trong định hớng
chung tôi đã dẫn dắt các em đến với văn bản một cách tích cực, có hiệu quả.


Sau đây là một số dẫn chứng từ việc hình thành câu hỏi đến trình bày suy nghĩ của
học sinh và bổ sung kết luận của giáo viên ở một số văn bản cụ thể.



Khi dạy bài Đêm nay bác không ngủ ( Ngữ văn 6 Tập 2) - Đến khổ thơ : Rồi
Bác đi dém chăn


Tõng ngêi tõng ngêi mét
Sợ cháu m×nh giËt thét
Bác nhón chân nhẹ nhàng.


GV đa ra câu hỏi: Hành động của Bác trong khổ thơ cho em suy nghĩ gì về Bác?- Học
sinh sẽ phát hiện ra hai từ mang sức nặng gợi cảm đó là từ “dém” và từ “nhón” : Bác đi
dém chăn cho từng chiến sỹ; Cử chỉ nhẹ nhàng


“nhón” vì sợ cháu mình giật thột”. Trân trọng và nâng niu; bình dị và thân thơng. Đoạn thơ
đã tái hiện một vị lãnh tụ vĩ đại qua những hành vi cử chỉ hết sức đời thờng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

- Đối với cụm từ này,học sinh sẽ phát hiện ra lơgic tồn bài: đây là cuộc chơi sng khơng
vật chất vì tất cả những thứ nhà thơ định đãi bạn đều khơng có. Nhng đây khơng phải là
mục đích chính mà tác giả thể hiện. Cao hơn, tác giả muốn cho ngời đọc thấy: Tình cảm là
thứ cao quý nhất, nó vợt trên sự ràng buộc của vật chất tầm thờng : “ta với ta” hai m nh
mt. Keo sn, gn bú.


* Bài Vọng nguyệt (Ngữ văn 8 tập 2). Hai câu thơ cuối:
“Nh©n híng song tiỊn kh¸n minh ngut
Ngut tòng song khích khán thi gia.
Theo lời dịch: Ngời ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.


GV cn chỳ ý cho hs từ “khán” để biểu thị hoạt động của mắt tới một vật, ngời ta có thể
dùng từ trơng ,coi, nhìn…Nhng Bác đã chọn từ “khán” trong trờng hợp này. Bác yêu trăng,
xem trăng là bạn tri âm, tri kỷ. Trong hoàn cảnh tối tăm, tù đày, qua song sắt nhà tù, Bác
tìm đến với trăng bằng tình cảm nâng niu, ngỡng mộ; Trăng đã đồng cảm với Bác, khơng


ngại ngần trớc hồn cảnh, đã vợt qua song sắt nhà tù ngắm nhà thơ. (Riêng từ “nhà thơ” lại
cũng đợc sử dụng đầy dụng ý).


* Bài “Mùa xuân nho nhỏ”( Thanh Hải _ Ngữ văn 9, tập 1), GV chú ý cho học sinh cách
hiểu câu thơ: “Từng giọt long lanh rơi”,“Giọt long lanh” ở đây là giọt gì? Giọt ma hay giọt
sơng? – Cần phải hiểu rằng trong cái men ngất ngây, sức xuân căng tràn, “giọt long lanh”
ấy chính là giọt mùa xuân, đợc nhân vật trữ tình trong bài thơ đón nhận một cách trân
trọng:“tơi hứng”.


* Yêu cầu học sinh chỉ các biện pháp ẩn dụ trong khổ thơ sau, và cho biết tác giả lại sử
dụng nhiều phép ẩn dụ nh vậy để làm gì?


“Ngày ngày mặt trời đi qua trong lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày mặt trời đi trong thơng nhớ


KÕt trµng hoa dâng bảy muơi chín mùa xuân.
( Viếng lăng bác- Viễn Phơng)


- Bng những kiến thức đã học về phép tu từ ẩn dụ, hs đã chỉ ra đợc các phép ẩn dụ:
+ Bác : Mặt trời trong lăng.


+ Không gian đặc biệt: Không gian thơng nhớ.
+ Dòng ngời; Tràng hoa.


+ 79 năm cuộc đời Bác: 79 mùa xuân.


Nh vậy, trong một khổ thơ đã sử dụng bốn phép ẩn dụ. Phép ẩn dụ thờng đợc ngời sáng tác
dùng trong trờng hợp biểu thị sự hàm súc. Khó dùng lời lẽ thơng thờng diễn đạt hết đợc.Vì
vậy trớc Bác, với lịng tơn kính u thơng, Viễn Phơng đã dùng phép ẩn dụ để ngợi ca Bác,


cũng nh tình cảm nhân dân với Bác..


<b>IV. Những thành công b ớc đầu thu đ ợc trong quá trình dạy học .</b>


Mc dự chỉ trong môi trờng nhỏ tại một trờng THCS ở địa phơng tôi đang trực tiếp dạy
học,song với những xác định đúng đắn trong quá trình tiếp nhận tác phẩm trữ tình trong
chơng trình tơi đã thu đợc một số kết quả khả quan. Với yêu cầu trình bày khả năng cảm
thụ về tác phẩm văn học, thông qua phát hiện những điểm sáng thẩm mỹ để thể hiện
những bớc phân tích,cắt nghĩa và khái quát nghệ thuật – kết quả khảo sát trên những đối
tợng khác nhau cho thấy: hầu hết sự cảm nhận văn chơng của học sinh đều xuất phát từ
những hiểu biết từ chính bản thân các em. Nhiều học sinh đã biết bám sát văn bản tác
phẩm văn học để lấy đó làm căn cứ và kiểm chứng cho việc phát hiện điểm sáng thẩm mỹ.
Nhìn chung những suy nghĩ,bài viết đạt kết quả tốt, phần lớn học sinh đều thể hiện nhạy
bén khi tri giác ngơn ngữ, ngồi ra cũng thể hiện một vốn sống, vốn hiểu biết nhất định về
tác phẩm thông qua những liên tởng, so sánh hay sáng tạo.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Vì vậy để khắc phục tình trạng trên,việc hình thành ý thức trau dồi ngơn ngữ, tích luỹ
vốn biểu tợng, cũng nh kỹ năng liên tởng, tởng tợng cùng với các kỹ năng phân tích tác
phẩm văn học khác cho học sinh là một yêu cầu thiết thực trong quá trình dạy học văn.


<b>C. :</b>

<b>KÕt luËn.</b>

.


Nói đến văn chơng là nói đến cuộc sống và con ngời,hay nói đúng hơn là nói đến đời
sống con ngời trong đó có nói đến đời sống tình cảm. Vả chăng mơ tả hiện thực có bao giờ
lại khơng biểu lộ một thái độ nhất định. Đó là lịng u hay ghét; niềm vui hay buồn, nỗi
căm thù hay thơng cảm, đả phá hay xây dựng; tôn trọng hay tự hào; khâm phục hay mỉa
mai phẫn nộ…Có bao nhiêu sắc thái tình cảm trong đời sống con ngời thì có bấy nhiêu
cung bậc tình cảm trong văn chơng.


Ngời dạy văn, phân tích và cảm thụ tác phẩm khơng chỉ khối óc mà bằng cả con tim.


Giảng văn, do đó đợc coi là một thử thách lớn đối với ngời dạy văn, đặc biệt là dạy tác
phẩm trữ tình.


Từ trớc tới nay,vấn đề tình cảm trong dạy một tác phẩm trữ tình đợc nhiều ngời quan
tâm,suy nghĩ. Bao nhiêu tâm huyết dồn vào bài giảng văn nhiều lúc vẫn thất bại khi cha
mang lại cho học sinh sự xúc động say mê. Mặc dù để đạt đợc một giờ dạy thành cơng cịn
phụ thuộc nhiều yếu tố.Song không ai chối cãi đợc ngời dạy giữ vai trò quyết định Giảng
văn với những rung động trong sáng, sâu sắc thì sẽ in đậm vào tâm hồn học sinh, tài năng
của ngời dạy văn không chỉ dừng ở mức cảm mà thực sự vơn tới nghệ thuật truyn cm.


Theo tôi, bài soạn chỉ là kết quả cụ thể chứ cha phải là kết quả cuối cùng của khâu
chuẩn bị bài giảng văn. Tôi có thể rút ra một số thao tác cơ bản nh sau :


+ Thõm nhập vào bài văn bài thơ. Nhà văn,đã bằng tất cả sự say mê rung động của
mình để sáng tạo tác phẩm thì ngời cảm thụ giảng dạy nó cũng phải có sự đồng cảm thích
đáng trớc sự say mê rung động này. Ngời dạy văn giỏi đồng thời là ngời thởng thức văn
ch-ơng tốt. Đầu tiên là ở việc đọc. Nên đọc năm bảy lần để cảm thụ sâu sắc văn bản.Theo kinh
nghiệm của tôi nên trân trọng ý nghĩ xuất hiện trong lần đọc đầu tiên, tuy cịn ở mức cảm
tính nhng liên quan mật thiết đến chủ đề,t tởng của tác phẩm.


+ Tìm hiểu cuộc đời nhà văn.Trong một số trờng hợp,đó là tấm gơng sáng về t tởng
đạo đức,khí phách và tâm hồn. Giảng thơ Hồ Chí Minh ta ít khi ngời ta thoả mãn, cũng vì
tình cảm của ta với Bác khơng có gii hn.


+Sau cùng là giáo viên đi vào bình giảng, phân tích tác phẩm.


Tr lờn,tụi ó trỡnh by mt vi suy nghĩ về quá trình tiếp cận một tác phẩm văn ch
-ơng trong ch-ơng trình.Và qua đó nêu một số vấn đề về phát huy tình cảm ngời giáo viên
với giờ giảng văn. Yêu cầu chung là tình cảm phải lắng sâu khơng ồn ào xốc nổi, khiến
tình cảm lắng đọng, có sức truyền thụ cao..mặt khác tình cảm dồi dào phải đợc kết hợp với


lý trí sáng suốt, để đảm bảo độ sâu độ chắc.


Tình cảm là vấn đề lớn nhất đối với những ngời giảng dạy văn chơng nói chung và đặc
biệt là dạy những tác phẩm trữ tình nói riêng. Tình cảm ngời dạy văn góp phần làm cho
“các em có thể quên tất cả, nhng phần còn lại trong lòng các em phải là cái gì rất sâu, rung
động cả một đời ngời” - (Tố Hữu).


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×