Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người của tòa án gây ra trong hoạt động tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 121 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

CHÂU NỮ THU HÂN

TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
DO NGƯỜI CỦA TÒA ÁN GÂY RA
TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

CHÂU NỮ THU HÂN

TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
DO NGƯỜI CỦA TÒA ÁN GÂY RA
TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Dân sự & Tố tụng dân sự
Mã số: 60380103

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Đỗ Văn Đại

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan cơng trình này là do chính tơi thực hiện dưới sự hướng dẫn của
giảng viên hướng dẫn, các số liệu là trung thực. Mọi ý kiến, khái niệm có ý nghĩa
khoa học đều được trích dẫn và chú dẫn một cách rõ ràng, đầy đủ và chính xác.
Tác giả

Châu Nữ Thu Hân


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT

TỪ, CỤM TỪ ĐƯỢC VIẾT TẮT

TỪ VIẾT TẮT

1

Bộ luật Dân sự

BLDS

2

Bộ luật Hình sự

BLHS

3


Bộ luật Tố tụng hình sự

BLTTHS

4

Bộ luật Tố tụng dân sự

BLTTDS

5

Cơ quan có trách nhiệm bồi thường

CQCTNBT

6

Cơ quan điều tra

CQĐT

7

Hình sự

HS

8


Người thi hành công vụ

NTHCV

9

Nghị định số 16/2010/NĐ-CP ngày 03 tháng 3 năm 2010
của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một
số điều của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước

Nghị định số
16/2010/NĐ-CP

10

Nghị định số 47/CP ngày 03/5/1997 của Chính phủ về việc
giải quyết bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức Nhà Nghị định số
nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng
47/CP
gây ra

11

Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11 ngày 17/3/2003
về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm
quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra

Nghị quyết số
388/2003/NQUBTVQH11


12

Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08 tháng 7 năm
2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự
2005 về bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng

Nghị quyết số
03/2006/NQHĐTP

13

Thơng tư liên tịch số 71/2012/TTLT-BTC-BTP ngày 09
tháng 5 năm 2012 Quy định việc lập dự toán, quản lý, sử

dụng và quyết tốn kinh phí thực hiện trách nhiệm bồi
thường của nhà nước

Thông tư liên
tịch số
71/2012/TTLTBTC-BTP


14

Thông tư liên tịch số 05/2012/TTLT-VKSNDTCTANDTC-BCA-BTP-BQP-BTC-BNN&PTNT ngày
02/11/2012 hướng dẫn thực hiện trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của Nhà nước trong hoạt động tố tụng hình sự


Thơng tư liên
tịch số
05/2012/TTLTVKSNDTCTANDTC-BCABTP-BQP-BTCBNN&PTNT

15

Thơng tư liên tịch số 04/2014/TTLT-BTP-TANDTCVKSNDTC ngày 23/01/2014 hướng dẫn thực hiện trách
nhiệm hồn trả của người thi hành cơng vụ

Thơng tư liên
tịch số
04/2014/TTLTBTP-TANDTCVKSNDTC

16

Thông tư liên tịch số 22/2014/TTLT-BTP-TANDTCVKSNDTC-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT ngày 21 tháng
11 năm 2014 hướng dẫn thực hiện quản lý nhà nước về
công tác bồi thường trong hoạt động tố tụng

Thông tư liên
tịch số
22/2014/TTLTBTP-TANDTCVKSNDTCBCA-BQP-BTCBNN&PTNT

17

Tòa án

TA

18


Tòa án nhân dân

TAND

19

Tố tụng dân sự

TTDS

20

Tố tụng hành chính

TTHC

21

Tố tụng hình sự

TTHS

22

Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước

TNBTCNN

23


Trách nhiệm bồi thường thiệt hại

TNBTTH

24

Viện kiểm sát nhân dân

VKSND


MỤC LỤC
TRANG
PHẦN MỞ ĐẦU ........nh: Trường hợp trước khi bị tạm giữ, tạm giam, chấp hành
hình phạt tù mà người bị thiệt hại có thu nhập ổn định từ tiền lương trong biên chế,


tiền cơng từ hợp đồng lao động, thì căn cứ vào mức lương, tiền công của tháng liền
kề trước khi người đó bị tạm giữ, tạm giam, chấp hành hình phạt tù để xác định
khoản thu nhập thực tế bị mất. Tại văn bản số 17/2013/CV-NHNoTB ngày
04/12/2013 và văn bản số 01/2014/CV-NHN0TB ngày 12/3/2014 của Ngân hàng
Nông nghiệp và phát triển nơng thơn Việt Nam Chi nhánh huyện Thới Bình có xác
nhận: Trường hợp bà Nguyễn Ánh Minh đi làm đầy đủ theo quy định và hoàn thành
tốt tất cả các chỉ tiêu đơn vị giao thì được hưởng các khoản thu nhập vào tháng
6/2005 là 3.312.670đ, vào tháng 7/2005 là 3.231.871đ. Như vậy, số tiền mất thu
nhập từ lương là 178.884.180đ (3.312.670đ/tháng x 54 tháng); Tiền trang phục
4.000.000đ; tiền quốc tế phụ nữ 1.400.000đ. Tổng thiệt hại bị mất phải bồi thường
là 184.284.180đ.
Yêu cầu thiệt hại về vật chất do bị tổn hại về sức khỏe, gồm:

Đối với chi phí cho việc cứu chữa, phục hồi sức khỏe 1.382.000đ; chi phí
cho người chăm sóc 12.029.000đ; chi phí th luật sư 20.000.000đ các khoản tiền
này bị đơn chấp nhận.
Đối với yêu cầu bồi thường bằng 30 tháng lương tối thiểu do sức khỏe bị tổn
hại 75% với số tiền 34.500.000đ. Thấy rằng, tại Văn bản số 01/CVTL-HĐGĐYK
ngày 06/01/2014 của Hội đồng giám định y khoa tỉnh Cà Mau xác định: Khả năng
lao động của bà Nguyễn Ánh Minh thuộc hạng 75% là do bà Minh đã mắc các
bệnh: Tăng huyết áp giai đoạn II; Sỏi 02 thận; Đái tháo đường type 2. Như vậy, việc
bà Minh bị tổn hại sức khỏe 75% do bị bệnh. Bị đơn đồng ý bồi thường 20 tháng
lương tối thiểu. Xét thấy trong thời gian bị tạm giam bà Minh có bị bệnh và nhập
viện, việc bà bị tạm giam cũng có ảnh hưởng đến sức khỏe cũng như bệnh của bà.
Do đó bị đơn bồi thường 20 tháng lương tối thiểu là phù hợp vì khơng có căn cứ để
chứng minh do bị bắt tạm giam mà sức khỏe còn 75%. Số tiền bồi thường là
23.000.000đ (1.150.000đ/tháng x 20 tháng).
Đối với yêu cầu bồi thường 200.776.950đ do thu nhập thực tế bị giảm do
hiện nay sức khỏe mất 75%. Thấy rằng bà Nguyễn Ánh Minh được Hội đồng giám
định y khoa kết luận vào ngày 20/01/2011 sức khỏe của bà mất 75% và Hội đồng
giám định y khoa cũng có văn bản giải thích rõ việc sức khỏe mất 75% là do mắc
các bệnh: Tăng huyết áp giai đoạn II; Sỏi 02 thận; Đái tháo đường type 2. Do đó
khơng có cơ sở để kết luận việc mất 75% do lỗi của các cơ quan tiến hành tố tụng
hình sự, do đó khơng chấp nhận yêu cầu này của bà Minh.
Đối với yêu cầu thiệt hại do bị tổn hại tinh thần, gồm: Từ khi khởi tố bị can
cho đến khi có Quyết định định chỉ số ngày tạm giam là 562 ngày, số ngày tại ngoại


là 1.095 ngày, mức lương tối thiểu được tính là 1.150.000đ/tháng, mỗi tháng làm
việc 22 ngày, do đó số tiền phải bồi thường là 145.370.454đ; Bị đơn chấp nhận.
Đối với yêu cầu bồi thường 128.600.278đ là tiền lãi của tiền lương do chậm
trả. Thấy rằng, Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước cũng như các văn bản
hướng dẫn thực hiện Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố

tụng hình sự khơng quy định phải bồi thường tiền lãi của số tiền phải bồi thường do
đó yêu cầu này không được chấp nhận.
Đối với yêu cầu bồi thường 84.326.319đ tiền lãi của tiền 200.776.950đ. Thấy
rằng số tiền 200.776.950đ đã không được chấp nhận, đồng thời yêu cầu này cũng
không phù hợp với quy định của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong
hoạt động tố tụng hình sự nên u cầu này khơng được chấp nhận.
Về án phí: Bị đơn phải chịu án phí có giá ngạch đối với số tiền
386.065.000đ. Nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Áp dụng Điều 26; Điều 29; Điều 32; Điều 45; Điều 46; Điều 47; Điều 49;
Điều 51, Điều 54 – Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước;
Căn cứ Khoản 1 Điều 131 Bộ luật tố tụng dân sự;
Tuyên xử: - Chấp nhận một phần yêu cầu của bà Nguyễn Ánh Minh, buộc
Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau phải trực tiếp xin lỗi công khai bà Nguyễn Ánh Minh
tại nơi bà Minh đang cư trú (Hẻm 94, Phan Ngọc Hiển, khóm 6, phường 5, thành
phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau) đúng theo quy định Điểm a Khoản 3 Điều 51 - Luật
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước; Buộc Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau phải bồi
thường thiệt hại cho bà Nguyễn Ánh Minh 386.065.000đ (Ba trăm tám mươi sáu
triệu không trăm sáu mươi lăm ngàn đồng).
Việc chi trả tiền bồi thường 386.065.000đ cho bà Nguyễn Ánh Minh được
thực hiện theo quy định tại Điều 54 – Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
- Án phí: Bà Nguyễn Ánh Minh khơng phải chịu án phí dân sự sơ thẩm; Án
phí dân sự có giá ngạch Tịa án nhân dân tỉnh Cà Mau phải chịu 19.303.000đ.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự;



thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân
sự.
Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi liên quan có quyền kháng cáo bản
án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Đương sự;
-VKSND Tp. Cà Mau;
- THA DS Tp. Cà Mau;
- TAND Tỉnh Cà Mau;
- Hồ sơ vụ án;
- Lưu VT.

TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa

Trịnh Xuân Miễn


PHỤ LỤC SỐ 02
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH GIA LAI

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Bản án số: 64/2010/ DS-PT
Ngày 27 tháng 5 năm 2010
V/v: Yêu cầu bồi thường thiệt hại
theo Nghị quyết 388
NHÂN DANH

NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH GIA LAI
Với Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên tịa:

Ơng Võ Đình Sớm

Các Thẩm phán:

Ơng Đặng Phan Chung
Ơng Võ Quang

Thư ký ghi biên bản phiên tòa: Bà Lê Thị Nga, cán bộ Tịa án nhân dân tỉnh
Gia Lai.
Hơm nay, ngày 25/5/2010 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai mở phiên
tịa xét xử phúc thẩm cơng khai vụ án thụ lý số: 69/TL-DSPT ngày 19/4/2010 về
việc tháng 7 năm 2013 về việc "Yêu cầu bồi thường thiệt hại theo Nghị quyết 388".
Theo bản án sơ thẩm số: 52/2010/DS-ST ngày 24/3/2010 của Tòa án nhân dân
thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử
số: 143/QĐ-PT ngày 10/5/2010, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Phùng Thị Kim Oanh, sinh năm 1956 (có mặt)
Anh Phùng Trọng Hiển , sinh năm 1974 (có mặt)
Trú tại: 52/1, Trần Phú, Phường Diên Hồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai.
2. Bị đơn: Tòa án Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng
Trú tại: 32 Bạch Đằng, TP Đà Nẵng
Đại diện theo ủy quyền có ơng Văn Đào-Trưởng phịng nghiệp vụ hành
chính Tịa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng (có mặt).
NHẬN THẤY:
Theo bản án sơ thẩm thì nội dung vụ án như sau:



Theo đơn khởi kiện đề ngày 16 tháng 12 năm 2008, tại phiên tòa sơ thẩm,
nguyên đơn bà Phùng Thị Kim Oanh và ơng Phùng Trọng Hiển trình bày:
Để đảm bảo quyền lợi và lợi ích hợp pháp cho cha tôi, ông Phùng Văn Cung
(đã chết) là người bị oan. Nay tơi u cầu Tịa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng phải
bồi thường thiệt hại theo Nghị quyết 388 của UBTVQH, cụ thể:
1. Thiệt hại do tổn thất về tinh thần:
a. Số ngày tạm giam:
- Từ ngày 14/02/1984 đến ngày 26/6/1984 = 134 ngày
- Từ ngày 16/8/1985 đến ngày 01/4/1987 = 594 ngày
Tổng cộng là (134 + 594) x 3 = 2.184 ngày.
b. Số ngày tại ngoại:
- Từ ngày 05/6/1983 đến ngày 13/02/1984 = 253 ngày
- Từ ngày 27/6/1984 đến ngày 15/8/1985 = 414 ngày
- Từ ngày 02/4/1987 đến ngày 29/8/1987 = 150 ngày
Tổng cộng là 253 + 414 + 150 = 817 ngày
Tổng số tiền được bồi thường là (2.184 ngày + 817 ngày) x 24.545 đồng =
73.659.545 đồng (Bảy mươi ba triệu sáu trăm năm mươi chín ngàn năm trăm bốn
mươi lăm đồng).
Tơi đề nghị tính số tiền theo mức lương cơ bản hiện nay là 650.000 đồng.
Theo tôi số ngày tạm giữ, tạm giam là 3001 ngày và 03 ngày bị bắt tạm giam
từ ngày 02/6/1983 đến ngày 04/6/1983, phải làm rõ cơ quan nào chịu trách nhiệm
đối với ba ngày nay. Vì ba ngày này gây thiệt hại đối với tài sản gia đình tôi.
2. Thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất của ông Phùng Văn Cung: Tại biên
bản thương lượng ngày 29/10/2008, Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng đã xác
định giá gạo vào tháng 02/1984 là 16,5 đồng/kg là không đúng với thực tế vào thời
điểm trên. Do đó, tơi đề nghị Tịa án xem xét lấy giá tại Bộ lương thực và Ủy ban
vật giá Nhà nước.
3. Tiền cấp dưỡng ni con: Tịa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng cho rằng
Nghị quyết 388 không quy định tiền cấp dưỡng ni con đối với người cịn sống là

chưa đúng với Nghị quyết 388 và Thông tư liên tịch số 04 ngày 22/11/2006. Vì trên
thực tế, đa số người bị bắt khi ra tù thì khơng thể có cơng ăn việc làm ngay lúc mới


ra tù nên không thể nuôi con và cho con ăn học được. Do đó, tơi u cầu phải bồi
thường khoản tiền cấp dưỡng nuôi con là 360.000 đồng.
4. Nguyên nhân bắt ơng Cung chưa được là rõ, vì ngày 02/7/1982 Tòa án
tỉnh Gia Lai đã ra bản án trái pháp luật và việc cưỡng chế thi hành án sai gây thiệt
hại về tài sản là 2.525.640.950 đồng.
5. Yêu cầu xem xét lại các bản án dân sự xét xử về căn nhà số 14 Hoàng Văn
Thụ.
6. Các khoản tiền sao chụp giấy tờ, tài liệu, các khoản tiền tàu xe mà gia đình
tơi khiếu kiện chưa được tính để trả lại cho gia đình tơi vì nếu khơng gây oan sai
cho ơng Phùng Văn Cung thì gia đình tơi không phải tốn kém khoản tiền này, số
tiền là 3.000.000.000 đồng.
7. Yêu cầu xem xét cha tôi ông Cung bị bắt tạm giam từ ngày 02/6/1983 đến
ngày 04/6/1983, do Chánh án Tịa án nhân dân thị xã Pleiku ơng Nguyễn Mai Xuân
ký lệnh tạm giam.
8. Số tiền 737 đồng 5 hào, thi hành án thu không lập biên bản tôi u cầu
phải bồi thường cho gia đình tơi.
Tại Cơng văn số 1324/CV-TPT ngày 16/7/2009, ý kiến của đại diện Tòa
phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng tại buổi làm việc ngày 24/8/2009 và
tại phiên tòa, đại diện Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng trình
bày:
1. Về khoản tiền bồi thường thiệt hại do tổn thất về tinh thần: Tòa án nhân
dân tối cao tại Đà Nẵng dự kiến bồi thường như sau:
a. Số ngày tạm giam:
- Từ ngày 14/02/1984 đến ngày 26/6/1984 = 134 ngày
- Từ ngày 16/8/1985 đến ngày 01/4/1987 = 588 ngày
Tổng cộng là (132 + 588) x 3 = 2.160 ngày.

b. Số ngày tại ngoại:
- Từ ngày 05/6/1983 đến ngày 13/02/1984 = 248 ngày
- Từ ngày 27/6/1984 đến ngày 15/8/1985 = 409 ngày
- Từ ngày 02/4/1987 đến ngày 29/8/1987 = 150 ngày
Tổng cộng là 248 ngày + 408 ngày + 150 ngày = 806 ngày


Tổng số tiền được bồi thường là (2.160 ngày + 806 ngày) x 24.545 đồng =
72.801.804 đồng (Bảy mươi hai triệu tám trăm lẻ một ngàn tám trăm lẻ bốn đồng).
Đồng ý tính lại số tiền bồi thường theo mức lương cơ bản hiện nay là 650.000
đồng/tháng.
2. Về thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất của ông Phùng Văn Cung: Tòa án
nhân dân tối cao tại Đà Nẵng dự kiến bồi thường như sau:
Giá gạo tại thời điểm năm 1985 do Sở tài chính tỉnh Gia Lai cung cấp là 16,5
đồng/kg, thu nhập của ông Cung thời điểm đó là 80 đồng/ngày, tương đương
5kg/ngày. Tính theo giá gạo hiện nay là 11.000 đồng/kg. Do đó khoản tiền bồi
thường do thu nhập thực tế bị mất của ông Phùng Văn Cung là: 720 ngày x (11.000
đồng/kg x 5kg) = 39.600.000 đồng.
3. Các khoản tiền sao chụp tài liệu, giấy tờ, các khoản tiền tàu xe mà gia đình
chị Oanh khiếu kiện u cầu trả cho gia đình, Tịa phúc thẩm Đà Nẵng sẽ chấp nhận
các khoản tiền chi phí đi lại, vì Nghị quyết 388 quy định khơng phải bồi thường.
4. Tiền cấp dưỡng nuôi con chưa thành niên: Nghị quyết 388 chỉ đặt ra việc
bồi thường về cấp dưỡng trong trường hợp người bị oan chết hoặc mất khả năng lao
động và cần có người thường xuyên chăm sóc. Ơng Cung khơng thuộc trường hợp
này nên khơng được bồi thường.
5. Tiền bồi thường thiệt hại về tài sản bị thu giữ thuộc trách nhiệm của cơ
quan đã ra quyết định thu giữ, tạm giữ, kê biên, tịch thu tài sản của ơng Cung. Hiện
nay chưa có các tài liệu thể hiện rõ nội dung này nên Tòa án nhân dân tối cao tại Đà
Nẵng không chấp nhận yêu cầu này của bà Oanh, ông Hiển.
6. Những yêu cầu cịn lại của chị Oanh, anh Hiển khơng thuộc thẩm quyền

giải quyết của Tòa án Đà Nẵng.
Từ nội dung trên, Tòa án sơ thẩm đã căn cứ Điều 1, 3, 5, 9, 10, 12, 18, 19,
20, 21 Nghị quyết 388/NQ-UBTVQH11 ngày 17/3/2003 của Ủy ban thường vụ
quốc hội; căn cứ vào các Điều 25, 73, 74, từ Điều 79 đến Điều 98 BLTTDS; Điều
604, 605, 609, 618, 620 BLDS.
Xử:
Chấp nhận một phần đơn khởi kiện của bà Phùng Thị Kim Oanh và ơng
Phùng Trọng Hiển:
Buộc Tịa phúc thẩm Tịa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng bồi thường cho
ông Phùng Văn Cung, thông qua người đại diện hợp pháp là bà Phùng Thị Kim


Oanh và ông Phùng Trọng Hiển số tiền thiệt hại do tổn thất về tinh thần và tiền do
thu nhập thực tế bị mất là 81.277.083 đồng + 38.147.200 đồng = 119.424.283 đồng
(Một trăm mười chín triệu bốn trăm hai mươi bốn ngàn hai trăm tám mươi ba
đồng).
Không chấp nhận các yêu cầu bồi thường thiệt hại còn lại của nguyên đơn
yêu cầu Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao phải bồi thường cho.
Trong thời hạn 30 ngày, từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, Tịa phúc thẩm
Tòa án nhân dân tối cao Đà Nẵng phải thực hiện việc xin lỗi, cải chính cơng khai
theo quy định tại Khoản 2 Điều 4 Nghị quyết 388 ngày 17/3/2003 của UBTVQH.
Ngồi ra án sơ thẩm cịn tun quyền kháng cáo của đương sự, quyền thỏa
thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng
chế thi hành án án phí, và tiền lãi của số tiền chậm trả theo mức lãi suất cơ bản do
Ngân hàng nhà nước công bố đối với số tiền chậm thi hành án.
Trong thời hạn luật định ngày 01/4/2010 bà Phùng Thị Kim Oanh có đơn
kháng cáo và ngày 19/4/2010 bà Phùng Thị Kim Oanh và ông Phùng Trọng Hiển có
đơn kháng cáo bổ sung, kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm số 52/2010/DS-ST ngày
24/3/2010 của Tòa án nhân dân thành phố Pleiku.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm

tra tại phiên tòa và kết quả tranh tụng cơng khai tại phiên tịa phúc thẩm hôm nay.
Hội đồng xét xử nhận định về vụ án như sau:
XÉT THẤY:
Ông Phùng Văn Cung bị khởi tố, truy tố, xét xử sơ thẩm tại bản án hình sự số
53/HS-ST ngày 22/8/1985 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai, Kon Tum và bản án
hình sự phúc thẩm số 205/HS-PT ngày 20/20/1985 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân
dân tối cao tại Đà Nẵng, đã kết tội ông Cung 03 năm tù về tội "Chống đối việc thi
hành án đã có hiệu lực pháp luật, chống đối với cán bộ trong khi thi hành nhiệm vụ"
theo Điều 9 Sắc lệnh số 03/SL ngày 15/3/1976. Tại bản án Giám đốc thẩm số
42/UB ngày 29/8/1987 của Ủy ban thẩm phán - Tịa án nhân dân tối cao đã tun bố
ơng Phùng Văn Cung khơng có trách nhiệm hình sự về các hành vi đã nêu trong bản
án hình sự phúc thẩm của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng.
Nay ông Phùng Văn Cung đã chết, những người được thừa kế về quyền của
ông Cung đã khởi kiện, yêu cầu Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà
Nẵng bồi thường thiệt hại cho ông Cung do ơng Cung bị oan, được Tịa án cấp sơ
thẩm thụ lý và áp dụng các văn bản pháp luật có liên quan để giải quyết, buộc Tịa


phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng bồi thường cho ông Cung thông
qua những người đại diện là có căn cứ, đúng pháp luật.
Xét kháng cáo của bà Phùng Thị Kim Oanh và ông Phùng Trọng Hiển là
những người được thừa kế về quyền và là những người đại diện theo ủy quyền của
các đồng thừa kế, thấy rằng:
Đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại tổn thất về tinh thần:
Trong quá trình hoạt động tố tụng, các cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện
bắt giam ông Cung từ ngày 02/6/1983 đến ngày 04/6/1983, bị bắt lại từ ngày
14/02/1984 đến ngày 26/6/1984 được tha, ngày 16/8/1985 bị bắt lại đến ngày
01/4/1987 thì được tha, ngày 29/8/1987 ơng Cung được Tịa án nhân dân tối cao
tun bố khơng có tội vì ơng Cung khơng thực hiện hành vi phạm tội. Tòa án cấp sơ
thẩm đã xác định tổng số ngày ông Cung bị giam và ngày tại ngoại để tính thiệt hại

do tổn thất về tinh thần là khơng chính xác. Đồng thời, khi xác định số ngày làm
việc bình quân 24 ngày trong mỗi tháng để xác định ngày ông Cung lao động là
không chính xác, khơng đúng với hướng dẫn của Thơng tư liên tịch số
04/2006/TTLT của Viện kiểm sát nhân dân tối cao-Tịa án nhân dân tối cao-Bộ
Cơng an-Bộ tư pháp-Bộ quốc phịng-Bộ tài chính ngày 22/11/2006 hướng dẫn thi
hành một số quy định của Nghị quyết 388/NQ-UBTVQH ngày 17/3/2003 của Ủy
ban thường vụ quốc hội về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm
quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra, gây thiệt hại đối với nguyên đơn. Cụ
thể: Tiền bồi thường thiệt hại do tổn thất về tinh thần là 3011 ngày x (650.000
đồng/22 ngày) = 88.961.363 đồng. Vì vậy, kháng cáo về phần này là có cơ sở nên
chấp nhận.
Đối với yêu cầu thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất:
Trong quá trình giải quyết vụ án, Tịa án cấp sơ thẩm đã gửi văn bản đến Cục
quản lý giá - Bộ tài chính và Cục thống kê tỉnh Gia Lai để yêu cầu cung cấp giá gạo
tại thời điểm ông Cung bị bắt giam dẫn đến gây thiệt hại cho ông Cung. Nhưng các
cơ quan trên khơng có thơng tin về giá gạo nên khơng cung cấp được cho Tịa án.
Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng giá gạo do Sở tài chính tỉnh Gia Lai cung cấp
để xác định thiệt hại thực tế công lao động của ông Cung bị mất tại thời điểm khi bị
giam và và giá gạo tại thời điểm xét xử để tính thiệt hại cho ông Cung, trên cơ sở
yêu cầu của nguyên đơn về tiền cơng lao động có thu nhập theo nghề nghiệp của
ơng Cung 80 đồng/ngày có căn cứ, đúng pháp luật nên kháng cáo về phần này là
không cơ sở chấp nhận.


Đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại trong quá trình cưỡng chế, kê biên, thi
hành án đã làm thất thốt, hư hỏng tài sản của ơng Cung. Xét u cầu này là chính
đáng, nhưng khơng thuộc trường hợp đối tượng là Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân
tối cao tại Đà Nẵng bồi thường. Nếu có căn cứ mà nguyên đơn cho rằng việc cưỡng
chế thi hành án là gây thiệt hại về tài sản, thì cơ quan ra quyết định trên phải có
trách nhiệm bồi thường, nên việc u cầu này khơng được Tịa án cấp sơ thẩm chấp

nhận là phù hợp với quy định của pháp luật. Do đó, kháng cáo về phần này khơng
được chấp nhận.
Đối với yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chưa thành niên, yêu cầu xem xét lại
bản án dân sự đã có hiệu lực pháp luật đối với vụ án tranh chấp căn nhà số 14
Hoàng Văn Thụ, thành phố Pleiku,Gia Lai, yêu cầu các khoản tiền sao chụp giấy tờ,
tài liệu, tiền tàu xe đi lại, yêu cầu Tòa án triệu tập những người trước đây có liên
quan đến việc xét xử oan ơng Cung ra phiên tịa để đối chất. Xét các u cầu trên
của ngun đơn là khơng có căn cứ, không thuộc các trường hợp theo Nghị quyết
388 và Thơng tư liên tịch số 04, vì vậy, các yêu cầu này của nguyên đơn không
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tịa án và ngồi phạm vi liên quan đến việc giải
quyết của vụ án này. Việc chi phí tàu xe đi lại, ngun đơn khơng xuất trình được
chứng cứ nên khơng có cơ sở để xem xét. Do đó, Tịa án cấp sơ thẩm khơng chấp
nhận các u cầu này của nguyên đơn là đúng, đồng thời không có cơ sở để chấp
nhận phần kháng cáo này của nguyên đơn.
Vì các lẽ trên,
Căn cứ Khoản 2 Điều 275 và 276 BLTTDS
QUYẾT ĐỊNH:
Chấp nhận một phần kháng cáo của bà Phùng Thị Kim Oanh và ông Phùng
Trọng Hiển. Sửa án sơ thẩm.
Áp dụng Điều 22, Điều 26, Điều 29; Khoản 2 Điều 32 Luật trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của Nhà nước.
Áp dụng Điều 604; Điều 611; Điều 620 BLTTDS.
Buộc Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng bồi thường cho
ông Phùng Văn Cung, thông qua người đại diện theo pháp luật là bà Phùng Thị Kim
Oanh và ông Phùng Trọng Hiển số tiền thiệt hại do tổn thất về tinh thần và tiền thu
nhập thực tế bị mất là 88.961.363 đồng + 38.147.200 đồng = 127.108.563 đồng.


Khơng chấp nhận các u cầu bồi thường cịn lại của nguyên đơn yêu cầu
Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng phải bồi thường.

Các nguyên đơn khơng phải chịu án phí phúc thẩm.
Các quyết định khác cịn lại của án sơ thẩm khơng có kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Các Đương sự;
- VKSND tỉnh Gia Lai;
- THADS thành phố Pleiku;
- TAND thành phố Pleiku;
- Lưu HS, DS, VT.

TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tịa

Võ Đình Sớm



×