ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhiễm HIV ở người được Tổ chức Y tế thế giới (WHO) xem như là đại
dịch. Việc chủ quan đối với HIV càng làm tăng nguy cơ lan tràn bệnh.Tại Việt
Nam, kể từ ca nhiễm HIV đầu tiên được phát hiện vào năm 1990, đại dịch
HIV/AIDS đang ngày càng lan rộng. Tính đến cuối năm 2018 Việt Nam có
227.154 người nhiễm HIV, 85.194 người nhiễm HIV đang giai đoạn AIDS và
đã có trên 86.716 người nhiễm HIV đã tử vong.
Dịch HIV/AIDS ở Việt Nam trong những năm gần đây tiếp tục có xu
hướng giảm, tuy nhiên tốc độ giảm của dịch có xu hướng chậm lại, vì vậy để
thực hiện thành công mục tiêu Chiến lược quốc gia phịng, chống HIV/AIDS
đến năm 2020 và tầm nhìn năm 2030, tiến tới kết thúc dịch AIDS tại Việt
Nam vào năm 2030, thì việc điều trị ARV là một phần khơng thể thiếu của
mục tiêu 90-90-90, (90% số người chẩn đoán nhiễm HIV được điều trị ARV
liên tục và 90% số người được điều trị ARV kiểm soát được tải lượng vi-rút ở
mức thấp và ổn định, tức là tải lượng vi-rút HIV ở mức thấp dưới ngưỡng
phát hiện). Điều trị ARV là tổng thể các dịch vụ chăm sóc và hỗ trợ về y tế,
tâm lý và xã hội cho người nhiễm HIV/AIDS. Thuốc để điều trị là các chất
kháng retrovirus (ARV). Dùng ARV kịp thời có thể kéo dài tuổi thọ của người
bị nhiễm HIV, ngay cả khi HIV chuyển sang giai đoạn AIDS.Điều trị ARV
chủ yếu là điều trị ngoại trú và được chỉ định khi người bệnh có đủ tiêu chuẩn
lâm sàng, hoặc xét nghiệm và chứng tỏ đã sẵn sàng điều trị.
Hiện nay tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước đều đã triển khai
chương trình điều trị HIV/AIDS bằng thuốc ARV tại phịng khám ngoại trú
Bệnh viện đa khoa huyện Sốp Cộp cũng triển khai rất tích cực chương trình
này, bước đầu cũng đã đạt được nhiều kết quả tốt. Những trường hợp bị
nhiễm, bị ảnh hưởng bởi HIV và gia đình họ thơng qua tăng cường tiếp cận và
sử dụng các dịch vụ chăm sóc, hỗ trợ, điều trị HIV có chất lượng, đã giúp
người bệnh người nhà người bệnh có hiểu biết rõ hơn về HIV/AIDS, có sức
1
khoẻ để lao động và học tập, giảm tự ti với xã hội, giảm sự lây lan ra cộng
đồng. Tại phòng khám ngoại trú Bệnh viện đa khoa huyện Sốp Cộp, những
người có HIV dễ dàng được điều trị bằng thuốc kháng vi rút (ARV); khám sức
khỏe định kỳ; tư vấn tâm lý, xã hội, dinh dưỡng, phòng lây nhiễm HIV, kế
hoạch hóa gia đình.
Nhằm góp phần nâng cao hiệu quả điều trị cho bệnh nhân HIV/AIDS
và góp phần thực hiện tốt Chiến lược quốc gia phòng, chống HIV/AIDS đến
năm 2020 và tầm nhìn năm 2030, tiến tới kết thúc dịch AIDS tại Việt Nam
vào năm 2030, đồng thời tăng cường các hoạt động dự phòng lây nhiễm HIV,
xét nghiệm phát hiện và điều trị sớm HIV/AIDS, nhóm chúng tơi tiến hành
thực hiện đề tài: “Đánh giá tình hình sử dụng thuốc ARV trên bệnh nhân
HIV/AIDS tại phòng khám ngoại trú Bệnh viện đa khoa huyện Sốp Cộp”
Mục tiêu nghiên cứu
1. Đánh giá tính hiệu quả và tuân thủ điều trị trong sử dụng thuốc
ARV trên bệnh nhân HIV/AIDS và tại phòng khám ngoại trú Bệnh viện
đa khoa huyện Sốp Cộp tỉnh Sơn La.
2. Giải pháp quản lý và nâng cao kết quả điều trị bệnh nhân
HIV/AIDS tại phòng khám ngoại trú Bệnh viện đa khoa huyện Sốp Cộp
tỉnh Sơn La.
2
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tổng quan về HIV/AIDS.
1.1.1. Người nhiễm HIV
Người nhiễm HIV là người có mẫu huyết thanh dương tính với HIV khi
mẫu đó dương tính cả ba lần xét nghiệm bằng ba loại sinh phẩm với các
nguyên lý và kháng nguyên khác nhau (phương cách III).
1.1.2. Các giai đoạn nhiễm HIV/AIDS
Theo Tổ chức Y tế Thế giới tình trạng lâm sàng của người nhiễm
HIV/AIDS được chia làm 4 giai đoạn
1.1.3. Khái niệm về điều trị ARV: Điều trị kháng Retrovirus (ARV)
Năm 2009 Bộ Y tế đã ban hành quyết định 3003/QĐ- BYT “Hướng dẫn chẩn
đoán và điều trị nhiễm HIV/AIDS” áp dụng cho tất cả các cơ sở khám chữa
bệnh của Nhà nước, tư nhân và bán cơng.
Mục đích điều trị ARV và ngun tắc điều trị ARV
* Mục đích - Làm giảm tối đa và ngăn chặn lâu dài sự nhân lên của
virus.
- Phục hồi chức năng miễn dịch.
- Giảm tần suất mắc và tử vong do các bệnh liên quan đến HIV/AIDS.
- Cải thiện chất lượng cuộc sống và kéo dài thời gian sống.
- Làm giảm lây truyền HIV, ngăn ngừa lây HIV sau phơi nhiễm.
* Nguyên tắc cơ bản của điều trị chống Retrovirus:
Điều trị kháng retrovirus là một phần trong tổng thể các biện pháp
chăm sóc hỗ trợ về y tế, tâm lý và xã hội cho người nhiễm HIV .
Sự tuân thủ là yếu tố quan trọng quyết định thành công của điều trị
kháng retrovirus. Các thuốc kháng retrovirus chỉ có tác dụng ức chế sự nhân
lên của virus mà không chữa khỏi bệnh hoàn toàn nên người bệnh phải điều
trị kéo 2 dài suốt đời và phải áp dụng các biện pháp dự phòng để tránh lây
truyền cho người khác.
Chỉ định điều trị ARV:
Chỉ định dùng ARV khi ở trong giai đoạn AIDS theo các tiêu chí lâm
sàng và/hoặc số tế bào TCD4 hoặc tổng số TB lympho cụ thể như sau:
* Nếu có số TCD4
3
Giai đoạn IV, không phụ thuộc số TCD4 là bao nhiêu.
Giai đoạn III khi có số TCD4 < 350 tế bào/mm3 .
Giai đoạn I hoặc II khi có số TCD4 ≤ 200 tế bào/mm3 .
* Nếu khơng có số TCD4
Giai đoạn IV, không phụ thuộc số TCD4 là bao nhiêu.
Giai đoạn II hoặc III khi có số lympho bào ≤ 1.200 tế bào/mm3 .
Tuân thủ điều trị ARV:
Tuân thủ các nguyên tắc điều trị: uống đủ số lượng thuốc theo đúng
thời gian chỉ định:
Các biện pháp tổ chức và kỹ thuật: Xây dựng chế độ theo dõi và hỗ trợ
tuân thủ điều trị.
Sự hỗ trợ của gia đình và cộng đồng: Xác định người hỗ trợ và giám
sát, cung cấp tư vấn và hỗ trợ cho người giám sát;
Tác dụng phụ của các thuốc ARV
- Tác dụng phụ nhẹ của thuốc ARV: xuất hiện sớm và có thể tự khỏi:
Buồn nơn, tiêu chảy, đau đầu, mệt mỏi, khó chịu ở bụng, nổi mẩn nhẹ, buồn
ngủ, mất ngủ, ác mộng, chóng mặt.
- Thiếu máu do AZT. Phát ban do NVP. Nhiễm độc gan do NVP. Bệnh
lý thần kinh ngoại biên do D4T. Rối loạn phân bổ mỡ do D4T. Độc tính với
thận, ảnh hưởng lên sự phát triển Xương do TDF :
- EFV: Nhiễm độc nặng dai dẳng hệ thần kinh trung ương. Có thể gặp
chứng vú to ở nam, Gây dị dạng thai ở phụ nữ mang thai 3
- D4T: Toan lactic: tiến triển chậm và không đặc hiệu
- Xét nghiệm: tăng axit lactic, ALT, LDH, CPK và thiếu hụt anion,viêm
tụy: Đau bụng, buồn nôn, nôn, sốt; tăng amylase máu.
1.1.4. Đặc điểm dịch tễ HIV/AIDS.
Trong 40 năm qua, HIV/AIDS đã cướp đi sinh mạng của hơn 35 triệu
người trên thế giới. Theo số liệu thống kê của Tổ chức Y tế thế giới (WHO),
tính đến cuối năm 2017, khoảng 36,9 triệu người đang phải sống chung với
HIV. Trong năm 2017, đã có 940.000 người thiệt mạng trên thế giới do các
nguyên nhân liên quan đến HIV và 1,8 triệu ca nhiễm mới. Trong khi đó, 59%
số người lớn và 52% số trẻ em sống chung với HIV đã được điều trị liệu pháp
kháng retrovirus (ARV) suốt đời. Ghi nhận những tiến bộ trong nỗ lực ngăn
4
chặn lây nhiễm HIV/AIDS, nhưng theo ông Michel Sidibe, Giám đốc Chương
trình phối hợp của Liên hiệp quốc (LHQ) về HIV/AIDS (UNAIDS.
1.1.5. Đặc điểm dịch tễ HIV trên thế giới.
Tính đến năm 2018 (giai đoạn 2015-2018), tổng số người đang nhiễm
HIV trên toàn cầu là 36,7 triệu, số người nhiễm mới HIV trong năm 2018 là
2,1 triệu (người lớn 1,9 triệu), số tử vong do AIDS trong năm 2018 là 1,1 triệu
người. Kể từ khi bắt đầu đại dịch, 78 triệu người đã bị nhiễm HIV, 35 triệu
người đã chết vì các bệnh liên quan đến AIDS.
Tính đến tháng 12 năm 2015, 17 triệu người sống chung với HIV được
tiếp cận điều trị kháng virus, tăng từ 15,8 triệu trong tháng 6 năm 2015 và 7,5
triệu vào năm 2010, 46% của tất cả các bệnh nhân sống chung với HIV được
tiếp cận điều trị trong năm 2018, tăng từ 23% trong năm 2010, 49% của tất cả
các trẻ em sống với HIV được tiếp cận điều trị trong năm 2018, tăng từ 21%
trong năm 2010, 77% của phụ nữ mang thai nhiễm HIV được tiếp cận với
thuốc ARV để dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con vào năm 2015.
1.1.6. Đặc điểm dịch tễ HIV tại Việt Nam.
1.1.6.1. Đặc điểm dịch tễ bệnh HIV tại Việt Nam.
Tính đến cuối năm 2018, tồn quốc có 227.154 người nhiễm HIV đang
cịn sống được báo cáo, 85.194 người nhiễm HIV đang giai đoạn AIDS và đã
có trên 86.716 người nhiễm HIV đã tử vong. Trong số 227.154 người được
báo hiện nay đang cịn sống, nhưng có 24.717 người nhiễm HIV khơng xác
định được trên thực tế, những người này có thể trùng với những người quản lý
được nhưng thông tin cá nhân khơng chính xác nên khơng loại trừ được, hoặc
sợ kỳ thị họ cung cấp thông tin không đúng cho nhân viên y tế, do đó số quản
lý được, theo dõi được ở các tỉnh chỉ có 202.437. Theo ước tính, cả nước hiện
có khoảng 254.000 người nhiễm HIV trong cộng đồng, mỗi năm có khoảng
12.000-14.000 trường hợp mới nhiễm HIV. Như vậy ước tính hiện nay
có khoảng 80% người nhiễm HIV biết được tình trạng HIV của họ.
Trong số những người được báo cáo xét nghiệm mới phát hiện nhiễm
HIV trong năm 2015, nữ chiếm 34,1%, nam chiếm 65,9%, lây truyền qua
5
đường tình dục chiếm 50,8%, lây truyền qua đường máu chiếm 36,1%, mẹ
truyền sang con chiếm 2,8%, không rõ chiếm 10,4% [10].
So sánh số liệu nhiễm HIV/AIDS, tử vong báo cáo năm 2014, số
trường hợp nhiễm HIV phát hiện mới giảm 13%, số bệnh nhân AIDS giảm
1% và người nhiễm HIV tử vong giảm 1% [10].
Trong 5 năm qua, tiếp tục ghi nhận số người nhiễm HIV/AIDS và tử
vong hằng năm giảm, số trường hợp HIV dương tính phát hiện năm 2010 từ
17.800 xuống còn 10.195 ca năm 2015, tử vong giảm từ 3.300 ca năm 2010
xuống 2.130 ca năm 2015, số bệnh nhân AIDS từ 8.900 ca năm 2010 xuống
còn khoảng 6.130 ca năm 2015 [10].
Kết quả giám sát trọng điểm năm 2015, tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm
nghiện chích ma túy là 9,3%; phụ nữ bán dâm là 2,7% và MSM là 5,2% [10].
Các yếu tố nguy cơ lây truyền HIV ở Việt Nam giai đoạn hiện nay vẫn
là lây truyền HIV trong nhóm nghiện chích ma túy và từ nhóm nghiện chích
ma túy nhiễm HIV sang vợ, bạn tình của họ. Ngồi ra, có yếu tố nguy cơ mới
làm lây truyền HIV trong sử dụng ma túy tổng hợp ở giới trẻ và phụ nữ bán
dâm, dẫn đến tăng nguy cơ quan hệ tình dục tập thể không được bảo vệ, và
mại dâm nam, gồm nam bán dâm cho nam đồng tính, người chuyển giới nữ
[10].
1.1.6.2. Tình hình điều trị HIV tại Việt Nam.
Điều trị ARV được triển khai tất cả 63 tỉnh/thành phố, với 349 cơ sở
điều trị, 562 trạm y tế triển khai cấp phát thuốc ARV, triển khai điều trị trong
trại giam, cho đến cuối năm 2015 đã điều trị cho 106.423 bệnh nhân, tăng
14.000 bệnh nhân so với năm 2014. Trong năm 2015, điều trị đạt mốc
100.000 bệnh nhân, tăng số người điều trị ARV đạt 42% so với số ước tính
nhiễm HIV trong cộng đồng. Hiện nay cơng tác chăm sóc và điều trị đã triển
khai kiện tồn các phịng khám ngoại trú trên tồn quốc để có thể thực hiện
chi trả qua hệ thống bảo hiểm y tế. Ngoài ra tiêu chuẩn điều trị ARV đã mở
rộng, điều trị ngay cho tất cả các đối tượng nguy cơ cao, phụ nữ mang thai,
6
bệnh nhân Lao, cặp bạn tình nhiễm HIV... và đưa mức điều trị CD4 lên 500 tế
bào cho các đối tượng còn lại.
Nhằm hướng đến mục tiêu kết thúc AIDS vào năm 2030, Việt Nam
đang thực hiện mạnh mẽ các biện pháp can thiệp theo chiến lược 90 - 90 - 90.
Theo đó vào năm 2020, 90% người nhiễm HIV được biết tình trạng HIV của
họ, 90% người nhiễm HIV đã biết tình trạng nhiễm HIV được điều trị bằng
thuốc ARV và 90% người nhiễm HIV điều trị ARV đạt được tải lượng HIV
dưới ngưỡng ức chế. Việt Nam đang tập trung can thiệp vào quần thể có hành
vi nguy cơ cao theo hướng chăm sóc liên tục từ tiếp cận - xét nghiệm - điều trị
- duy trì điều trị với mục tiêu chẩn đoán sớm để điều trị sớm thông qua
phương pháp tiếp cận cộng đồng.
Tiếp cận mới trong chăm sóc và điều trị HIV/AIDS trong giai đoạn tới sẽ
tập trung vào việc mở rộng điều trị ARV, lồng ghép điều trị HIV/AIDS vào hệ
thống y tế chung, ưu tiên hệ thống chăm sóc sức khỏe ban đầu, chuyển các dịch
vụ chẩn đốn, chăm sóc, điều trị, dự phòng và hỗ trợ HIV/AIDS vào hệ thống y
tế
1.2. Tổng quan về điều trị HIV/AIDS
1.2.1. Mục đích và nguyên tắc điều trị
1.2.1.1.Mục đích
- Ngăn chặn tối đa và lâu dài quá trình nhân lên của HIV trong cơ thể;
- Phục hồi chức năng miễn dịch [9].
1.2.1.2. Lợi ích của điều trị ARV sớm
- Giảm tỷ lệ mắc bệnh và tử vong liên quan tới HIV;
- Giảm mắc các bệnh NTCH;
- Dự phòng lây truyền HIV từ người nhiễm sang người khác (bạn tình/
bạn chích);
- Dự phịng lây truyền HIV từ mẹ sang con;
- Là biện pháp chi phí hiệu quả [9].
7
1.2.1.3.Nguyên tắc điều trị
- Phối hợp thuốc: Dùng phối hợp ít nhất 3 loại thuốc ARV;
- Điều trị sớm: Điều trị ngay khi người bệnh đủ tiêu chuẩn nhằm ngăn
chặn khả năng nhân lên của HIV, giảm số lượng HIV trong máu và giảm phá
hủy tế bào miễn dịch;
- Điều trị liên tục, suốt đời: người bệnh cần được điều trị ARV suốt đời
và theo dõi trong suốt quá trình điều trị;
- Đảm bảo tuân thủ điều trị ARV: người bệnh cần thực hiện uống thuốc
đúng liều, đúng giờ, đúng cách theo chỉ định[9].
1.2.2. Tiêu chuẩn bắt đầu điều trị ARV
1.2.2.1.Theo Quyết định 3003/QĐ-BYT ngày 19/8/2009, tiêu chuẩn bắt
đầu điều trị ARV:
Dựa vào giai đoạn lâm sàng và số lượng tế bào CD4
Nếu có xét nghiệm CD4, chỉ định điều trị ARV khi:
- Người nhiễm HIV giai đoạn lâm sàng 4, không phụ thuộc số lượng tế bào
CD4.
- Người nhiễm HIV giai đoạn lâm sàng 3 với CD4 < 350 TB/mm3.
- Người nhiễm HIV giai đoạn lâm sàng 1, 2 với CD4 < 250 TB/mm3.
Nếu không làm được xét nghiệm CD4, chỉ định điều trị ARV khi người
nhiễm HIV ở giai đoạn lâm sàng 3, 4.
1.2.2.2. Theo Quyết định 4139/QĐ-BYT ngày 02/11/2011, tiêu chuẩn
bắt đầu điều trị ARV.
- Người nhiễm HIV có số lượng tế bào CD4 < 350 tế bào/mm3 không
phụ thuộc giai đoạn lâm sàng hoặc
- Người nhiễm HIV ở giai đoạn lâm sàng 3,4 không phụ thuộc số lượng
tế bào CD 4.
1.2.3. Theo dõi tuân thủ điều trị
Tuân thủ điều trị là khả năng bệnh nhân uống các thuốc được kê đơn
8
đúng thuốc, đúng liều, đúng thời gian và đúng cách.
Mục đích của tuân thủ điều trị ARV là: ức chế tối đa tải lượng virus; gia
tăng số lượng tế bào CD4; giảm nguy cơ xuất hiện tình trạng HIV kháng thuốc
ARV; giảm nguy cơ lây truyền HIV; tăng tối đa hiệu quả phác đồ điều trị.
Hiện nay, trên thế giới và Việt Nam đều quan tâm đến vấn đề tuân thủ
điều trị ARV của BN nhiễm HIV/AIDS và đều cho rằng BN cần đạt mức độ
tuân thủ cao để duy trì tác dụng ức chế tải lượng virus [27], [33]. Tuy nhiên,
vẫn chưa có sự thống nhất về mốc tuân thủ mục tiêu BN cần đạt được.
Năm 2010, WHO đưa ra bộ 8 chỉ số cảnh báo sớm sự kháng thuốc trong
đó có 3 chỉ số liên quan đến tuân thủ thuốc ARV là lĩnh thuốc đúng hẹn
(EWI4), tái khám đúng hẹn (EWI5), và đếm số viên thuốc còn lại (EWI7) với
mức mục tiêu cần đạt là EWI4 > 90%, EWI5 > 80%, EWI7 > 90% [28]. Và đây
cũng là phương pháp đánh giá có tính lượng giá cao và được triển khai thống
nhất trên thế giới để theo dõi sự kháng thuốc ARV. Tuy nhiên từ năm 2011,
WHO lại đưa ra khuyến nghị thay đổi bộ 8 chỉ số cịn 5 chỉ số trong đó tái
khám đúng hẹn được loại bỏ để đơn giản hóa việc giám sát các EWI do những
lo ngại về sự chồng chéo giữa thời điểm lĩnh thuốc và thời điểm tái khám, đếm
số viên thuốc cịn lại cũng bị loại bỏ do khó thực hiện và khơng tin cậy, cịn chỉ
số lĩnh thuốc đúng hẹn được thay thế bằng chỉ số nhận thuốc ARV đúng hẹn để
xác định tuân thủ điều trị thuốc ARV, kết quả sẽ được đánh giá theo 3 mức: Đạt
hiệu suất mong muốn; đạt hiệu suất hợp lý, chưa đạt mức mong muốn nhưng
tiến đến mức mong muốn và đạt hiệu suất kém.
Tại Việt Nam, Bộ Y tế cũng đã đưa ra hướng dẫn cho các cơ sở điều trị
HIV theo dõi tuân thủ điều trị:
- Theo dõi việc đến khám và lĩnh thuốc theo lịch của người bệnh. Liên
hệ với người bệnh để nhắc nhở họ đến khám và lấy thuốc đúng hẹn qua điện
thoại hoặc mạng lưới đồng đẳng viên/người hỗ trợ điều trị.
- Đánh giá sự tuân thủ điều trị tại mỗi lần đến khám để có sự hỗ trợ kịp
9
thời: hỏi về việc quên không uống thuốc, số lần quên uống, thời gian uống.
- Theo dõi diễn biến lâm sàng, kết quả xét nghiệm CD4 và tải lượng
HIV để đánh giá sự tuân thủ điều trị của bệnh nhân.
Nếu bệnh nhân tn thủ khơng tốt, tìm hiểu lý do, đánh giá các yếu tố
có thể ảnh hưởng đến sự tuân thủ điều trị của người bệnh. Can thiệp hỗ trợ
tuân thủ điều trị kịp thời đảm bảo bệnh nhân tuân thủ tốt.
1.3.Tổng quan về phòng khám ngoại trú Bệnh viện đa khoa huyện
Sốp Cộp.
Bệnh viện Đa khoa huyện Sốp Cộp là bệnh viện đa khoa hạng II dưới
sự quản lý của Sở Y tế tỉnh Sơn La với nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe nhân dân
huyện Sốp Cộp và một số huyện lân cận. Hàng năm, bệnh viện đã thực hiện
khám chữa bệnh cho từ 20.000 lượt bệnh nhân khám và chữa bệnh.
Đã có nhiều đề tài nghiên cứu về hoạt động cung ứng, sử dụng thuốc
trong Bệnh viện song chưa có đề tài đánh giá, sử dụng thuốc ARV trong điều
trị HIV/AIDS tại bệnh viện, cũng như đánh giá hiệu quả của việc xây dựng
DMT của bệnh viện để tăng cường cho việc sử dụng thuốc an toàn, đạt kết
quả cao nhất tại bệnh viện. Với mong muốn xem xét thực trạng sử dụng thuốc
ARV tại Bệnh viện đa khoa huyện Sốp Cộp hiện nay như thế nào? đã thực sự
hợp lý hay chưa? Từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng thuốc, tiết kiệm chi phí
trong việc sử dụng thuốc, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề nhiệm vụ thực
hiện các biện pháp chuyên môn, kỹ thuật chăm sóc sức khỏe ban đầu; khám
chữa bệnh; phịng chống dịch bệnh, HIV/AIDS; phòng chống các bệnh xã hội,
tai nạn thương tích; bảo vệ sức khỏe mơi trường, sức khỏe lao động và bệnh
nghề nghiệp, sức khỏe học sinh, dinh dưỡng cộng đồng; chăm sóc sức khỏe
sinh sản; an tồn vệ sinh thực phẩm; truyền thông - giáo dục sức khỏe và thực
hiện các chương trình mục tiêu y tế, nâng cao sức khỏe nhân dân trên địa bàn
huyện Sốp Cộp.
10
CHƯƠNG II
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là các đối tượng nhiễm HIV ≥ 16 tuổi đang
được điều trị thuốc ARV tại phòng khám ngoại trú – Bệnh viện đa khoa
huyện Sốp Cộp từ tháng 1 năm 2018- tháng 9 năm 2020
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 06/2020 đến tháng 10/2020.
- Địa điểm : Tại Bệnh viện đa khoa huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La.
2.3. Phương pháp nghiên cứu và sử lý số liệu.
2.3.1. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp hồi cứu và tiến cứu hồ sơ bệnh án với dữ liệu trong thời
11
gian từ tháng 01 năm 2018 đến tháng 9 năm 2020.
2.3.1.1.Tiêu chuẩn lựa chọn
- Bệnh nhân đã được xác định nhiễm HIV theo đúng tiêu chuẩn chẩn
đoán của Bộ Y tế:
‘‘Nhiễm HIV ở người lớn được chẩn đoán trên cơ sở xét nghiệm kháng
thể HIV. Một người được xác định là nhiễm HIV khi có mẫu huyết thanh
dương tính cả ba lần xét nghiệm kháng thể HIV bằng ba loại sinh phẩm khác
nhau với nguyên lý phản ứng và phương pháp chuẩn bị kháng nguyên khác
nhau”.
- Bệnh nhân đủ tiêu chuẩn bắt đầu điều trị ARV:
- Bệnh nhân được điều trị ARV lần đầu tiên tại phòng khám và bắt đầu
điều trị từ tháng 01 năm 2018- tháng 9 năm 2020.
- Bệnh nhân lĩnh thuốc hàng tháng theo thông tư số 32/2013/TT-BYT.
- Bệnh nhân được xét nghiệm CD4 ít nhất 2 lần và các xét nghiệm
khác.
- Bệnh nhân từ (>=16 tuổi)
2.3.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân đang điều trị theo chương trình lây truyền mẹ sang con.
2.3.1.3. Các khái niệm, tiêu chuẩn đánh giá
Thuốc ARV: Là thuốc điều trị kháng retrovirus. Hiện nay thuốc được
điều trị phối hợp ít nhất từ 3 loại trở lên.Gọi là thuốc kháng retrovirus vì HIV
là một retrovirus.
Tuân thủ điều trị ARV: Tuân thủ điều trị ARV là uống đủ liều thuốc
được chỉ định và uống đúng giờ. Uống đều đặn suốt đời .Tuân thủ điều trị
ARV là yếu tố cực kỳ quan trọng để đảm bảo sự thành công của điều trị, tránh
sự xuất hiện kháng thuốc.
Nhiễm trùng cơ hội (NTCH): các nhiễm trùng cơ hội là nguyên nhân
gây bệnh tật và tử vong chính ở người nhiễm HIV/AIDS. Tần suất mắc và
12
lâm sàng của các NTCH phụ thuộc vào mức độ suy giảm miễn dịch, các hành
vi nguy cơ và các yếu tố khác.
Kỳ thị người nhiễm HIV: là thái độ khinh thường hay thiếu tơn trọng
người khác vì biết hoặc nghi ngờ người đó nhiễm HIV hoặc vì người đó có
quan hệ gần gũi với người nhiễm HIV hoặc bị nghi ngờ nhiễm HIV.
Phân biệt đối xử với người nhiễm HIV: là hành vi xa lánh, từ chối, tách
biệt, ngược đãi, phỉ báng, có thành kiến hoặc hạn chế quyền của người khác
vì biết hoặc nghi ngờ người đó nhiễm HIV hoặc vì người đó có quan hệ gần
gũi với người nhiễm HIV hoặc bị nghi ngờ nhiễm HIV.
2.3.2. Phương pháp thu thập và xử lý số liệu.
2.3.2.1. Phương pháp thu thập số liệu.
Kỹ thuật thu thập số liệu
- Với nghiên cứu định lượng: Số liệu được thu thập qua phỏng vấn trực
tiếp người nhiễm HIV/AIDS bằng phiếu phỏng vấn có cấu trúc tại phịng
khám ngoại trú Bệnh viện đa khoa huyện Sốp Cộp.
Số liệu thu thập qua phiếu điều tra tại các phòng khám ngoại trú Bệnh
viện đa khoa huyện Sốp Cộp.
Số liệu được lấy từ sổ sách, báo cáo, bệnh án của bệnh nhân đang điều
trị ARV.
- Với nghiên cứu định tính: trong q trình nghiên cứu đã tổ chức 5
cuộc thảo luận nhóm dựa theo phiếu hướng dẫn và thực hiện tại phòng khám
ngoại trú Bệnh viện đa khoa huyện Sốp Cộp.
Điều tra viên và giám sát viên:
- Điều tra viên: Là các cán bộ trực tiếp quản lý phòng khám ngoại trú
Bệnh viện đa khoa huyện Sốp Cộp, được tập huấn kỹ về nội dung và yêu cầu
của cuộc điều tra, kỹ năng phỏng vấn để đảm bảo độ chính xác cao và cập
nhật số liệu. Đây là những người tiếp cận với đối tượng nghiên cứu vì họ là
những người trực tiếp tư vấn và quản lý người nhiễm HIV/AIDS.
13
- Giám sát viên: Là nghiên cứu viên. Nghiên cứu viên là những người
có kinh nghiệm trong cơng tác phịng chống HIV/AIDS, tham gia vào quá
trình điều tra, thảo luận nhóm, giải quyết những khó khăn trong q trình thu
thập số liệu, làm sạch số liệu hàng ngày.
2.3.2.2. Phương pháp xử lý số liệu.
Thông tin bệnh nhân được thu thập theo hồ sơ bệnh án, nhập dữ liệu
vào máy tính và xử lý thống kê y học.
2.4 . Đạo đức nghiên cứu.
Tồn bộ thơng tin được giữ bí mật và chỉ phục vụ cho mục đích nghiên
cứu. Nghiên cứu được thông qua bởi Hội đồng khoa học Bệnh viện đa khoa
huyện Sốp Cộp.
CHƯƠNG III
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu đã thu thập bệnh án của 151 bệnh nhân điều trị tại phòng
khám ngoại trú HIV/AIDS của Bệnh viện đa khoa huyện Sốp Cộp giai đoạn
từ năm 2018 đến 2020.
3.1. Đặc điểm tuổi, giới tính và nghề nghiệp của bệnh nhân
3.1.1. Tuổi và giới
Biểu đồ 3.1. Biểu đồ về tuổi và giới của đối tượng được nghiên cứu.
Nhận xét: Trong số 151 bệnh nhân được thu thập nghiên cứu thì tỷ lệ
14
người nhiễm HIV/AIDS như sau:
- Độ tuổi từ 16 – 30 tuổi nam 24 người chiếm 15,89%, nữ 21 người
chiếm 13,91%
- Độ tuổi từ 31 – 40 tuổi nam 49 người chiếm 32,45%, nữ 32 người
chiếm 21,19%
- Độ tuổi từ 41 – 50 nam 19 người chiếm 12,58%, nữ 4 người chiếm
2,65%.
- Độ tuổi từ 51 trời nên nam 2 người chiếm 1,32% nữ không.
Tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS tập trung chủ yếu ở độ tuổi từ 31 – 40 và
nam giới có tỷ lệ mắc nhiều hơn với 94 người chiếm 62,25%, nữ 57 người
chiếm 37,75%.
3.1.2. Nghề nghiệp
Biểu đồ 3.2. Phân theo nghề nghiệp của đối tượng được nghiên cứu.
Nhận xét: Trong số 151 bệnh nhân được nghiên cứu tỷ lệ bệnh nhân
vào điều trị tại phòng khám ARV của bệnh viện tập trung chủ yếu là làm
ruộng với 137 người chiếm 90,73%, sau đến là học sinh và sinh viên với 10
người chiếm 6,62%, phạm nhân là 3 người chiếm 1,99% và cán bộ, công nhân
là 1 người chiếm 0,66%, khơng có điều trị dịch vụ.
3.1.3.Tổng Số bệnh nhân quản lý điều trị và lấy thuốc hàng tháng,
bỏ điều trị và tử vong, chuyển đi trong 3 năm.
Bảng 3.1. Kết quả điều trị của đối tượng được nghiên cứu.
Năm
Tổng số
(n)
Khám
định kỳ
(n)
Không
đến
khám
định kỳ
15
Số
bệnh
nhân
bỏ trị
Số bệnh
nhân tử
vong
BN
chuyể
n đi
(n)
2018
151
Tỷ lệ
2019
139
Tỷ lệ
2020
Tỷ lệ
128
(n)
(n)
(n)
149
02
05
05
02
98,68
1,32
3,31
3,31
1,32
138
01
03
05
03
99,28
0,72
2,16
3,60
2,16
128
0
0
04
03
100,00
0,00
0,00
3,13
2,34
Nhận xét: Từ bảng trên có thể thấy rằng trong giai đoạn từ năm 2018
đến nay tổng số bệnh nhân hàng năm đến điều trị là không tăng, có xu hướng
giảm và năm nào cũng có bệnh nhân tử vong, chuyển đi, cụ thể:
- Năm 2018 có 2 bệnh nhân liệt và tử vong 05, chuyển đi 02
- Năm 2019 có 2 bệnh nhân liệt và tử vong 05, chuyển đi 03
- Năm 2020 có 2 bệnh nhân liệt và tử vong 04, chuyển đi 03
Ngoài ra ở năm 2018 có 5 bệnh nhân bỏ trị, năm 2019 là 3 bệnh nhân
bỏ trị, năm 2020 thì khơng có bệnh nhân nào bỏ trị.
3.1.4. Theo dõi q trình điều trị:
3.1.4.1. Khám lâm sàng (6 tháng 1 lần).
Bảng 3.2. Kết quả khám lâm sàng.
16
Tình trạng
Bắt đầu điều trị
(Ngày khám)
Năm
2018 2019 2020
n=151
n= 139
Sau 6 tháng
(Ngày khám)
n=128
2018
n=151
Sau 12 tháng
(Ngày khám)
201
9
202
0
201
8
201
9
n= 139
n=128
n=151
n= 139
2020
n=128
NTCH
mới mắc
0
05
0
05
0
04
0
0
0
Tỷ lệ
0
3,60
0
3,31
0
3,13
0
0
0
NTCH tái
phát
0
8
6
0
0
0
0
0
0
Tỷ lệ
0
5,76
4,69
0
0
0
0
0
0
Thuốc
NTCH sử
dụng
0
13
6
05
0
04
0
0
0
Tỷ lệ
0
9,36
4,69
3,31
0
3,13
0
0
0
Nhận xét: Trong giai đoạn đầu mới điều trị ở năm 2019 có 05 bệnh
nhân mới mắc nhiễm trùng cơ hội, chiếm 3,60% và 08 bệnh nhân tái phát
chiếm 5,76%, sau khi phát hiện các bệnh nhân này đều được chỉ định sử dụng
thuốc nhiễm trùng cơ hội. Ở giai đoạn điều trị sau 6 tháng, trong năm 2018 có
05 bệnh nhân mắc mới chiếm 3,31% , năm 2019 khơng có bệnh nhân mắc
mới và cũng khơng có bệnh nhân tái phát, cịn ở năm 2020 có 04 bệnh nhân
mắc mới chiếm 3,13% và khơng có bệnh nhân tái phát. 100% các bệnh nhân
bị nhiễm trùng cơ hội đều được chỉ định sử dụng thuốc nhiễm trùng cơ hội,
kết quả là sau 12 tháng điều trị ở cả 3 năm điều khơng có bệnh nhân mắc mới
nhiễm trùng cơ hội, đồng thời cũng khơng có bệnh nhân nào tái phát.
17
3.1.4.2. Số bệnh nhân đến Xét nghiệm cận lâm sàng:
Bảng 3.3. Số bệnh nhân đến Xét nghiệm cận lâm sàng.
Các xét nghiệm
Năm2018
Năm 2019
Năm 2020
CD4
151
137
128
CTM/Hgb
151
137
128
CTM/ALT
151
137
128
Creatinin
151
137
128
Nhận xét: Trong giai đoạn từ năm 2018 đến năm 2020 tất cả các bệnh
nhân đến điều trị tại phòng khám ARV của bệnh viện điều thực hiện đầy đủ
các xét nghiệm lâm sàng.
3.1.4.3. Thay đổi phác đồ điều trị
Bảng 3.4. Thay đổi phác đồ điều trị của đối tượng được nghiên cứu.
Phác đồ điều trị
ban đầu
ABC/3CT/NVP
Phác đồ điều trị
thay thế
Thời điểm thay Lý do thay đổi
đổi phác đồ
phác đồ
ABC/3TC/LPV/
2018
Thất bại phác
R
đồ bậc 1
TDF/3TC/EFV
2019
Thất bại phác
AZT/3TC/LPV/R
đồ bậc 1
Nhận xét: Trong hai năm 2018 và 2019 đều phải thực hiện thay đổi
phác đồ điều trị nguyên do thất bại phác đồ bậc 1.
3.1.4.4. Số bệnh nhân có tác dụng phụ khi Sử dụng thuốc ARV.
Bảng 3.5. Số bệnh nhân có tác dụng phụ khi sử dụng thuốc.
Năm
2018
Bệnh nhân
18
2019
2020
Số lượng
01
0
0
Tỷ lệ
0,66
0
0
Nhận xét: Trong số các bệnh nhân điều trị tại phòng khám trong giai
đoạn từ 2018 đến 2020 chỉ có 1 bệnh nhân cho dấu hiệu có tác dụng phụ khi
sử dụng thuốc điều trị, chiếm 0,66% còn lại đều khơng có tác dụng phụ.
3.1.4.5. Số bệnh nhân Điều trị ARV /điều trị lao và các bệnh khác.
Bảng 3.6. Số lượng bệnh ngồi điều trị ARV cịn điều trị bệnh khác.
Năm
2018
Tỷ lệ
(n=151)
2019
(n=139)
Tỷ lệ
2020
(n=128)
Tỷ lệ
Bệnh kèm
ĐT: Bệnh lao
0
0
0
0
0
0
ĐT:dự phòng
lao
18
11,92
08
5,76
12
9,38
Bệnh khác
20
13,2
4
17
12,23
24
18,75
Nhận xét: Các bệnh nhân đến điều trị tại phòng khám ARV từ năm
2018 đến 2020 khơng có bệnh nhân nào điều trị bệnh kèm lao, các bệnh nhân
chủ yếu điều trị các bệnh khác, tỷ lệ cao nhất ở năm 2020 với 18,75% còn lại
là điều trị dự phòng lao cao nhất là năm 2018 với tỉ lệ điều trị dự phòng lao là
11,92%.
CHƯƠNG IV
BÀN LUẬN
19
4.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu.
Kết quả nghiên cứu trên 151 bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS đang được
điều trị ARV tại phòng khám ngoại trú Bệnh viện đa khoa huyện Sốp Cộp cho
thấy đa phần có độ tuổi trung bình từ tuổi từ 31 – 40 tuổi và chủ yếu là nam
49 người chiếm 32,45%, nữ 32 người chiếm 21,19%. Độ tuổi từ 16 – 30 và từ
41 – 50 có tỷ lệ bị nhiễm HIV/AIDS khá tương đồng với nhau, ở độ tuổi từ 16
– 30 tỷ lệ nhiễm là 15,89%, còn từ 41 – 50 tỷ lệ nhiễm là 12,58%, độ tuổi từ
51 trở lên có tỷ lệ nhiễm thấp chỉ chiếm 1,32. Đồng thời qua kết quả nghiên
cứu tại bệnh viện đa khoa huyện Sốp Cộp chỉ ra rằng tỷ lệ nhiễm HIV ở nam
giới thường cao hơn nữ giới và ở độ tuổi từ 31 – 40 tỷ lệ nhiễm của nam giới
cao hơn nữ giới là cao nhất hơn 11,26%, điều này cũng phù hợp với rất nhiều
nghiên cứu trong thời gian gần đây đều có tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS đều
tập trung ở độ tuổi từ 31 – 40 và đa phần đều là nam giới, nguyên nhân chủ
yếu là do quan hệ tình dục khơng an tồn và ở độ tuổi này đa phần cũng đã có
kinh tế, có điều kiện để vui chơi giải trí nên dễ bị nhiễm HIV/AIDS hơn.
Trong số 151 bệnh nhân điều trị tại Bệnh viện đa khoa huyện Sốp Cộp
từ năm 2018 đến nay đa phần bệnh nhân đều là lao động chân tay, chủ yếu là
làm ruộng với 137 người chiếm 90,73%, nhưng có điều đáng lo là xếp thứ hai
trong các đối tượng nhiễm HIV/AIDS lại là đối tượng học sinh và sinh viên
với 10 người chiếm 6,62% đây là thế hệ tương lai của đất nước, được học
hành đầy đủ, nhưng lại chủ quan và thiếu kiến thức về phịng chống
HIV/AIDS vì vậy mới có tỷ lệ nhiễm đứng thứ 2, tiếp đến là đối tượng phạm
nhân có 3 người chiếm 1,99% và cán bộ, công nhân là 1 người chiếm 0,66%
đây là đối tượng thuộc diện ẩn, khó khi tiếp cận và họ cũng e ngại khi tham
gia các chương trình hỗ trợ, điều này có thể là yếu tố để khó đạt được hiệu
quả cao khi thực hiện các chương trình hỗ trợ cho người nhiễm HIV/AIDS
thơng thường, khơng có điều trị dịch vụ.
20
Qua nghiên cứu có thể thấy rằng việc điều trị HIV/AIDS hiện nay vẫn
chỉ mang tính chất kéo dài tuổi thọ cho người bị nhiễm, chứ chưa thật sự có
thể duy trì cuộc sống bình thường cho người nhiễm HIV/AIDS vì hàng năm
đều có bệnh nhân tử vong số bệnh nhân tử vong năm 2018 là 5 người chiếm
3,31%, năm 2019 cũng là 5 người chiếm 3,60%, năm 2020 là 4 người chiếm
3,13%, hàng năm thì các bệnh nhân điều trị HIV/AIDS đều chuyển đi nơi
khác nguyên nhân là do thay đổi nơi ở, ngồi ra ở năm 2018 có 5 bệnh nhân
bỏ trị, năm 2019 là 3 bệnh nhân bỏ trị, năm 2020 thì khơng có bệnh nhân nào
bỏ trị điều này cho thấy sự chủ quan của người nhiễm HIV/AIDS vẫn cịn rất
cao, cũng có thể vì nhiều nguyên nhân khác nhau mà bệnh nhân bỏ trị, nhưng
điều này sẽ làm tăng nguy cơ lây lan ra cộng đồng và là thách thức lớn đối với
chúng ta khi đang có gắng hồn thành mục tiêu 90 – 90 – 90.
Trong giai đoạn đầu mới điều trị năm 2018 khơng có bệnh nhân nào
mắc nhiễm trùng cơ hội, ở năm 2019 có 05 bệnh nhân mới mắc nhiễm trùng
cơ hội, chiếm 3,60% và 08 bệnh nhân tái phát chiếm 5,76%. Ở giai đoạn hai
điều trị sau 6 tháng, trong năm 2018 có 05 bệnh nhân mắc mới chiếm 3,31% ,
năm 2019 khơng có bệnh nhân mắc mới và cũng khơng có bệnh nhân tái phát,
cịn ở năm 2020 có 04 bệnh nhân mắc mới chiếm 3,13% và khơng có bệnh
nhân tái phát. 100% các bệnh nhân bị nhiễm trùng cơ hội đều được chỉ định
sử dụng thuốc nhiễm trùng cơ hội, kết quả là sau 12 tháng điều trị ở cả 3 năm
điều khơng có bệnh nhân mắc mới nhiễm trùng cơ hội, đồng thời cũng khơng
có bệnh nhân nào tái phát, điều này cho thấy rằng kết quả điều trị là rất tốt,
sau thời gian sử dụng thuốc đủ 12 tháng thì các bệnh nhân đều khơng bị mắc
mới và tái nhiễm.
Trong quá trình điều trị các bệnh nhân đều được làm đầy đủ các xét
nghiệm cận lâm sàng, kiểm tra sức khỏe định kỳ, tuy nhiên kết quả điều trị
vẫn chưa được như mong muốn, nguyên nhân chủ yếu thông qua thăm khám,
hỏi trực tiếp bệnh nhân thì nguyên nhân chủ yếu là do việc dùng thuốc đôi khi
21
bị ngắt qng, chính vì vậy chưa đem lại kết quả điều trị cao, dẫn đến năm
2018 và 2019 đều có bệnh nhân phải thay đổi phác đồ điều trị do thất bại phác
đồ bậc 1.
Trong xuốt quá trình điều trị cho bệnh nhân từ năm 2018 đến năm
2020, người bị nhiễm HIV/AIDS có tỷ lệ phản ứng phụ với thuốc điều trị
ARV rất thấp chỉ có 1 người chiếm 0,66% ở năm 2018 là có phản ứng với
thuốc điều trị, còn lại tất cả các bệnh nhân đều sử dụng bình thường
Đáng chú ý là các bệnh nhân đến điều trị tại phịng khám, khơng có
bệnh nhân nào điều trị bệnh kèm lao, mặc dù tỷ lệ nhiễm lao ở các bệnh nhân
mắc HIV/AIDS là rất, các bệnh nhân chủ yếu điều trị kèm các bệnh khác, tỷ
lệ cao nhất ở năm 2020 với 18,75% còn lại là điều trị dự phòng lao cao nhất là
năm 2018 với tỉ lệ điều trị dự phòng lao là 11,92%.
4.2. Giải pháp nâng cao kết quả điều trị bệnh nhân HIV/AIDS và
tại phòng khám ngoại trú Bệnh viện đa khoa huyện Sốp Cộp tỉnh Sơn La.
Qua nghiên cứu cho thấy trong giai đoạn từ năm 2018 đến 2020 số
lượng bệnh nhận đến khám và điều trị tại phịng khám ngoại trú khơng ngừng
giảm, nguyên nhân là do bệnh nhân tử vong và chuyển đi nơi khác, nhưng
khơng lại có bệnh nhân mới, trong khi đó tỷ lệ người mắc mới hàng năm vẫn
có, ngồi ra năm nào cũng có bệnh nhân bỏ trị và điều đáng lo là đối tượng
nhiễm HIV/AIDS xếp thứ 2 lại là học sinh, sinh viên, vì vậy có thể thấy cơng
tác tuyền và tư vấn chưa đạt hiệu quả cao, nên trong thời gian tới cần đẩy
mạnh hơn nữa việc tuyên truyền giúp người dân nâng cao nhận thức, chủ
động phòng, tránh, tuân thủ việc điều trị. Đồng thời làm tốt cơng tác truyền
thơng cho nhóm nguy cơ cao lây nhiễm HIV/AIDS và nhóm thanh, thiếu niên
đến xét nghiệm để đạt được mục tiêu 90 – 90 – 90, cũng như giảm thiểu nguy
cơ lây nhiễm ra cộng đồng, phát hiện sớm những trường hợp nhiễm
HIV/AIDS để nâng cao được kết quả điều trị cho bệnh nhân.
Cần bồi dưỡng thêm kiến thức nghiệp vụ chuyên môn về tư vấn phòng
chống HIV/AIDS cho đội ngũ y bác sỹ điều trị cho bệnh nhân HIV/AIDS, để
22
làm sao khơng cịn tình trạng bệnh nhân bỏ trị như hiện nay.
Cần đảm bảo giữ bí mật về mọi thông tin liên quan đến bệnh nhân
nhiễm HIV/AIDS tuyệt đối không được kỳ thị, phân biệt đối xử. uôn lắng
nghe, tâm sự động viên chia sẻ với người bệnh để người bệnh yên tâm điều trị
Đối với những bệnh nhân đến khám và điều trị theo đúng phác đồ đề
xuất với cấp trên nên có nguồn kinh phí, kịp thời hỗ trợ những trường hợp này
trong lúc khó khăn, giúp họ ổn định cuộc sống, không phải di chuyển nơi ở
khác nhau như hiện nay, cũng như tránh như suy nghĩ lệch lạc sai trái và bi
quan vì điều đó có thể gây nên những hậu quả nghiêm trọng đối với xã hội.
Qua khảo sát thực tế tại Bệnh viện đa khoa huyện Sốp Cộp hiện nay
cho thấy phòng điều trị ARV của Bệnh viện đa khoa huyện Sốp Cộp hiện nằm
sát với khoa khám bệnh, điều này có thể gây nhiều bất tiện cho bệnh nhân
điều trị bệnh ARV tại đây, vì phải tiếp xúc với các bệnh nhân khác khi đến
khám, lấy thuốc và xin tư vấn về tình trạng sức khỏe, vì vậy trong năm tới nên
chuyển phòng khám điều trị ARV về khoa Truyền nhiễm của Bệnh viện đa
khoa huyện Sốp Cộp để hạn chế tình trạng bệnh nhân ngại đến bệnh viện do
sợ bị phân biệt, kỳ thị, do khoa truyền nhiễm của bệnh viện được xây dựng ở
khu biệt lập và ít phải tiếp xúc nhiều với các bệnh nhân thông thường, đồng
thời đảm bảo quyền lợi về chế độ phụ cấp ưu đãi ngành cho viên chức y tế
làm việc trong môi trường độc hại có nguy cơ lây nhiễm cao, cũng như nâng
cao tinh thần, trách nhiệm đối với công tác điều trị cho bệnh nhân ARV.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu cho thấy người bị nhiễm HIV chủ yếu là Nam giới và
tập trung chủ yếu ở độ tuổi từ 31 – 40.
23
Đối tượng có tỷ lệ nhiễm cao nhất đa phần đều là lao động chân tay,
công việc chủ yếu là làm ruộng, đáng lưu tâm là đối tượng học sinh, sinh viên
đứng thứ 2.
Việc điều trị HIV hiện tại tại bệnh viện đa khoa huyện Sốp Cộp vẫn
chưa đạt được kết quả cao, hàng năm đều có bệnh nhân tử vong trung bình
khoảng 3%, đồng thời cơng tác tun truyền và tư vấn cũng chưa thật sự tốt
nên dẫn đến năm nào cũng có bệnh nhân bỏ điều trị giữa trừng, điều này làm
tăng nguy cơ lây nhiễm ra cộng đồng, khó hồn thành được mục tiêu 90 – 90
90.
Trong quá trình điều trị tại Bệnh viện năm nào cũng có bệnh nhân
chuyển nơi ở chủ yếu là do khơng đủ điều kiện kinh tế để đảm bảo cuộc sống,
nên phải di chuyển nơi ở để tìm kiếm việc làm.
Các bệnh nhân đến điều trị tại bệnh viện hàng năm đều được làm đầy
đủ các loại xét nghiệm và được kiểm tra sức khỏe định kỳ, đồng thời tỷ lệ
bệnh nhận có tác dụng phụ với việc sử dụng thuốc ARV là rất thấp chỉ có 1
bệnh nhân ở năm 2018, ngoài ra người nhiễm HIV/AIDS thường dễ mắc bệnh
lao nhưng trong 03 năm các bệnh nhân điều trị tại bệnh viện đều khơng có
bệnh nhân nhiễm lao, chỉ điều trị dự phịng lao.
Việc đặt vị trí phịng điều trị bệnh nhân ARV của bệnh viện hiện nay
chưa thật sự phù hợp, cần phải điều chỉnh để đảm bảo giữ bí mật các thơng tin
về bệnh nhân bị nhiễm HIV/AIDS.
KHUYẾN NGHỊ
1. Cần phải mở thêm các lớp tập huấn các kỹ năng về công tác tuyên
truyền, tư vấn cho người nhiễm HIV nhất là đội ngũ y bác sỹ trực tiếp điều trị
24
và tư vấn cho bệnh nhân.
2. Cần có thêm nguồn kinh phí hỗ trợ cho các bệnh nhân bị nhiễm HIV
trong lúc khó khăn để đảm bảo cuộc sống.
3. Cần thay đổi vị trí phịng khám tới nơi khác đảm bảo thuận tiện và
giữ bí mật thơng tin về các bệnh nhân được tốt hơn. Chuyển giao cho khoa
truyền nhiễm quản lý
4. Cán bộ y tế làm việc trực tiếp tại phịng khám cần tăng cường cơng
tác tư vấn hỗ trợ cho bệnh nhân, cần xây dựng các kế hoạch điều trị ARV phù
hợp cho từng bệnh nhân, tập trung nâng cao hiểu biết về việc chữa trị HIV, tư
vấn tâm lý và cần có biện pháp nhắc nhở uống thuốc hằng ngày, duy trì chế
độ dinh dưỡng và lối sống lành mạnh nhất là đối tượng bệnh nhân trẻ.
5. Cần củng cố hệ thống, theo dõi, giám sát đánh giá hoạt động phịng,
chống HIV/AIDS và cơng khai số lượng người nhiễm hàng năm để cảnh báo
nguy cơ lây nhiễm, cũng nhưng nâng cao hiệu quả phòng tránh lây nhiễm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Bộ Y tế (2005), Quyết định số 06/2005/QĐ-BYT về việc ban hành
hướng dẫn chẩn đoán và điều trị nhiễm HIV, Hà Nội.
25