BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
VÕ NGỌC THẠCH
CÁC QUYẾT ĐỊNH TỐ TỤNG
CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
VÕ NGỌC THẠCH
CÁC QUYẾT ĐỊNH TỐ TỤNG
CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố Tụng Hình sự Mã số: 60380104
Người hướng dẫn khoa học: TS.VÕ THỊ KIM OANH
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan danh dự rằng: Luận văn “Các quyết định tố tụng của
Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố” là cơng trình nghiên cứu khoa học thực
sự của cá nhân tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn của Tiến sĩ luật học: Võ
Thị Kim Oanh. Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong
luận văn này trung thực và chưa từng được cơng bố dưới bất kỳ hình thức
nào. Tơi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 12 năm 2013
Học viên
Võ Ngọc Thạch
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CQĐT:
TTHS :
VKS :
Cơ quan điều tra
Tố tụng hình sự
Viện kiểm sát
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 1
Chương 1: Nhận thức chung về các quyết định tố tụng của Viện kiểm sát trong
giai đoạn truy tố ..................................................................................................... 6
1.1. Khái niệm chung về quyết định tố tụng của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố .....6
1.1.1. Định nghĩa quyết định tố tụng của Viện kiểm sát ...................................... 6
1.1.2. Định nghĩa giai đoạn truy tố ...................................................................... 7
1.1.3. Định nghĩa, đặc điểm, ý nghĩa quyết định tố tụng của Viện kiểm sát trong
giai đoạn truy tố ................................................................................................... 11
1.2. Các nguyên tắc ra quyết định của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố ......... 20
1.2.1. Nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong Tố tụng hình sự........................................................................................... 20
1.2.2. Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án ....................................................... 22
1.2.3. Nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo .............23
1.2.4. Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng ....24
1.2.5. Ngun tắc khơng ai có thể bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của
Tịa án đã có hiệu lực pháp luật ........................................................................... 26
1.3. Lịch sử hình thành và phát triển các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về
các quyết định của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố ................................... 27
1.3.1. Thời kỳ từ năm 1945 đến trước năm 1988 ................................................. 27
1.3.2. Từ năm 1988 đến trước năm 2003 ............................................................. 30
Chương 2: Pháp luật thực định về các quyết định tố tụng của Viện kiểm sát
trong giai đoạn truy tố và thực tiễn áp dụng ....................................................... 34
2.1. Pháp luật thực định về quyết định áp dụng, thay thế, hủy bỏ biện pháp ngăn
chặn và thực tiễn áp dụng .................................................................................... 34
2.1.1. Pháp luật thực định về quyết định áp dụng, thay thế, hủy bỏ biện pháp
ngăn chặn ............................................................................................................. 34
2.1.2. Thực tiễn áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn của Viện kiểm sát
trong giai đoạn truy tố .......................................................................................... 37
2.2. Pháp luật thực định về việc ra quyết định truy tố và thực tiễn áp dụng ............ 40
2.2.1. Pháp luật thực định về việc ra quyết định truy tố ..................................... 40
2.2.2. Thực tiễn về việc ra quyết định truy tố của Viện kiểm sát ....................... 42
2.3. Pháp luật thực định về quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung và thực tiễn áp
dụng ..................................................................................................................... 45
2.3.1. Pháp luật thực định về quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung .............. 45
2.3.2. Thực tiễn ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung ............................... 51
2.4. Pháp luật thực định về quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án trong giai đoạn
truy tố và thực tiễn áp dụng ................................................................................. 55
2.4.1. Quy định của pháp luật hiện hành về quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ
án trong giai đoạn truy tố ..................................................................................... 55
2.4.2. Thực tiễn áp dụng quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án trong giai đoạn
truy tố ................................................................................................................... 61
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả ban hành các quyết định của Viện
kiểm sát trong giai đoạn truy tố ............................................................................ 66
3.1. Nhu cầu của việc nâng cao hiệu quả ban hành các quyết định của Viện kiểm sát
trong giai đoạn truy tố .......................................................................................... 66
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả ban hành các quyết định của Viện kiểm sát
trong giai đoạn truy tố .......................................................................................... 70
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật .................................................................. 70
3.2.2. Các giải pháp khác ..................................................................................... 78
KẾT LUẬN CHUNG ............................................................................................. 84
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cải cách tư pháp là một trong những nội dung cơ bản của quá trình đổi mới
hoạt động của các cơ quan tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cụ thể nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020 đã nêu rõ:
"Cơng tác tư pháp cịn bộc lộ nhiều hạn chế. Chính sách hình sự, chế định
pháp luật dân sự và pháp luật về tố tụng tư pháp còn nhiều bất cập, chậm được sửa
đổi, bổ sung. Tổ chức bộ máy, chức năng nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các cơ
quan tư pháp còn bất hợp lý, đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu, trình
độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ cịn yếu, thậm chí có một
số cán bộ sa sút về phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp, vẫn cịn tình
trạng oan, sai trong điều tra, bắt, giam giữ, truy tố, xét xử. Cơ sở vật chất, phương
tiện làm việc của cơ quan tư pháp còn thiếu thốn, lạc hậu.
Cùng với những hạn chế nêu trên, nhiệm vụ cải cách tư pháp đang đứng
trước nhiều thách thức, tình hình phạm tội diễn biến phức tạp, với tính chất và hậu
quả ngày càng nghiêm trọng. Các khiếu kiện hành chính, các tranh chấp dân sự,
kinh tế, lao động, các loại khiếu kiện có yếu tố nước ngồi có chiều hướng tăng về
số lượng và phức tạp, đa dạng hơn. Địi hỏi của cơng dân và xã hội với các cơ quan
tư pháp ngày càng cao; các cơ quan tư pháp phải thực sự là chỗ dựa trong việc bảo
vệ công lý, quyền con người, đồng thời phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật
và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi
phạm."1
Theo quy định của Nghị quyết số 49/TW, trong luật TTHS thì việc xác định
chính xác, đầy đủ sự thật khách quan của vụ án có nhiệm vụ rất quan trọng. Trong
quá trình xác định sự thật của vụ án, CQĐT phải chứng minh: (Theo Điều 63 Bộ
luật TTHS).
Nhưng không phải vụ án nào cũng được điều tra đầy đủ và chính xác, trong
thực tế việc điều tra một vụ án cịn có nhiều thiếu sót, từ đó VKS khơng đủ căn cứ
để truy tố bị can ra trước Tòa cũng như Tịa án khơng đủ chứng cứ để buộc tội bị
1
Xem Bộ chính trị (2005), Nghị quyết 49/TW ngày 02/6/2005 về chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020.
2
cáo. Vì vậy, Pháp luật TTHS nước ta có các quy định về việc sau khi nhận hồ sơ vụ
án và bản kết luận điều tra. Trước hết, Kiểm sát viên phải nghiên cứu hồ sơ để đề
xuất lãnh đạo ban hành quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn.
Sau đó, VKS phải ra bản cáo trạng để truy tố bị can ra trước tòa án nếu hồ sơ đã đầy
đủ chứng cứ buộc tội đối với bị can; Trong trường hợp có căn cứ đình chỉ hoặc tạm
đình chỉ vụ án thì VKS nghiên cứu và ban hành quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ
theo quy định; Ngồi ra, trong thực tế khơng phải vụ án nào cũng được điều tra đầy
đủ và chính xác, việc điều tra một vụ án cịn có nhiều thiếu sót, từ đó VKS khơng
đủ căn cứ để truy tố bị can ra trước Tịa. Vì vậy, pháp luật TTHS nước ta có các quy
định về việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung, chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung là
quy định chế ước phối hợp giữa CQĐT, VKS nhằm làm sáng tỏ nội dung của vụ án
và cần đảm bảo tính kịp thời, hiệu quả và tránh oan sai trong việc tiến hành truy tố
bị can. Vì vậy, việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn việc ban hành các quyết định tố
tụng của VKS trong TTHS có ý nghĩa hết sức quan trọng, cấp thiết hiện nay nhằm
để VKS áp dụng đúng đắn quy định của bộ luật TTHS trong giai đoạn hiện nay
cũng như trong thời gian tới.
Từ những điều mà tôi vừa phân tích nêu trên và là người cơng tác ở cơ quan
VKS, nên tôi chọn đề tài "Các quyết định tố tụng của VKS trong giai đoạn truy
tố" cho luận văn tốt nghiệp cao học luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thẩm quyền ban hành các quyết định của VKS sau khi nhận được hồ sơ vụ
án và bản kết luận điều tra cụ thể là các quyết định: quyết định áp dụng, thay đổi,
hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; truy tố bị can ra trước tòa án bằng bản cáo trạng; trả
hồ sơ để điều tra bổ sung; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án cũng đã có những ý kiến
phản ánh, những bài nghiên cứu được đăng tải trên các ấn phẩm báo chí như tạp chí
Dân chủ và pháp luật, tạp chí Tịa án, Tạp chí kiểm sát nhưng ở mức độ đơn lẻ, bàn
về căn cứ đình chỉ đúng hay sai như:
Lê Văn Đông (1998), “Bàn về kỷ năng lập cáo trạng”, Kiểm sát nhân dân
(10), tr.11.
Tạ Hồng Hoa (2007), “Một số vấn đề về khiếu nại và giải quyết khiếu nại đối
với bản cáo trạng của VKS”, Kiểm sát nhân dân, (21), tr.23-25.
Phạm Thái Quý (2007), “Thời hạn tống đạt cáo trạng cho bị can - Những khó
khăn cần được tháo gỡ”, Tòa án nhân dân, (9), tr.39-41.
3
Nguyễn Văn Sơn (2006), “Tình trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở Đồng
Nai và những kiến nghị, giải pháp”, Kiểm sát nhân dân, (7).
Luận văn thạc sỹ luật học năm 2011- Trường Đại học Luật Thành phố Hồ
Chí Minh của tác giả Lê Tấn Cường, "Trả hồ sơ điều tra bổ sung trong giai đoạn
truy tố theo pháp luật TTHS Việt Nam”.
Luận văn thạc sỹ luật học năm 2008- Trường Đại học Luật Thành phố Hồ
Chí Minh của tác giả Nguyễn Minh Cảnh, "Chế định trả hồ sơ điều tra bổ sung
trong trong luật TTHS Việt Nam”.
Luận văn cử nhân luật năm 2005- Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí
Minh của tác giả Tơ Trần Ái Vy, “Các trường hợp trả hồ sơ điều tra bổ sung trong
TTHS”.
“Đình chỉ điều tra và đình chỉ vụ án đối với trường hợp khơng có sự việc
phạm tội và hành vi không cấu thành tội phạm” của tác giả Mai Văn Lưu (Tạp chí
kiểm sát, số 5/2008).
“Vấn đề đình chỉ điều tra và đình chỉ vụ án trong TTHS” của tác giả Vũ Gia
Lâm (Tạp chí luật học số 3/1999).
“Hồn thiện quy định của pháp luật về đình chỉ điều tra và đình chỉ vụ án”
của tác giả Phạm Mạnh Hùng (Tạp chí kiểm sát số 5/2002).
Hiện nay chưa có tài liệu hoặc tác giả nào nghiên cứu chuyên sâu hoặc đúc
kết thực tiễn ở tầm quốc gia hay ở địa phương nào đó để thấy hết sự bất cập hoặc
nhận thức tầm ảnh hưởng quan trọng của thẩm quyền ban hành các quyết định trong
thời hạn truy tố, đảm bảo các quyết định mà VKS ban hành đúng quy định pháp luật
TTHS, đảm bảo đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm.
3. Mục đích, đối tượng nghiên cứu của đề tài
Nhằm làm sáng tỏ cơ sở lý luận cũng như áp dụng vào thực tiễn việc VKS
ban hành các quyết định: quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn;
truy tố bị can ra trước tòa bằng bản cáo trạng; trả hồ sơ để điều tra bổ sung; đình chỉ
hoặc tạm đình chỉ vụ án để hệ thống làm rõ những vấn đề lý luận về các quyết định
VKS ban hành trong giai đoạn truy tố; phân tích làm rõ các quy định các quy định
của pháp luật TTHS Việt Nam về vấn đề này cũng như khảo sát làm rõ thực trạng
các quyết định của VKS ban hành trong giai đoạn truy tố để từ đó có kiến nghị bổ
sung các quy định về vấn đề này trong bộ luật TTHS và được đảm bảo thực hiện
các quy định này trong thực tế.
4
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài và phương pháp nghiên cứu
Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Quyết định tố tụng của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố có nhiều nhưng
đề tài tập trung đi sâu nghiên cứu những vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn việc
ban hành các quyết định tố tụng của VKS trong giai đoạn truy tố được quy định tại
các điểm a, b, c khoản 1, khoản 2 Điều 166 Bộ luật TTHS năm 2003.
Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được hoàn thiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác
- Lê nin về duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta về hoàn thiện pháp luật trong tình hình mới, về xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, kết hợp với các phương
thức, cách thức phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu giữa lý luận và thực tiễn áp
dụng pháp luật, thống kê, lịch sử để làm rõ nội dung nghiên cứu.
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Luận văn phân tích những điểm mới liên quan đến các quyết định tố tụng của
VKS trong giai đoạn truy tố trong điều kiện đẩy mạnh cải cách tư pháp. Do đó, với
những kết quả đã đạt được, luận văn có ý nghĩa và giá trị nhất định về phương diện
lý luận, lập pháp và thực tiễn.
- Về lý luận, luận văn đã góp phần hoàn thiện về mặt lý luận giai đoạn truy tố
cũng như việc ban hành các quyết định tố tụng của VKS trong giai đoạn truy tố.
- Về lập pháp, luận văn đã nêu những bất cập, thiếu sót, vướng mắc của pháp
luật TTHS và đưa ra một số giải pháp nhằm sửa đổi, bổ sung Bộ luật TTHS hiện
hành.
- Về thực tiễn, kết quả nghiên cứu giúp Kiểm sát viên có nhận thức sâu sắc
và đầy đủ hơn về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong giai đoạn truy tố để trên cơ
sở đó góp phần nâng cao nhiệm vụ, quyền hạn của VKS.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn gồm có 3 chương:
5
Chương 1. Nhận thức chung về các quyết định tố tụng của VKS trong giai
đoạn truy tố
Chương 2. Pháp luật thực định về các quyết định tố tụng của VKS trong giai
đoạn truy tố và thực tiễn áp dụng
Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả ban hành các quyết định tố tụng của
VKS trong giai đoạn truy tố.
6
CHƯƠNG 1.
NHẬN THỨC CHUNG VỀ CÁC QUYẾT ĐỊNH TỐ TỤNG CỦA
VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ
1.1. Khái niệm chung về quyết định tố tụng của VKS trong giai đoạn
truy tố
1.1.1. Định nghĩa quyết định tố tụng của VKS
Theo từ điển tiếng việt giải thích “quyết định là định ra một cách dứt khoát
việc sẽ làm”2; và “VKS nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật”3, được Nhà nước
giao cho quyền tham gia vào tất cả các giai đoạn tố tụng kể từ khi có tin báo, tố giác
tội phạm đến khi xét xử như kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát điều tra, truy tố, kiểm
sát xét xử nhằm đảm bảo quá trình giải quyết vụ án được vận hành liên tục, nối tiếp
nhau về trình tự tố tụng, điều đó có nghĩa là vụ án sẽ khơng được giải quyết nếu
khơng có VKS. VKS chính là cơ quan có quyền giải quyết vụ án. Để thực hiện
quyền giải quyết vụ án, VKS phải tham gia vào quan hệ pháp luật TTHS với tư cách
là một bên có quyền giải quyết vụ án, nhằm đảm bảo việc giải quyết vụ án có hiệu
quả, Nhà nước ban hành pháp luật quy định VKS có quyền ra các quyết định tố tụng
mang tính cưỡng chế Nhà nước đối với người phạm tội. VKS thực hiện quyền và
nghĩa vụ trong TTHS nhằm phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý cơng minh,
kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, khơng làm oan người vơ tội,
góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của cơng dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, giáo
dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
VKS thực hiện nhiệm vụ này cũng chính là thực hiện nhiệm vụ của TTHS. Như
vậy, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, VKS luôn ban hành các quyết định TTHS
phù hợp với từng giai đoạn giải quyết vụ án: Ví dụ như trong giai đoạn điều tra khi
CQĐT ban hành quyết định khởi tố bị can thì quyết định này phải có sự phê chuẩn
của VKS, hay trong giai đoạn truy tố VKS ban hành quyết định truy tố bằng bản
cáo trạng, hay quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ, quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ
sung… bằng văn bản. Từ những phân tích trên, quyết định của VKS được định
nghĩa như sau: “Quyết định tố tụng của VKS là văn bản pháp lý do VKS ban hành
2
3
Trung tâm khoa học và xã hội nhân văn quốc gia (2005), Từ điển tiếng việt, NXB văn hóa Sài Gịn, tr.1332.
Điều 1, Luật tổ chức VKS nhân dân năm 2002.
7
theo quy định của Bộ luật TTHS buộc các cơ quan, tổ chức, cá nhân phải nghiêm
chỉnh chấp hành trong quá trình giải quyết vụ án hình sự”.
1.1.2. Định nghĩa giai đoạn truy tố
TTHS là trình tự, quá trình tiến hành giải quyết vụ án hình sự theo quy định
của pháp luật như khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự nhằm xác định sự
thật khách quan vụ án. Luật TTHS quy định các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự phải tuân theo trình tự tố tụng nhất định và được phân
chia thành các giai đoạn TTHS khác nhau. Theo giáo trình của trường Đại học luật
Hà Nội ghi nhận “Giai đoạn TTHS là những bước trong trình tự tố tụng có nhiệm
vụ riêng mang đặc thù về phạm vi chủ thể, hành vi tố tụng và văn bản tố tụng,” 4.
Chúng tôi đồng ý với quan điểm trên về những đặc trưng cơ bản của giai đoạn
TTHS: nhiệm vụ, chủ thể, hành vi, quyết định tố tụng đặc thù và khẳng định giai
đoạn TTHS là các bước nối tiếp nhau trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Tuy
nhiên, phân tích như thế chưa đủ, theo chúng tơi ngồi các nội dung trên, giai đoạn
TTHS phải có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc bằng văn bản hoặc quyết
định tố tụng, bởi vì thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc xác định ranh giới giữa
các giai đoạn TTHS, trong đó kết thúc giai đoạn tố tụng phải có văn bản hoặc quyết
định tố tụng chính là cột mốc để xác định ranh giới đó. Sự tồn tại của mỗi giai đoạn
TTHS khơng tách rời khỏi sự tồn tại của TTHS, các giai đoạn TTHS được xác lập
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự kể từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc có
mối liên hệ chặt chẽ với nhau và được thực hiện liên tục, kế tiếp nhau về mặt thời
gian, kết thúc giai đoạn tố tụng này mới chuyển sang giai đoạn tố tụng khác, giai
đoạn tố tụng trước làm nền tảng cho giai đoạn tố tụng sau, giai đoạn tố tụng sau
kiểm nghiệm lại kết quả đạt được của giai đoạn trước. Sự phân chia các giai đoạn
không chỉ đơn thuần là xác định nhiệm vụ của từng giai đoạn mà còn làm rõ chủ thể
trong giai đoạn có quyền và nghĩa vụ nhất định, có đặc trưng riêng về hành vi và
quyết định tố tụng, có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc giai đoạn tố tụng
được xác định bằng văn bản hoặc quyết định tố tụng để đánh dấu bước ngoặc
chuyển sang giai đoạn tố tụng khác. Theo Giáo trình luật TTHS xác định “truy tố là
một giai đoạn TTHS”5. Chính vì vậy, chúng tôi định nghĩa giai đoạn truy tố như
sau: “truy tố là giai đoạn của hoạt động TTHS, mà trong đó VKS căn cứ vào các
4
Hồng Thị Minh Sơn (2006), Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nhà xuất bản tư pháp, Hà Nội, tr.10.
5
Hoàng Thị Minh Sơn (2006), Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nhà xuất bản tư pháp, Hà Nội, tr.11.
8
quy định của pháp luật TTHS tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm đánh giá một
cách toàn diện, khách quan các tài liệu của vụ án hình sự, thời điểm bắt đầu khi
VKS nhận kết luận điều tra và quyết định đề nghị truy tố và kết thúc khi VKS ra
quyết định: Truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng; Trả lại hồ sơ để điều
tra bổ sung hoặc là đình chỉ hay tạm đình chỉ vụ án hình sự.”
- Nhiệm vụ của giai đoạn truy tố
Giai đoạn truy tố có nhiệm vụ kiểm tra, đánh giá kết quả điều tra và quyết
định truy tố bị can ra Tòa. Nhiệm vụ này được thể hiện qua nội dung:
+ Nhiệm vụ thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố
Thực hành quyền cơng tố có nghĩa là sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp
lý thuộc nội dung quyền công tố nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
phạm tội. Sau khi kiểm sát kết quả điều tra vụ án, xét thấy hồ sơ đã đủ chứng cứ
buộc tội và được tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục tố tụng, VKS quyết định truy
tố bị can ra Tòa án để xét xử. Nếu xét thấy có căn cứ khơng được truy tố bị can theo
luật định thì quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án. Nhiệm vụ kiểm sát việc
tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố có nội dung
khác nhau nhưng có mối liên hệ mật thiết, bổ sung cho nhau, trong đó nhiệm vụ
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn truy tố là tiền đề đảm bảo quyết
định truy tố của VKS có căn cứ, đúng pháp luật.
+ Nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn truy tố
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn truy tố là kiểm tra, đánh giá
kết quả điều tra có được tuân thủ đúng quy định của pháp luật hay không. VKS
nghiên cứu hồ sơ vụ án đã kết thúc điều tra, kiểm tra lại kết quả điều tra trên cơ sở
đánh giá một cách toàn diện, khách quan các chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội,
kiểm tra trình tự, thủ tục tiến hành tố tụng xem có được tuân thủ đúng quy định của
luật TTHS hay cịn thiếu sót để quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung yêu cầu CQĐT
khắc phục sai phạm để chắc chắn rằng VKS chỉ ra quyết định truy tố khi kết quả
điều tra được tiến hành đầy đủ, tồn diện.
- Giai đoạn truy tố có đặc trưng riêng về quyết định và hành vi tố tụng
9
Nhiệm vụ của giai đoạn truy tố là kiểm tra, đánh giá chứng cứ của CQĐT và
quyết định truy tố bị can ra Tòa cho nên đòi hỏi giai đoạn truy tố phải có hành vi và
quyết định tố tụng đặc trưng để thực hiện nhiệm vụ đó, bao gồm các hành vi như
xem xét, đánh giá chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân người phạm tội, định tội danh, khung hình
phạt theo quy định của Bộ luật hình sự, trình tự tiến hành tố tụng theo quy định của
Bộ luật TTHS. Các hoạt động tố tụng này nhằm thực hiện nhiệm vụ trong giai đoạn
truy tố là quyết định truy tố bị can cho nên quyết định truy tố chính là quyết định tố
tụng đặc thù trong giai đoạn truy tố.
+ Giai đoạn truy tố có đặc trưng riêng về các quan hệ pháp luật TTHS
Quan hệ pháp luật TTHS là mối quan hệ giữa cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự. Giai đoạn truy tố có nhiệm vụ truy tố bị can ra Tòa cho nên quan hệ pháp
luật TTHS trong giai đoạn truy tố là mối quan hệ giữa một bên là cơ quan tiến hành
tố tụng (VKS), người tiến hành tố tụng (Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát
viên) và một bên chủ thể là người tham gia tố tụng (bị can...). Các chủ thể khi tham
gia vào quan hệ pháp luật TTHS trong giai đoạn truy tố, có quyền và nghĩa vụ pháp
lý gắn liền với việc thực hiện nhiệm vụ giai đoạn truy tố. Vì vậy, trong giai đoạn
truy tố VKS có quyền như sau:
Đối với nhiệm vụ thực hành quyền công tố, VKS có quyền quyết định áp
dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; trực tiếp tiến hành một số hoạt động
điều tra; khởi tố bị can; quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi có căn cứ cho
rằng hồ sơ thiếu chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà VKS khơng thể tự mình bổ
sung được, có căn cứ để khởi tố bị can về một tội phạm khác hoặc có người đồng
phạm khác; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; quyết định truy tố. Ngồi ra,
khi tiến hành tố tụng VKS có nghĩa vụ tuân thủ đúng quy định của pháp luật và phải
chịu trách nhiệm về hành vi, quyết định của mình.
Đối với nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật, VKS có quyền quyết
định chuyển vụ án cho VKS có thẩm quyền truy tố; yêu cầu CQĐT cung cấp tài liệu
cần thiết về vi phạm pháp luật của Điều tra viên, yêu cầu Thủ trưởng CQĐT xử lý
nghiêm minh Điều tra viên đã vi phạm pháp luật trong khi tiến hành điều tra và thay
10
đổi Điều tra viên; quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi có căn cứ vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng và yêu cầu CQĐT khắc phục các vi phạm pháp luật
trong hoạt động điều tra; kiến nghị với cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện
pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật.
Đối với người tiến hành tố tụng nhân danh cơ quan tiến hành tố tụng thực
hiện quyền và nghĩa vụ của cơ quan tiến hành tố tụng, cho nên quyền và nghĩa vụ
của họ gắn liền với quyền và nghĩa vụ của cơ quan tiến hành tố tụng, đối với bị can
có quyền được biết mình phạm tội gì, được nhận quyết định truy tố của VKS và
phải có nghĩa vụ chấp hành quyết định tố tụng của VKS.
+ Giai đoạn truy tố có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc bằng quyết
định tố tụng
Bản kết luận điều tra của CQĐT làm kết thúc giai đoạn điều tra và phát sinh
giai đoạn truy tố, thời điểm bắt đầu giai đoạn truy tố từ khi VKS nhận được hồ sơ
vụ án đã kết thúc điều tra của CQĐT. Trong giai đoạn truy tố, VKS tiến hành các
hoạt động tố tụng theo luật định nhằm thực hiện nhiệm vụ giai đoạn truy tố là kiểm
tra, đánh giá kết quả điều tra và quyết định truy tố bị can ra Tịa xét xử vụ án. Do
đó, VKS quyết định truy tố có nghĩa là thực hiện xong nhiệm vụ giai đoạn truy tố,
vì vậy quyết định truy tố chính là quyết định tố tụng kết thúc giai đoạn truy tố, thực
hiện nhiệm vụ của giai đoạn truy tố cũng nhằm thực hiện nhiệm vụ của TTHS là xử
lý người phạm tội, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vơ tội. Cho nên, khi
có căn cứ cho rằng nếu truy tố sẽ dẫn đến oan sai hoặc có căn cứ đình chỉ theo quy
định luật TTHS thì VKS phải quyết định đình chỉ vụ án, chấm dứt tiến hành tố tụng
đối với vụ án. Vì vậy, quyết định đình chỉ vụ án cũng là quyết định tố tụng kết thúc
giai đoạn truy tố. Hoặc trong trường hợp nếu thấy hồ sơ chưa đầy đủ còn lọt người,
lọt tội hoặc có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong quá trình điều tra thì
VKS quyết định trả hồ sơ cho CQĐT để tiến hành điều tra bổ sung cũng là quyết
định chấm dứt giai đoạn truy tố.
- Chủ thể trong giai đoạn truy tố
Do nhiệm vụ của giai đoạn truy tố là kiểm sát, đánh giá kết quả điều tra của
CQĐT và quyết định truy tố bị can ra Tòa cho nên cơ quan tiến hành tố tụng trong
11
giai đoạn truy tố phải là VKS. Chỉ có VKS mới có nhiệm vụ thực hành quyền cơng
tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn truy tố để quyết định truy tố
nhằm buộc tội bị can. VKS có quyền truy tố người bị tình nghi thực hiện tội phạm
đã được khởi tố, điều tra. Do vậy người tham gia tố tụng bắt buộc trong giai đoạn
này phải là bị can và có sự tham gia của những người tham gia tố tụng khác liên
quan đến vụ án. Giai đoạn truy tố có hai loại chủ thể đó là cơ quan tiến hành tố tụng
(VKS), người tiến hành tố tụng (Viện trưởng, Phó viện trưởng, Kiểm sát viên) và
những người tham gia tố tụng (bị can, bị hại…).
1.1.3. Định nghĩa, đặc điểm, ý nghĩa quyết định tố tụng của VKS trong giai
đoạn truy tố
1.1.3.1. Định nghĩa quyết định tố tụng của VKS trong giai đoạn truy tố
Quyết định tố tụng của VKS: “là văn bản pháp lý do VKS ban hành theo quy
định của Bộ luật TTHS buộc các cơ quan, tổ chức, cá nhân phải nghiêm chỉnh chấp
hành trong quá trình giải quyết vụ án hình sự” như đã định nghĩa ở phần trên và
định nghĩa giai đoạn truy tố, xác định truy tố là một giai đoạn TTHS độc lập, trong
đó nhiệm vụ của VKS trong giai đoạn này là kiểm sát tuân theo pháp luật trong giai
đoạn truy tố và thực hành quyền công tố trong giai đoạn này, ứng với nhiệm vụ trên
thì các quyết định TTHS mà VKS ban hành trong giai đoạn này cũng thể hiện tính
đặc thù, là chủ thể chính khi ban hành quyết định trong giai đoạn truy tố. Chính vì
truy tố cũng xác định là một giai đoạn tố tụng nên trong giai đoạn này luật TTHS
quy định cho VKS ban hành một số quyết định đặc trưng như:
Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung thể hiện rõ nhiệm vụ kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong giai đoạn truy tố, quyết định này thể hiện trong quá trình
điều tra, CQĐT chưa đánh giá một cách toàn diện, khách quan các chứng cứ buộc
tội, cũng như chứng cứ gỡ tội; các thủ tục tố tụng trong giai đoạn điều tra còn vi
phạm nghiêm trọng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị
can và những người tham gia tố tụng khác; Bên cạnh đó, trả hồ sơ để điều tra bổ
sung là hoạt động nhằm kiểm tra tính đầy đủ của các chứng cứ đối với việc giải
quyết các vấn đề khác có liên quan trong vụ án. Điều tra bổ sung là quá trình khắc
phục những vi phạm về thủ tục tố tụng, bổ sung làm thêm những gì cịn thiếu, chưa
đầy đủ và tồn diện chứ khơng phải là quá trình điều tra lại, điều tra mới. Từ kết quả
của quá trình điều tra, VKS nghiên cứu, phân tích những vấn đề vi phạm, cịn thiếu,
chưa đầy đủ, chưa toàn diện để yêu cầu điều tra bổ sung nhằm bảo đảm tính có căn
12
cứ, đúng pháp luật của hoạt động tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người thực hiện hành vi phạm tội và giải quyết các vấn đề khác có liên quan trong
vụ án.
Quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án, khi VKS ban hành quyết định
đình chỉ căn cứ vào một số quy định của Bộ luật TTHS như người bị hại rút yêu cầu
trước khi mở phiên tòa trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người
bị hại (khoản 2 Điều 105) hoặc khơng có sự việc phạm tội xảy ra; hành vi không
cấu thành tội phạm, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi
chịu trách nhiệm hình sự, người thực hiện hành vi phạm tội của họ đã có bản án
hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật, đã hết thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự, tội phạm đã được đại xá và người thực hiện hành vi phạm tội đã
chết, trừ trường hợp cần phải tái thẩm đối với người khác (Điều 107); và trong một
số trường hợp quy định tại Bộ luật hình sự như: tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm
tội (Điều 19), Người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình
sự, nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại khơng
lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám
sát, giáo dục…. Trong trường hợp VKS ban hành quyết định tạm đình chỉ khi có
căn cứ xác nhận bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo khác mà có chứng
nhận của Hội đồng giám định pháp y, hoặc khi bị can bỏ trốn mà không biết bị can
ở đâu (Khoản 2 Điều 169).
Truy tố bị can ra trước Tòa án bằng bản cáo trạng: Hiện nay có nhiều quan
điểm về cách hiểu, cách diễn đạt của cáo trạng. Có quan điểm cho rằng: “Cáo trạng
khơng phải chỉ là văn bản nêu lên các chứng cứ của vụ án mà cáo trạng chủ yếu là
văn bản nêu lên hành vi bị can, còn chứng cứ là cơ sở đảm bảo cho việc diễn đạt nội
dung bản cáo trạng được đầy đủ và chính xác”6. Chúng tơi nhận thấy quan điểm này
chỉ nêu một khía cạnh về nội dung cáo trạng cần phải đạt được, đó là việc viện dẫn
chứng cứ chứng minh tội phạm, hành vi phạm tội của bị can.
Có quan điểm đã đồng nhất cáo trạng với bản án khi cho rằng: “Để thực hiện
việc kết tội là có căn cứ, cáo trạng phải được trình bày một cách lơgic, lý lẽ phải sắc
bén, chặt chẽ… là văn bản pháp lý để kết tội bị can nên lời văn phải rõ ràng” 7.
6
7
Lê Văn Đông (1998), “Bàn về kỷ năng lập cáo trạng”, Kiểm sát nhân dân, (10), tr.11.
Đỗ Ngọc Quang (1997), “Mối quan hệ giữa Cơ quan điểu tra với cơ quan tham gia TTHS”, Sách chuyên khảo, Nhà
xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.65.
13
Chúng tôi nhận thấy quan điểm này chưa phân biệt bản cáo trạng với bản án vì chỉ
có bản án mới kết tội bị cáo.
Theo giáo trình Cơng tác kiểm sát điều tra của Trường Cao đẳng kiểm sát Hà
Nội: “Cáo trạng là văn bản pháp lý khẳng định việc truy tố…nó ghi nhận và phản
ánh kết quả của tồn bộ quá trình điều tra, kiểm sát điều tra…Cáo trạng là hình thức
thực hiện quyền quyết định truy tố của VKS. Cáo trạng xác nhận kết quả điều tra,
nó thể hiện một cách cô đọng, đầy đủ diễn biến vụ án, quan điểm của VKS trong
việc đánh giá chứng cứ và con người phạm tội cũng như quan điểm xử lý đối với kẻ
phạm tội đó với tội danh, điều luật tương ứng được quy định thực hiện quyền công
tố nhà nước, truy tố bị can ra trước Tòa án để xét xử… là căn cứ phát sinh hoạt
động xét xử của Tịa án”.
Có quan điểm cho rằng: “Cáo trạng không phải chỉ là văn bản nêu lên chứng
cứ của vụ án mà cáo trạng chủ yếu là văn bản nêu lên hành vi bị can, còn chứng cứ
là cơ sở đảm bảo cho việc diễn đạt cáo trạng đầy đủ, chính xác và khẳng định bản
cáo trạng là một văn bản pháp lý của cơ quan thực hành quyền công tố nhà nước
truy tố kẻ phạm tội ra trước Tòa án với đầy đủ nội dung hành vi phạm tội của bị can
và những căn cứ pháp luật cần phải áp dụng”8.
Chúng tơi ủng hộ quan điểm trên vì làm rõ bản chất pháp lý về nội hàm của
khái niệm cáo trạng.
Những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự thể hiện trong cáo trạng
lần đầu tiên được đề cập tại Thông tư số 09/NCPL ngày 02/10/1962 của Tịa án
nhân dân tối cao, gồm những điểm chính sau đây:
+ Hành vi phạm tội mà bị cáo bị truy cứu trách nhiệm có hay khơng xảy ra?
+ Hành vi ấy có đúng do bị cáo gây ra hay khơng?
+ Đã có đầy đủ những yếu tố về phương diện khách quan của tội phạm chưa
(Thời gian, địa điểm, hành vi phạm tội và kết quả của tội phạm)?
+ Đã có đầy đủ những yếu tố về phương diện chủ quan của tội phạm chưa
(Lỗi, động cơ, mục đích)?
+ Có tình tiết gì làm tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm của bị cáo không?
+ Nhân thân bị cáo
Hiện nay thì nội dung trên đã được quy định tại Điều 167 Bộ luật TTHS năm
2003.
8
Đỗ Ngọc Quang (1997), “Mối quan hệ giữa CQĐT với cơ quan tham gia TTHS”, Sách chuyên khảo, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.70.
14
Từ lý lẽ phân tích nêu trên, chúng tơi đưa ra khái niệm cáo trạng như sau:
“Cáo trạng là văn bản pháp lý trong TTHS thực hiện quyền quyết định truy tố của
VKS để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị can ra trước Tịa án có thẩm quyền
để xét xử với tội danh, điều khoản quy định trong Bộ luật hình sự. Nội dung của nó
dựa trên cơ sở kết quả điều tra, kết luận tội trạng với đầy đủ chứng cứ chứng minh
buộc tội theo cấu thành tội phạm đã được khởi tố, điều tra đối với bị can, những tình
tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị can và
mọi tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án; làm cơ sở phát sinh hoạt động xét xử và
giới hạn việc xét xử của Tòa án cũng như hoạt động xét hỏi, luận tội, tranh luận và
đối đáp tại phiên tòa đối với bị cáo”. Từ khái niệm nêu trên có thể rút ra đặc trưng
của bản cáo trạng như sau:
Thứ nhất: Cáo trạng thể hiện được tính quyền lực và cơng lý.
Đây là đặc trưng đầu tiên quan trọng nhất của bản cáo trạng vì cáo trạng do
cơ quan thực hành quyền công tố nhà nước (VKS) ban hành để truy tố bị can ra
trước tòa để xử.
Tính quyền lực của cáo trạng khơng những phát sinh trong quan hệ đối với bị
can, bị cáo mà cả trong quan hệ tố tụng đối với tòa án nên khơng có cơ quan nhà
nước nào có thể thay thế VKS thực hiện quyền truy tố, buội tội bị cáo trước tòa khi
vụ án được đưa ra xét xử. Mọi phán quyết của tịa sẽ trở nên vơ hiệu nếu thiếu sự có
mặt của Kiểm sát viên thực hiện quyền cơng tố buội tội bị cáo tại phiên tịa.
Tính công lý của cáo trạng thể hiện trong phần nội dung của nó là tính có căn
cứ và hợp pháp của quyết định truy tố, tức phải chứng minh bằng chứng cứ và thể
hiện đúng đường lối chính sách hình sự là bất kỳ người nào có hành vi phạm tội đều
phải được CQĐT truy tố trước Tịa án. Tính cơng lý địi hỏi sự cơng bằng, bình
đẳngtrước pháp luật đối với mọi người, khi bị phạm tội đều phải bị truy tố trước
Tòa án và việc chứng minh tội phạm và người phạm tội bằng chứng cứ trong cáo
trạng. Tính cơng lý của cáo trạng cịn xuất phát ở chỗ bị can có quyền được biết
mình bị truy tố, buội tội về tội gì, theo điều khoản nào của bộ luật hình sự để bị can
thực hiện quyền bào chữa.
Thứ hai, cáo trạng phải đảm bảo tính có căn cứ và hợp pháp.
Tính có căn cứ của cáo trạng thể hiện nội dung cáo trạng phải phù hợp với
chứng cứ đã thu thập đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật TTHS qui định để chứng
minh buội tội với đầy đủ chứng cứ thể hiện trong bản kết luận điều tra đề nghị truy
tố của CQĐT.
15
Tính hợp pháp của cáo trạng yêu cầu việc truy tố phải đúng người phạm tội
theo đúng tội danh, trong đó lưu ý các dấu hiệu đặc trưng của tội danh truy tố. Nội
dung của cáo trạng phải phân tích rõ các dấu hiệu định tội, tình tiết định khung để
áp dụng chính xác pháp luật trong việc truy tố. Nếu cáo trạng khơng đảm bảo tính
có căn cứ, hợp pháp thì khơng thể buộc tội bị can, đó là những trường hợp có sai
lầm về áp dụng pháp luật hoặc vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng dẫn đến việc
truy tố bị can sai hoặc do nhận thức, đánh giá chứng cứ không đúng tội phạm bị can
đã thực hiện.
Thứ ba: cáo trạng truy tố phải thể hiện đúng chính sách hình sự và phân hóa
trách nhiệm hình sự.
Đây là đặc trưng không thể thiếu được trong cáo trạng, vì các lập luận trong
nội dung cáo trạng cũng như trong phần kết luận tội trạng của bị can phải thể hiện
đúng chính sách hình sự được qui định tại Điều 3 Bộ luật hình sự và phân hóa trách
nhiệm hình sự được qui định tại Điều 8, Điều 12, Điều 17, Điều 18, Điều 19, Điều
25 Bộ luật hình sự.
Nội dung của cáo trạng phải tuân thủ đúng qui định tại Điều 167 Bộ luật
TTHS và theo hướng dẫn số 122/HD ngày 14/9/2004 của VKS nhân dân tối cao
gồm có bốn phần như sau:
- Phần thứ nhất là phần nêu căn cứ pháp luật:
+ Nêu các căn cứ pháp luật của việc truy tố qui định tại các Điều 36, Điều
166, Điều 167 Bộ luật TTHS năm 2003 qui định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm của Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS về thời hạn quyết định truy tố và nội
dung cáo trạng.
Nêu các căn cứ về các quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can hoặc các
quyết định khác như: Phục hồi điều tra khởi tố bổ sung, nhập hoặc tách vụ án hình
sự (nếu có) của CQĐT…Việc nêu các căn cứ pháp luật và các quyết định của cơ
quan trên đây có ý nghĩa rất quan trọng. Vì đây là căn cứ xác định tính hợp pháp và
tính có căn cứ của hoặt động điều tra của CQĐT cũng như tính có căn cứ và hợp
pháp của việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị can.
- Phần thứ hai là phần mô tả hành vi phạm tội của bị can:
Phần mô tả hành vi phạm tội của bị can là cốt lõi quan trọng nhất của cáo
trạng. Phần này phải tuân thủ đúng qui định tại khoản 1 Điều 167 Bộ luật TTHS
gồm các nội dung:
Thời gian, địa điểm xảy ra tội phạm:
16
Về thời gian, cần ghi đầy đủ như hướng dẫn: ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm
xảy ra tội phạm (phải là ngày dương lịch) ghi rõ đầy đủ giờ, phút theo chữ số Ả rập,
khơng được ghi chữ viết, ví dụ như ghi: khoảng 4 giờ rưỡi chiều ngày…là sai mà
phải ghi là 16 giờ 30 phút.
Về địa điểm: cần ghi đầy đủ chi tiết địa điểm xảy ra tại đâu? thuộc thôn (ấp),
xã (thị trấn), huyện (quận, thị xã), tỉnh (thành phố) nào để người đọc khi đọc cáo
trạng dễ dàng hiểu được địa điểm xảy ra tội phạm.
Về mô tả hành vi phạm tội, tội của bị can phải được mơ tả đầy đủ, chính xác,
và phải lập luận một cách khái quát diễn biến vụ án trên cơ sở quy nạp, tổng hợp,
viện dẫn đầy đủ chứng cứ chứng minh. Khi chứng minh hành vi, thủ đoạn, những
tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ và những tình tiết quan trọng khác phải viện
dẫn các chứng cứ để chứng minh bằng bút lục hồ sơ.
Về động cơ, mục đích phạm tội, do người phạm tội khi thực hiện tội phạm
cũng như trong quá trình khởi tố và điều tra thường che giấu động cơ, mục đích
phạm tội của minh. Chính vì vậy việc phân tích hành vi khách quan để chứng minh
ý thức chủ quan của bị can là hết sức quan trọng, có ý nghĩa to lớn để xác định mặt
chủ quan của tội phạm, xác định hình thức lỗi.
Về hậu quả của tội phạm: trong cáo trạng phải thể hiện rõ hậu quả về vật
chất, tinh thần, tài sản xảy ra trên thực tế.
Bản cáo trạng có sức thuyết phục hay khơng phụ thuộc rất nhiều vào việc
viện dẫn chứng cứ để chứng minh hành vi phạm tội hoặc viện dẫn chứng cứ để bác
bỏ.
+ Hình thức cáo trạng được lập đúng hình thức văn bản pháp luật
Cáo trạng là văn bản pháp lý truy tố người phạm tội cho nên hình thức cáo
trạng phải đúng quy định về căn cứ pháp lý; ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm xảy ra
tội phạm; hành vi, thủ đoạn, động cơ, mục đích, hậu quả phạm tội; những tình tiết
tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và các tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ
án; đánh giá, kết luận hành vi phạm tội của bị can; quyết định truy tố bị can trước
Tòa án (Điều 167 Bộ luật TTHS, Mẫu 107 kèm theo Quyết định số 07/QĐ-VKSTC
ngày 02 tháng 01 năm 2008 của VKS nhân dân tối cao).
Từ những phân tích trên, định nghĩa quyết định của VKS trong giai đoạn truy
tố như sau: “Quyết định tố tụng của VKS trong giai đoạn truy tố là các văn bản
17
pháp lý do VKS ban hành từ khi CQĐT kết thúc điều tra chuyển hồ sơ sang VKS
cho đến khi VKS kết thúc hồ sơ”.
1.1.3.2. Đặc điểm quyết định tố tụng của VKS trong giai đoạn truy tố
- Là văn bản do cơ quan có thẩm quyền ban hành
Trong giai đoạn này chủ thể ban hành quyết định là VKS, chỉ có thể là VKS
mà cụ thể là Viện trưởng, Phó Viện trưởng. Theo quy định của tại Điều 36 Bộ luật
TTHS thì khi thực hành quyền cơng tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự, Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS nhân
dân huyện có những nhiệm vụ và quyền hạn: quyết định truy tố, quyết định trả hồ
sơ để điều tra bổ sung; quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án. Như vậy, có thể
khẳng định chủ thể ban hành quyết định trong giai đoạn truy tố là VKS. Theo quy
định của Bộ luật TTHS, chỉ có Viện trưởng, Phó Viện trưởng mới có quyền ban
hành các quyết định trên, trong trường hợp Phó Viện trưởng ký thì phải ghi là “ký
thay” Viện trưởng. Tuy nhiên, Theo quyết định số 41/QĐ-VKSTC ngày 02/3/2005
của Viện trưởng VKS nhân dân tối cao, Kiểm sát viên VKS nhân dân tối cao đảm
nhiệm chức vụ là Vụ trưởng trong khi thực hành quyền công tố kiểm sát tuân theo
pháp luật trong hoạt động điều tra, được thừa ủy quyền Viện trưởng VKS nhân dân
tối cao ký bản cáo trạng, quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ; Trưởng phịng VKS
nhân dân cấp tỉnh được ký quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ, quyết định trả hồ sơ để
điều tra bổ sung, trong trường hợp này phải ghi là thừa ủy quyền.
- Quyết định tố tụng của VKS trong giai đoạn truy tố thể hiện tính quyền lực
và cơng lý:
Đây là đặc điểm quan trọng nhất của các quyết định VKS trong giai đoạn
này, tính quyền lực thể hiện đối với bị can, đối với CQĐT trong trường hợp VKS
trả hồ sơ để điều tra bổ sung; mà cả trong quan hệ tố tụng với Tịa án, khơng có cơ
quan nào có thể thay thế VKS thực hành quyền truy tố, buộc tội bị cáo ra trước Tòa
khi vụ án được đưa ra xét xử. Mọi phán quyết của Tòa án đều vơ hiệu nếu thiếu sự
có mặt của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố buộc tội bị cáo tại phiên tịa.
Tính cơng lý thể hiện ở phần nội dung của các quyết định mà VKS ban hành trong
giai đoạn truy tố, nếu bị can có những tình tiết, căn cứ để được đình chỉ, tạm đình
chỉ thì VKS ban hành quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ; Trong trường hợp hồ sơ
chưa đủ chứng cứ để truy tố bị can ra trước tịa thì VKS trả hồ sơ để CQĐT tiến
hành điều tra bổ sung, củng cố chứng cứ buộc tội đối với bị can; Khi có đủ căn cứ
truy tố bị can thì VKS ban hành quyết định truy tố bằng bản cáo trạng, tính quyền
18
lực của bản cáo trạng thể hiện trong phần nội dung của nó là tính có căn cứ và tính
hợp pháp của quyết định truy tố, tức phải chứng minh bằng chứng cứ và thể hiện
đúng đường lối chính sách hình sự là bất kỳ người nào có hành vi phạm tội đều bị
CQĐT khởi tố, điều tra và VKS truy tố trước Tịa án, tính cơng lý địi hỏi sự cơng
bằng, bình đẳng trước pháp luật đối với mọi người. Tính cơng lý của bản cáo trạng
cịn xuất phát ở chỗ bị can được quyền biết mình bị truy tố về tội gì, theo điều
khoản nào của Bộ luật hình sự để bị can thực hiện quyền bào chữa.
- Quyết định tố tụng của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố là quyết định
nhằm thực hiện nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp
và thực hành quyền công tố.
Viện kiểm sát thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn
điều tra trong các vụ án hình sự nhằm đảm bảo việc điều tra phải khách quan, chính
xác, đúng pháp luật; bảo đảm những vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra phải
được phát hiện, khắc phục kịp thời và xử lý nghiêm minh.
Khi thực hành quyền công tố, Viện kiểm sát phải bảo đảm rằng mọi hành vi
phạm tội đều phải được phát hiện, điều tra, xử lý kịp thời, không bỏ lọt tội phạm,
không làm oan người vô tội, Nhà nước giao cho VKS thay mặt nhà nước thực hành
quyền cơng tố, theo đó VKS được sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc
nội dung quyền công tố để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm
tội, đưa người phạm tội ra trước Tòa án để xét xử. Đây là đặc điểm cơ bản nhất của
các quyết định tố tụng của Viện kiểm sát được ban hành trong giai đoạn truy tố. Vì
trong suốt giai đoạn truy tố, các quyết định mà Viện kiểm sát ban hành đều thể hiện
trên hai lĩnh vực đó là kiểm sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan tư pháp và thực
hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố.
Chỉ ban hành trong giai đoạn truy tố:
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, VKS ban hành nhiều quyết định
TTHS như: trong quá trình điều tra, VKS ban hành quyết định phê chuẩn quyết định
khởi tố bị can, quyết định phê chuẩn lệnh tạm giam, phân cơng kiểm sát
viên…Riêng các quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ, quyết định trả hồ sơ để điều tra
bổ sung, quyết định truy tố bằng bản cáo trạng chỉ có thể ban hành trong giai đọan
truy tố. Như vậy có thể khẳng định các quyết định này VKS ban hành trong giai
đoạn truy tố.
19
1.1.3.3. Ý nghĩa quyết định tố tụng của VKS trong giai đoạn truy tố
- Đánh dấu kết thúc một giai đoạn TTHS và bắt đầu bằng một giai đoạn mới
hoặc vụ án đã được giải quyết.
Trong giai đoạn truy tố, khi VKS ban hành quyết định tố tụng là thời điểm
kết thúc giai đoạn truy tố và chuyển sang một giai đoạn tố tụng mới. Trong trường
hợp VKS ban hành quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ có nghĩa là vụ án đã được giải
quyết và kết thúc giai đoạn truy tố. Hoặc khi VKS ban hành quyết định trả hồ sơ để
điều tra bổ sung thì kết thúc giai đoạn truy tố; khi VKS chuyển trả hồ sơ cùng quyết
định trả hồ sơ điều tra bổ sung cho CQĐT và bắt đầu bằng một giai đoạn tố tụng
mới, đó là giai đoạn điều tra, khi nhận hồ sơ từ VKS, CQĐT mà cụ thể là Điều tra
viên cần xem xét quyết định trả hồ sơ của VKS yêu cầu điều tra những gì, bổ sung
chứng cứ như thế nào từ đó Điều tra viên tiến hành các thủ tục điều tra theo quy
định. Trong trường hợp sau khi nhận hồ sơ, VKS nhận thấy hồ sơ đã đầy đủ chứng
cứ truy tố bị can ra trước Tịa án thì ban hành cáo trạng và chuyển hồ sơ sang tòa án
cùng cấp. Thời điểm của giai đoạn xét xử được bắt đầu từ khi Tòa án nhận được hồ
sơ vụ án hình sự (với quyết định truy tố bị can trước Tòa án kèm theo bản cáo
trạng) do VKS chuyển sang và kết thúc bằng một bản án (quyết định) có hiệu lực
pháp luật của Tịa án. Và như vậy giai đoạn truy tố kết thúc và chuyển sang giai
đoạn tố tụng mới đó là giai đoạn xét xử. Vụ án xem như đã được giải quyết khi
VKS ban hành quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ, khi VKS ban hành quyết định
tạm đình chỉ đối với người có dấu hiệu bị bệnh tâm thần cần quyết định việc trưng
cầu giám định pháp y nhằm làm rõ bệnh tình của bị can, làm rõ tình trạng mất khả
năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi của bị can. Nếu VKS quyết định tạm đình
chỉ vụ án vì lý do bị can bỏ trốn và không rõ bị can đang ở đâu, thì yêu cầu CQĐT
ra quyết định truy nã bị can.
Tóm lại, trong giai đoạn truy tố, khi VKS ban hành quyết định TTHS cũng là
thời điểm kết thúc giai đoạn và bắt đầu bằng một giai đoạn tố tụng mới hoặc vụ án
được giải quyết bằng quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ.
- Tạo cơ sở pháp lý để Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử
Luật TTHS quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa
các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Chức năng
của Tòa án là xét xử. Tuy nhiên đối với các vụ án hình sự, Tịa án chỉ có thể thực
hiện chức năng này khi có quyết định truy tố của VKS. Điều 196 Bộ luật TTHS
năm 2003 đã quy định: “Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội