TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
KHOA LUẬT HÌNH SỰ
NGUYỄN VŨ HỊA LIÊN
MSSV: 0955030192
TRƯNG CẦU GIÁM ĐỊNH TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
KHĨA LUẬN CỬ NHÂN LUẬT
Niên khóa: 2009 – 2013
Người hướng dẫn:
TS. VÕ THỊ KIM OANH
Tp. Hồ Chí Minh, năm 2013
DANH SÁCH CỤM TỪ VIẾT TẮT
1. TGGĐ: Trưng cầu giám định
2. THTT: Tiến hành tố tụng
3. GĐTP: Giám định tư pháp
4. TTHS: Tố tụng hình sự
5. BLTTHS: Bộ luật Tố tụng hình sự (năm 2003)
6. KLGĐ: Kết luận giám định
7. BLHS: Bộ luật hình sự (năm 1999, có sửa đổi bổ sung 2009)
MỤC LỤC
I. Lời nói đầu
II. Nội dung
Chương 1: NHẬN THỨC CHUNG VỀ TRƯNG CẦU GIÁM ĐỊNH TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM……………..................................................................1
1.1 Khái niệm chung trưng cầu giám định…………………………………………..1
1.1.1 Định nghĩa trưng cầu giám định……………………………………………….....1
1.1.2 Đặc điểm của trưng cầu giámđịnh……………………………………………......2
1.1.3 Vai trò và ý nghĩa của hoạt động trưng cầu giám định………………………….8
1.2 Các nguyên tắc của hoạt động trưng cầu giám định trong tố tụng hình
sự….11
1.2.1 Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa………………………………..11
1.2.2 Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án………………….....................................13
1.2.3 Nguyên tắc đảm bảo sự vô tư của những người tiến hành hoặc những người
tham gia tố tụng……………………………………………………………………………..15
1.3 Lược sử hình thành và phát triển các quy định về trưng cầu giám định từ
năm 1945 đến trước 2003……………………….…………………………………...16
1.3.1 Các quy định của pháp luật về trưng cầu giám định giai đoạn 1945 –
1975….16
1.3.2 Các quy định của pháp luật về trưng cầu giám định 1975 đến trước
2003…....19
CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT THỰC ĐỊNH VỀ TRƯNG CẦU GIÁM ĐỊNH TRONG TỐ
TỤNG HÌNH SỰ……………………………………………………...21
2.1 Pháp luật thực định về thẩm quyền trưng cầu giám định……………………21
2.1.1 Cơ quan có quyền ra quyết định trưng cầu giám định………………………...21
2.1.2 Nội dung quyết định trưng cầu giám định………………………………………26
2.2
Pháp
luật
thực
định
về
chủ
thể
được
trưng
cầu
giám
định………...................28
2.3 Pháp luật thực định về các trường hợp phải trưng cầu giám
định……...……32
2.4 Pháp luật thực định về nội dung kết luận giám định……………….…………40
CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
GIÁM ĐỊNH TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ…………………..................44
3.1 Thực tiễn thực hiện hoạt động trưng cầu giám định………………………….44
3.1.1 Về tổ chức, người giám định…………………………….…………………….. 45
3.1.2 Về thời hạn trong trưng cầu giám định……………………………….…………49
3.1.3 Về cơ chế giải quyết mâu thuẫn trong kết luận giám định và quyền giám định
lại của bị can, những người tham gia tố tụng khác……………………………….………53
3.1.4 Về cơ chế hoạt động của Viện kiểm sát trong trưng cầu giám
định……….……58
3.2 Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giám định trong tố tụng hình
sự……………………………………………………………………………………..61
3.2.1 Giải pháp về mặt pháp luật……………………………………………………..61
3.2.2 Các giải pháp khác……………………………………………………………..65
III. Kết luận
IV. Danh mục tài liệu tham khảo
LỜI MỞ ĐẦU
* Tính cấp thiết đề tài:
Xã hội ngày càng phát triển mạnh mẽ nhưng cũng kéo theo không ít
những hệ lụy, một trong số đó là tình hình tội phạm ngày càng tăng với những
thủ đoạn vô cùng tinh vi và xảo quyệt. Việc nhanh chóng phát hiện, khám phá
chính xác, kịp thời những tội phạm để bảo vệ trật tự xã hội, hoàn thành nhiệm vụ
mà Đảng và Nhà nước giao cho là một trách nhiệm vô cùng khó khăn của cơ
quan tiến hành tố tụng hình sự, đặc biệt trong giai đoạn điều tra. Trong đó có
hoạt động trưng cầu giám định. Trong một xã hội mà cơng nghệ thơng tin cùng
với những vũ khí nguy hiểm phát triển như vũ bão, thì giám định cũng như trưng
cầu giám định là một hoạt động vô cùng cần thiết để giúp các cơ quan có những
bằng chứng xác đáng nhất giải quyết nhanh gọn vụ án.
Tuy nhiên, ở phương diện lý luận vẫn còn rất nhiều vấn đề về trưng cầu
giám định chưa được làm rõ và thống nhất, tồn tại nhiều quan điểm khác nhau
dẫn đến hoạt động này tuy rất quan trọng nhưng còn khá mờ nhạt đối với các
nhà nghiên cứu, và có sự áp dụng thiếu thống nhất đồng bộ của cơ quan tiến
hành tố tụng. Cụ thể, các quy định về trưng cầu giám định còn khá sơ sài, chưa
nêu rõ nhiệm vụ, quyền hạn của những người tiến hành tố tụng và giám định
viên. Cơng tác giám định cịn nhiều khó khăn. Bên cạnh đó Luật Giám định tư
pháp mới ra đời chưa hoàn toàn đi vào thực tiễn, thiếu những quy định hướng
dẫn cụ thể…
Nhận thấy những vấn đề trên, tác giả cho rằng nghiên cứu một cách có hệ
thống những vấn đề lý luận và thực tiễn của hoạt động trưng cầu giám định là
một việc làm vô cùng cấp thiết trong tiến trình “xây dựng ngơi nhà khoa học” cho
đất nước, đặc biệt khi Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2003 đang trong giai đoạn
được sửa đổi, bổ sung.
* Tình hình và mục đích nghiên cứu đề tài:
1
Vấn đề giám định là một vấn đề được bàn luận hết sức sôi nổi, nhất là khi
Dự thảo Luật Giám định tư pháp được đưa ra để góp ý và khi Luật Giám định tư
pháp mới bắt đầu có hiệu lực. Có rất nhiều tác giả nghiên cứu về vấn đề này có
thể kể đến như:
- Nguyễn Hải Nam: “Bàn về các nguyên tắc giám định tư pháp” – Tạp chí
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Số 1/2011.
- TS. Dương Ngọc Ngưu: “Giám định tư pháp” – Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp, Văn phịng Quốc hội, Số 2/2004.
- Nguyễn Văn Trượng: “ Cần hoàn thiện một số quy định của pháp luật về
giám định tư pháp trong tố tụng hình sự” – Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư
Pháp, Số 12/2010.
- “Một số ý kiến về hoạt động giám định tư pháp trong tố tụng hình sự” –
Kiểm sát. Viện Kiểm Sát nhân dân tối cao, Số 5/2008.
Liên quan tới vấn đề giám định, ở cấp độ Luận văn tốt nghiệp ở trường
Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, có : Luận văn “Địa vị pháp lí người giám
định trong tố tụng hình sự” của Lê Hồng Nam khóa 1997-2002 và luận văn:
“Kết luận giám định trong tố tụn ép giám định bổ sung, giám định lại mà lý do đưa ra quá mơ hồ hoặc khơng chính
đáng. Chế tài là một trong những biện pháp quan trọng để đảm bảo quá trình thực thi
pháp luật được thực hiện tốt, vì thế, xây dựng những quy định mang tính chất “trừng
phạt” là một điểm hết sức cần được chú trọng.
3.2.2 Các giải pháp khác
Thứ nhất, đứng trước thực trạng thiếu hụt giám định viên như hiện nay, Nhà
nước cần có những chính sách đãi ngộ nhiều hơn nữa tới giám định viên thường
62
xuyên cũng như vụ việc. Chi phí cuộc sống ngày một tăng đòi hỏi thù lao cho giám
định viên cũng tăng ở mức xứng đáng để khuyến khích sự cống hiến của những
người này. Để nâng cao chất lượng giám định, rất cần thiết tăng cường bồi dưỡng
chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp cho những giám định viên để nâng
cao tay nghề, có chế độ làm việc thích hợp đối với giám định viên có chun mơn
cao nhưng đến tuổi về hưu để tận dụng chất xám. Thẩm phán Phạm Cơng Hùng, Tịa
Phúc thẩm Tịa án Tối cao Thành phố Hồ Chí Minh đã từng có ý kiến: “Nên có sự
phân cấp giám định viên, cụ thể là sơ cấp, trung cấp… Những sự việc đơn giản sẽ do
các giám định viên sơ cấp phụ trách, còn những vụ việc phức tạp sẽ giao cho những
giám định viên trung cấp làm. Việc phân định như trên sẽ rõ về trình độ chun mơn,
quyền lợi, trách nhiệm của những người làm công tác GĐTP.” Đây cũng là một
hướng đúng đắn giúp phân bổ đều cơng việc, tránh tình trạng nơi thì có q nhiều
việc, nơi thì khơng có việc để làm.
Song song với việc cải thiện về chất lượng và số lượng giám định viên, cơ
quan chức năng cũng cần phải trang bị phương tiện kĩ thuật hiện đại để cơng tác giám
định có thể chuẩn xác hơn. Bản chất giám định là sử dụng tri thức chuyên môn và
phương tiện kĩ thuật để đưa ra những kết luận theo yêu cầu của cơ quan THTT nên
việc có đầy đủ các phương tiện cũng mang ý nghĩa quyết định đến KLGĐ.
Thứ hai, về trách nhiệm của Viện kiểm sát trong hoạt động TCGĐ và giám
định.
Thiết nghĩ Viện kiểm sát cần phải phối hợp chặt chẽ hơn nữa với Cơ quan
điều tra trong việc giám sát hoạt động giám định. Pháp luật TTHS cho phép Kiểm sát
viên, Điều tra viên có quyền tham dự giám định nên cần thiết tham gia vào hoạt động
giám định nhiều hơn nữa, xây dựng mối quan hệ phối hợp, hỗ trợ tốt giữa Kiểm sát
viên, Điều tra viên và giám định viên nhằm bảo đảm nội dung TCGĐ phải cụ thể,
sâu sát sự việc và những vấn đề cần kết luận; KLGĐ phải giải đáp các nội dung của
quyết định TCGĐ, tránh những tiêu cực do sự quản lý lỏng lẻo. ThS Trần Văn Bảy,
Trưởng phòng Bổ trợ tư pháp - Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh có ý kiến : “Lâu
nay các cơ quan tố tụng căn cứ vào KLGĐ để xét xử nhưng các tổ chức giám định,
giám định viên làm gì, hoạt động ra sao thì ít ai biết, vấn đề kiểm soát trong lĩnh vực
63
GĐTP hiện còn bỏ ngỏ. Chúng ta buộc lòng phải tin tưởng vào kết luận của đơn vị
giám định bằng niềm tin nội tâm. Do vậy rất cần có cơ chế kiểm soát chất lượng
giám định.”
Quả vậy, để thực hiện quyền cơng tố cũng như kiểm sát của mình, Kiểm sát
viên cần chủ động phát hiện các vấn đề cần phải giám định để báo cáo Viện trưởng,
Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền ra văn bản yêu cầu
Cơ quan điều tra tiến hành TCGĐ. Kiểm sát viên phải kiểm sát việc TCGĐ của Cơ
quan điều tra và việc giám định của người giám định theo đúng quy định tại các Điều
155, 156, 157 và 158 BLTTHS. Nếu thấy nội dung KLGĐ chưa rõ, chưa đầy đủ hoặc
phát sinh những vấn đề mới liên quan đến các tình tiết vụ án đã được kết luận trước
đó, thì Kiểm sát viên thụ lý giải quyết vụ án báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng
hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền ra văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra
TCGĐ bổ sung hoặc trực tiếp ra quyết định TCGĐ bổ sung. Nếu thấy có nghi ngờ về
kết quả giám định hoặc có mâu thuẫn trong các KLGĐ về cùng một vấn đề thì Kiểm
sát viên báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng
uỷ quyền ra văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định TCGĐ lại hoặc trực tiếp
ra quyết định TCGĐ lại. Kiểm sát viên phải kiểm sát để đảm bảo việc giám định bổ
sung và giám định lại theo đúng quy định tại Điều 159 BLTTHS.
Thêm vào đó, để hạn chế sự tùy tiện trong việc TCGĐ, hạn chế sự tốn kém về
thời gian và kinh phí Nhà nước mà vẫn đảm bảo q trình điều tra vụ án, pháp luật
nên có những quy định rõ ràng hơn trong trường hợp nào Viện kiểm sát có quyền ra
quyết định TCGĐ để có thể đảm bảo chức năng công tố của cơ quan này. So với
BLTTHS 1988 (đã sửa đổi, bổ sung) thì BLTTHS hiện hành đã trao cho Viện kiểm
sát quyền được TCGĐ một cách trực tiếp tại Điều 155. Tuy nhiên để cho quyền này
thâm nhập vào thực tế chứ không phải chỉ nằm trên ngun tắc thì việc cụ thể hóa
vấn đề này là một yêu cầu cấp thiết.
Vẫn còn rất nhiều vấn đề cần được đưa ra bàn luận và tìm những giải pháp
thích hợp nhằm hồn thiện chế định TCGĐ. Từng lỗ hổng nhỏ từng bước từng bước
được “lấp lại” thì việc có được một hệ thống pháp luật TTHS nói chung và chế định
TCGĐ nói riêng hồn chỉnh, đồng bộ sẽ chỉ là vấn đề trong tương lai gần.
64
65
KẾT LUẬN
Qua quá trình nghiên cứu chế định trưng cầu giám định, có thể khẳng định
rằng hoạt động này khơng chỉ có vai trị và ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn
điều tra mà xuyên suốt cả tiến trình giải quyết vụ án. Kết luận giám đinh – kết quả
của hoạt động trên là một nguồn chứng cứ vô cùng quan trọng, có tính chất quyết
định trong một số trường hợp.
Trải qua quá trình phát triển, những quy định liên quan tới vấn đề trưng
cầu giám định cũng như giám định ngày càng được bổ sung và hồn thiện, góp
phần làm cho hệ thống pháp luật về hình sự nói chung và tố tụng hình sự nói
riêng được đầy đủ. Tuy nhiên như đã đề cập, các hoạt động trên cịn gặp nhiều
khó khăn và vướng mắc, nổi cộm là vấn đề thời hạn, mâu thuẫn trong các bản kết
luận giám định, quyền độc lập giám định lại hay cơ chế kiểm sát của Viện kiểm
sát. Xã hội ngày càng phát triển, đất nước đang chuyển mình đổi mới trên tất cả
mọi mặt, tất yếu nhu cầu cần pháp luật bảo vệ ngày càng tăng. Như Chủ tịch nước
Trương Tấn Sang đã từng phát biểu: “Yêu cầu của nhân dân đối với các cơ quan tư
pháp sẽ ngày càng cao; các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân
trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời phải là công cụ hữu hiệu bảo
vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả đối với các loại tội
phạm và mọi vi phạm pháp luật.” Chính vì thế, nâng cao hiệu quả hoạt động trưng
cầu giám định, giám định là một yêu cầu vô cùng cấp thiết của cơ quan chức năng
cũng như nhũng người học tập và nghiên cứu pháp luật . Đứng trước thềm sửa
đổi, bổ sung Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành cùng sự chuẩn bị ra đời của Nghị
định hướng dẫn Luật Giám định Tư pháp 2012, tác giả mong muốn những ý kiến
cũng như đề xuất của mình liên quan đến các bất cập đề cập ở trên sẽ góp một
phần nhỏ trong việc xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh.
Trong giới hạn khả năng, trình độ, thời gian nghiên cứu ngắn, luận văn tốt
nghiệp chỉ hệ thống khái quát những lý luận về hoạt động trưng cầu giám định,
đồng thời đưa ra một số thực trạng và giải pháp. Vì thế đề tài có thể chưa đủ độ
sâu, rộng cần thiết. Đây cũng là một đề tài khá mới mẻ, chưa có sự nghiên cứu
nhiều, tài liệu cịn rất ít ỏi nên trong q trình hồn thành luận văn khơng tránh
khỏi những sai sót. Vì thế, tác giả mong được quý thầy cô chỉ dạy và bè bạn góp ý
thêm để luận văn có thể hồn thiện hơn, có thể đem lại một chút giá trị cho hệ
thống pháp luật Việt Nam.
Qua đây, tác giả cũng xin gởi lời cảm ơn chân thành sâu sắc đến quý thầy cô
đã bồi dưỡng những kiến thức quý báu trong suốt 4 năm qua, cảm ơn cô Võ Thị
Kim Oanh đã tận tình hướng dẫn tác giả trong quá trình viết khóa luận, cảm ơn
tất cả bạn bè là chỗ dựa tinh thần cho tác giả, để tác giả có thể hồn thành khóa
luận này đúng thời hạn.
DANH MỤC TÀI LIỆU
Các Văn bản quy phạm pháp luật
1. Bộ Hình Luật Sài Gịn 1972.
2. Bộ Luật hình sự 1999 (có sửa đổi bổ sung 2009).
3. Bộ luật Tố tụng hình sự 1973.
4. Bộ luật Tố tụng hình sự 1988.
5. Bộ luật Tố tụng hình sự 2003.
6. Hiến pháp 1992 (có sửa đổi bổ sung).
7. Luật Giám định Tư Pháp 2012.
8. Nghị định 117 – HĐBT ngày 21/7/1988 về giám định tư pháp.
9. Nghị định 67/2005/NĐ-CP Hướng dẫn Pháp lệnh giám định Tư pháp.
10. Pháp lệnh Giám định Tư pháp 2004.
11. Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân 2002.
12. Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự 2004 (sửa đổi bổ sung 2009).
13. Quyết định số 74/2009/QĐ-TTg ngày 07/5/2009 của Thủ tướng Chính phủ
về chế độ bồi dưỡng giám định viên tư pháp và Thông tư số 02/2009/TT-BTP
ngày 17/9/2009 của Bộ Tư pháp.
14. Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT-VKSND-BCA-BQP.
15.Thông tư 2795 – HCTP ngày 12/12/1956 về giám định pháp y.
16. Thông tư số 02/2009/TT-BTP ngày 17/9/2009 của Bộ Tư pháp.
17. Thông tư 423 – TT/LB ngày 12/5/1961.
Sách, báo, một số tài liệu tham khảo
18. PGS.TS Nguyễn Ngọc Anh (Chủ biên) – Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng
Hình sự năm 2003 – Nhà xuất bản Chính trị quốc gia 2009.
19. Báo cáo cơng tác phịng chống tham nhũng năm 2012 của Chính phủ.
20. Báo cáo tổng thuật về Giám định tư của Cộng hòa liên bang Đức, Cộng hòa
Pháp, Vương quốc Thụy Điển, Nhật Bản, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và một số
nước khác – Bộ Tư pháp ngày 7/9/2011.
21. Nguyễn Anh Định – Luận văn “Kết luận giám định trong Tố tụng hình sự Trường Đại học Luật TP. HCM khóa 1999 – 2004.
22. Đề án “Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp” (Ban hành
kèm theo Quyết định số 258/QĐ-TTg) ngày 11 tháng 02 năm 2010 của Thủ
tướng Chính phủ.
23. Giáo trình Khoa học điều tra hình sự Đại học Luật Hà Nội 2005.
24. Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam 2013 trường Đại học Luật TP.HCM –
Nhà Xuất bản Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam.
25. Lê Hồng Nam - Luận văn “Địa vị pháp lí người giám định trong Tố tụng hình
sự” – Trường Đại học Luật TP. HCM khóa 1997-2002.
26. Cao Xuân Quyết- Giám định pháp y và điều tra hình sự - Nhà xuất bản chính
trị Quốc gia.
27. Tập bài giảng Luật Tố tụng hình sự - Khoa Luật Hình sự - Trường Đại học Luật
TP. HCM.
28. Tờ trình của Chính phủ về Dự thảo Luật GĐTP tại kỳ họp thứ 2 QH khóa XIII,
tháng 10/2011.
29. Từ điển Tiếng Việt – Ban biên soạn chuyên từ điển New Era – Nhà xuất bản
Văn hóa Thơng tin.
30. Từ điển Tiếng Việt – Ngôn ngữ Việt Nam – Nhà xuất bản Thanh niên.
31. PGS.TS Võ Khánh Vinh - Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng Hình sự - Nhà
xuất bản Công an nhân dân 2004.
32. Nguyễn Như Ý – Đại từ điển Tiếng Việt – Nhà Xuất bản Văn hóa Thơng tin.
Tạp chí online
33. Lê Dũng – “Chết chưa rõ nguyên nhân” – Mục An ninh, trang
ngày 06/6/2013.
34. Thu Hằng – “Giám định tư pháp: thiếu người tài!” – Mục Tư pháp, trang
ngày 14/4/2010.
35. Tiến Hiếu - “Loạn kết quả giám định tư pháp – Bài 1: Án kéo rê, tòa khổ,
đương sự mệt mỏi” - Trang .
36. Tiến Hiểu – “Thiếu từ con người, phương tiện đến quy định” – Mục Tạp chí
pháp luật , trang ngày 18/10/2012.
37. Minh Khoa – Đăng Trường – “Án tắc vì giám định” – Mục Pháp luật, trang
ngày 13/03/2010.
38. Phong Linh – “Tìm lại bình yên sau một vụ án tày đình” – Mục Pháp luật cuối
tuần, trang ngày 30/5/2011
39. Xuân Long – “Tòa trưng cầu giám định không đúng luật” – Trang
ngày 20/02/2013.
40. Tấn Lộc – “Vụ “Khổ sở khi tìm cha cho con” , Viện Kiểm sát rút hồ sơ để giám
định lại AND” – Mục Tạp chí pháp luật , trang ngày
22/4/2013).
41. Duy Minh – “Trăm phương nghìn kế chế ma túy giả” - Theo
tại mục An ninh đời sống ngày 22/07/2012.
42. Đức Minh - "VKS nếm món ăn, cơ quan điều tra đi chợ” – Mục Tạp chí pháp
luật, trang ngày 30/4/2011.
43. Nguyễn Sỹ - “Vụ giả tâm thần trốn tội tại Long An: Phẫn nộ khi công lý bị bỡn
cợt” - Mục An ninh thế giới, trang , ngày 19/03/2013.
44. Phương Thảo – “Kết luận giám định vênh nhau ln gây khó cho cơ quan tố
tụng “ – Trang ngày 27/10/2012.
45. Thiên Thư – “Giám định pháp y "lộn" bị hại” – Mục Pháp Luật, trang
ngày 14/04/2013.
46. Khánh Vĩnh – “Xét xử lưu động vụ án cố ý gây thương tích” – Mục Pháp luật,
trang ngày 24/4/2013.
47. Hồng Yến – “Tính tuổi sao cho đúng” – Mục Tạp chí pháp luật, trang
- Ngày 24/12/2012.