Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

BỐI CẢNH ĐẠI DỊCH COVID 19 VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÁC NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM VÀ CÁC BIỆN PHÁP ỨNG PHÓ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.97 KB, 23 trang )

BÀI THẢO LUẬN NHĨM
MƠN: KINH TẾ VĨ MƠ NÂNG CAO
ĐỀ TÀI: BỐI CẢNH ĐẠI DỊCH COVID 19 VÀ TÁC ĐỘNG CỦA
NÓ ĐẾN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÁC NGÂN HÀNG
TẠI VIỆT NAM VÀ CÁC BIỆN PHÁP ỨNG PHÓ.


LỜI MỞ ĐẦU
Đại dịch COVID-19 đang càn quét khốc liệt trên phạm vi toàn thế giới, gây nhiều tác
động tiêu cực chưa từng có tiền lệ lên nền kinh tế thế giới và Việt Nam. Đại dịch gây ảnh
hưởng không nhỏ đến nhiều lĩnh vực như: du lich, hàng không, dịch vụ khách sạn…và
ngân hàng cũng không phải ngoại lệ. Sức khỏe của các ngân hàng thương mại (NHTM)
phụ thuộc rất lớn vào sức khỏe của doanh nói riêng và nền kinh tế nói chung, vậy nên khi
các doanh nghiệp và nền kinh tế bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 thì các NHTM cũng bị
ảnh hưởng trực tiếp nhất; đặc biệt, khi mà hoạt động tín dụng vẫn chiếm tỷ trọng lớn
trong doanh thu hoạt động của các NHTM. Do đó, các NHTM cần phải phân tích, đánh
giá được những thách thức và cơ hội để có các giải pháp ứng phó kịp thời nhằm giảm
thiểu nhất rủi ro trong đại dịch này.


BỐI CẢNH CỦA ĐẠI DỊCH COVID VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN
HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM
I.

Bối cảnh của đại dịch Covid-19
1. Thực trạng kinh tế toàn cầu trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19
Trong những tháng đầu tiên của dịch bệnh COVID-19, các nhà phân tích chính sách hy
vọng vào sự phục hồi hình chữ V, theo đó dịch bệnh COVID-19 có thể được giải quyết,
cho phép hoạt động kinh tế khơi phục trở lại nhanh chóng. Hiện nay, khi các nước trên
thế giới đối mặt với làn sóng lây nhiễm mới và dự tính khả năng phong tỏa mới, nhiều
nhà kinh tế cho rằng tình hình sẽ tồi tệ thêm trước khi trở nên tốt hơn. Cho dù các nước


có thể tiến đến bãi bỏ lệnh phong tỏa, nhưng nếu khơng có giải pháp mạnh đối với dịch
bệnh, như phát triển thành công một loại vaccine trong thời gian tới, dịch bệnh sẽ tiếp tục
khiến các nền kinh tế trì trệ, khi các doanh nghiệp đóng cửa, người lao động mất việc làm
và các ngân hàng đối mặt với các món nợ xấu tăng lên. Khủng hoảng kinh tế do dịch
bệnh COVID-19 gây ra phần lớn là do sự suy giảm nhu cầu, khi khơng có nhiều người
tiêu dùng mua hàng hóa và dịch vụ. Sự suy giảm này thể hiện rõ ở một số ngành và lĩnh
vực bị ảnh hưởng nặng nề, như vận tải và du lịch. Nhằm ngăn chặn sự lây lan của dịch
bệnh COVID-19, nhiều nước đã hạn chế sự lưu thông trong nước cũng như mở cửa biên
giới theo đường hàng không. Sự suy giảm nhu cầu tiêu dùng này khiến ngành hàng
không bị ảnh hưởng nặng nề. Nhiều hãng hàng khơng phải sa thải nhân cơng để cắt giảm
chi phí. Các ngành công nghiệp khác cũng chịu sự tác động tương tự, như sự suy giảm
nhu cầu dầu mỏ và sản xuất ô tô. Do các công ty phải cắt giảm nhân sự để bù đắp cho
khoản doanh thu bị sụt giảm nên sẽ tạo ra một vịng xốy suy giảm kinh tế, khi những
người lao động rơi vào tình trạng thất nghiệp, khơng có khả năng tài chính để duy trì
cuộc sống, thậm chí có khả năng rớt xuống dưới chuẩn nghèo. Ví dụ trong lĩnh vực bán
lẻ, tỷ lệ thất nghiệp tăng lên do các cửa hàng phải đóng cửa, chuyển sang bán hàng trên
mạng. Đây là một nguyên nhân khiến các nhà kinh tế dự báo dịch bệnh COVID-19 sẽ dẫn
suy thối tồn cầu đến quy mơ “Đại suy thoái”.


Theo Ngân hàng đầu tư Mỹ JPMorgan Chase, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) toàn cầu đã
giảm 15,6% trong 6 tháng đầu năm 2020, lớn gấp 4 lần so với năm 2008. Mặc dù suy
giảm đã được phục hồi, nhưng IMF dự báo sự tăng trưởng của nền kinh tế thế giới sẽ
giảm khoảng 4,9% trong năm 2020, kể cả khi các chính phủ bắt đầu đưa ra các chương
trình hỗ trợ. GDP ở khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) và Anh được dự báo
giảm khoảng 10,2% trong năm 2020, trong khi nền kinh tế Mỹ giảm khoảng 8% (2). Nếu
giai đoạn đầu của cuộc khủng hoảng dịch bệnh COVID-19 đã lắng xuống do những biện
pháp đóng cửa biên giới, thì trong những tháng tới có thể khó khăn đối với các ngành
công nghiệp như vận tải, du lịch, giải trí, bán lẻ do những hạn chế của các chính phủ.
Nhiều chuyên gia ở Ngân hàng Anh và Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) cho rằng,

sản lượng tồn cầu sẽ khơng thể hồi phục như giai đoạn trước khủng hoảng cho đến cuối
năm 2021 và nếu tiếp tục có một làn sóng lớn lan rộng virus SARS Cov-2 vào mùa đơng
này, thì tất cả những thành quả của sự phát triển đều có khả năng tiêu tan.
Đối với những nước mà du lịch là một nguồn thu nhập then chốt, sự suy giảm của nhu
cầu dịch vụ đã ảnh hưởng đáng kể đến nền kinh tế. Điều đáng nói là trong những tháng
tiếp theo sẽ tác động lớn đến các doanh nghiệp nhỏ khi các chương trình hỗ trợ của các
chính phủ có thể chấm dứt. Tỷ lệ phá sản có thể tăng lên gấp 3 lần, lên đến 12% trong
năm 2020 từ mức trung bình 4% của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên thế giới trước đại
dịch COVID-19(3).
Các nhà kinh tế lo ngại rằng, các công ty lớn sẽ thông báo sa thải nhân công, thậm chí
trong khi chính sách cho nghỉ phép và các hình thức hỗ trợ khác của các chính phủ vẫn
đang được thực hiện. Số lượng nhân viên bị sa thải có thể bao gồm cả những cơng nhân
“cổ cồn trắng” có học vấn cao. Hiện tại, các cơng ty đa quốc gia đang đánh giá lại nhu
cầu tuyển nhân viên dài hạn sau đại dịch COVID-19, tạo ra một thời kỳ không chắc chắn
và u ám kéo dài. Không chỉ vậy, thế giới có thể sẽ bị tấn cơng bởi những làn sóng thất
nghiệp khác, do sự phong tỏa, những thay đổi chiến lược và sa thải nhân công, buộc các
công ty phải giảm quy mô hoặc không tuyển dụng nhân công mới.

2. Bối cảnh của đại dịch COVID19 tại Việt Nam:


Trên mặt trận ứng phó với COVID-19, thành cơng của Việt Nam được coi như một
minh chứng điển hình về cách một quốc gia đang phát triển có thể chống lại đại dịch, mà
Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) gọi là "bài học ý nghĩa với các nước đang phát triển khác". Tổ
chức Y tế thế giới (WHO) đã đề cao cách thức Việt Nam ứng phó với COVID-19 trong
đợt dịch đầu tiên cũng như đợt tái bùng phát ở Đà Nẵng và kêu gọi các nước khác tham
khảo những biện pháp mà Việt Nam áp dụng. Truyền thống quốc tế đánh giá Việt Nam là
“hình mẫu”, là “tấm gương” trong cuộc chiến khó khăn chống lại đại dịch nguy hiểm,
xuất phát từ thực tế Việt Nam được coi là quốc gia rất dễ bị tổn thương bởi có đường biên
giới dài và giao thương rộng rãi với "tâm dịch" Trung Quốc, trong khi có mật độ dân cư

đơng đúc và cơ sở hạ tầng y tế, nguồn lực còn hạn chế. Bởi vậy mà thành công của Việt
Nam trong chống dịch COVID-19 khiến dư luận khâm phục và đánh giá cao.
Giới chuyên gia đều chung nhận định bài học trước tiên là Chính phủ Việt Nam đã phản
ứng mau lẹ, dứt khốt, nhanh chóng, kịp thời, quyết liệt, chủ động với sự chuẩn bị kỹ
lưỡng và những biện pháp đồng bộ, linh hoạt. Như tổng kết của hãng tin Sputnik (Nga)
thì bí quyết căn bản là "Chính phủ Việt Nam đã kịp thời đề ra chiến lược quốc gia về đấu
tranh chống dịch bệnh và tổ chức thực hiện chính xác chiến lược đó".
Việc kịp thời chặn đứng các ca lây nhiễm trong cộng đồng, ngăn ngừa dịch bệnh xâm
nhập từ bên ngồi, cắt đứt “vịi bạch tuộc” COVID-19 đã giúp Việt Nam giảm thiểu tác
động của dịch bệnh đến nền kinh tế, tiếp tục theo đuổi mục tiêu phát triển trong tình hình
mới. Trong bối cảnh kinh tế thế giới rơi vào đợt suy thoái tồi tệ nhất kể từ Chiến tranh thế
giới thứ Hai, Việt Nam nằm trong số ít nước vẫn duy trì tăng trưởng ấn tượng. Với mức
tăng trưởng 2,12% trong 9 tháng đầu năm, tờ Nikkei Asia Review (Nhật Bản) nhận định
Việt Nam đang trở thành "câu chuyện thành công về kinh tế duy nhất của Đông Nam Á
trong đại dịch". Ngân hàng HSBC dự đoán Việt Nam là nền kinh tế duy nhất trong khu
vực ghi nhận tăng trưởng trong năm 2020. IMF dự báo GDP của Việt Nam năm nay sẽ
tăng 2,4% và tiếp tục phục hồi mạnh mẽ với mức tăng 6,5% năm tới. WB cho rằng Việt
Nam năm 2020 sẽ đạt tăng trưởng 2,5-3%, còn Ngân hàng Standard Chartered đưa ra con
số 3% trong năm nay và 7,8% vào năm 2021. Theo hãng tin Sputnik, nhờ đạt được những


thành công cơ bản trong cuộc chiến đẩy lùi dịch bệnh, kinh tế Việt Nam được dự kiến sẽ
“bật dậy và phục hồi nhanh chóng” giai đoạn hậu COVID-19. Trang mạng
channelnewsasia.com cho rằng công tác xử lý tốt đại dịch COVID-19, xuất khẩu tăng vọt
và chi tiêu công lành mạnh đã giúp Việt Nam vượt qua cuộc suy thối tồn cầu trong năm
2020 và trên đà phục hồi nhanh. Các nhà phân tích dự đốn Việt Nam có thể sẽ là một
trong những nước có tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới.
II.

Tác động của COVID19 đến tăng trưởng tín dụng (huy động vốn, cho vay…)

Cho đến nay dịch bệnh Covid-19 ở Việt Nam đã cơ bản được khống chế sau hàng loạt các
biện pháp nghiêm ngặt và quyết liệt của cả hệ thống chính trị và ý thức tự giác chấp hành
của người dân.
Tuy nhiên, đại dịch này vẫn diễn biến phức tạp trên thế giới, tiếp tục tác động sâu rộng
đến các lĩnh vực kinh tế của Việt Nam. Trong đó, với hệ thống ngân hàng, hoạt động cho
vay mới rất khó khăn và chất lượng tín dụng bị ảnh hưởng nặng nề, cần nhiều giải pháp
đồng bộ để hạn chế các tác động tiêu cực.

1. Diễn biến huy động vốn và cho vay

Do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, thu nhập của doanh nghiệp (DN) và người dân bị
giảm sút, khiến họ khơng có tiền gửi ngân hàng, thậm chí là phải rút tiền gửi, vay tiền,
nguồn thu giảm sút, khơng có nguồn tiền trả nợ ngân hàng, nợ xấu phát sinh.
Theo số liệu của Ngân hàng nhà nước (NHNN) Việt Nam, tính đến cuối tháng 9/2020,
tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế tăng 7,74% so với cuối năm 2019 (cùng
thời điểm năm 2019 tăng 8,41%), huy động vốn của các tổ chức tín dụng (TCTD) tăng


7,7% (cùng thời điểm năm 2019 tăng 8,79%). Dư nợ tín dụng đến 30/9/2020 tăng 6,09%
so với cuối năm 2019 (cùng kỳ năm 2019 tăng 9,4%).
Về tín dụng theo ngành kinh tế, dư nợ ngành thương mại dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn 63%,
có mức tăng trưởng tín dụng cao nhất khoảng 6,32%; dư nợ ngành công nghiệp xây dựng
tăng 5,89%, chiếm 28,75%; tín dụng đối với ngành nơng, lâm nghiệp thủy sản chiếm
8,66%, tăng 5,09%.
Về tín dụng đối với lĩnh vực ưu tiên: vốn cho vay của các TCTD tại Việt Nam vẫn tiếp
tục tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên theo chỉ đạo của Chính phủ, đặc biệt là một số lĩnh
vực đang tận dụng được lợi thế trong bối cảnh mới như tín dụng xuất khẩu tăng khoảng
7%, tín dụng cho nơng nghiệp, nơng thơn tăng 5%, tín dụng đối với DNNVV tăng 5,5%.
Trong bối cảnh kinh tế cịn nhiều khó khăn, nhưng kết quả tín dụng đã góp phần hỗ trợ
tích cực cho tăng trưởng GDP 9 tháng đầu năm của cả nước đạt 2,12%, cũng như là động

lực cho tăng trưởng nhiều ngành, như: cơng nghiệp sản xuất và phân phối điện, khí đốt,
nước nóng, hơi nước và điều hịa khơng khí tăng 3,7%, công nghiệp chế biến, chế tạo
tăng 4,6%, xây dựng tăng 5,02%, bán buôn và bán lẻ tăng 4,98%.
Tuy nhiên, với diễn biến phức tạp của đại dịch Covid-19 thì dự kiến cả năm 2020 dư nợ
tín dụng chỉ có khả năng đạt 8%-10%, thấp hơn rất nhiều mục tiêu dự kiến 13-14% và
cũng thấp hơn con số thực hiện của năm 2019 (13,7%), ảnh hưởng lớn đến việc cung ứng
vốn cho nền kinh tế, khôi phục sản xuất kinh doanh giai đoạn hậu Covid-19.
Dư nợ bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 vào khoảng 2 triệu tỷ đồng, chiếm 23% dư nợ
toàn hệ thống TCTD, tiềm ẩn rủi ro với hoạt động ngân hàng. Thời gian qua, các TCTD
đã đồng loạt giảm lãi suất hỗ trợ doanh nghiệp với khoản vay hiện hữu và khoản vay mới,
mức giảm lãi suất phổ biến 2 - 2,5%/năm. Các NHTM đang công bố và triển khai nhiều
gói tín dụng với lãi suất ưu đãi với quy mô lớn để sẵn sàng đáp ứng nguồn vốn giải ngân
cho khách hàng.


Thực hiện Thông tư số 01/2020/TT-NHNN, ngày 13/3/2020, quy định về việc TCTD cơ
cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ ngun nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng
chịu ảnh hưởng do dịch Covid-19, đến nay, các TCTD thực hiện rất nghiêm túc và khẩn
trương.
Cụ thể, các TCTD đã cơ cấu lại nợ cho trên 170.000 khách hàng, với tổng dư nợ xấp xỉ
130.000 tỷ đồng; đã miễn giảm lãi suất vay vốn và giữ nguyên nhóm nợ cho trên 14.000
khách hàng, với dư nợ xấp xỉ 29.000 tỷ đồng; giảm lãi suất dư nợ hiện hữu cho khoảng
318.000 khách hàng, với dư nợ trên 980.000 tỷ đồng.
Mức giảm lãi suất phổ biến từ 0,5-2%/năm, thậm chí có một số TCTD đã hạ lãi suất từ
2,5-4%/năm. Đồng thời, các TCTD cũng đã cho vay mới với lãi suất ưu đãi thấp hơn so
với lãi suất cho vay trước khi có dịch từ 1-2% cho khoảng 200.000 khách hàng, với
doanh số cho vay mới lũy kế kể từ 23/1/2020 đến nay là trên 600.000 tỷ đồng.
Từ đầu năm 2020 đến nay, NHNN đã 3 lần cắt giảm các loại lãi suất điều hành, để tác
động đến giảm lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay của các TCTD đối với nền kinh
tế. Trước thời điểm quyết định giảm lãi suất lần thứ 3 của NHNN vào ngày 30/9/2020 thì

lãi suất huy động vốn của các NHTM đã có chung xu hướng giảm trong tháng 9/2020 đối
với cả kỳ hạn 6 tháng và kỳ hạn 12 tháng ở tất cả các nhóm ngân hàng. Cụ thể, đối với kỳ
hạn 6 tháng, lãi suất của nhóm NHTM gốc quốc doanh giảm 0,125%; lãi suất của nhóm
NHTMCP có quy mô nhỏ vốn dưới 5.000 tỷ đồng giảm 0,163%; lãi suất của nhóm
NHTMCP có quy mơ lớn vốn trên 5.000 tỷ đồng giảm 0,14%.
Xu hướng giảm lãi suất huy động vốn của các NHTM tiếp tục được tiếp nối trong những
ngày đầu tháng 10/2020, sau động thái NHNN Việt Nam công bố cắt giảm thêm 50 điểm
% lãi suất điều hành vào ngày 30/9/2020. Trong đợt giảm lãi suất lần này, một số NHTM
còn giảm lãi tiền gửi kỳ hạn 1 tháng đến dưới 6 tháng xuống dưới mức trần cho phép.
Qua 3 lần giảm các loại lãi suất điều hành của NHNN, đến đầu tháng 12/2020, lãi suất
cho vay trong nền kinh tế của các NHTM cũng giảm từ 0,5% đến 1,5% so với thời điểm


cuối tháng 12/2019 tùy theo kỳ hạn cho vay và đối tượng vay vốn. Lãi suất cho vay giảm
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, khách hàng giảm chi phí vốn vay, giảm một phần
khó khăn bởi đại dịch Covid-19.
Ngày 7/5/2020, NHNN ban hành Thông tư 05/2020/TT-NHNN quy định về việc tái cấp
vốn đối với Ngân hàng chính sách xã hội (NHCSXH), để cho người sử dụng lao động
vay trả lương ngừng việc theo Quyết định số 15/2020/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ,
quy định về việc thực hiện các chính sách hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch
Covid-19. Tổng số tiền tái cấp vốn tối đa 16.000 tỷ đồng. Lãi suất tái cấp vốn là 0%/năm.
Tuy nhiên, cho đến đầu tháng 12/2020 việc triển khai chủ trương nói trên vẫn cịn rất
chậm, gần như các danh nghiệp khơng được phê duyệt vay gói tín dụng trên để trả lương
cho người lao động. Ngun nhân chung gói tín dụng trên chưa có kết quả giải ngân vốn
cho vay là do các quy định, các điều kiện vay vốn theo chương trình này q chặt chẽ,
doanh nghiệp rất khó đáp ứng.
2. Thực trạng chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại giai đoạn hiện nay

Trước khi đại dịch Covid-19 diễn ra, ngành Ngân hàng đã quyết liệt tập trung xử lý nợ
xấu với 2 cơ chế có tính đột phá về cơ chế chính sách, đó là Nghị quyết số 42/2017/QH14

( ngày 21/06/2017 do Quốc hội ban hành về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín
dụng) và Quyết định số 1058/QĐ-TTg (ngày 19/07/2017 của Thủ tướng Chính phủ về
Phê duyệt Đề án "Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn
2016 - 2020"), tạo được những dấu ấn rõ nét và chuyển biến tích cực trong công tác xử lý
nợ xấu và cơ cấu lại các TCTD.
Nghị quyết số 42/2017/QH14 là văn bản có giá trị pháp lý rất quan trọng trong giai đoạn
trước Covid-19 và hiện nay, khi lần đầu tiên các vấn đề vướng mắc về pháp lý của ngành
Ngân hàng liên quan đến xử lý nợ xấu và xử lý tài sản bảo đảm đã kéo dài nhiều năm qua
được giải quyết trong một văn bản của Quốc hội. Nghị quyết này tạo cơ chế đồng bộ,
thống nhất, hiệu quả, khả thi nhằm đảm bảo quyền của chủ nợ trong xử lý nợ xấu, qua đó


tạo điều kiện thuận lợi cho các TCTD phát huy tốt vai trò là kênh dẫn vốn chủ đạo, đáp
ứng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của nền kinh tế.
Cùng với đó, Quyết định số 1058/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ tiếp tục phát huy
những kết quả đã đạt được và những bài học kinh nghiệm từ thực tế triển khai tái cơ cấu
hệ thống các TCTD và xử lý nợ xấu, tập trung vào việc hồn thiện khn khổ pháp lý, cơ
chế, chính sách về tiền tệ và hoạt động ngân hàng nhằm đổi mới mạnh mẽ và tồn diện
các TCTD.
Trong đó, đặc biệt chú trọng đổi mới mơ hình quản trị, điều hành; nâng cao năng lực tài
chính, tăng cường năng lực đánh giá, kiểm sốt rủi ro; chuyển đổi mơ hình kinh doanh
theo hướng đa dạng và hiện đại hóa các sản phẩm dịch vụ; tăng cường đổi mới công tác
thanh tra, giám sát ngân hàng; cơ cấu lại các TCTD theo từng nhóm.
Mặc dù, cơng tác cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu trong thời gian qua
trước và trong đại dịch Covid-19 đã đạt được kết quả đáng khích lệ, tuy nhiên vẫn cịn
tồn tại những khó khăn, vướng mắc trong q trình cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu của
TCTD. Các khó khăn có thể kể đến như: Việc nâng cao năng lực tài chính thơng qua tăng
vốn điều lệ nhằm đáp ứng yêu cầu tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo Basel II của một số
TCTD, nhất là các NHTM Nhà nước cịn khó khăn; tiến độ xử lý cơ cấu lại đối với một
số TCTD phi ngân hàng có chủ sở hữu/cổ đơng lớn là các tập đồn, tổng cơng ty nhà

nước còn chậm, phụ thuộc vào nội dung phương án cơ cấu lại tổng thể của tập đồn, tổng
cơng ty; việc xử lý, thu hồi nợ và TSBĐ của một số TCTD cịn khó khăn trong trường
hợp TSBĐ cho các khoản nợ bị kê biên, liên quan đến các vụ án, hồ sơ pháp lý chưa hoàn
chỉnh…
Đặc biệt, một số TCTD vẫn gặp khó khăn trong việc thực hiện quyền thu giữ TSBĐ của
khoản nợ xấu theo quy định tại Nghị quyết số 42/2017/QH14; thực hiện quyền áp dụng
thứ tự ưu tiên thanh toán nghĩa vụ về thuế khi xử lý TSBĐ và nộp án phí theo bản án,
quyết định của Tòa án các cấp…


Bên cạnh những thách thức liên quan đến quy định pháp luật về xử lý nợ xấu nói chung
và xử lý TSBĐ của các khoản nợ xấu nói riêng cịn nhiều bất cập, chồng chéo, chưa tạo
hành lang pháp lý thơng thống cho các TCTD xử lý nợ xấu, xử lý TSBĐ của các khoản
nợ xấu. Nếu không tăng được vốn điều lệ, một số NHTM Nhà nước, ví dụ như
VietinBank sẽ phải giảm tốc độ tăng trưởng tín dụng, tác động trực tiếp đến khả năng
cung ứng vốn cho nền kinh tế, ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng tín dụng tồn ngành và
theo đó tác động tiêu cực đến tốc độ tăng trưởng GDP của nền kinh tế.
Sự bùng phát của Covid-19 từ đầu năm 2020 đến nay đang ảnh hưởng và tác động khơng
nhỏ tới an tồn hoạt động ngân hàng, cũng như kết quả cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu
toàn ngành ngân hàng giai đoạn 2016-2020.
Để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19, ngành Ngân
hàng đã có nhiều giải pháp hiệu quả hỗ trợ người dân và doanh nghiệp, đặc biệt là các
giải pháp cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ để vượt qua khó khăn theo
Thơng tư 01/2020/TT-NHNN.
Song, do bị ảnh hưởng của dịch bệnh khiến cho doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc trả
nợ TCTD nên nợ xấu thời gian tới sẽ tăng lên và ngành Ngân hàng cần có giải pháp ứng
phó với tình hình nợ xấu hậu Covid-19. Tỷ lệ nợ xấu đang có xu hướng tăng trước tác
động của Covid-19.
Cuối năm 2019, tỷ lệ nợ xấu nội bảng ở mức 1,63% và đến 31/8/2020 là 1,96%, dự báo
đến hết năm 2020 sẽ tăng lên trên 2,0%. Bên cạnh do tác động của đại dịch Covid-19, thì

cịn ngun nhân quan trọng khác đó, là Nghị quyết số 42/2017/QH14 và Quyết định số
1058/QĐ-TTg hết hiệu lực thi hành trong thời gian tới nếu khơng được Quốc hội, Thủ
tướng Chính phủ gia hạn, hay ban hành văn bản thay thế.
III.

Tác động của COVID19 đến tình hình nợ xấu


Theo số liệu của Ngân hàng nhà nước (NHNN) Việt Nam, tính đến cuối tháng 9/2020,
tổng phương tiện thanh tốn trong nền kinh tế tăng 7,74% so với cuối năm 2019 (cùng
thời điểm năm 2019 tăng 8,41%), huy động vốn của các tổ chức tín dụng (TCTD) tăng
7,7% (cùng thời điểm năm 2019 tăng 8,79%). Dư nợ tín dụng đến 30/9/2020 tăng 6,09%
so với cuối năm 2019 (cùng kỳ năm 2019 tăng 9,4%).
Về tín dụng theo ngành kinh tế, dư nợ ngành thương mại dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn 63%,
có mức tăng trưởng tín dụng cao nhất khoảng 6,32%; dư nợ ngành công nghiệp xây dựng
tăng 5,89%, chiếm 28,75%; tín dụng đối với ngành nơng, lâm nghiệp thủy sản chiếm
8,66%, tăng 5,09%.
Về tín dụng đối với lĩnh vực ưu tiên: vốn cho vay của các TCTD tại Việt Nam vẫn tiếp
tục tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên theo chỉ đạo của Chính phủ, đặc biệt là một số lĩnh
vực đang tận dụng được lợi thế trong bối cảnh mới như tín dụng xuất khẩu tăng khoảng
7%, tín dụng cho nơng nghiệp, nơng thơn tăng 5%, tín dụng đối với DNNVV tăng 5,5%.
Trong bối cảnh kinh tế còn nhiều khó khăn, nhưng kết quả tín dụng đã góp phần hỗ trợ
tích cực cho tăng trưởng GDP 9 tháng đầu năm của cả nước đạt 2,12%, cũng như là động
lực cho tăng trưởng nhiều ngành, như: công nghiệp sản xuất và phân phối điện, khí đốt,
nước nóng, hơi nước và điều hịa khơng khí tăng 3,7%, cơng nghiệp chế biến, chế tạo
tăng 4,6%, xây dựng tăng 5,02%, bán buôn và bán lẻ tăng 4,98%.
Tuy nhiên, với diễn biến phức tạp của đại dịch Covid-19 thì dự kiến cả năm 2020 dư nợ
tín dụng chỉ có khả năng đạt 8%-10%, thấp hơn rất nhiều mục tiêu dự kiến 13-14% và
cũng thấp hơn con số thực hiện của năm 2019 (13,7%), ảnh hưởng lớn đến việc cung ứng
vốn cho nền kinh tế, khôi phục sản xuất kinh doanh giai đoạn hậu Covid-19.

 Dư nợ bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 vào khoảng 2 triệu tỷ đồng, chiếm 23% dư nợ

toàn hệ thống TCTD, tiềm ẩn rủi ro với hoạt động ngân hàng. Thời gian qua, các TCTD
đã đồng loạt giảm lãi suất hỗ trợ doanh nghiệp với khoản vay hiện hữu và khoản vay mới,
mức giảm lãi suất phổ biến 2 - 2,5%/năm. Các NHTM đang công bố và triển khai nhiều


gói tín dụng với lãi suất ưu đãi với quy mô lớn để sẵn sàng đáp ứng nguồn vốn giải ngân
cho khách hàng.
Thực hiện Thông tư số 01/2020/TT-NHNN, ngày 13/3/2020, quy định về việc TCTD cơ
cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ ngun nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng
chịu ảnh hưởng do dịch Covid-19, đến nay, các TCTD thực hiện rất nghiêm túc và khẩn
trương.
Cụ thể, các TCTD đã cơ cấu lại nợ cho trên 170.000 khách hàng, với tổng dư nợ xấp xỉ
130.000 tỷ đồng; đã miễn giảm lãi suất vay vốn và giữ nguyên nhóm nợ cho trên 14.000
khách hàng, với dư nợ xấp xỉ 29.000 tỷ đồng; giảm lãi suất dư nợ hiện hữu cho khoảng
318.000 khách hàng, với dư nợ trên 980.000 tỷ đồng.
Mức giảm lãi suất phổ biến từ 0,5-2%/năm, thậm chí có một số TCTD đã hạ lãi suất từ
2,5-4%/năm. Đồng thời, các TCTD cũng đã cho vay mới với lãi suất ưu đãi thấp hơn so
với lãi suất cho vay trước khi có dịch từ 1-2% cho khoảng 200.000 khách hàng, với
doanh số cho vay mới lũy kế kể từ 23/1/2020 đến nay là trên 600.000 tỷ đồng.
Từ đầu năm 2020 đến nay, NHNN đã 3 lần cắt giảm các loại lãi suất điều hành, để tác
động đến giảm lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay của các TCTD đối với nền kinh
tế. Trước thời điểm quyết định giảm lãi suất lần thứ 3 của NHNN vào ngày 30/9/2020 thì
lãi suất huy động vốn của các NHTM đã có chung xu hướng giảm trong tháng 9/2020 đối
với cả kỳ hạn 6 tháng và kỳ hạn 12 tháng ở tất cả các nhóm ngân hàng. Cụ thể, đối với kỳ
hạn 6 tháng, lãi suất của nhóm NHTM gốc quốc doanh giảm 0,125%; lãi suất của nhóm
NHTMCP có quy mơ nhỏ vốn dưới 5.000 tỷ đồng giảm 0,163%; lãi suất của nhóm
NHTMCP có quy mơ lớn vốn trên 5.000 tỷ đồng giảm 0,14%.
Xu hướng giảm lãi suất huy động vốn của các NHTM tiếp tục được tiếp nối trong những

ngày đầu tháng 10/2020, sau động thái NHNN Việt Nam công bố cắt giảm thêm 50 điểm
% lãi suất điều hành vào ngày 30/9/2020. Trong đợt giảm lãi suất lần này, một số NHTM
còn giảm lãi tiền gửi kỳ hạn 1 tháng đến dưới 6 tháng xuống dưới mức trần cho phép.


Qua 3 lần giảm các loại lãi suất điều hành của NHNN, đến đầu tháng 10/2020, lãi suất
cho vay trong nền kinh tế của các NHTM cũng giảm từ 0,5% đến 1,5% so với thời điểm
cuối tháng 12/2019 tùy theo kỳ hạn cho vay và đối tượng vay vốn. Lãi suất cho vay giảm
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, khách hàng giảm chi phí vốn vay, giảm một phần
khó khăn bởi đại dịch Covid-19.
Ngày 7/5/2020, NHNN ban hành Thông tư 05/2020/TT-NHNN quy định về việc tái cấp
vốn đối với Ngân hàng chính sách xã hội (NHCSXH), để cho người sử dụng lao động
vay trả lương ngừng việc theo Quyết định số 15/2020/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ,
quy định về việc thực hiện các chính sách hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch
Covid-19. Tổng số tiền tái cấp vốn tối đa 16.000 tỷ đồng. Lãi suất tái cấp vốn là 0%/năm.
Tuy nhiên, cho đến đầu tháng 10/2020 việc triển khai chủ trương nói trên vẫn cịn rất
chậm, gần như các danh nghiệp không được phê duyệt vay gói tín dụng trên để trả lương
cho người lao động. Ngun nhân chung gói tín dụng trên chưa có kết quả giải ngân vốn
cho vay là do các quy định, các điều kiện vay vốn theo chương trình này quá chặt chẽ,
doanh nghiệp rất khó đáp ứng.
Để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19, ngành Ngân
hàng đã có nhiều giải pháp hiệu quả hỗ trợ người dân và doanh nghiệp, đặc biệt là các
giải pháp cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ để vượt qua khó khăn theo
Thơng tư 01/2020/TT-NHNN.
Cụ thể: Tại ngân hàng Vietinbank Đống Đa nơi em đang cơng tác, chi nhánh đã có những
ứng xử phù hợp và cụ thể như sau:
-

Giảm lãi suất cho vay theo các chương trình tín dụng


-

Giảm lãi suất cho vay đối với các khoản vay tiêu dùng thông thường từ 11% xuống
10.5%


-

Thực hiện cơ cấu nợ cho các doanh nghiệp lớn trong hầu hết các lĩnh vực như cơ cấu thời
gian trả nợ gốc, nợ lãi được cơ cấu thay vì trả hàng tháng thành 3 tháng.

-

Các khách hàng là cá nhân vay vốn bị ảnh hưởng trực tiếp như nhà hàng, quán ăn cũng
được cơ cấu thời gian trả nợ gốc lãi từ 1 tháng thành 3 tháng.

-

Giảm lãi suất cho vay đối với các khách hàng cá nhân vay vốn thuộc gói 3000 tỷ từ 5%
xuống 4.5%

-

Giảm lãi thẻ tín dụng từ 22% xuống 16.5%

-

Giảm phí dịch vụ: phí chuyển tiền, phí nộp tiền mặt tại quầy, miễn phí chuyển tiền trên hệ
thống ipay.
Tất cả các hành động miễn giảm đều hướng tới mục tiêu đồng hành cùng doanh nghiệp,

khách hàng và hỗ trợ, giữ chân khách hàng.

IV.

Tác động của COVID19 đến hoạt động khác của ngân hàng
Ngoài hai hoạt động chủ yếu là huy động vốn và cho vay, các NHTM cịn có các dịch vụ
tiến hành song song như chuyển tiền trong và ngoài nước, nhận tiền bằng tài khoản thanh
toán hay chứng minh thư, dịch vụ ngân hàng trực tuyến, các sản phẩm bổ trợ khác liên
quan đến nghiệp vụ cụ thể.
Do tác động xấu của dịch bệnh, nhiều NHTM tại các chi nhánh, điểm giao dịch phải giãn
cách, phong tỏa, thực hiện theo chỉ đạo phịng chống dịch của Thủ tướng, Chính phủ. Các
nghiệp vụ, tiếp xúc khách hàng theo hình thức truyền thống cũng giảm sút, điển hình như
chuyển tiền liên ngân hàng tại quầy giao dịch. Nguyên do một phần là các sản phẩm ngân
hàng điện tử đang rất phát triển và nhiều ưu đãi cho người dung. Ví dụ như mobile
banking, internet banking… tích hợp nhiều chức năng trên ứng dụng, khách hàng chỉ cần
tài khoản đã có tại ngân hàng và sử dụng thêm dịch vụ kèm là mobile banking, có thể
chuyển tiền, thanh tốn hóa đơn điện, nước, mạng, trả góp… Có nhiều chương trình


miễn, giảm phí dịch vụ thanh tốn trực tuyến, phục vụ tốt nhất cho nhu cầu thanh toán
trực tuyến và góp phần giải quyết những khó khăn cho sản xuất kinh doanh, đảm bảo an
sinh xã hội. Cụ thể, điều chỉnh giảm phí chuyển tiền qua hệ thống thanh tốn điện tử liên
ngân hàng (TTĐTLNH). Đối với phí chuyển tiền liên ngân hàng qua hệ thống 24/7 của
NAPAS: 100% ngân hàng đã tham gia thực hiện chính sách miễn/giảm phí cho khách
hàng đối với các giao dịch giá trị nhỏ (từ 2 triệu đồng trở xuống), theo đó, khoảng 63%
giao dịch thanh toán của khách hàng được miễn hoặc giảm phí.
Đồng thời, 100% các tổ chức tín dụng (TCTD) đều thực hiện miễn phí đối với các giao
dịch thanh tốn điện tử, giao dịch các dịch vụ cơng; miễn phí chuyển tiền ủng hộ phòng,
chống dịch COVID-19 và hạn mặn qua tài khoản ngân hàng; miễn phí dịch vụ thanh toán
cho các đối tượng nhận hỗ trợ theo Nghị quyết số 42 và Quyết định số 15 của Thủ tướng

Chính phủ. Do đó, nguồn thu từ phí dịch vụ chuyển tiền của các NHTM giảm mạnh.
Dù bị ảnh hưởng nặng nền bởi dịch, nhưng với sự vào cuộc quyết liệt của hệ thống ngân
hàng, các hoạt động thanh tốn khơng dùng tiền mặt và thanh tốn dịch vụ cơng trong
năm 2020 tiếp tục có sự tăng trưởng mạnh, đặc biệt là thanh tốn qua điện thoại di động.
Tính đến cuối tháng 10 năm 2020, số lượng giao dịch thanh toán qua điện thoại di động
đạt hơn 918,8 triệu giao dịch với giá trị đạt gần 9,6 triệu tỷ đồng (tăng 123,9% về số
lượng và 125,4% về giá trị so với cùng kỳ năm 2019).
Số lượng giao dịch thanh toán qua Internet đạt gần 374 triệu giao dịch với giá trị đạt hơn
22,2 triệu tỷ đồng (tăng 8,3% về số lượng và 25,5% về giá trị giao dịch so với cùng kỳ
năm 2019).
Tổng số lượng giao dịch qua Hệ thống TTĐTLNH đạt hơn 119 triệu món, giá trị đạt gần
84,3 triệu tỷ đồng (tăng 7,3% về giá trị so với cùng kỳ năm 2019). Hệ thống chuyển mạch
tài chính và bù trừ điện tử đã xử lý 960,95 triệu món với gần 8 triệu tỷ đồng (tăng 75,19%
về số lượng và tăng 110,92% về giá trị so với cùng kỳ năm 2019).
Theo Vụ Thanh tốn (NHNN), tính đến tháng 5/2020, cả nước có khoảng 19,2 nghìn
ATM, hơn 277 nghìn POS, khoảng 78 NHTM triển khai dịch vụ thanh toán qua Internet


banking, 49 NHTM cung ứng dịch vụ thanh toán qua điện thoại di động, 30 NHTM và 6
tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán phối hợp triển khai thanh tốn với khoảng
80 nghìn điểm QR Code. NHNN đã cấp phép cho 34 tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian
thanh tốn, trong đó dịch vụ ví điện tử (29); dịch vụ cổng thanh toán điện tử, hỗ trợ thu
hộ, chi hộ (28), dịch vụ chuyển tiền điện tử (9).
Bên cạnh đó, Việt Nam đã phát triển hạ tầng thanh tốn điện tử trong khu vực Chính phủ,
dịch vụ hành chính cơng, theo NHNN, đến nay, hệ thống thanh toán điện tử liên ngân
hàng đã được kết nối với toàn bộ 63 Kho bạc Nhà nước cấp tỉnh trong cả nước, đáp ứng
được nhu cầu thu ngân sách một cách nhanh chóng, kịp thời.
Có khoảng 50 NHTM hồn thành kết nối với hệ thống nộp thuế điện tử của Tổng cục
Thuế, Hải quan; trên 63 tỉnh/thành phố và tất cả các quận, huyện trên cả nước, với 95%
số thu hải quan được thực hiện qua ngân hàng; 99% doanh nghiệp đăng ký nộp thuế điện

tử; 27 ngân hàng và 10 tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán phối hợp thu tiền
điện, doanh thu tiền điện của Điện lực Việt Nam (EVN) thanh toán qua ngân hàng lên tới
gần 90%...
Nếu đặt lên bàn cân về việc thu phí dịch vụ của các NHTM, riêng về dịch vụ chuyển tiền,
phần phí đã bị thiếu hụt khá nhiều do khách hàng thay đổi phương thức thanh toán và hỗ
trợ phí từ phía NHNN. Nhưng ta các thể thấy, các phí liên quan đến tài khoản như phí
quản lý tài khoản thanh tốn, phí thường niên thẻ ATM, phí dịch vụ Banking, phí chuyển
tiền Banking… sẽ gia tăng theo xu hướng người dùng. Và một phần lớn nữa, các NHTM
sẽ gia tăng được nguồn vốn không kỳ hạn do số lượng sử dụng tài khoản thanh toán tăng
cao.
Với chủ trương “xã cách ly xã, làng cách ly làng, nhà cách ly nhà”, việc thanh tốn hàng
hóa khi mua trực tuyến trở nên phổ biến hơn. Các công ty phần mềm phát triển ra thêm
nhiều các loại ví điện tử, điển hình như airpay, zalopay… áp dụng nhiều ưu đãi cho người
dùng. Thuận lợi hơn cả, các ví điện tử này liên kết trực tiếp với tài khoản thanh toán ngân


hàng của người dùng nên việc mua sắm trong mùa dịch mà vẫn đảm bảo giãn cách xã
hội.
Ông Nguyễn Mạnh Tường, phó chủ tịch HĐQT ví điện tử MoMo, cho biết số người dùng
ví điện tử MoMo tăng mạnh thời gian gần đây. Riêng đợt dịch COVID-19, số người dùng
mới của ví điện tử này đã tăng 30-40%. Số lượng người thanh tốn bằng ví điện tử khi đi
ăn uống, đi siêu thị hay trả góp cho cơng ty tài chính cũng tăng.
Khơng riêng gì Momo, hàng loạt ví điện tử khác như Moca, Zalo pay, VN pay... cũng đã
có những thay đổi đáng kể trong bối cảnh các doanh nghiệp dần chuyển đổi từ phương
thức kinh doanh, bán hàng truyền thống sang hình thức online. Theo nghiên cứu của
Boston Consulting Group, 49% người tiêu dùng thành thị tại khu vực Đông Nam Á là
khách hàng của các ngân hàng thương mại đã sử dụng ví điện tử, dự báo tỷ lệ này sẽ đạt
84% vào năm 2025. Trên thực tế, ứng dụng ví điện tử tăng tốc nhanh chóng sau đại dịch
Covid-19, thúc đẩy sự gia tăng mạnh mẽ các hình thức thanh tốn kỹ thuật số và giao
hàng tận nhà. Sự bùng phát của đại dịch Covid-19 và hậu quả của nó sẽ thúc đẩy nhiều

người dùng chấp nhận thanh tốn kỹ thuật số hơn.
V.

Ứng phó của ngân hàng trước đại dịch Covid19
1. Giải pháp ứng phó và khắc phục

Năm 2020 là năm cuối cùng của giai đoạn 2016-2020, có ý nghĩa quan trọng để hồn
thành các mục tiêu và kế hoạch đã đặt ra cho cả giai đoạn. Tuy nhiên, từ tháng 3-2020,
thế giới chứng kiến những biến động lớn chưa từng có trong nhiều thập kỷ do tác động
của đại dịch Covid-19. Trong nước, dịch bệnh đã tác động lớn đến nhiều mặt của đời
sống xã hội; sản xuất, kinh doanh bị đình trệ; hàng triệu lao động thiếu, mất việc làm, thu
nhập giảm sâu... Ðóng vai trò huyết mạch trong nền kinh tế, hoạt động của hệ thống ngân
hàng cũng không tránh khỏi ảnh hưởng tiêu cực từ đại dịch. Trong bối cảnh đó, với
phương châm tập trung thực hiện "mục tiêu kép" của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ,


ngành ngân hàng đã sớm vào cuộc, chủ động nắm bắt, dự báo tình hình, triển khai hiệu
quả các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ (CSTT).
Trước tình hình khó khăn, để hỗ trợ nền kinh tế, tạo điều kiện cho các TCTD và DN khắc
phục khó khăn, thiệt hại do dịch bệnh gây ra, Chính phủ và NHNN đã ban hành Thơng tư
hướng dẫn các tổ chức tín dụng với 4 việc chính: Cơ cấu lại thời hạn trả nợ; Miễn giảm
lãi vay; Giữ nguyên nhóm nợ cho các khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh; Triển khai
các gói tín dụng hỗ trợ.
Hiện tại, nhiều ngân hàng như VietinBank, Vietcombank, BIDV, ACB, Sacombank, SHB,
Eximbank, Nam A Bank... đã triển khai các gói tín dụng có quy mơ hàng chục nghìn đến
hàng trăm tỉ đồng với lãi suất ưu đãi thấp hơn từ 1-3%, nhằm hỗ trợ các khách hàng cá
nhân, DN vượt qua khó khăn. 44/45 NHTM thực hiện miễn, giảm phí dịch vụ thanh tốn,
chiếm 99,7% thị phần đã miễn giảm phí; nhiều loại phí được giảm 75%-100% mức phí
cũ…
Bên cạnh việc hỗ trợ về tín dụng cho DN, các NHTM nên tiếp tục cân nhắc giảm lãi suất

trong ngắn hạn và linh hoạt về thời điểm hoàn trả lãi suất và gốc đối với các khoản vay cũ
và mới của DN, bởi vì dịng tiền thu của DN sẽ có thể bị lệch pha với các dịng tiền ra,
trong đó có dịng tiền trả nợ. Để làm tốt việc này, đòi hỏi các NHTM phải thực hiện rà
soát, đánh giá lại từng khách hàng.
Các NHTM cần tận dụng cơ hội để phát triển thị trường, sản phẩm, kênh phân phối mới
như: Phát triển ngay các gói sản phẩm ngân hàng chuyên biệt cho nhóm khách hàng là
DN trong các ngành đang có các lợi thế kinh doanh tương đối trong đại dịch Covid-19
như: kinh doanh online, thực phẩm, đồ dùng thiết yếu, khẩu trang, nước rửa tay, máy đo
thân nhiệt, máy thở.
Các NHTM cần có các sản phẩm tín dụng ngắn hạn chuyên biệt hỗ trợ DN nhỏ và vừa
chịu tác động của Covid-19 như: tài trợ hàng tồn kho, cho vay hỗ trợ xuất khẩu nhanh.
Cung cấp cho DN nhỏ và vừa đạt được doanh số tiêu thụ thông qua hoạt động hỗ trợ xuất


khẩu, đồng thời hỗ trợ điều tiết thi trường thông qua kênh phân phối trong nước. Các DN
có thể đăng ký hạn mức tín dụng hoặc kỳ hạn trước khi hoàn tất việc bán hàng xuất khẩu
hoặc trong khi theo đuổi các cơ hội ở nước ngoài, chẳng hạn như xác định một khách
hàng mới ở nước ngoài nếu việc bán hàng xuất khẩu bị mất do Covid-19.
2. Thực trạng tại một số Ngân hàng thương mại
2.1. Ngân hàng Nông Nghiệp ( với chủ trương không để ai đơn độc trong cuộc chiến

chống Covid 19)
Với tinh thần vừa ứng phó với diễn biến dịch bệnh Covid-19 vừa đảm bảo thực hiện
nhiệm vụ chính trị theo chủ trương, chính sách của Chính phủ và NHNN về các giải pháp
hỗ trợ khách hàng, Agribank đã nhanh chóng cụ thể hóa bằng những hành động, giải
pháp cụ thể như kịp thời thực hiện nghiêm túc hiệu quả Chỉ thị 02/CT-NHNN và Thông
tư 01/2020/TT-NHNN nhằm giúp doanh nghiệp có thêm nguồn lực tài chính duy trì hoạt
động, nhanh chóng phục hồi và phát triển sản xuất kinh doanh. Trong năm qua, Agribank
đã tiên phong 7 lần giảm lãi suất cho vay trong đó có 4 lần giảm lãi suất cho vay đối với
các lĩnh vực ưu tiên; 9 lần giảm phí dịch vụ; đồng thời triển khai các chương trình tín

dụng với lãi suất cho vay thấp hơn từ 0,5%- 2,5% so với trước khi có dịch bệnh Covid-19
để đáp ứng nhu cầu của từng nhóm đối tượng khách hàng.
Nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 trong hệ thống từ tháng
4/2020, Agribank thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ ngun
nhóm nợ đối với tất cả khách hàng của Agribank bao gồm pháp nhân và cá nhân gặp khó
khăn do bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19.
Trong những tháng đầu năm 2020, khi dịch bệnh bắt đầu bùng phát, Agribank đã kịp thời
triển khai gói tín dụng 100.000 tỷ đồng hỗ trợ khách hàng vay vốn bị ảnh hưởng bởi dịch
Covid-19 để khắc phục khó khăn, ổn định sản xuất kinh doanh, đảm bảo an sinh xã hội
Trong bối cảnh tín dụng tăng trưởng chậm, Agribank vẫn tích cực triển khai đồng bộ
nhiều giải pháp để tăng trưởng huy động vốn phù hợp với cân đối vốn, đảm bảo hiệu quả
kinh doanh, tiết giảm chi phí để tạo tiền đề khơi thơng dịng vốn tín dụng, hỗ trợ người
dân, doanh nghiệp khắc phục khó khăn, phục hồi sản xuất kinh doanh. Tính từ thời điểm
dịch bệnh xảy ra đến nay, Agribank đã thực hiện cơ cấu lại nợ trên 33.000 tỷ đồng; Miễn,
giảm lãi trên 5.000 tỷ đồng; Hạ lãi suất đối với hơn 33.000 tỷ đồng dư nợ; Cho vay mới


với doanh số gần 120.000 tỷ đồng, trong đó cho vay theo chương trình ưu đãi lãi suất đạt
hơn 74.000 tỷ đồng.
2.2. Ngân hàng Ngoại Thương (VCB)
Kế hoạch dự phòng của Vietcombank bao gồm đầy đủ các khía cạnh về: Y tế, Nhân sự,
Kinh doanh và Truyền thông đã được xây dựng, chuẩn bị và triển khai tại tất cả các đơn
vị trong hệ thống Vietcombank (Trụ sở chính, các Chi nhánh trên tồn quốc, các Cơng ty
trực thuộc và Văn phịng đại diện trong và ngồi nước).
Ngay từ ngày 10/2/2020, Vietcombank đã chủ động, tiên phong công bố các giải pháp cụ
thể, rõ ràng để hỗ trợ doanh nghiệp bị ảnh hưởng do dịch COVID-19 thông qua việc
miễn, giảm lãi; giảm phí, thực hiện cho vay mới và cơ cấu lại các khoản nợ; được thực
hiện ngay từ ngày 11/2/2020. Để hỗ trợ giảm chi phí hoạt động cho doanh nghiệp và
người dân, Vietcombank đã thực hiện đồng bộ việc giảm/ưu đãi lãi suất cho vay và giảm
phí dịch vụ cho khách hàng.

2.3. Ngân hàng Công Thương Việt Nam (Vietinbank)
Ngay từ đầu năm 2020, trước diễn biến của dịch Covid-19, bám sát chỉ đạo của Chính
phủ, Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam;
VietinBank đã triển khai kịp thời các biện pháp ứng phó và phòng ngừa dịch bệnh theo
khuyến cáo của Bộ Y tế cho cán bộ, nhân viên (CBNV) và khách hàng (KH). VietinBank
đã chủ động quan tâm, chăm lo cho CBNV bằng việc cấp phát khẩu trang, nước rửa tay
diệt khuẩn, mua bảo hiểm Covid-19, phun thuốc khử trùng khu vực làm việc...
Đối với các KH cá nhân và KHDN, VietinBank đã triển khai giải pháp về ứng xử tín
dụng và ưu đãi lãi suất (LS) hỗ trợ phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh (SXKD) như:
- Thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn/giảm lãi vay, tạm thời giữ nguyên nhóm nợ
đối với các khoản vay có dư nợ gốc và/hoặc lãi đến kỳ hạn trả nợ trong thời gian từ ngày
23/1/2020 đến ngày 31/3/2020. Bên cạnh đó, VietinBank dành 15.000 tỷ đồng và 150
triệu USD để triển khai chương trình thúc đẩy tăng trưởng tín dụng ngắn hạn với LS cho
vay KH là 5% đối với VND và 2,8% với USD.
Các giải pháp tín dụng được VietinBank triển khai mạnh mẽ khi đồng thời xem xét cho
KH vay mới/tiếp tục vay vốn để duy trì hoạt động SXKD trên cơ sở KH đáp ứng đầy đủ
các quy định hiện hành của VietinBank, thực hiện cơ cấu nợ, miễn giảm lãi theo quy định
của NHNN.


3. NHTM cần chuẩn bị gì cho hậu Covid-19

Hầu hết các cuộc khủng hoảng kinh tế có đặc trưng là nhiều vấn đề kinh tế nghiêm trọng
tồn tại âm ỉ lâu dài, đến thời điểm bung ra và không thể "đỡ" được nữa nên tạo ra khủng
hoảng. Với Covid-19, dù nền kinh tế thế giới đang có xu hướng chững lại, song năng lực
sản xuất và chế biến của các DN đang vận hành, các nguồn cung cấp đầu vào, các cơ hội
và triển vọng cũng không phải thiếu.
Covid-19 đã ảnh hưởng tiêu cực tới lĩnh vực du lịch, nhà hàng, khách sạn; đối với nông
lâm hải sản bị ảnh hưởng bởi gián đoạn xuất khẩu; đối với các DN sản xuất khác thì vận
hành có thể bị tạm dừng. Nếu Covid-19 được kiểm sốt, thì các hoạt động sản xuất kinh

doanh của tất cả các ngành sẽ được "bung ra" sau khi bị "nén" lại.
Do vậy, các NHTM cần thực hiện:
- Chuẩn bị kịch bản để tăng trưởng tín dụng trở lại: Lựa chọn khách hàng, ngành hàng
nào để tập trung phát triển, đa dạng hóa danh mục đầu tư....Đồng thời xây dựng các giải
pháp để thu hồi, xử lý nợ xấu nếu xảy ra.
- Tính tốn chi phí đầu vào để cho vay khách hàng với lãi suất rẻ mà vẫn đảm bảo hoạt
động ngân hàng có hiệu quả... Đặc biệt là, các NHTM cần phải rà soát, cắt giảm các
khoản chi phí khơng hiệu quả, tăng năng suất lao động,... để giảm chi phí đầu vào.
- Các NHTM cần phải có chiến lược, mục tiêu cụ thể để thực hiện tái cơ cấu hoạt động
của mình như: cơ cấu doanh thu, cơ cấu chi phí, cơ cấu khách hàng, cơ cấu nhân sự, danh
mục đầu tư... xây dựng được một NHTM hoạt động tự chủ, đa dạng hóa hoạt động ngân
hàng, ít phụ thuộc hơn vào hoạt động tín dụng, có khả năng chống và thích ứng với các
biến động nhiều hơn.


- Đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng, hệ thống công nghệ thông tin để đẩy nhanh hơn nữa hoạt
động Ngân hàng thương mại điện tử, theo đuổi và đón bắt được vơi xu thế cơng nghệ của
thế giới.
- Xây dựng các kịch bản phòng chống rủi ro, trong đó có cả những kịch bản phịng chống
rủi ro các đại dịch như Covid-19.
Đại dịch Covid-19 đã và đang tác động tiêu cực đến kinh tế thế giới nói chung và Việt
Nam nói riêng. Trong hồn cảnh này, các NHTM cần phải phân tích, đánh giá được
những thách thức và cơ hội để có những giải pháp ứng phó kịp thời nhằm giảm thiểu nhất
những rủi ro trong đại dịch này.


PHẦN KẾT LUẬN
Đại dịch Covid-19 đã và đang tác động tiêu cực đến kinh tế thế giới nói chung và Việt
Nam nói riêng. Trước tình hình này, hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng như các NHTM
đã tích cực thực hiện, triển khai nhiều giải pháp để hỗ trợ khách hàng cùng vượt qua khó

khăn. Tuy nhiên, trong q trình thực hiện, bản thân các NHTM cũng phải đối mặt với
nhiều thách thức. Vì thế, trong hồn cảnh này, các NHTM cần phải phân tích, đánh giá
được những thách thức và cơ hội để có những giải pháp ứng phó kịp thời nhằm giảm
thiểu những rủi ro trong nhiều năm hậu dịch.



×