Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Hoàn thiện thủ tục xét hỏi tại phiên tòa hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.03 MB, 98 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

VÕ HỒNG PHÚC

HỒN THIỆN THỦ TỤC XÉT HỎI TẠI PHIÊN TỊA
HÌNH SỰ THEO TINH THẦN CẢI CÁCH TƢ PHÁP

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

VÕ HỒNG PHÚC

HỒN THIỆN THỦ TỤC XÉT HỎI TẠI PHIÊN TỊA
HÌNH SỰ THEO TINH THẦN CẢI CÁCH TƢ PHÁP

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên Ngành: Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự
Mã số: 60380104

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS VÕ THỊ KIM OANH

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015


LỜI CAM ĐOAN


Tơi cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn
khoa học của Tiến sĩ Võ Thị Kim Oanh.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và việc sử dụng kết quả
nghiên cứu của các cơng trình khoa học và quan điểm của các tác giả khác trong
luận văn này đều được giữ nguyên ý tưởng hoặc trích dẫn theo quy định..
Tác giả luận văn

Võ Hồng Phúc


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT

Cơ quan điều tra

HĐXX

Hội đồng xét xử

KSV

Kiểm sát viên

NBC


Người bào chữa

TAND

Tòa án nhân dân

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân


MỤC LỤC
Trang

LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ CẢI CÁCH TƢ PHÁP VÀ
XÉT HỎI TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ ......................................................... 6
1.1. Khái niệm chung về xét hỏi tại phiên tịa hình sự ........................................... 6
1.1.1. Định nghĩa, đặc điểm và vị trí, vai trị xét hỏi tại phiên tịa hình sự ..... 6
1.1.2. Ngun tắc xét hỏi tại phiên tịa hình sự.............................................. 10
1.1.3. Mối quan hệ giữa xét hỏi và một số thủ tục khác tại phiên tòa hình sự ..
........................................................................................................................ 13
1.1.4. Lịch sử hình thành và phát triển quy định pháp luật tố tụng hình sự về
xét hỏi tại phiên tịa hình sự ...................................................................................... 15
1.2. Cải cách tƣ pháp với vấn đề xét hỏi tại phiên tòa hình sự. .......................... 19
1.2.1. Khái quát chung về cải cách tư pháp ................................................... 19
1.2.2. Yêu cầu cải cách tư pháp đối với xét hỏi tại phiên tịa hình sự .......... .22

CHƢƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HIỆN HÀNH VỀ XÉT HỎI VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG… .................... 26

2.1. Quy định pháp luật hiện hành về chủ thể, phạm vi xét hỏi tại phiên tòa và
thực tiễn áp dụng ..................................................................................................... 26
2.2. Quy định pháp luật hiện hành về trình tự xét hỏi tại phiên tịa và thực tiễn
áp dụng ..................................................................................................................... 45
2.3. Quy định pháp luật hiện hành về nội dung xét hỏi tại phiên tòa và thực
tiễn áp dụng ............................................................................................................. 52
2.4. Quy định pháp luật hiện hành về cơng bố lời khai tại phiên tịa và thực tiễn
áp dụng ..................................................................................................................... 57
2.5. Quy định pháp luật hiện hành về xem xét vật chứng tại phiên tòa và thực
tiễn áp dụng ............................................................................................................. 59
2.6. Đánh giá chung ................................................................................................. 61

CHƢƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ XÉT HỎI TẠI
PHIÊN TÒA HÌNH SỰ THEO TINH THẦN CẢI CÁCH TƢ PHÁP. .... 63


3.1. Nhu cầu nâng cao chất lƣợng xét hỏi tại phiên tịa hình sự ........................ 63
3.2. Các giải pháp cụ thể ......................................................................................... 66
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về thủ tục xét hỏi ...... 66
3.2.2. Giải pháp khác .................................................................................... 72

KẾT LUẬN ........................................................................................... 78


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, cùng với chủ trương đổi mới kinh tế, đổi mới tổ
chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, cải cách hành chính, Đảng

và Nhà nước ta đã quan tâm đến vấn đề cải cách tư pháp. Ngày 02 tháng 01 năm
2002 Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 08-NQ/TW “Về một số nhiệm vụ trọng tâm
của công tác tư pháp trong thời gian tới” đã đánh dấu mốc quan trọng cho tiến
trình cải cách tư pháp của nước ta. Cải cách tư pháp trở thành một địi hỏi khơng thể
thiếu để xây dựng nhà nước pháp quyền. Đảng ta đã xác định cải cách tư pháp cần
thiết bắt đầu từ cải cách Tòa án và các thủ tục tố tụng.
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 5 năm 2005 của Bộ chính trị về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 xác định mục tiêu: “hoạt động tư pháp
mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao”.
Nghị quyết cũng đưa ra phương hướng trong thời gian tới là: “Đổi mới việc tổ chức
phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành
tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng đảm bảo tính cơng khai, dân chủ,
nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là
khâu đột phá của hoạt động tư pháp”. Thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự là khâu
trung tâm, quan trọng nhất của giai đoạn xét xử, hoàn thiện thủ tục này là một nội
dung của việc nâng cao chất lượng phiên tịa mang tính dân chủ, khách quan và
cơng bằng. Hiệu quả của việc xét hỏi ảnh hưởng rất lớn đến số phận của bị cáo và
có thể cả những người liên quan trong vụ án.
Tuy nhiên, pháp luật thực định về thủ tục xét hỏi cũng như thực tiễn áp dụng
bộc lộ nhiều bất cập, chưa đảm bảo được tính tranh tụng và dân chủ, việc hoàn thiện
thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự là mối quan tâm sâu sắc của các nhà nghiên cứu
lập pháp cũng như các chủ thể áp dụng pháp luật trong quá trình cải cách tư pháp.
Với tầm quan trọng của vấn đề cũng như đã qua một thời gian dài kể từ khi đặt ra
yêu cầu tiến hành cải cách tư pháp nên đây khơng cịn là vấn đề mới. Tuy nhiên,
đây vẫn là vấn đề cịn nhiều tranh luận vì những gì đã làm và đạt được cho thấy hiệu
quả cịn khá xa so với mục tiêu cải cách tư pháp đặt ra. Do vậy, tác giả chọn đề tài:
“Hoàn thiện thủ tục hỏi tại phiên tịa hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp”
để nghiên cứu là nhằm làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động xét



2
hỏi trong phiên tịa hình sự và đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng xét
hỏi tại phiên tịa hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong thời gian qua, đề tài liên quan đến thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự
đã được đề cập trong nhiều cơng trình nghiên cứu, cụ thể:
- Một số vấn đề cần hồn thiện trong bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về
hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự: Cơng trình tham dự hội nghị nghiên cứu
khoa học của sinh viên năm 2000, Trần Thị Hoa Hạnh, Hồng Thế Cường, Đại học
Luật Tp. Hồ Chí Minh, 2000.
- Hoạt động xét hỏi của kiểm sát viên trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận
văn thạc sỹ, Đặng Minh Phương, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, 2013;
- Thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm, Luận văn thạc sĩ, Đỗ Văn
Thinh, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, 2006;
- Tranh tụng tại phiên tịa hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam: Luận văn thạc sĩ luật học, Nguyễn Trương Tín, Đại học
Luật TP.Hồ Chí Minh, 2007.
Bên cạnh đó, vấn đề này cịn được đề cập trong các bài báo, bài viết như:
- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc xét hỏi và tranh luận của kiểm
sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự, Nguyễn Chí Dũng, Kiểm sát, 2014, Số 12,
tr.2-8;
- Qúa trình hình thành và phát triển thủ tục xét hỏi, tranh luận tại phiên tịa
hình sự sơ thẩm của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam qua các thời kỳ, Nguyễn
Ngọc Kiện, Kiểm sát, 2014, Số 11, tr.33-37;
- Lê Thị Thúy Nga, về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm, Tạp chí
luật học số 7/2008;
- Đinh Văn Quế, Những vấn đề lý luận và thực tiễn về việc xét hỏi của Kiểm
sát viên tại phiên tịa hình sự; Đinh Văn Quế, một số vấn đề về thủ tục xét hỏi tại
phiên tòa sơ thẩm hình sự theo BLTTHS 2003;
- Đổi mới thủ tục xét xử nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên Tịa

hình sự, Từ Văn Nhũ, Tịa án nhân dân, 2002.-Số 10.-Tr.04-08.


3
Ngồi ra cịn có những khóa luận tốt nghiệp, bài viết có liên quan đến thủ tục
xét hỏi được đăng trên các tạp chí khác. Tuy vậy, hiện nay vẫn chưa có cơng trình
nào nghiên cứu sâu, tồn diện với tư cách là một cơng trình khoa học độc lập.
3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ một số vấn đề lý luận, những bất cập về quy định pháp lý cũng như
thực tiễn liên quan đến thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự. Kết hợp với đó là
những quan điểm cá nhân và một số giải pháp nhằm hoàn thiện thủ tục xét hỏi tại
phiên tịa hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp. Nhất là hoàn thiện các quy định
về chủ thể xét hỏi, trình tự xét hỏi và đối tượng xét hỏi tại phiên tịa hình sự.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu những quy định của BLTTHS Việt Nam năm 2003 về thủ tục xét
hỏi và thực trạng hoạt động xét hỏi tại phiên tòa.
3.3 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn trong các yêu cầu cải cách tư pháp
của nghị quyết 08 – NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết 49 – NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ chính trị; những quy định của BLTTHS 2003 và thực tiễn áp
dụng thủ tục hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm và phúc thẩm; tìm hiểu một số tài liệu
liên quan về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự khác.
4. Nhiệm vụ và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1 Nhiệm vụ nghiên cứu: để đạt được mục đích nghiên cứu đã đề ra, tác giả
thực hiện những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, nghiên cứu một số vấn đề lý luận về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa
hình sự, các tài liệu về thủ tục xét hỏi như các văn bản pháp lý liên quan, các tài liệu
tham khảo như các bài nghiên cứu khoa học, luận văn, khóa luận và những bài viết
trên các tạp chí.

Thứ hai, nghiên cứu các quy định của BLTTHS hiện hành về thủ tục xét hỏi
tại phiên tịa hình sự; đồng thời đối chiếu thực tiễn áp dụng, thông qua đó phát hiện
những bất cập về kỹ thuật lập pháp cũng như những sai phạm của các chủ thể khi áp
dụng quy định pháp lý về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự, các yếu tố khác làm
hạn chế hiệu quả hoạt động xét hỏi.


4
Thứ ba, xác định yêu cầu cải cách tư pháp theo Nghị quyết 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 và Nghị quyết 49 – NQ/TW ngày 02/06/2005 và đánh giá tác động của
tinh thần cải cách tư pháp đến nhu cầu hoàn thiện thủ tục hỏi tại phiên tịa hình sự.
Từ những nghiên cứu, phân tích, đánh giá đó sẽ đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn
thiện quy định của pháp luật hiện hành về thủ tục xét hỏi và những cơ chế đảm bảo
nâng cao chất lượng xét hỏi tại phiên tòa hình sự.
4.2 Phương pháp nghiên cứu: Để hồn thành mục tiêu đã đề ra, tác giả kết
hợp nhiều phương pháp nghiên cứu, trong đó có sử dụng phương pháp duy vật biện
chứng của Chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp
luật, đường lối của Đảng và Nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, về chiến lược cải cách tư pháp trong thời gian tới. Đồng thời, tiến hành
dẫn chiếu, đối chiếu, phân tích, so sánh và đưa ra những đánh giá của cá nhân về
vấn đề trên cơ sở tham khảo các tài liệu liên quan.
5. Ý nghĩa của việc nghiên cứu
Xét xử là giai đoạn trung tâm của quá trình giải quyết vụ án. Xét hỏi lại là
thủ tục quan trọng nhất trong phiên tòa xét xử vụ án, là bước đánh giá toàn diện các
chứng cứ một cách công khai làm cơ sở để đi đến kết luận quyết định số phận bị
cáo. Ngoài ra, tiến trình cải cách tư pháp đặt ra yêu cầu đẩy nhanh việc hoàn thiện
các thủ tục tố tụng. Tác giả nghiên cứu đề tài này nhằm đưa ra một cái nhìn tổng
quan về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự về mặt lý luận; phân tích những bất cập
trong quy định pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng thủ tục xét hỏi tại phiên tòa
cần phải sửa đổi, từ đó đưa ra một số giải pháp hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả

xét hỏi tại phiên tòa.
Đồng thời, tác giả cũng mong muốn bài nghiên cứu có thể đóng góp thêm
nguồn tài liệu tham khảo liên quan đến vấn đề hoàn thiện thủ tục hỏi tại phiên tòa
theo tinh thần cải cách tư pháp.
6. Bố cục luận văn
Trên cơ sở mục đích nghiên cứu, ngồi mục lục, phần mở đầu, kết luận và
danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được bố cục thành 3 chương gồm:

CHƢƠNG 1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ CẢI CÁCH TƢ PHÁP
VÀ XÉT HỎI TẠI PHIÊN TỊA HÌNH SỰ.


5

CHƢƠNG 2. QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HIỆN HÀNH VỀ XÉT HỎI VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG.
CHƢƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ XÉT HỎI TẠI
PHIÊN TÒA THEO TINH THẦN CẢI CÁCH TƢ PHÁP.
3.1 Nhu cầu nâng cao chất lượng xét hỏi tại phiên tịa hình sự
3.2 Các giải pháp cụ thể.
3.2.1 Giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về xét hỏi.
3.2.2 Giải pháp khác.
7. Danh mục tài liệu tham khảo


6

CHƢƠNG 1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ CẢI CÁCH TƢ PHÁP
VÀ XÉT HỎI TẠI PHIÊN TỊA HÌNH SỰ
1.1 . Khái niệm chung về xét hỏi tại phiên tịa hình sự

1.1.1. Định nghĩa, đặc điểm và vị trí, vai trị xét hỏi tại phiên tịa hình sự
- Định nghĩa.
Dưới góc độ ngơn ngữ học, theo Từ điển tiếng Việt phổ thông, tại trang 1058
thì “xét” là tìm hiểu, căn nhắc để nhận biết, đánh giá, kết luận về cái gì đó;
Cịn “hỏi” là nói ra những điều mình muốn người ta cho mình biết với yêu
cầu trả lời 1.
“Thủ tục” là những việc cụ thể phải làm theo một trật tự qui định để tiến
hành một cơng việc có tính chất hình thức2.
Từ đó có thể hiểu, thủ tục xét hỏi là cách thức, trình tự để thực hiện việc tìm
hiểu, kiểm tra một vấn đề thông qua việc hỏi và trả lời giữa người hỏi và người
được hỏi.
Xét dƣới góc độ pháp lý, BLTTHS 2003 không đưa ra định nghĩa thế nào là
xét hỏi hay thủ tục xét hỏi mà chỉ qui định về trình tự, thủ tục, nội dung xét hỏi và
những hoạt động của các chủ thể liên quan. Qua nghiên cứu, các tác giả cũng đã
đưa ra một số khái niệm về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự ở nhiều khía cạnh
khác nhau.
Giáo trình luật TTHS Việt Nam của Trường Đại hoc Luật Hà Nội định nghĩa
“thủ tục xét hỏi tại phiên tòa được qui định trong BLTTHS nhằm xem xét công khai
những chứng cứ đã thu thập được ở giai đoạn điều tra và chứng cứ mới để chứng
minh vụ án”. Định nghĩa này mới chỉ đề cập được ở khía cạnh vai trị mà chưa thể
hiện được các đặc điểm quan trọng của thủ tục xét hỏi tại phiên tòa như chủ thể,
hoạt động.
Một định nghĩa khác, “xét hỏi” là thủ tục chính của phiên tịa sơ thẩm, trong
đó tịa án cùng các bên tranh tụng xem xét, kiểm tra chứng cứ của bên buộc tội, thu
thập trong hồ sơ vụ án cũng như các chứng cứ do bên bào chữa đề xuất được Tịa
án chấp nhận nhằm làm sáng tỏ các tình tiết, sự kiện khách quan của vụ án3. So với
định nghĩa trên thì ở quan điểm này tác giả tiếp cận được ở góc độ chủ thể nhưng
1

Viện ngơn ngữ học (2002), Từ điển tiếng Việt phổ thông, NXB Thành Phố Hồ Chí Minhtr.400.

Viện ngơn ngữ học (2002), Từ điển tiếng Việt phổ thơng, NXB Thành Phố Hồ Chí Minhtr.883.
3
Đinh Văn Quế (2004), “Một số vấn đề về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa sơ thẩm hình sự theo bộ luật Tố tụng
Hình sự năm 2003”, Tịa án nhân dân, (08), tr.3-10.
2


7
vẫn chưa là khái niệm đầy đủ khi chỉ nêu hoạt động kiểm tra chứng cứ, là một trong
nhiều hoạt động của thủ tục này; mặt khác, xét hỏi cũng là một thủ tục trong phiên
tịa phúc thẩm chứ khơng chỉ tồn tại ở phiên tòa sơ thẩm.
“Xét hỏi tại phiên tòa mà nhiều người quen gọi là “thẩm vấn”. Xét hỏi tại
phiên tòa là một phần (một giai đoạn) của quá trình xét xử một vụ án hình sự, trong
đó Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của
đương sự phải kiểm tra các chứng cứ, kết luận điều tra, bản cáo trạng một cách
cơng khai về những tình tiết của vụ án”4. Ở quan điểm này, tác giả đã đưa ra một
định nghĩa có phần đầy đủ hơn về vị trí của thủ tục xét hỏi, đó “là một phần (một
giai đoạn) của quá trình xét xử một vụ án hình sự”, chủ thể tham gia và hoạt động
của các chủ thể. Tuy nhiên, định nghĩa này vẫn chưa đánh giá được vai trò của thủ
tục xét hỏi, thiếu đối tượng bị xét hỏi cũng như chưa nêu bật được điểm đặc trưng
của thủ tục này là “hỏi” trực tiếp. Đồng thời, việc sử dụng thuật ngữ “một giai
đoạn” của tác giả trong quan điểm này là không phù hợp. Bởi vì, trong quá trình
giải quyết một vụ án hình sự chỉ bao gồm các giai đoạn luật định là khởi tố, điều tra,
truy tố và xét xử, cho nên thủ tục xét hỏi chỉ là một trong những hoạt động của giai
đoạn xét xử.
Các khái niệm đã đề cập ở trên có cách tiếp cận khác nhau nhưng đều nêu lên
được một hoặc một vài đặc điểm của thủ tục xét hỏi. Tuy nhiên, thật sự chưa có
khái niệm nào thể hiện được toàn diện các đặc điểm cơ bản của thủ tục xét hỏi. Qua
nghiên cứu, theo tác giả có thể tham khảo định nghĩa sau:
“Thủ tục xét hỏi là hoạt động trung tâm trong quá trình xét xử vụ án hình sự

và cũng là hoạt động quan trọng nhất để xác định sự thật vụ án. Trong đó, Hội
đồng xét xử, kiểm sát viên, người bào chữa và những người khác theo quy định của
pháp luật thực hiện bằng cách đặt câu hỏi trực tiếp cho bị cáo và những người
tham gia tố tụng; xem xét chứng cứ, kết luận điều tra, bản cáo trạng; xem xét hiện
trường xảy ra vụ án nhằm kiểm tra công khai tất cả tình tiết liên quan đến vụ án tại
phiên tịa”.
- Đặc điểm, mục đích xét hỏi tại phiên tịa hình sự.
Xét hỏi tại phiên tịa hình sự, trước hết đó là hoạt động tố tụng được thực
hiện bởi chủ thể tố tụng và theo thủ tục tố tụng hình sự. Hoạt động xét hỏi tại phiên
tịa hình sự do Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Hội thẩm, KSV, NBC, người bảo vệ
4

Đinh Văn Quế (2011), “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về việc xét hỏi của kiểm sát viên tại phiên tịa
hình sự”, Tạp chí Tịa án nhân dân, (08), tr.13-18.


8
quyền lợi của đương sự, người giám định thực hiện. Hoạt động xét hỏi để làm sáng
tỏ nội dung vụ án, để chứng minh tội phạm và hành vi phạm tội. Đây là hoạt động
đặc trưng được pháp luật tố tụng hình sự quy định, được tiến hành theo một trình tự
thủ tục chặt chẽ bởi các chủ thể tố tụng hình sự.
Hoạt động xét hỏi để làm sáng tỏ nội dung vụ án, để chứng minh tội phạm và
hành vi phạm tội nên nó là hoạt động điều tra cơng khai tại phiên tịa. Việc hỏi và
trả lời trực tiếp giữa các chủ thể tố tụng và người tham gia tố tụng được tiến hành
công khai, trực tiếp bằng lời nói. Mọi người tham gia phiên tịa đều có thể theo dõi
và nắm bắt được toàn bộ hoạt động điều tra này. Việc xét hỏi công khai là đặc điểm
quan trọng của thủ tục hỏi. Nó đảm bảo được nguyên tắc xét xử trực tiếp, liên tục
bằng lời nói của Hội đồng xét xử. Xét hỏi trực tiếp dưới sự chứng kiến của tất cả
những người có mặt tại phiên tòa nhằm đảm bảo cơ chế giám sát của nhân dân và
tăng tính khách quan của hoạt động xét hỏi. Đây có thể xem là cuộc “đối mặt” duy

nhất của tất cả các chủ thể có liên quan của vụ án, hướng đến cùng giải quyết một
vấn đề.
Hoạt động xét hỏi là một bước trong quá trình xét xử. Nó diễn ra sau phần
thủ tục phiên tịa và trước khi bước vào phần tranh luận công khai tại phiên tòa. Thủ
tục xét hỏi phải được tiến hành liên tục từ khi KSV bắt đầu đọc bản cáo trạng đến
khi HĐXX tuyên bố chấm dứt phần xét hỏi. Bước xét hỏi là một bước không thể
thiếu và cực kỳ quan trọng trong quá trình xét xử. Quá trình xét hỏi có thể bổ sung
thêm cho phần thủ tục về người tham gia tố tụng, phát sinh người làm chứng, người
có quyền, nghĩa vụ liên quan chưa được triệu tập. Và xét hỏi là bước chuẩn bị cho
bước quan trọng tiếp theo là tranh luận cơng khai tại phiên tịa để làm sáng tỏ nội
dung vụ án. Bước xét hỏi là bước tiền đề cho tranh luận và nghị án.
Chủ tọa phiên tòa và Hội thẩm tiến hành xét hỏi tất cả các vấn đề liên quan
để xác định sự thật vụ án. KSV tham gia xét hỏi để bảo vệ các quan điểm trong cáo
trạng, bao gồm việc hỏi cả tình tiết buộc tội và gỡ tội. NBC, người bảo vệ quyền lợi
của đương sự, người giám định là chủ thể tham gia phiên tòa với tư cách người
tham gia tố tụng và được quyền xét hỏi. NBC, người bảo vệ quyền lợi của đương sự
xét hỏi những nội dung của vụ án liên quan đến quyền lợi thân chủ mà mình nhận
bảo vệ; người giám định hỏi về những tình tiết liên quan đến vấn đề được yêu cầu
giám định. Mục đích chung cuối cùng là làm sáng tỏ nội dung vụ án, để chứng minh
tội phạm và hành vi phạm tội, tìm sự thật khách quan của vụ án.


9

- Vị trí, vai trị của thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự
Thứ nhất, thủ tục xét hỏi là một hình thức thực hiện quyền lực Nhà nước
trong hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm. Tại phiên tòa, Cơ quan tư pháp
đại diện quyền lực Nhà nước thực hiện hai chức năng là buộc tội và xét xử. Để hồn
thành chức năng của mình, KSV và HĐXX cùng thực hiện chứng minh tội phạm.
Việc chứng minh tội phạm được thực hiện qua nhiều hoạt động, trong đó thủ tục xét

hỏi là thủ tục trung tâm của quá trình chứng minh. Hỏi để đánh giá chứng cứ, hỏi để
xác định tội phạm, chứng minh tội phạm. Vị trí, vai trị của thủ tục này được nhìn
nhận, đánh giá dưới hai góc độ khác nhau:
Nhìn từ góc độ của hoạt động chứng minh, thủ tục xét hỏi cung cấp những
thông tin cần thiết về vụ án. Những thông tin này có thể là căn cứ để xác minh
chứng cứ, cũng có thể là chứng cứ trực tiếp cho việc chứng minh. Kết quả của việc
xét hỏi là cơ sở để các chủ thể tranh tụng xây dựng luận cứ trong việc tranh luận
nhằm xác định sự thật vụ án; đưa ra kết luận thuyết phục qua phân tích, so sánh,
đánh giá, kết luận và tranh luận phải dựa trên kết quả xét hỏi. Theo quy định của
pháp luật tố tụng hình sự hiện hành, nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc về ba chủ
thể là CQĐT, VKS, Tòa án. Tại phiên tòa, nghĩa vụ này là của VKS và Tòa án
nhưng xét về mặt khoa học, chứng minh tội phạm chỉ nên là chức năng của VKS,
chức năng của Tịa án là xét xử.
Nhìn từ góc độ chức năng xét xử thì thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự là
việc Tịa án phải làm sáng tỏ các tình tiết, sự kiện của vụ án để đưa ra kết luận cuối
cùng. Do đó, Tịa án phải xác định được đối tượng chứng minh: tình tiết, sự kiện
cần làm sáng tỏ thơng qua chứng cứ có tồn tại hay không tồn tại và phạm vi chứng
minh như lượng chứng cứ, phương tiện cần thu thập để làm rõ đối tượng chứng
minh. Nói cách khác là Tịa án kiểm tra tính chân thực của những tình tiết được nêu
trong bản cáo trạng và lời bào chữa (question of facts). Nội dung chủ yếu của thủ
tục hỏi là kiểm tra chứng cứ về tính khách quan, liên quan, hợp pháp. Bằng cách đó,
thủ tục xét hỏi xác định được đối tượng chứng minh và phạm vi chứng minh. Xét về
mặt lý luận hay thực tiễn thì đây là hai yếu tố đảm bảo việc xét xử khách quan và
toàn diện.
Như vậy, ở mỗi góc độ, thủ tục xét hỏi được hình dung khác nhau nhưng có
chung mục đích là làm rõ sự thật khách quan của vụ án, làm cơ sở giải quyết vụ án
chính xác, hợp lý.
Thứ hai, thủ tục xét hỏi là một phần độc lập, là hoạt động trung tâm trong
quá trình xét xử vụ án hình sự và cũng là hoạt động quan trọng nhất để xác định sự



10
thật vụ án. Hoạt động xét hỏi khơng chỉ có tại phiên tịa nhưng xét hỏi tại phiên tịa
chỉ có trong thủ tục sơ thẩm và phúc thẩm và ở mỗi phiên tịa, hoạt động xét hỏi có
vai trị khác nhau.
Tại phiên tòa sơ thẩm, thủ tục xét hỏi đã tập trung tồn diện các hoạt động để
kiểm tra cơng khai tất cả tình tiết liên quan đến vụ án cũng như chứng cứ đã thu
thập được và cả chứng cứ mới được đưa ra tại phiên tòa, kết luận điều tra, bản cáo
trạng,… để đưa ra bản án, quyết định giải quyết vụ án. Qua đó khẳng định trực tiếp
bị cáo phạm tội hay không phạm tội. Mặc dù việc xét hỏi dựa trên kết quả điều tra
nhưng kết quả điều tra phải được thẩm định tại giai đoạn này mới được thừa nhận
chính thức là chứng cứ của vụ án hay khơng. Kết quả của q trình xét hỏi là cơ sở
để thực hiện các thủ tục tố tụng tranh luận, nghị án và tuyên án sau đó. Vai trò của
thủ tục này được khẳng định khi BLTTHS 2003 dành riêng chương XX để quy định
về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa dù chưa thật sự đầy đủ và hợp lý.
Phiên tòa phúc thẩm tập trung vào tính hợp pháp, tính có căn cứ của bản án
sơ thẩm nên nội dung xét hỏi chủ yếu làm sáng tỏ phần bản án bị kháng cáo, kháng
nghị. Thêm nữa, quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về thủ tục hỏi tại
phiên tòa phúc thẩm còn rất sơ sài, chỉ duy nhất trong một điều luật: “Phiên tòa
phúc thẩm cũng tiến hành như phiên tòa sơ thẩm nhưng trước khi xét hỏi, một thành
viên của Hội đồng xét xử phải trình bày tóm tắt nội dung vụ án, quyết định của bản
án sơ thẩm, nội dung của kháng cáo hoặc kháng nghị”. Thủ tục xét hỏi chưa được
đánh giá đúng tầm trong cấp xét xử này.
1.1.2. Ngun tắc xét hỏi tại phiên tịa hình sự
- Ngun tắc xét hỏi công khai
Nguyên tắc xét hỏi công khai xuất phát từ nguyên tắc xét xử công khai quy
định tại Điều 18 BLTTHS 2003: “phiên tòa phải được tổ chức cơng khai, trừ
trường hợp xử kín nhưng cũng phải tuyên án công khai”. Nguyên tắc xét xử công
khai đã được ghi nhận tại Điều 67 Hiến pháp 1946, Điều 101 Hiến pháp 1959, Điều
133 Hiến pháp 1980, Điều 131 Hiến pháp 1992, Điều 103 Hiến pháp 2013, Điều 18

BLTTHS 2003. Việc ghi nhận nguyên tắc này trong “đạo luật mẹ” ngay từ khi
Hiến pháp đầu tiên được ban hành chứng tỏ các nhà lập pháp đã nhận thức được vai
trò rất quan trọng của nguyên tắc này đối với việc xét xử vụ án.
Ngun tắc cơng khai địi hỏi việc xét hỏi phải được tổ chức tại phiên tòa,
đảm bảo mọi người quan tâm có quyền được biết và tham dự. Thủ tục xét hỏi thực
hiện việc kiểm tra, đánh giá tính khách quan, liên quan và hợp pháp của chứng cứ.


11
Một trong những yếu tố để đảm tính thuyết phục của kết quả kiểm tra chính là sự
tham gia, chứng kiến trực tiếp của những người tham gia phiên tòa. Đây cũng là cơ
chế để bảo vệ quyền cho các chủ thể có lợi ích liên quan đến vụ án trong bối cảnh
quyền con người, quyền công dân trở thành mối quan tâm hàng đầu, đặc biệt trong
lĩnh vực chính trị.
Mặc dù nguyên tắc xét hỏi công khai không được ghi nhận trực tiếp trong
BLTTHS 2003 như nguyên tắc xét xử công khai nhưng tinh thần của nguyên tắc
này được thể hiện trong nhiều quy định của thủ tục xét hỏi tại phiên tòa.
Tại phiên tòa sơ thẩm, KSV đọc cáo trạng mở đầu thủ tục xét hỏi tại phiên
tòa hình sự sơ thẩm là một biểu hiện của tính cơng khai. KSV cơng bố cho mọi
người có mặt tại phiên tòa biết về nội dung vụ án. Riêng đối với bị cáo, bản cáo
trạng mà KSV đọc trước tòa cũng là bản cáo trạng mà bị cáo đã nhận nhưng khác
biệt ở chỗ việc đọc tại phiên tòa là thực hiện việc công khai buộc tội của KSV đối
với bị cáo. Đây là cơ sở để bị cáo đối chiếu với nội dung bản cáo trạng mà mình đã
nhận trước phiên tịa, nếu tồn tại sự khác biệt thì đó là căn cứ hỗn phiên tịa để đảm
bảo quyền bào chữa của bị cáo trừ trường hợp sự khác biệt chỉ nhằm làm rõ hơn nội
dung bản cáo trạng đã nhận.
Tại phiên tòa phúc thẩm, “trước khi xét hỏi, một thành viên của Hội đồng xét
xử phải trình bày tóm tắt nội dung vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm, nội dung
của kháng cáo hoặc kháng nghị”. Việc cơng khai này ngồi mục đích đảm bảo
quyền lợi của người bị kháng cáo, kháng nghị thì cịn giúp những người tham gia

phiên tòa dễ nắm bắt nội dung vụ án, diễn biến vấn đề, tạo mạch liên kết khi theo
dõi, suy nghĩ và đánh giá việc xét xử, kể cả Hội thẩm (nếu có – thực tế hầu như
khơng có Hội thẩm tham gia xét xử phúc thẩm) là chủ thể không bắt buộc nghiên
cứu hồ sơ vụ án trước phiên tòa.
Xét hỏi là sự đối đáp trực tiếp giữa người hỏi và người bị hỏi diễn ra cơng
khai tại phiên tịa với sự có mặt của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng
và các chủ thể khác tham dự phiên tòa. Đây là hoạt động kiểm tra chứng cứ tại
phiên tòa, xem xét tại chỗ chứng cứ, hiện trường vụ án cũng phải được thực hiện
bởi những người có chức năng theo luật định dưới sự chứng kiến của các chủ thể
liên quan. Như vậy, để tìm ra sự thật khách quan của vụ án, đảm bảo tính khách
quan và dân chủ thì thủ tục xét hỏi địi hỏi phải được thực hiện cơng khai.


12

- Nguyên tắc xét hỏi trực tiếp, bằng lời nói, liên tục
Cũng giống như nguyên tắc xét hỏi công khai, nguyên tắc xét hỏi trực tiếp,
bằng lời nói, liên tục không được ghi nhận trực tiếp trong bộ luật mà thể hiện thông
qua quy định xét hỏi các đối tượng bị hỏi và xem xét chứng cứ.
Xét hỏi trực tiếp
Xét hỏi trực tiếp là việc chủ thể xét hỏi tự mình thực hiện những hoạt động
mà pháp luật tố tụng hình sự quy định về chức năng, quyền hạn của mình khi tham
gia vào thủ tục xét hỏi. Các chủ thể xét hỏi phải tiến hành vấn đáp; xem xét, đánh
giá chứng cứ ngay tại phiên tòa; hoặc phải đến trực tiếp hiện trường để xem xét tại
chỗ chứ không chỉ căn cứ vào hồ sơ từ CQĐT, VKS.
Nguyên tắc xét hỏi trực tiếp được thực hiện qua việc hỏi và nghe ý kiến của
người bị hỏi. Muốn đảm bảo tính trực tiếp thì chủ thể xét hỏi là HĐXX và KSV bắt
buộc phải có mặt tại phiên tịa và những người được xét hỏi phải được triệu tập đến
phiên tòa (thuộc trường hợp luật định). NBC, người bảo vệ quyền lợi của đương sự
và các chủ thể bị hỏi có thể vắng mặt trong những trường hợp được phép nhưng

phải đảm bảo không ảnh hưởng đến việc xét xử.
Ý nghĩa của việc mở phiên tòa chỉ được bảo đảm khi nguyên tắc xét hỏi trực
tiếp được thực hiện nghiêm chỉnh. Nguyên tắc này cũng đảm bảo tính độc lập của
Tịa án khi xét xử vì Tịa án dựa vào kết quả các hoạt động tại phiên tịa và có quyền
xử khác với ý kiến của CQĐT, VKS. Sự vi phạm nguyên tắc này cũng là vi phạm
nguyên tắc xác định sự thật khách quan của vụ án và nguyên tắc đảm bảo quyền bào
chữa của bị cáo, tùy vào mức độ ảnh hưởng mà bản án có thể bị hủy tồn bộ hay
một phần.
Xét hỏi bằng lời nói
Rõ ràng thuật ngữ “xét hỏi” cũng đã nêu lên được hoạt động đặc trưng của
thủ tục này là nêu câu hỏi và trả lời giữa hai nhóm chủ thể. Do vậy, phương thức
thực hiện hoạt động này chỉ có thể bằng lời nói. Và “chỉ bằng lời nói người ta mới
trình bày chính xác những suy nghĩ và nhận xét của mình. Vì vậy, khơng thể xét xử
mà khơng nghe lời khai về các chứng cứ buộc tội, gỡ tội và yêu cầu của các người
có quyền lợi và nghĩa vụ được giải quyết trong vụ án”5.

5

Nguyễn Ngọc Anh (2004), Bình luận khoa học Bộ luật TTHS Việt Nam năm 2003, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, tr145.


13
Nội dung của xét hỏi bằng lời nói là các chủ thể có quyền hỏi để làm rõ
những tình tiết liên quan đến vụ án. Người được hỏi phải được trình bày tất cả nội
dung liên quan đến việc hỏi trừ trường hợp HĐXX xét thấy nội dung trả lời đã được
trình bày hoặc khơng cần thiết cho việc chứng minh vụ án thì có thể u cầu chủ thể
trả lời khơng tiếp tục nội dung đó nữa. Trường hợp người cần hỏi vắng mặt thì cơng
bố lời khai của họ tại cơ quan điều tra.
Xét hỏi liên tục

Xét hỏi liên tục có nghĩa từ khi bắt đầu thủ tục này bằng việc KSV đọc bản
cáo trạng cho đến khi mọi vấn đề vụ án được làm sáng tỏ thông qua việc hỏi và xem
xét chứng cứ phải diễn ra tiếp nối nhau, không được gián đoạn. Xét hỏi phải liên tục
trừ thời gian nghỉ vì lý do cần thiết được luật cho phép.
Việc xét hỏi diễn ra liên tục sẽ giúp HĐXX tập trung tư tưởng để hỏi và liên
kết các kết quả được hỏi, kết luận vụ án đảm bảo tính lơ-gíc; người tham gia phiên
tịa dễ theo dõi, có cái nhìn tồn diện về vụ án. Đồng thời tính liên tục được đặt ra
nhằm giải quyết dứt điểm vụ án, tiết kiệm thời gian, góp phần giảm tồn đọng án. Để
đảm bảo tính liên tục thì chủ thể hỏi và bị hỏi phải có mặt liên tục tại phiên tòa từ
khi bắt đầu đến khi kết thúc, riêng Thẩm phán và Hội thẩm luôn cần những người
dự khuyết và họ cũng phải có mặt tại phiên tịa từ đầu.
Nguyên tắc mang tính chất nền tảng, định hướng cho nên chỉ khi chấp hành
nghiêm chỉnh nguyên tắc đặt ra cho hoạt động thì xét hỏi mới khơng vi phạm pháp
luật và đạt được mục đích cuối cùng là chân lý khách quan.
1.1.3. Mối quan hệ giữa xét hỏi và một số thủ tục khác tại phiên tịa hình sự
- Mối quan hệ giữa thủ tục xét hỏi và thủ tục bắt đầu phiên tịa
Phiên tịa hình sự là hoạt động trung tâm của quá trình giải quyết một vụ án,
bao gồm một hệ thống các thủ tục độc lập nhưng có mối liên hệ chặt chẽ: thủ tục bắt
đầu phiên tòa, thủ tục xét hỏi tại phiên tòa, tranh luận tại phiên tòa, nghị án và tuyên
án. Các thủ tục của phiên tịa diễn ra theo một trình tự, trong sự hỗ trợ lẫn nhau
nhằm giải quyết vụ án một cách hiệu quả. Thủ tục xét hỏi lại là thủ tục rất quan
trọng trong phiên tòa xét xử, mang tính chất quyết định trong việc xác định sự thật
khách quan của vụ án. Xét hỏi vừa tiếp nối thủ tục bắt đầu phiên tòa, vừa là tiền đề
cho những thủ tục sau đó.


14
Thủ tục bắt đầu phiên tòa là bước khởi động phiên tòa, chuẩn bị những điều
kiện cần thiết nhằm đảm bảo cho việc xét xử diễn ra đúng đắn, khách quan. Thực
hiện quy định về thủ tục bắt đầu phiên tịa để xác định sự có mặt của những người

tham gia tố tụng qua sự kiểm tra của thư ký Tòa án. Nội quy phiên tòa được phổ
biến là cơ sở đảm bảo trật tự phiên tòa. Tại thủ tục này, Thẩm phán chủ tọa phiên
tịa kiểm tra sự có mặt của các đương sự khác ngoài bị cáo, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự, người có quyền và nghĩa vụ liên quan; kiểm tra căn cước những người
được triệu tập. Đặc biệt là việc giải thích quyền, nghĩa vụ tố tụng của những người
tham gia phiên tòa, kiểm tra việc nhận bản cáo trạng của bị cáo. Nếu không đảm
bảo những hoạt động này không những vi phạm thủ tục tố tụng mà còn vi phạm
quyền con người.
Như trên đã đề cập, thủ tục bắt đầu phiên tòa chuẩn bị những điều kiện cần
thiết để phiên tòa được diễn ra mà bước tiếp theo chính là thủ tục xét hỏi. Do đó, bắt
đầu phiên tịa là cơ sở cho thủ tục xét hỏi, nếu xảy ra những căn cứ để hỗn phiên
tịa ngay ở bước đầu thì thủ tục xét hỏi tất nhiên cũng không được diễn ra. Ngược
lại, thủ tục xét hỏi lại bổ sung cho thủ tục bắt đầu phiên tòa. Nếu ở phần bắt đầu,
chưa có hoặc đã có yêu cầu của các chủ thể tham gia phiên tòa về triệu tập thêm
người làm chứng hoặc đưa thêm tài liệu, vật chứng ra xem xét thì tại bước hỏi, các
chủ thể này có quyền đưa ra hoặc tiếp tục đưa ra yêu cầu này.
- Mối quan hệ giữa thủ tục xét hỏi và thủ tục tranh luận tại phiên tòa
Xét hỏi và tranh luận là hai thủ tục tố tụng độc lập trong sự hỗ trợ lẫn nhau.
Tính độc lập thể hiện ở nội dung, nhiệm vụ sẽ giải quyết, phạm vi chủ thể cũng như
cách thức tham gia,…Tranh luận là một thủ tục tố tụng nối tiếp thủ tục xét hỏi,
nghĩa là chỉ khi nào chủ tọa phiên tòa thấy các chứng cứ của vụ án đã được kiểm
tra, xem xét đầy đủ thì mới chuyển sang thủ tục tranh luận. Đó là lý do vì sao khơng
nhập hai thủ tục thành một dù giữa chúng có mối quan hệ hữu cơ với nhau.
Mọi vấn đề thuộc về xác định lời khai, tài liệu có phải là chứng cứ của vụ án
hay khơng, xác định tính hợp pháp và có căn cứ của chứng cứ đều được thực hiện
trong thủ tục xét hỏi. Thông qua việc đặt câu hỏi và trả lời trực tiếp của chủ thể hỏi
và người bị hỏi, sự thật khách quan của vụ án sẽ được làm sáng tỏ. Hoạt động tranh
luận là đánh giá về tình trạng pháp lý của các tình tiết, chứng cứ được xác định ở
bước hỏi thông qua việc hai bên đối trọng đưa ra lý lẽ, lập luận để chứng minh cho
ý kiến của mình là đúng. Xét hỏi là tiền đề cho tranh luận vì kết quả của xét hỏi là

cơ sở để bên buộc tội và bên bào chữa xây dựng những luận cứ cho việc tranh luận.


15
Xét hỏi khoa học, đầy đủ, khách quan sẽ góp phần cho tranh luận hiệu quả. Trong
mối quan hệ tương quan này, tranh luận sẽ giúp cho những tình tiết khi hỏi được
làm sáng tỏ, thuyết phục. Nếu thông qua tranh luận thấy xét hỏi cịn thiếu sót thì bổ
sung hoặc nếu sau khi tranh luận mà phát hiện những vấn đề chưa được hỏi hoặc có
hỏi nhưng chưa làm rõ thì HĐXX sẽ quyết định quay lại phần hỏi.
- Mối quan hệ giữa thủ tục xét hỏi và thủ tục nghị án, tuyên án
Sau khi kết thúc phần tranh luận sẽ là thủ tục nghị án và tuyên án. Nghị án là
việc HĐXX thảo luận và thông qua bản án tại phòng nghị án trên cơ sở biểu quyết
theo đa số từng vấn đề một để giải quyết vụ án. Nếu xét thấy cịn những tình tiết
chưa được xét hỏi hoặc xét hỏi chưa đầy đủ thì HĐXX quyết định trở lại việc xét
hỏi và sau đó tranh luận lại, nghị án lại.
Kết quả của xét hỏi là cơ sở để nghị án và thông qua nghị án sẽ quyết định
giá trị chứng minh của chứng cứ được xem xét trong thủ tục xét hỏi. Khi nghị án chỉ
được căn cứ vào các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa và
những người tham gia tố tụng khác tại phiên tịa. Thơng thường bản án do Thẩm
phán chủ tọa phiên tòa soạn thảo nhưng phải được HĐXX thảo luận và quyết định
từng nội dung đã được làm rõ tại phần xét hỏi và phần tranh luận. Một bản án, quyết
định khách quan và thuyết phục chỉ khi HĐXX nhận thức đúng đắn về tất cả các
tình tiết liên quan đến vụ án đã được kiểm tra cơng khai tại phiên tịa, trước sự
chứng kiến của tất cả các bên liên quan.
1.1.4. Lịch sử hình thành và phát triển quy định pháp luật tố tụng hình sự về
thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự
Pháp luật tố tụng hình sự nước ta hình thành và phát triển gắn liền với lịch sử
phát triển đất nước. Sự thay đổi của các giai đoạn cách mạng là cơ sở chuyền đổi
chính sách pháp luật. Tuy nhiên, Luật TTHS phát triển thành một ngành luật độc lập
và hoàn thiện được ghi nhận kể từ sau Cách mạng Tháng 8 năm 1945. Do vậy, lịch

sử phát triển thủ tục xét hỏi thay đổi theo pháp luật tố tụng hình sự ở mỗi thời kỳ.
- Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thủ tục xét hỏi từ 1945 đến trước
khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988.
Trước thời điểm năm 1988 – thời điểm BLTTHS Việt Nam đầu tiên được
ban hành, thủ tục xét hỏi được quy định rải rác tại các Sắc lệnh, Nghị định, Thông
tư, Công văn.


16
Sau khi Cách mạng Tháng 8 thành công, bộ máy tư pháp được tổ chức lại
trên cơ sở quy định của một số văn bản pháp lý mới. Các sắc lệnh lần lượt được ban
hành để đáp ứng yêu cầu của hoạt động xét xử tội phạm giải quyết hậu quả chiến
tranh và thích ứng trong tình hình mới: Sắc lệnh số 33C ngày 13/9/1945 về việc
thành lập Tòa án quân sự, sau đó được bổ sung bằng Sắc lệnh 21 ngày 14/02/1946,
Sắc lệnh số 46 ngày 10/10/1945 về tổ chức đoàn thể luật sư, Sắc lệnh 13 ngày
24/01/1946, Sắc lệnh số 69/SL ngày 18/6/1949 được cụ thể hóa bằng Nghị định số
01/NĐ ngày 12-01-1950 của Bộ Tư Pháp về việc mở rộng quyền bào chữa. Các sắc
lệnh là cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động xét xử nhưng qua thời gian áp dụng
thì khơng cịn phù hợp với tình hình phát triển dân chủ, đặt ra yêu cầu cần có những
cải cách nhất định về thủ tục tư pháp. Sắc lệnh số 85 ngày 22/5/1950 đưa ra mục
tiêu dân chủ hơn bộ máy tư pháp, đơn giản và hợp lý hóa thủ tục tố tụng. Theo đó
để thể hiện rõ nét tính dân chủ, Sắc lệnh đổi “Tòa án thường” thành “Tòa án nhân
dân”. Thủ tục xét hỏi còn được thể hiện trong các văn bản liên quan đến quyền bào
chữa của bị can do hội nghị tư pháp thông qua 20/06/1956. Thông tư 22-HCTP
ngày 18/12/1957 của Bộ Tư pháp trả lời một số điểm về quyền bào chữa.
Sau kháng chiến chống Pháp thắng lợi, miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Năm 1958, Quốc hội quyết định thành lập Tòa án nhân dân tối cao và Tịa án địa
phương, Viện cơng tố trung ương và Viện công tố các cấp. Năm 1959, Hiến pháp
mới được ban hành cùng với một loạt các luật thể chế hóa quy định của Hiến pháp.
Luật tổ chức TAND và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 1960 ban hành cũng

trên cơ sở Hiến pháp này. Ở miền Nam, sau giải phóng, chính phủ cách mạng lâm
thời cộng hịa miền Nam Việt Nam ban hành sắc lệnh 01-SL/67 ngày 15/3/1976 về
tổ chức TAND. Khi đất nước thống nhất thì hệ thống TAND và VKSND hoạt động
theo Luật tổ chức TAND và Luật tổ chức VKSND 1960. Giai đoạn này, các thủ tục
tố tụng được cụ thể tại Bản hướng dẫn trình tự sơ thẩm về hình sự, kèm theo
TT16-TATC ngày 17/9/1974 của Tịa án nhân dân tối cao. Sau đó, Hiến pháp 1980
ra đời là cơ sở cho Luật tổ chức TAND và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
1981 được ban hành.
Thủ tục xét hỏi trong giai đoạn này được tiến hành theo trình tự: HĐXX hỏi
trước, sau đó đến KSV, NBC, nguyên đơn dân sự. Thủ tục xét hỏi được bắt đầu
bằng việc công bố bản cáo trạng. Tuy nhiên, theo Bản hướng dẫn KSV tham gia
phiên tịa khơng cơng bố mà Chủ tọa phiên tịa u cầu Thư ký đọc bản cáo trạng.
Việc xét hỏi bắt đầu từ hỏi bị cáo, người bị hại, người làm chứng. Tuy nhiên, việc


17
xét hỏi do HĐXX hỏi chính, chủ yếu là chủ tọa phiên tịa thực hiện. Trong q trình
xét hỏi, “HĐXX phải lắng nghe những lời khai của bị cáo nhưng chủ tọa phiên tòa
phải kịp thời căn cứ vào những chứng cứ và lý lẽ vững chắc, vạch ra những điều mà
bị cáo khai không đúng, nhưng cần phải tránh việc tranh cãi tay đôi với bị cáo”.
KSV chỉ hỏi lúc cần thiết “sau khi Hội đồng xét xử hỏi xong một việc, thì chủ tọa
phiên tịa cần hỏi đại diện Viện kiểm sát và người bào chữa có hỏi thêm gì khơng”.
Hoặc trường hợp bị cáo quanh co chối cãi thì “nên yêu cầu Viện kiểm sát nhân dân
phát biểu thêm về vấn đề nào bị cáo còn chối cãi”6. Nói chung, VKS tham gia xét
hỏi một cách thụ động.
Như vậy, TTHS nói chung và thủ tục hỏi tại phiên tòa chưa được xây dựng
thành văn bản thống nhất mà còn quy định rải rác trong nhiều văn bản. Nội dung
chưa tồn diện, có phần khơng đảm bảo tính khoa học, chẳng hạn Thư ký là người
đọc cáo trạng.
Tuy nhiên, trong điều kiện lịch sử của giai đoạn, quá trình phát triển trên

cũng đã cho thấy sự quan tâm, nỗ lực rất lớn của Đảng, Nhà nước, các nhà lập pháp.
- Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thủ tục xét hỏi từ 1988 đến trước
khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
Cùng với sự phát triển của pháp luật nói chung, với sự tiếp nhận những thành
tựu, ưu điểm trong pháp luật TTHS của một số nước tiên tiến trên thế giới, đánh dấu
bằng việc mở cửa hội nhập năm 1986, pháp luật TTHS Việt Nam có nhiều chuyển
biến tích cực. BLTTHS 1988 được thông qua tại kỳ họp thứ ba, Quốc hội khóa VIII
là dấu mốc quan trọng lần đầu tiên thống nhất các quy định TTHS trong một văn
bản pháp lý cao – Luật. BLTTHS 1988 đã đưa ra các quy định về trình tự, thủ tục
tiến hành các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự tạo
ra cơ chế pháp lý nhất quán và hiệu quả để giải quyết vụ án hình sự. Đồng thời với
việc kế thừa các nguyên tắc tố tụng truyền thống trong Hiến pháp 1946, Hiến pháp
1959, Hiến pháp 1980, các Luật tổ chức TAND và Luật tổ chức VKSND năm 1960,
năm 1981, Bộ luật này có nhiều quy định tiến bộ, điển hình là có nhiều nguyên tắc
mới được ghi nhận như nguyên tắc không ai có thể bị coi là có tội nếu chưa có bản
án kết tội đã có hiệu lực của Tịa án (Điều 10), nguyên tắc xác định sự thật của vụ
án (Điều 11), nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo (Điều 12),

6

Tòa án nhân dân tối cao (1976), Tập hệ thống hóa về luật tố tụng hình sự, Hà Nội.


18
ngun tắc đảm bảo quyền bình đẳng trước Tịa án (Điều 20) và các quy định đảm
bảo quyền của các chủ thể.
BLTTHS 1988 đã dành chương XIX, từ Điều 180 đến Điều 190 để quy định
về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa. Theo đó, tại phiên tịa sơ thẩm, người hỏi bao gồm
Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Hội thẩm, KSV, NBC, người giám định. Thủ tục xét
hỏi được tiến hành theo trình tự: HĐXX vẫn là người hỏi chính, sau đó KSV, NBC

hỏi phụ (Khoản 2 Điều 181). Trong trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng,
phức tạp thì HĐXX có thể gồm hai Thẩm phán nhưng theo quy định về chủ thể hỏi
thì chỉ đề cập đến chủ tọa phiên tịa, vậy Thẩm phán khơng phải chủ tọa phiên tịa
có được hỏi khơng? Thêm nữa, quyền hỏi của người bảo vệ quyền và lợi ích của
đương sự cũng chưa được ghi nhận. Bộ luật khơng có quy định cụ thể riêng cho
phiên tòa phúc thẩm mà nêu chung chung rằng “được tiến hành như phiên tòa sơ
thẩm” (Điều 219 BLTTHS 1988). Kết hợp với quy định tại Điều 217 có thể xác
định chủ thể xét hỏi trong phiên tòa phúc thẩm là Thẩm phán chủ tọa phiên tịa,
KSV, Hội thẩm (nếu có), NBC, NGĐ (nếu được triệu tập). Riêng Thẩm phán khơng
phải chủ tọa phiên tịa, như đã đề cập ở trên về phiên tòa sơ thẩm khơng thể xác
định họ có quyền hỏi hay khơng.
Các hoạt động của thủ tục xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm bao gồm công bố cáo
trạng, xác định nội dung và thứ tự xét hỏi, hỏi, công bố lời khai tại cơ quan điều tra,
xem xét và kiểm tra chứng cứ. Chủ thể đọc cáo trạng bắt đầu thủ tục xét hỏi là
KSV, khơng phải là thư ký Tịa án như giai đoạn trước 1988. Rõ ràng có sự hợp lý
hơn vì đọc bản cáo trạng tại phiên tịa là sự công khai buộc tội bị cáo, chức năng
này chỉ có thể là của bên buộc tội thực hiện mà đại diện là KSV. Trong thủ tục phúc
thẩm, hoạt động xét hỏi quy định vẫn sơ sài “Phiên tòa phúc thẩm cũng tiến hành
như phiên tòa sơ thẩm nhưng trước khi xét hỏi, một thành viên của Hội đồng xét xử
phải trình bày tóm tắt nội dung vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm và nội dung
của kháng cáo hoặc kháng nghị” (Điều 219 BLTTHS 1988).
Như vậy, BLTTHS 1988 đã có nhiều quy định về thủ tục xét hỏi như chủ thể,
nội dung, trình tự phục vụ cho hoạt động xét xử. Tuy nhiên, xét về tổng thể thì các
quy định chưa đầy đủ và có nhiều điểm chưa hợp lý.
BLTTHS 1988 qua áp dụng thực tiễn bộc lộ nhiều bất cập nên được sửa đổi
lần đầu tiên năm 1990. Ngày 22/12/1992, Quốc hội ban hành luật bổ sung, sửa đổi
một số điều của BLTTHS dựa trên tinh thần của Hiến pháp 1992. Thể chế hóa Hiến
pháp 1992, một số luật được ban hành gần đó: Luật tổ chức TAND 1992; Luật tổ



19

chức VKSND 1992; Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm 1993; Pháp lệnh về KSV
1993; Pháp lệnh về Tòa án quân sự 1993; Pháp lệnh về viện kiểm sát quân sự 1993.
Năm 2000, lần thứ ba BLTTHS 1988 được sửa đổi, bổ sung nhiều quy định nhưng
về thủ tục xét hỏi nhìn chung khơng thay đổi.
BLTTHS 1988 được ban hành và qua ba lần sửa đổi, bổ sung là cơ sở pháp
lý quan trọng cho hoạt động giải quyết vụ án hình sự nhưng qua thực tiễn áp dụng
bộc lộ nhiều bất cập đòi hỏi phải thay đổi cho phù hợp với tinh thần cải cách tư
pháp của Nghị quyết 08 – NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị và đó là lý do
BLTTHS 2003 ra đời.
1.2. Cải cách tƣ pháp với vấn đề xét hỏi tại phiên tòa
1.2.1. Khái quát chung về cải cách tư pháp
Thuật ngữ “cải cách tư pháp” là một phạm trù chính trị - pháp lý chưa được
khái niệm về mặt lý luận. Theo TSKH, phó giáo sư Lê Văn Cảm thì “cải cách tư
pháp” được định nghĩa theo hai nghĩa rộng và hẹp.
Theo nghĩa hẹp (bình diện hẹp) thì cải cách tư pháp là việc đổi mới chỉ có hệ
thống cũng như hoạt động thực tiễn của Tòa án và đội ngũ Thẩm phán, đồng thời
hồn thiện các quy định pháp luật có liên quan nhằm đạt được kết quả cuối cùng với
tính chất là các chế định pháp lý và các giá trị tinh thần cao quý nhất của nền văn
minh nhân loại trong nhà nước pháp quyền.
Nếu theo nghĩa rộng (bình diện rộng) thì cải cách tư pháp là việc đổi mới
tồn bộ hệ thống Tịa án, hệ thống các cơ quan bảo vệ pháp luật và hệ thống các cơ
quan bổ trợ tư pháp, cũng như hoạt động thực tiễn và đội ngũ cán bộ của ba hệ
thống các cơ quan này, đồng thời hoàn thiện các quy định pháp luật có liên quan
nhằm đạt được kết quả cuối cùng với tính chất là các chế định pháp lý và các giá trị
tinh thần cao quý nhất của nền văn minh nhân loại trong nhà nước pháp quyền.
Phạm trù “cải cách tư pháp” được đề cập trong Nghị quyết 49/NQ-TW của Bộ
Chính trị chính là cải cách tư pháp theo nghĩa rộng này7.
Cải cách tư pháp có các đặc điểm sau:

- Cải cách tư pháp là một khâu của cải cách bộ máy nhà nước. Cơ quan Tòa
án, hệ thống các cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án hình sự và hệ
7

Lê Văn Cảm (2009), Hệ thống tư pháp hình sự trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền, Nxb Đại
học quốc gia Hà Nội, tr75.


×