Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Top 10 bai dien thuyet hay nhat cua the ky 20

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (286.25 KB, 14 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Top 10 Những bài diễn thuyết </b>
<b>Nổi tiếng nhất thế kỷ 20 </b>


Những bài diễn thuyết của các các nguyên thủ quốc gia, các nhà
hoạt động xã hội, các chính khách lỗi lạc… khơng những chỉ đơn
giản là một thơng điệp có tính xã hội hóa cao, tác động rộng lớn.
Hơn những thế, chúng còn là một phần của văn hóa nhân loại, có


sức lay động lịng người và cịn ngun tính thời sự dù trãi qua
những thời điểm biến đổi trong lịch sử nhân loại. Tìm kiếm, chọn


lọc những bài diễn văn nổi tiếng nhất thế kỷ 20 vẫn còn là việc
làm mất nhiều thời gian của các nhà văn, các nhà sử học. Xin giới


thiệu tới bạn đọc dưới đây danh sách top 10 bài diễn thuyết đáng
nhớ nhất trong thế kỷ 20.


1. George Bush – Trật tự thế giới mới:


Năm 1991, thế giới chuyển hướng sang một bước ngoặt mới mà
nó chưa hề trãi qua trong lịch sử. Cuộc chiến tranh lạnh kéo dài
dai dẵng đã chính thức kết thúc, cộng đồng quốc tế hướng sự chú


ý vào Trung đông. Ngày 6/03 năm đó, Tổng thống Mỹ George
Herbert Walker Bush đứng trên diễn đàn, đọc một bài diễn văn


quan trọng trước quốc hội phản ảnh chính sách ngoại giao của
chính phủ Mỹ thời bấy giờ.


Trong khi bài diễn văn ở một nghĩa nào đó nêu lên những toan
tính của nước Mỹ sau cuộc chiến tranh Vùng Vịnh, khơng chỉ vậy


nó cịn mang một thông điệp lớn lao hơn nữa. Bush bàn đến một
khái niệm mới gọi là Trật tự thế giới mới – cái mà ông mô tả như
là một nỗ lực tái thiết hướng tới một thế giới đoàn kết toàn diện.
Tuy nhiên, những chính trị gia đối lập cho rằng nội dung của bài
diễn văn đó chỉ nhằm thể hiện mong muốn của Mỹ là trở thành
một ‘sen đầm quốc tế’ – một sức mạnh duy nhất thống lĩnh, kiểm


soát tất cả các quốc gia tồn cầu.


Trích đoạn: “Ngày nay, chúng ta có thể thấy một thế giới mới
trong tầm ngắm. Một thế giới trong đó có một triển vọng về một


trật tự mới”.


2. Malcolm X – Thách thức cộng đồng Mỹ gốc Phi:


Malcolm Little đã sớm vướng vào cuộc sống tội lỗi, đã từng phải
ngồi tù 6 năm cho tội ăn trộm. Sau khi mãn hạn tù, Malcolm Little


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

đồng người Mỹ gốc Phi đứng lên đấu tranh vì quyền lợi của họ.
Sau khi bất hịa với lãnh tụ tinh thần của tổ chức Hồi giáo Quốc
gia thời đó - Elijah Muhammad, Malcolm X – một người lúc đó cịn
nổi tiếng hơn cả lãnh tụ Muhammad, bị yêu cầu phải im lặng và từ


bỏ các chiến dịch tranh đấu nhân quyền.


Ngày 8/03/1964, Malcolm X chính thức tuyên bố rời bỏ tổ chức
Hồi giáo Quốc gia và thành lập tổ chức của riêng mình có tên gọi


Tổ chức Thống nhất Người Mỹ gốc Phi. Trong bài diễn văn cũng


được đọc tại Thành phố New York, Malcolm X cho rằng Mục sư
Martin Luther King là một người đi ngược các sứ mệnh công dân.


Malcolm X luôn tin rằng quần chúng phải tự bảo vệ bằng bất cứ
phương thức nào cần thiết (trong khi Martin Luther King chủ


trương đấu tranh bất bạo động).


Trích đoạn: “Sẽ khơng có hịa hợp giữa người da đen và da trắng
cho đến khi có sự hòa hợp của người da đen trước tiên”.


3. Ronald Reagan – Tây Đức:


Sau chiến tranh thế giới thứ II, Liên xô nổi lên như một kẻ thù
mới của các thế lực phương Tây. Nước Đức bị chia cắt làm hai,
phần phía Đơng bị chiếm đóng và kiểm sốt bởi Cộng sản. Để
ngăn cản dòng người Đồng Berlin tỵ nạn ồ ạt đổ về hướng Tây,
một bức tường khổng lồ được xây dựng thành biên giới ngăn cách
ngay giữa thành phố vào năm 1961. Trong suốt ba thập niên, bức
tường này trở thành biểu tượng của sự kiểm soát của chính quyền


cộng sản.


Vào ngày 12/06/1987, Tổng thống Reagan dừng chân ở Tây Berlin
và phát biểu trước cổng Brandenburg để kỷ niệm sinh nhật lần
thứ 750 của thành phố. Trước lợi thế của xu thế mở cửa, cởi mở


của Moscow, Reagan lên tiếng phê phán chủ nghĩa cộng sản và
kêu gọi tháo bỏ bức tường Berlin. Chính những lời kêu gọi này đã



dẫn đến một phong trào lên tiếng kêu gọi tự do. Và nó mang lại
tác dụng, khi cuối cùng bức tường được khai thông vào năm 1989


và cuối cùng bị giật sập vào năm 1990.


3 Trích đoạn: “Mr. Gorbachev, hãy mở cổng này!, Mr. Gorbachev,
hãy giật đổ bức tường này!”


4. John F. Kennedy – Con người trên mặt trăng:


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Trước hết là cuộc chạy đua về mặt qn sự, vũ khí hạt nhân ln
được đặt trong tình trạng sẵn sàng khai hỏa. Kế đến là cuộc chạy


đua trong không gian, với hai siêu cường quyết tâm trở thành
quốc gia đầu tiên đưa người vào vũ trụ. Nhưng vào ngày


12/09/1962, Tổng thống Kennedy đã chiếm ưu thế.


Trong khi phía Xơ viết ln dẫn đầu trong cơng cuộc thám hiểm
không gian, Kennedy tuyên bố tại Đại học Rice University
(Houston, Texas) rằng nước Mỹ sẽ bằng mọi nỗ lực đưa người lên
mặt trăng vào cuối thập niên. Mặc dù, ông ta đã tuyên bố vấn đề
này sớm hơn 1 năm (25/05/1961), bài diễn văn này tái xác nhận
cam kết của ông ta trong nhiệm vụ thám hiểm mặt trăng, và điều


đó thành sự thật. Nó mang đến cho người Mỹ một giấc mơ, một
mục tiêu chung và là nguyên nhân của niềm tự hào quốc gia.
Trích đoạn: “Chúng ta chọn lựa thám hiểm mặt trăng trong thập
kỷ này và làm nhiều việc khác, khơng phải vì chúng dễ dàng, mà



bởi vì chúng rất khó khăn và đầy thử thách”.
5. Lou Gehrig – từ giã bóng chày:


Trong nửa đầu thế kỷ 20, bóng chày chỉ là một quá khứ đối với
nước Mỹ như chưa hề xãy ra như vậy trước kia. Các trận đấu cực


kỳ sôi động, các cầu thủ rất điệu nghệ và nhiệt tình, và các cổ
động viên thì tìm thấy được một trị chơi ngồi trời hào hứng.


Trong đời đại có quá nhiều những anh hùng từ đời thực, Lou
Gehrig là một nhân vật vĩ đại. Anh ta là một tay chơi siêu đẳng


với kỷ lục 2 130 trận liên tục.


Rủi thay, anh ta bị chẩn đoán với chứng bệnh teo cơ, thế là sự
nghiệp lẫy lừng 17 năm với đội New York Yankees đến đoạn kết.
Vào ngày 04/07/1939, một buổi lễ được tổ chức tại sân vận động


Yankee Stadium để vinh danh Lou Gehrig – “Con ngựa sắt”. Anh
ta nhận được vô số giải thưởng, và cuối cùng phải tuyên bố giải
nghệ, từ giả sân bóng trước đám đông 60 ngàn người. Anh ta đề
cập đến căn bệnh của mình, nhưng phần lớn thời gian nói về tình


u đối với mơn bóng chày.


Trích đoạn: “Tơi cho rằng mình là một người may mắn nhất trên
hành tinh này”.


6. Mẹ Teresa - National Prayer Breakfast:



</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

huyền thoại Mẹ Teresa – hiểu được rằng thế kỷ 20 là thời điểm
của những đau khổ, chịu đựng cùng cực nhất. Bà trở thành nữ tu


sĩ Thiên chúa giáo ở tuổi 18 và từ bỏ quê hương để đến làm việc
thiện nguyện tại Calcutta. Tuy nhiên, năm 1948 – bà cho rằng


mình chưa cống hiến hết sức mình nên rời nhà trường nơi bà
giảng dạy để thành lập Missionaries of Charity. Trong suốt phần


còn lại của cuộc đời, bà đã làm hết sức mình để giúp đở những
người nghèo cùng khổ tại Aán độ.


Ngày 03/02/1994, Mẹ Teresa được lưỡng viện Hoa kỳ mời đến
Washington để tham gia National Prayer Breakfast. Bài diễn văn
của Bà được diễn đạt dưới hình thức một lời khẩn cầu làm cho các
cường quốc Tây Phương quan tâm nhiều hơn đến trẻ em. Bà cũng


lên tiếng chống lại việc nạo phá thai. Hành động của bà khởi
nguồn cảm hứng cho hàng triệu người khác khắp nơi trên thế giới.


Cho đến ngày nay, tổ chức thiện nguyện của bà là tổ chức duy
nhất của Thiên chúa giáo có số thành viên tiếp tục gia tăng.
Trích đoạn: “Chúng ta hãy có cùng một cam kết – rằng sẽ khơng


có bất cứ đứa trẻ nào bị bất hạnh, bỉ bỏ rơi, bị thiếu tình u,
thiếu chăm sóc, bị giết hại hay bị vứt bỏ. Và hãy hiến tặng cho


đến tận cùng – với một nụ cười”.


7. Richard M. Nixon – Hiệp ước hịa bình Việt nam:



Người Mỹ dính líu đến cuộc chiến tranh Việt Nam chỉ trong vòng
một thập niên, nhưng sự hỗn độn, bất ổn trong khu vực đã kéo
dài nhiều hơn thế nữa. Trước 1968, trong xã hội Mỹ có một quan
điểm đã trở nên phổ biến lúc đó cho rằng cuộc chiến tranh khơng
có nghĩa gì ngồi một sự sa lầy, phi chính nghĩa đã cướp đi sinh


mạng của bao nhiêu lính Mỹ. Năm đó, những vịng hịa đàm bí
mật được tiến hành giữa chính quyền Nixon và đại diện của chính


phủ Bắc Việt Nam. Nó mất 5 năm để đến ngày 23/01/1973, tổng
thống Nixon tuyên bố trước quốc gia rằng đã đạt được một hiệp


ước hịa bình.


Từ Washington, Nixon giải thích rằng một nền hịa bình bằng mọi
giá cần phải được tránh, những gì được thừa nhận phải là hịa
bình trong danh dự. Bốn ngày sau đó, bản hiệp ước được ký kết
và quân đội Mỹ bắt đầu rút quân khỏi Đông Nam Á. Hai năm sau,


khi người Mỹ cuối cùng rút lui, Sài gòn sụp đổ.


Trích đoạn: “Điều quan trọng là khơng phải là đề cập đến hịa
bình, nhưng phải đạt được hịa bình và đạt được hịa bình đúng


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

8. Franklin D. Roosevelt – Tuyên bố chiến tranh:


Một trong những tác động của thời kỳ đại suy thoái là làm cho
nước Mỹ bị cơ lập với phần cịn lại của thế giới. Cả đất nước trong



tình trạng bi quan, và xu hướng chung ta hàn gắn những ‘vết
thương’ quốc nội trước khi tham gia vào chính trường thời sự quốc


tế. Kết quả là, nước Mỹ chọn không giúp Anh vào thời gian đầu
của thế chiến II.


Nhưng ngày 07/12/1941 – một ngày được nhớ như một sự sỉ nhục
– Nhật bản ồ ạt tấn công hải quân Mỹ tại Trân Châu Cảng. Ngày
kế tiếp, 08/12 – Tổng thống Roosevelt yêu cầu quốc hội chuẩn y
việc tuyên chiến trong một bài diễn văn cảm động. Những sự kiện


trong buổi sáng chủ nhật kinh khiếp đó cùng với bài diễn thuyết
gây cảm hứng của Tổng thống đã thúc giục nước Mỹ vào cuộc
chiến – và chiến thắng – trong cuộc chiến quân sự khốc liệt nhất


trong lịch sử.


Trích đoạn: “Khơng cần biết chúng ta cần bao lâu để vượt qua
được sự xâm lược có toan tính này, người Mỹ – với tất cả sức
mạnh của công lý và lẽ phải sẽ đi đến chiến thắng một cách tuyệt


đối.”


9. Martin Luther King, Jr. – Cuộc diễn hành tại Washington:
Tương tự như nhiều vĩ nhân, Martin Luther King không phải là
người được chuẩn bị để trở thành vĩ nhân. Ơng ta chỉ là một mục


sư bình thường tại hạt Montgomery (Alabama) cho đến sự kiện
nổi tiếng 382 ngày tẩy chay của hệ thống xe bus thành phố. Ông



ta tham gia vào sự kiện bằng cách vận động cộng đồng người da
đen. Sau đó, ơng đi khắp đất nước hỗ trợ các cộng đồng sắc tộc


tự tổ chức các cuộc diễu hành đòi nhân quyền.


Sự phản kháng mạnh mẽ nhất của Martin Luther King, tuy nhiên
xuất hiện ngày 28/08/1963 với sự kiện sau này được biết đến là
Cuộc diễn hành tại Washington. Nói chuyện trước đám đơng 200
ngàn người nhiều chủng tộc, nhiều màu gia, đa tôn giáo, King đề


cập đến sự phân biệt chủng tộc, đến sự đấu tranh bất bạo động
và tương lai thế giới. Lý thú thay, phần quan trọng nhất của bài
diễn văn (“Tơi có một giấc mơ”) thực tế được ứng khẩu tại chỗ.
Cảm hứng từ học thuyết Gandhi, sự ủng hộ tích cực của King vào


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Trích đoạn: “Tơi có một giấc mơ…”
10. John F. Kennedy – Diễn văn nhậm chức:


Mặc dù John F. Kennedy thường được đề cập như Tổng thống Mỹ
vĩ đại nhất trong lịch sử nước Mỹ, và với nhiều người ơng cịn
được tơn sùng như một đấng cứu thế – ông được trúng cử tổng
thống với chỉ 115 ngàn phiếu cách biệt. Không những ông là Tổng


thống theo dòng Thiên Chúa La Mã đầu tiên mà còn là một Tổng
thống trẻ nhất (43 tuổi). Ông tuyên thệ nhậm chức Tổng thống
Mỹ thứ 35 vào ngày 20/01/1961 tại bậc thềm trụ sở quốc hội Mỹ.
Tuổi trẻ của ông là đại diện cho một thế hệ trẻ với khát vọng thay
đổi. Oâng kêu gọi dân chúng Mỹ tham gia vào công cuộc tái thiết,
xây dựng đất nước giàu mạnh hơn, vĩ đại hơn. Chính bài diễn văn
nhậm chức đã dẫn đến sự xóa bỏ nạn phân biệt chủng tộc và kêu


gọi người Mỹ chấp nhận trách nhiệm của một đất nước dẫn đầu


thế giới và chấp nhận những thách thức mới.


Trích đoạn: “Đừng hỏi đất nước đã cho bạn những gì, hãy tự hỏi
bạn đã làm gì cho đất nước”.


Lê Mai Thanh


Bách khoa tồn thư mở Wikipedia


Bước tới:

menu

,

tìm kiếm



</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Rosa Parks · Barack Obama · Toni


Morrison



Condoleezza Rice · M. L. King, Jr. · Colin


Powell



Malcolm X · Michael Jackson · Oprah


Winfrey



<b>Tổng dân số</b>



<b>Người Mỹ gốc Phi</b>



<b>37.334.570</b>

[1]


12,38% dân số Hoa Kỳ


trong đó:




<b>Da đen khơng nói tiếng Tây Ban</b>


<b>Nha</b>



<b>36.657.280</b>

[1]


12,15% dân số Hoa Kỳ



<b>Da đen nói tiếng Tây Ban Nha</b>


<b>677.290</b>

[1]


0, 23% dân số Hoa Kỳ



Khu vực đông người sinh sống


Hoa Kỳ

38.662.569

[2][3]


Liberia

150.000



<b>Lịch sử</b>



Nội chiến

<b> · Phong trào Dân quyền</b>



<b>Văn kiện</b>



Tuyên ngôn Giải phóng Nơ lệ

<b> · Ngơi</b>


<i>nhà bị chia cắt · </i>

Diễn văn Gettysburg



<b> · Túp lều của Bác Tom</b>

<i><b> · Tơi có một</b></i>



<i><b>giấc mơ</b></i>




<b>Ngơn ngữ</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Tiếng Pháp

<b> · Các ngôn ngữ châu Phi</b>


<b>Tôn giáo</b>



Cơ Đốc giáo

(đa số theo

Kháng Cách


hoặc

Công giáo Rôma

<b>) · </b>

Hồi giáo

<b> · </b>

Do



Thái giáo

<b> · </b>

Phật giáo

<b> · </b>

Vô thần

<b> · Các</b>



Tôn giáo khác



<b>Nhân vật</b>



W. E. B. Du Bois ·

Martin Luther


King, Jr.

<b> · </b>

Malcolm X

<b> · Jesse Jackson</b>



<b> · </b>

Condoleezza Rice

<b> · </b>

Toni Morrison


<b> · </b>

Oprah Winfrey

<b> · </b>

Michael Jackson

<b> ·</b>



Barack Obama



<i>Xin xem các mục từ khác có tên tương tự ở </i>

<i>Tơi có một giấc mơ </i>



<i>(định hướng)</i>

<i>.</i>



<i><b>"Tơi có một giấc mơ" (I Have a Dream) là tên phổ biến của bài </b></i>


diễn văn nổi tiếng nhất của

Martin Luther King, Jr.

, khi ơng nói,


với sức mạnh thuyết phục của tài hùng biện, về ước mơ của ông



cho tương lai của nước

Mỹ

, khi người da trắng và người da đen có


thể sống chung hồ thuận như những con người bình đẳng. Ngày



28 tháng 8

năm

1963

, King đọc bài diễn văn này từ những bậc


thềm của

Đài Tưởng niệm Lincoln

trong cuộc

Tuần hành đến


Washington vì Việc làm và Tự do

. Ấy là thời điểm quyết định cho


Phong trào Dân quyền Mỹ

. Bài diễn văn, theo giới học giả về



thuật hùng biện

, là một trong những bài diễn văn vĩ đại nhất trong



lịch sử

và là bài diễn văn xuất sắc nhất

thế kỷ 20

.


<b>Mục lục</b>


[

ẩn

]



1 Phong cách



2 Tranh cãi về bản quyền


3 Chú thích



</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

<b>[sửa] Phong cách</b>



Martin Luther King, Jr.

<i> đọc bài diễn văn Tơi Có một Giấc mơ tại </i>


Cuộc Diễu hành vì Quyền Cơng dân ở

Washington, D.C.



Được ca tụng như là một kiệt tác của

thuật hùng biện

, bài diễn văn


của King được định hình theo phong cách thuyết giáo của các

mục


da đen thuộc giáo phái

Baptist

, thường viện dẫn từ những



nguồn có giá trị thiêng liêng và được mọi người tơn trọng như




Kinh Thánh

,

Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ

,

Tun ngơn Giải


phóng Nơ lệ

Hiến pháp Hoa Kỳ

.



Thông qua thủ thuật hùng biện để kiến tạo những liên tưởng (định


nghĩa bởi Campell và Huxman (2003) như là "những trích dẫn


gián tiếp từ kiến thức văn hố chung của người Mỹ như Kinh


Thánh,

thần thoại Hi Lạp

La Mã

, hoặc lịch sử nước Mỹ"), King


sử dụng ngơn từ và các trích đoạn từ những áng văn thâm th và


được u thích của văn hóa Hoa Kỳ để biến chúng thành sức



mạnh thuyết phục cho bài diễn văn của ông. Ngay từ phần đầu của


bài diễn văn, King đã mượn lời từ

Diễn văn Gettysburg

[4]

của



Abraham Lincoln

<i> khi ơng nói "Five score years ago..." (Một trăm </i>


năm trước...). Những gợi ý đến từ Kinh Thánh chiếm vị trí vượt


<i>trội. King trích dẫn từ Thi thiên (Thánh vịnh) 30.5</i>

[5]

trong đoạn



thứ nhì của bài diễn văn, khi nhắc đến điều khoản bãi bỏ nô lệ


<i>được ghi trong bản Tuyên ngơn Giải phóng Nơ lệ, ơng nói "Nó đã</i>



<i>đến như bình minh rộn rã để kết thúc đêm dài tăm tối của kiếp nô </i>


<i>lệ". Một gợi ý khác đến từ Kinh Thánh được tìm thấy trong đoạn </i>



<i>thứ mười của bài diễn văn: "Không, không, chúng ta không hài </i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

<i>xuống như nước chảy và sự chính trực như một dịng sơng", đến </i>



từ Amos 5.24

[6]

. King cũng trích dẫn từ Isaiah 40.4

[7]

khi ơng nói




<i>"Tơi có một giấc mơ, rồi có một ngày mọi thung lũng sẽ được </i>



<i>nâng cao, mọi đồi núi sẽ bị hạ thấp, chỗ lồi lõm sẽ được san </i>


<i>bằng, chỗ quanh co sẽ thành ngay thẳng, và sự vinh hiển của </i>



<i>Thiên Chúa</i>

<i> sẽ hiển lộ để mọi loài xác thịt cùng nhau chiêm </i>



<i>ngưỡng..."</i>



Sử dụng những chữ đầu một câu hoặc một phân đoạn để nhấn


mạnh, sắp xếp và đẩy một ý tưởng lên đỉnh điểm (Campbell &


Huxman, 2002, p. 177) là phép hùng biện được King sử dụng suốt


bài diễn văn. Một ví dụ được tìm thấy ngay từ đầu khi King dẫn


<i>đưa đám đông đến cao trào: "Nay là lúc..." được lặp lại bốn lần </i>


<i>trong đoạn thứ sáu của bài diễn văn. Nổi tiếng nhất là câu nói "Tơi</i>



<i>có một giấc mơ..." được lặp lại tám lần khi King phác hoạ bức </i>



tranh hoà hợp chủng tộc của một nước Mỹ hiệp nhất.


<b>[sửa] Tranh cãi về bản quyền</b>



Vì King thường phát những bản sao bài phát biểu của ông cho


công chúng tại nơi diễn thuyết, đã có thời gian người ta tranh cãi


về tình trạng bản quyền các bài phát biểu của ông. Việc này đã


<i>dẫn đến một vụ kiện, Công ty tài sản của Martin Luther King, Jr. </i>



<i>kiện Công ty CBS, được tuyên là bên tài sản của King giữ bản </i>



quyền bài phát biểu và có quyền kiện. Việc sử dụng toàn văn hoặc


một phần bài phát biểu mà chưa được cho phép vẫn có thể sử



dụng trong một vài tình huống, đặc biệt là với lý do

sử dụng hợp


hoặc trích dẫn hợp lý. Theo luật hiện hành thì bài phát biểu vẫn


được Hoa Kỳ bảo hộ bản quyền cho đến năm 2038, tức là 70 năm


sau khi King mất.



<b>[sửa] Chú thích</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Tám mươi bảy năm trước ơng cha chúng ta đã khai sinh ra trên


lục địa này một quốc gia mới, được thai nghén trong Tự do, và


sống hiến dâng cho lý tưởng được đề ra, rằng tất cả mọi người


được tạo hóa sinh ra bình đẳng.



Giờ đây chúng ta bị lâm vào một cuộc nội chiến lớn, thử thách


xem quốc gia này, hay bất cứ quốc gia nào được thai nghén và


sống hiến dâng như thế, có thể tồn tại được lâu dài hay không.


Chúng ta gặp nhau trên một chiến trường lớn của cuộc chiến này.


Chúng ta đến để hiến dâng một phần đất nhỏ của chiến trường này


làm nơi an nghỉ cuối cùng cho những người đã để lại mạng sống


mình tại đây, để cho quốc gia này có thể tồn tại. Tất cả đều phù


hợp và chính đáng để chúng ta làm việc này.



Tuy nhiên, theo một nghĩa rộng hơn, chúng ta không thể hiến


dâng – không thể tôn phong – không thể thánh hóa – miếng đất


này. Chính những con người dũng cảm đã chiến đấu tại đây, dù


còn sống hay đã chết, đã làm thiêng liêng nó, vượt xa khả năng


kém cỏi của chúng ta để thêm hay bớt đi điều gì cho nó. Thế giới


sẽ ít chú ý, hay nhớ lâu những gì chúng ta nói ở đây, nhưng sẽ


khơng bao giờ qn điều gì họ đã làm ở đây. Chính chúng ta,


những người cịn sống, mới phải hiến dâng mình cho cơng việc dở


dang mà những người chiến đấu ở đây đã tiến hành một cách cao



quý. Chính chúng ta mới là những người phải hiến dâng mình cho


nhiệm vụ lớn cịn ở trước mặt – rằng từ những người chết được


vinh danh này chúng ta sẽ nhận lấy sự tận tụy nhiều hơn cho sự


nghiệp mà họ đã cống hiến đến hơi thở cuối cùng – rằng chúng ta


ở đây sẽ có quyết tâm cao để cho những người đã ngã xuống sẽ


khơng hy sinh một cách phí hoài – rằng quốc gia này, dưới ơn trên


của Chúa, sẽ chứng kiến một cuộc sinh nở mới của tự do – và


rằng chính quyền của dân, do dân và vì dân, sẽ khơng biến mất


khỏi trái đất này.



</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

<i><b>Xem thêm: Hiến pháp Mỹ được làm ra như thế nào?</b></i>



<i>Trong ngày 17 tháng chín năm 1787, ngày họp cuối cùng của Hội</i>


<i>nghị Lập hiến, lễ ký kết bản Hiến pháp Hoa Kỳ đã diễn ra rất </i>


<i>trang nghiêm và cảm động. Đại biểu cao tuổi nhất, bác sĩ </i>



<i>Franklin đã viết một trong những bài diễn văn hay nhất của mình.</i>


<i>Nhưng tại ngày họp cuối cùng, trong số 55 đại biểu từng tham dự,</i>


<i>chỉ còn 42 người có mặt, và trong đó chỉ có 39 đại biểu đồng ý ký </i>


<i>vào bản Hiến pháp. Ba đại biểu Gerry, Mason và Randolph đã từ </i>


<i>chối ký và tuyên bố những lý do họ không thể ký vào bản Hiến </i>


<i>pháp. </i>



<i>Bản thảo Hiến pháp được đọc trước Hội nghị. </i>



<i>Benjamin Franklin đứng lên với bài phát biểu cầm trong tay, nhờ </i>


<i>ngài Wilson đọc giùm. </i>



Thưa Ngài chủ tịch,




Tơi thừa nhận rằng lúc này, có nhiều điểm trong bản Hiến pháp


này, tôi không thể chấp nhận. Nhưng tôi không chắc rằng tôi sẽ


không bao giờ chấp nhận nó. Tơi đã sống đủ lâu để hiểu rằng


chúng ta không nên dựa quá nhiều vào sự phán xét của chính bản


thân mình. Tơi thường thấy mình sai lầm ngay tại những điều ưng


ý nhất. Khi tôi càng nhiều tuổi, tôi càng nghi ngờ sự phán xét của


chính mình và quan tâm chú ý hơn đến những nhận xét của người


khác.



Hầu hết loài người, cũng như những giáo phái trên thế giới,



thường tự cho rằng mình mới là người hiểu biết sự thật và bất kể


ai khác với quan điểm của mình đều là sai lầm.



</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

Cơng giáo La Mã khơng thể sai lầm, cịn


Nhà thờ Tin lành nước Anh cũng không bao


giờ sai lầm.



Nhưng dù nhiều quý Ngài lại nghĩ rằng ý


kiến của mình, cũng như tơn giáo của mình


là khơng thể sai lầm thì một vài người đã


thể hiện tính cách giống như một cơ gái


Pháp, ln ln càu nhàu và bới móc mọi


lỗi lầm của những người xung quanh, để rồi


tự cho rằng ngồi mình ra, chẳng có ai làm


đúng cả.



Với những suy nghĩ đó, thưa Ngài, tơi đồng


ý với bản Hiến pháp này với mọi lỗi lầm


của nó nếu có, bởi tơi nghĩ rằng chúng ta



cần một chính quyền chung. Khơng một



chính quyền nào mang lại điều tốt đẹp cho dân chúng nếu không


được thiết lập đúng đắn.



Khi chúng ta nhóm họp tại đây, tập trung mọi sự khơn ngoan và


hiểu biết của mình, mọi q Ngài đều bị ràng buộc bởi những tâm


trạng, quan điểm và cả những nhầm lẫn, những lợi ích của địa


phương và những quan điểm ích kỷ của nhiều người khác. Vậy


nhưng nhóm họp như vậy có thể làm ra được điều gì hồn hảo?


Thưa Ngài, do đó, tơi cảm thấy kinh ngạc khi hệ thống này đã


hoàn hảo tới mức có thể và tơi nghĩ bản Hiến pháp này cũng làm


những kẻ thù của chúng ta ngạc nhiên, những kẻ đang tin tưởng


trông chờ rằng chúng ta cũng giống như những người xây dựng


Tháp Babel; rằng các tiểu bang của chúng ta đang ở bên bờ miệng


vực của sự tan rã, gặp nhau tại đây chỉ để cắt cổ họng người khác.



Benjamin Franklin,


Chủ tịch Ủy ban Hành


pháp Tiểu bang



Pennylvania, và là


chủ nhà của Hội nghị.


Ông là người nổi tiếng


khắp châu Âu và


nước Mỹ hơn bất kỳ


một cá nhân nào khác


cùng thời đại.



</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

<i>Hiến pháp Hoa Kỳ. Ảnh: elcivics.com</i>




Thưa Ngài, tôi đồng ý với bản Hiến pháp này bởi tôi chẳng thể hy


vọng một văn kiện xuất sắc hơn và tôi cũng không thể đốn chắc


rằng đó khơng phải là văn bản xuất sắc nhất. Những ý kiến nêu ra


những sai trái của Hiến pháp này là vì mong ước những điều tốt


lành cho dân chúng.



Tôi tin rằng số phận của chúng ta cũng là số phận của dân chúng


và vì sự thịnh vượng chung, chúng ta hãy chân thành và nhiệt tình


đồng tâm ca ngợi bản Hiến pháp này. Nếu được Quốc hội Hợp


bang chấp thuận và được các hội nghị tiểu bang phê chuẩn thì ảnh


hưởng của chúng ta sẽ được nhân rộng. Nhờ đó, một chính quyền


tốt đẹp sẽ được thiết lập.



Tóm lại, thưa ngài Chủ tịch, tôi thật sự mong ước mọi quý Ngài


tham dự Hội nghị này, những người vẫn còn những bất đồng về


bản Hiến pháp, theo gương tôi, nhân lúc này, hay nghi ngờ một


chút về tính khơng thể nhầm lẫn của chính mình và thể hiện sự


đồng lòng chân thành nhất bằng cách đặt chữ ký của mình vào văn


kiện này.



</div>

<!--links-->
<a href=' />

×