BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
PHAN NGỌC BÍCH
TỘI KHƠNG TỐ GIÁC TỘI PHẠM
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
TỘI KHƠNG TỐ GIÁC TỘI PHẠM
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Định hướng nghiên cứu
Mã số: 60380104
Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Tường Vy
Học viên: Phan Ngọc Bích
Lớp: Cao học luật, Khóa 25
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn "Tội không tố giác tội phạm theo Luật Hình sự
Việt Nam" là cơng trình do chính tơi nghiên cứu và thực hiện dưới sự hướng dẫn
khoa học của TS. Lê Tường Vy. Các số liệu và trích dẫn trong Luận văn bảo đảm
độ tin cậy, chính xác và trung thực.
TÁC GIẢ
PHAN NGỌC BÍCH
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS
Bộ luật Hình sự
BLTTHS
Bộ luật Tố tụng Hình sự
GĐT
Giám đốc thẩm
HSST
Hình sự sơ thẩm
HSPT
Hình sự phúc thẩm
Nxb
Nhà xuất bản
TAND
Tòa án nhân dân
TANDTC
Tòa án nhân dân tối cao
TNHS
Trách nhiệm hình sự
VKSND
Viện Kiểm sát nhân dân
VKSNDTC
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TỘI KHÔNG
TỐ GIÁC TỘI PHẠM THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ..............................7
1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của Tội không tố giác tội phạm ........ 7
1.1.1. Khái niệm của Tội không tố giác tội phạm .............................................. 7
1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của Tội không tố giác tội phạm ............................. 9
1.2. Phân biệt Tội không tố giác tội phạm với một số tội phạm khác trong
Luật Hình sự Việt Nam ...................................................................................... 16
1.2.1. Phân biệt Tội không tố giác tội phạm (Điều 390 BLHS năm 2015) với
tội che dấu tội phạm (Điều 389 BLHS năm 2015) ........................................... 16
1.2.2. Phân biệt Tội không tố giác tội phạm và trường hợp đồng phạm tội
chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có với vai trị
người giúp sức .................................................................................................. 18
1.3. Khái quát lịch sử hình thành, phát triển của Tội khơng tố giác tội phạm
trong pháp luật Hình sự Việt Nam .................................................................... 18
1.3.1. Pháp luật Hình sự về Tội khơng tố giác tội phạm thời kỳ phong kiến đến
trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 ........................................................... 19
1.3.2. Pháp luật Hình sự về Tội không tố giác tội phạm giai đoạn từ năm 1945
đến trước khi Bộ luật Hình sự năm 1985 có hiệu lực ...................................... 22
1.3.3. Pháp luật hình sự về Tội không tố giác tội phạm giai đoạn từ khi Bộ luật
Hình sự 1985 có hiệu lực cho đến trước khi Bộ luật Hình sự năm 1999 có hiệu
lực ..................................................................................................................... 23
1.3.4. Pháp luật Hình sự về Tội khơng tố giác tội phạm giai đoạn từ khi Bộ
luật Hình sự năm 1999 có hiệu lực đến trước khi Bộ luật Hình sự 2015 có hiệu
lực ..................................................................................................................... 25
1.3.5. Pháp luật Hình sự về Tội không tố giác tội phạm từ năm 2015 đến nay26
1.4. Những quy định về Tội không tố giác tội phạm trong pháp luật Hình sự
một số nước trên thế giới .................................................................................... 28
1.4.1. Bộ luật Hình sự của Vương quốc Thụy Điển ......................................... 28
1.4.2. Bộ luật Hình sự của Cộng hịa Liên bang Đức ...................................... 31
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................35
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
QUY ĐỊNH VỀ TỘI KHÔNG TỐ GIÁC TỘI PHẠM .......................................36
2.1. Thực trạng áp dụng Tội không tố giác tội phạm ở nước ta ..................... 36
2.1.1. Tình hình tội phạm khơng tố giác tội phạm từ năm 2013 đến năm 201736
2.1.2. Cơ cấu tội phạm không tố giác tội phạm từ năm 2013 đến năm 2017 .. 37
2.2. Một số bất cập trong thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật Hình
sự hiện hành về Tội không tố giác tội phạm ..................................................... 41
2.3. Một số giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự Việt Nam
về Tội khơng tố giác tội phạm ............................................................................ 51
2.3.1. Các yêu cầu hoàn thiện quy định Luật Hình sự Việt Nam về Tội khơng
tố giác tội phạm ................................................................................................ 51
2.3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của Luật Hình sự Việt Nam
về Tội không tố giác tội phạm .......................................................................... 54
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................61
KẾT LUẬN ..............................................................................................................62
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Con người là giá trị cao quý nhất của xã hội. Bảo vệ con người - bảo vệ Nhân
dân là nội dung được khẳng định ngay từ chương đầu tiên trong văn bản mang tính
chính trị - pháp lý cao nhất của nước ta, cụ thể Khoản 1 Điều 2 Hiến pháp năm 2013
quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của Nhân
dân, do Nhân dân và vì Nhân dân”. Như vậy, Nhân dân là chủ thể mang quyền lực
tối cao, có vai trị quan trọng trên mọi lĩnh vực cũng như đối với công tác phòng
chống tội phạm.
Với tầm quan trọng của người dân trong việc phát hiện, xử lý tội phạm,
Khoản 3 Điều 4 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: “Mọi cơng dân có nghĩa vụ
tích cực tham gia phịng, chống tội phạm”, Khoản 2 Điều 5 Bộ luật Tố tụng Hình sự
năm 2015 nhấn mạnh “Tổ chức, cá nhân có quyền và nghĩa vụ phát hiện, tố giác,
báo tin về tội phạm; tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm”. Như vậy, để kịp
thời ngăn chặn người phạm tội thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, bảo vệ cá
thể khơng bị xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp, cũng như để đảm bảo hoạt
động đúng đắn của các cơ quan chun trách thì khơng thể thiếu sự phối hợp của
người dân. Cũng chính vì lý do đó, Tội khơng tố giác tội phạm được quy định trong
pháp luật Hình sự Việt Nam.
Tội khơng tố giác tội phạm lần đầu tiên được quy định trong Bộ luật Hình sự
năm 1985 với tư cách là một tội phạm độc lập. Tuy nhiên, trước sự thay đổi của xã
hội trong tình hình mới, nhiều quy định của Bộ luật Hình sự nói chung cũng như quy
định về Tội khơng tố giác tội phạm nói riêng cần được điều chỉnh để đáp ứng yêu cầu
đấu tranh phòng chống tội phạm, phù hợp với cơng cuộc cải cách tồn diện của đất
nước trong đó có cải cách tư pháp, vì vậy, Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung
năm 2017 (sau đây gọi là Bộ luật Hình sự năm 2015) ra đời là một tất yếu khách
quan. Theo nghiên cứu ban đầu, so với Bộ luật Hình sự trước đây, các quy định ở
Phần Những quy định chung và Phần Các tội phạm trong Bộ luật Hình sự năm 2015
đều có những thay đổi với mức độ và phạm vi khác nhau. Riêng đối với Tội không tố
giác tội phạm, nhà làm luật cũng đã có sự sửa đổi, bổ sung nhất định.
Bên cạnh đó, trên thực tế, một số cá nhân chưa nhận thức đầy đủ vai trò của
mình đối với hoạt động phịng chống tội phạm, chưa thực hiện nghĩa vụ tố giác tội
2
phạm dẫn đến hậu quả nguy hiểm, gây khó khăn cho cơ quan có thẩm quyền trong
việc phát hiện, tìm kiếm sự thật khách quan, ảnh hưởng đến sự ổn định của xã hội.
Để làm rõ những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn áp dụng Tội không tố
giác tội phạm thì cần tiến hành nghiên cứu cơ bản. Kết quả nghiên cứu có thể phục
vụ cho cơng tác áp dụng pháp luật đối với tội phạm này hiệu quả hơn.
Với những luận cứ trên, tác giả chọn nghiên cứu “Tội khơng tố giác tội phạm
theo Luật Hình sự Việt Nam” làm đề tài luận văn Thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Thời gian qua, Tội khơng tố giác tội phạm nhận được sự quan tâm của khơng
ít nhà nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Qua quá trình nghiên cứu các tài
liệu liên quan đến Tội không tố giác tội phạm, tác giả thống kê như sau:
2.1. Luận văn
Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Phùng Quang Huy (2006) “Tội không
tố giác tội phạm - Một số khía cạnh pháp lý hình sự và tội phạm học”, Đại học
Quốc gia Hà Nội - Khoa Luật. Tác giả đã nghiên cứu về Tội không tố giác tội phạm
ở góc độ pháp lý hình sự và tội phạm học. Luận văn được nghiên cứu một cách tồn
diện và có hệ thống, tuy nhiên chưa thể hiện rõ sự tương đồng hay khác biệt với
pháp luật Việt Nam khi trình bày quy định về Tội khơng tố giác tội trong pháp luật
hình sự một số nước, cũng như chưa so sánh với một số tội có thể gây nhầm lẫn
trong pháp luật nước ta.
Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Hồ Mạnh Hà (2016) “Trách nhiệm hình
sự đối với Tội khơng tố giác tội phạm trong luật hình sự Việt Nam”, Đại học Quốc gia
Hà Nội - Khoa Luật. Tác giả nghiên cứu luận văn này ở góc độ những vấn đề lý luận
và đánh giá thực tiễn hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Tội không tố
giác tội phạm trên cơ sở các số liệu thống kê của Tòa án nhân dân giai đoạn 20112015. Từ đó, luận văn chỉ ra diễn biến và đưa ra những yêu cầu, giải pháp bảo đảm
cơng tác truy cứu chính xác trách nhiệm hình sự đối với tội danh này. Như tên gọi của
đề tài, luận văn chú trọng đề cập Tội không tố giác tội phạm ở góc độ TNHS.
2.2. Sách chuyên khảo, giáo trình, bài báo
Tội khơng tố giác tội phạm được đề cập chính thức từ BLHS năm 1985,
tiếp theo đó là BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015, đồng thời được phân tích
3
trong các giáo trình, sách chuyên khảo và các bài báo đăng trên nhiều tài liệu
chuyên ngành.
Về giáo trình, gồm có: Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam - Tập 2, Nxb Công
an nhân dân của Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2012; Giáo trình Luật
Hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm - Quyển 2, Nxb Hồng Đức - Hội luật gia
Việt Nam của Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, năm 2015. Các giáo trình đã thể hiện
nội dung của Tội khơng tố giác tội phạm một cách khái quát nhất, nhưng vẫn chưa
nêu rõ khái niệm, sự hình thành và phát triển của Tội không tố giác tội phạm qua
các giai đoạn lịch sử cũng như những bất cập đối với tội phạm này, do đó chưa đưa
ra kiến nghị hồn thiện quy định đối với Tội không tố giác tội phạm.
Sách chun khảo, gồm có: “Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự - Phần các
tội phạm: Bình luận chuyên sâu - Tập 10”, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh của tác
giả Đinh Văn Quế, năm 2007; “Tìm hiểu các tội xâm phạm trong hoạt động tư pháp
trong Bộ luật Hình sự 1999”, Nxb Công an nhân dân của tác giả Nguyễn Ngọc
Điệp, năm 2001; “Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung
năm 2009 (Phần các tội phạm)”, Nxb Chính trị quốc gia, tác giả Nguyễn Đức Mai
(chủ biên), năm 2010; “Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật Hình sự
năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)”, Nxb Hồng Đức, tác giả Nguyễn Thị
Phương Hoa - Phan Anh Tuấn (đồng chủ biên), năm 2017. Các cơng trình nghiên
cứu nói trên đã phần nào đề cập đến Tội không tố giác tội phạm nhưng chưa thực sự
chuyên sâu. Tuy nhiên, đây là nguồn tài liệu quý để tham khảo, là cơ sở quan trọng
giúp tác giả hoàn thành đề tài nghiên cứu của mình.
Dưới góc độ bài báo, bài viết đăng trên các tạp chí chun ngành, đã có nhiều
bài viết về Tội không tố giác tội phạm như: “Hiểu thế nào về hành vi không tố giác
tội phạm” của tác giả Uông Quang Huy trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số
4/2002; “Một số vấn đề lý luận, thực tiễn về Tội không tố giác tội phạm” của tác giả
Trần Quang Tiệp đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 23/2005, “Mấy ý kiến về Điều 314
Bộ luật Hình sự Tội khơng tố giác tội phạm” của tác giả Vũ Thành Long đăng trên
tạp chí Tịa án Nhân dân số 19/2005, “Một số điểm bất hợp lý trong các quy định về
che giấu tội phạm và Tội không tố giác tội phạm” của tác giả Thái Văn Đồn đăng
trên tạp chí Tịa án nhân dân số 19/2005,... Các bài viết trên đã chỉ ra được những
thiếu sót, bất cập trong quy định của pháp luật về Tội không tố giác tội phạm. Tuy
nhiên, các tài liệu trên chưa phân tích tồn diện về phương diện lý luận cũng như
4
thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về Tội không tố giác tội phạm mà chỉ tập trung
nghiên cứu, phân tích một vài khía cạnh.
Hầu hết các cơng trình vừa nêu đều nghiên cứu theo quy định của BLHS trước
đó hoặc nếu có thì việc cập nhật các quy định mới của BLHS năm 2015 cịn chưa
chun sâu. Chính vì vậy, trong phạm vi của luận văn này, tác giả vừa tiếp tục kế thừa
kết quả trong các công trình nghiên cứu khoa học kể trên vừa đảm bảo việc chọn đề tài
“Tội không tố giác tội phạm theo Luật Hình sự Việt Nam” khơng có sự trùng lặp với
bất kì cơng trình nào trong bối cảnh BLHS năm 2015 vừa có hiệu lực pháp luật.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn
Từ nghiên cứu các vần đề lý luận và thực tiễn áp dụng quy định của luật thực
định về Tội không tố giác tội phạm, tác giả đề xuất một số giải pháp góp phần hồn
thiện pháp luật hình sự và nâng cao hiệu quả đấu tranh phịng chống Tội khơng tố
giác tội phạm.
Nhiệm vụ của luận văn
Để hoàn thành mục đích của luận văn, tác giả đã đặt ra và giải quyết các
nhiệm vụ sau:
- Luận văn làm rõ khái niệm, các dấu hiệu pháp lý của Tội không tố giác tội
phạm, nghiên cứu quá trình lập pháp hình sự trong các giai đoạn lịch sử của Việt
Nam, so sánh với tội phạm có dấu hiệu tương đồng và tham khảo quy định của pháp
luật hình sự một số nước trên thế giới đối với tội phạm này.
- Luận văn phân tích thực trạng áp dụng quy định về Tội không tố giác tội
phạm, xác định những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng. Từ đó, tác giả đề xuất
một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy phạm pháp luật về tội phạm này cũng như
nâng cao hiệu quả xử lý tội phạm.
4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn về đề tài: “Tội khơng tố giác tội phạm theo Luật Hình sự Việt
Nam” có phạm vi nghiên cứu như sau:
- Về không gian, tác giả đã thu thập được số liệu khảo sát tình hình xét xử
Tội khơng tố giác tội phạm trên phạm vi toàn quốc.
5
- Về thời gian, những số liệu thống kê từ năm 2013 đến năm 2017 (05 năm)
được sử dụng trong luận văn, những dẫn chứng, ví dụ trong đề tài gồm những vụ án
đã xảy ra sau khi BLHS năm 1999 có hiệu lực cho đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước về cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm nói chung và
đối với Tội khơng tố giác tội phạm nói riêng.
Trong q trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu: lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh, khảo sát, thống kê. Cụ thể:
phương pháp phân tích và tổng hợp được sử dụng xuyên suốt trong luận văn;
phương pháp so sánh được sử dụng trong phần phân biệt Tội không tố giác tội phạm
với một số tội danh có dấu hiệu tương đồng, phương pháp này cũng được sử dụng
trong phần nghiên cứu quy định của BLHS một số nước; phương pháp lịch sử được
sử dụng để khái quát lịch sử hình thành và phát triển của Tội không tố giác tội phạm
trong pháp luật hình sự Việt Nam; phương pháp khảo sát, thống kê được sử dụng
khi phân tích số liệu về thực tiễn xét xử các vụ án của tội này ở Chương II.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Ở mức độ nhất định, những đóng góp mới của luận văn có ý nghĩa quan trọng
về phương diện lý luận và thực tiễn, bao gồm:
- Luận văn đưa ra khái niệm Tội không tố giác tội phạm, luận giải các dấu
hiệu pháp lý về khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan của Tội không tố
giác tội phạm theo BLHS năm 2015, phân biệt với các tội danh khác, nhận định,
đánh giá những bước phát triển nổi bật của pháp luật nước ta về tội phạm này từ
năm 1945 đến nay.
- Luận văn đưa ra bức tranh tổng quan về thực tiễn xét xử đối với Tội không
tố giác tội phạm từ năm 2013 đến năm 2017.
- Luận văn đưa ra những đề xuất, kiến nghị nhằm hồn thiện quy phạm pháp
luật hình sự về Tội khơng tố giác tội phạm.
Với những đóng góp nêu trên, hy vọng luận văn có thể được sử dụng làm tài
liệu tham khảo để phục vụ cho việc nghiên cứu, học tập và giảng dạy về Tội không
6
tố giác tội phạm, bên cạnh đó những đề xuất nêu trong luận văn sẽ được tham khảo
trong công tác lập pháp để từ đó có thể hồn thiện quy định của BLHS Việt Nam về
tội phạm này.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội
dung luận văn này gồm 2 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và pháp lý về Tội không tố giác tội phạm
theo Luật Hình sự Việt Nam.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng và kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định về Tội
không tố giác tội phạm.
Đề tài “Tội không tố giác tội phạm theo Luật Hình sự Việt Nam” có nhiều
vấn đề cần phải nghiên cứu. Với kinh nghiệm công tác cùng với sự hiểu biết cịn
hạn chế nên trong khn khổ luận văn này tác giả hy vọng có thể góp một phần nhỏ
vào q trình nghiên cứu nhằm hồn thiện các quy định của pháp luật về Tội không
tố giác tội phạm.
7
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TỘI
KHƠNG TỐ GIÁC TỘI PHẠM THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của Tội không tố giác tội phạm
1.1.1. Khái niệm của Tội không tố giác tội phạm
Tội không tố giác tội phạm là một trong những tội phạm được tội phạm hóa
từ rất sớm trong Luật Hình sự Việt Nam và được xếp vào Chương Các tội xâm
phạm hoạt động tư pháp. Trong khoa học pháp lý hình sự, hành vi khơng tố giác tội
phạm là một trong số ít hành vi được quy định ở cả Phần Những quy định chung và
Phần Các tội phạm. Để nhận thức đúng về Tội không tố giác tội phạm, trước hết cần
làm sáng tỏ khái niệm tố giác tội phạm.
Theo từ điển Tiếng Việt tố giác là “báo cáo cho cơ quan chính quyền biết về
một hành vi phạm pháp của người nào đó”1.
Theo giải thích tại Khoản 1 Điều 3 Thơng tư liên tịch số 06/2013/TTLT-BCABQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 02/8/2013 của Bộ Công an, Bộ Quốc
phịng, Bộ Tài chính, Bộ Nơng nghiệp và Phát triển nông thôn, Viện kiểm sát nhân
dân tối cao về việc hướng dẫn thi hành quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự về tiếp
nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố: “Tố giác về tội
phạm là những thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm do cá nhân có danh tính,
địa chỉ rõ ràng cung cấp cho cơ quan, cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết”.
Khoản 1 Điều 144 BLTTHS năm 2015 quy định: “Tố giác về tội phạm là việc
cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền”.
Và, theo Từ điển Luật học, khơng tố giác tội phạm là: “khơng thơng báo cho
cơ quan có trách nhiệm về tội phạm đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc
đã được thực hiện mà mình biết rõ và có điều kiện để thơng báo”2.
Trên cơ sở kế thừa và phát triển các bộ luật trước, BLHS năm 2015 quy định
không tố giác tội phạm tại Điều 19 như sau:
“1. Người nào biết rõ tội phạm đang được chuẩn bị, đang được thực hiện
hoặc đã được thực hiện mà khơng tố giác, thì phải chịu TNHS về Tội không tố giác
tội phạm trong những trường hợp quy định tại Điều 390 của Bộ luật này.
1
2
Nguyễn Văn Xô (2008), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Thanh niên, tr. 751.
Viện Khoa học Pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển bách khoa - Tư pháp, tr. 426.
8
2. Người không tố giác là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ
hoặc chồng của người phạm tội không phải chịu trách nhiệm theo quy định tại
Khoản 1 Điều này, trừ trường hợp không tố giác các tội quy định tại Chương XIII
của Bộ luật này hoặc tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
3. Người không tố giác là người bào chữa không phải chịu TNHS theo quy
định tại Khoản 1 Điều này, trừ trường hợp không tố giác các tội quy định tại
Chương XIII của Bộ luật này hoặc tội khác là tội đặc biệt nghiêm trọng do chính
người mà mình bào chữa đang chuẩn bị, đang thực hiện hoặc đã thực hiện mà
người bào chữa biết rõ khi thực hiện việc bào chữa.
Tội không tố giác tội phạm được quy định tại Điều 390 BLHS năm 2015:
1. Người nào biết rõ một trong các tội phạm được quy định tại Khoản 2 hoặc
Khoản 3 Điều 14 của Bộ luật này đang được chuẩn bị hoặc một trong các tội phạm
quy định tại Điều 389 của Bộ luật này đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện
mà không tố giác, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Khoản 2 và Khoản 3
Điều 19 của Bộ luật này, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03
năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm .
2. Người khơng tố giác nếu đã có hành động can ngăn người phạm tội hoặc
hạn chế tác hại của tội phạm, thì có thể được miễn TNHS hoặc miễn hình phạt.”
Từ quy định của Điều 19, Điều 390 và khái niệm tội phạm tại Điều 8 BLHS
năm 2015 có thể đưa ra khái niệm Tội không tố giác tội phạm như sau: Tội không tố
giác tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự
do người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS, mặc dù không tham gia vào việc
thực hiện tội phạm nhưng biết rõ tội phạm đang được chuẩn bị hoặc đang được
thực hiện hoặc đã được thực hiện thuộc các trường hợp pháp luật hình sự quy định
nhưng cố ý khơng tố giác với cơ quan có thẩm quyền; qua đó xâm phạm sự đúng
đắn của hoạt động tố tụng và thi hành án.
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, một hành vi được xem là tội
phạm khi hành vi đó thỏa mãn các yếu tố cấu thành được pháp luật hình sự quy
định. Để xác định Tội không tố giác tội phạm theo Luật Hình sự Việt Nam, cơ quan
có thẩm quyền cần xác định các dấu hiệu pháp lý sau:
9
1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của Tội không tố giác tội phạm
1.1.2.1. Khách thể của Tội không tố giác tội phạm
Khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ và bị
tội phạm xâm hại đến3. Tuy nhiên, không phải mọi loại quan hệ xã hội đều được
bảo vệ bằng Luật Hình sự, chỉ những hành vi xâm hại hoặc đe dọa xâm hại những
quan hệ xã hội quan trọng, ảnh hưởng đáng kể tới đời sống xã hội được quy định
trong BLHS mới bị trừng trị. Theo Khoản 3 Điều 2 Hiến pháp năm 2013, nguyên
tắc tổ chức bộ máy Nhà nước là “quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân
cơng, phối hợp, kiểm sốt giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Như vậy, tư pháp là một trong ba nhánh cốt
yếu của quyền lực Nhà nước.
Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người khẳng định “tư pháp là một cơ quan trọng
yếu của chính quyền”4, “tư pháp có tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt người dân mới
được hệ thống pháp luật bảo vệ”5. Như vậy, việc phát hiện xử lý hành vi cản trở,
gây khó khăn, xâm hại đến hoạt động đúng đắn của các cơ quan tư pháp là nhằm
bảo vệ trật tự xã hội. Tại Khoản 3 Điều 4 BLHS năm 2015 ghi nhận “mọi cơng dân
có nghĩa vụ tích cực tham gia phịng, chống tội phạm”. Vì lẽ đó, khơng tố giác tội
phạm trở thành một trong những chế định phản ánh hành vi phạm tội xâm phạm
hoạt động đúng đắn của cơ quan tư pháp và được ghi nhận thành một tội phạm độc
lập trong Chương Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, đây cũng là “nhóm tội rất
khó phát hiện và chứng minh”6. Bên cạnh ý nghĩa ngăn chặn người khác tiếp tục
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, bảo vệ cá thể khác khỏi bị xâm hại đến
quyền và lợi ích hợp pháp, tố giác tội phạm cịn giúp cơ quan chức trách tiếp cận
thơng tin về tội phạm để thực hiện công tác điều tra, truy tố, xét xử nhằm bảo vệ
công lý cũng như răn đe, giáo dục người phạm tội.
Khái niệm tội xâm phạm hoạt động tư pháp được quy định tại Điều 367
BLHS năm 2015, theo đó, khách thể của Tội khơng tố giác tội phạm là sự đúng đắn
của hoạt động tố tụng và thi hành án. Và đối tượng tác động của tội phạm này là
người phạm tội - người mà người phạm tội không tố giác. Thông qua đối tượng tác
3
Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - tập 1, Nxb Cơng an nhân dân, tr. 86.
Hồ Chí Minh tồn tập - tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, tr. 381.
5
Hồ Chí Minh tồn tập - tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, tr. 232.
6
Nguyễn Tiến Sơn (2017), “Phân tích một số tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong chương XXIV Bộ luật
Hình sự 2015”, Tạp chí Kiểm sát, số 23, tr. 46.
4
10
động, người phạm tội xâm phạm đến hoạt động tư pháp, ảnh hưởng đến việc phát
hiện, điều tra, chứng minh tội phạm, vi phạm nguyên tắc xử lý được quy định tại
Điểm a Khoản 1 Điều 3 BLHS năm 2015 “mọi hành vi phạm tội phải được phát
hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, cơng minh theo đúng pháp luật”.
1.1.2.2. Mặt khách quan của Tội không tố giác tội phạm
Mặt khách quan là một trong bốn yếu tố cấu thành tội phạm, là những biểu
hiện của tội phạm diễn ra và tồn tại trong thế giới khách quan. Mặt khách quan của
tội phạm bao gồm: hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội và
mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, ngồi ra cịn có các điều kiện bên
ngồi của việc thực hiện hành vi phạm tội (công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ
đoạn, thời gian, địa điểm phạm tội).
Hành vi nguy hiểm cho xã hội là biểu hiện cơ bản của mặt khách quan, hành
vi khách quan của tội phạm được thể hiện dưới hai dạng: hành động và không hành
động. Tội không tố giác tội phạm ngay tên gọi đã thể hiện hành vi phạm tội chỉ có
thể ở dạng không hành động phạm tội. Không hành động được hiểu là hình thức
biểu hiện của hành vi phạm tội làm biến đổi trạng thái bình thường của đối tượng
tác động, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm qua
việc chủ thể không làm một việc có nghĩa vụ phải làm (pháp luật yêu cầu).
Đối với hành vi không tố giác tội phạm, nghĩa vụ pháp lý phát sinh do luật
định, cá nhân có nghĩa vụ tố giác tội phạm với cơ quan có thẩm quyền. Nghĩa vụ
này được quy định trong các văn bản pháp luật như Khoản 2 Điều 5 BLTTHS năm
2015: “Tổ chức, cá nhân có quyền và nghĩa vụ phát hiện, tố giác, báo tin về tội
phạm; tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm” và Điều 390 BLHS năm 2015.
Tố giác tội phạm “có thể bằng lời nói hoặc bằng văn bản”7 qua việc trực tiếp tố
giác với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền hoặc gửi tố giác qua rất nhiều “kênh” như
“dịch vụ bưu chính, điện thoại hoặc qua phương tiện thơng tin khác”8 điển hình là
hòm thư tố giác trên trang điện tử của cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối
cao www.coquandieutravkstc.gov.vn hoặc số 113 và gần đây là số điện thoại được
in trên móc khóa theo mơ hình “Móc khóa an ninh” - mơ hình này đã được triển
khai trên nhiều địa bàn như phường Đồng Tâm thành phố Yên Bái tỉnh Yên Bái9,
7
Khoản 4 Điều 144 BLTTHS năm 2015
Khoản 1 Điều 146 BLTTHS năm 2015
9
Đinh Tuấn, “Móc khóa an ninh - Mơ hình giản dị, ý nghĩa thiết thực”, 25/12/2018.
8
11
thành phố Quảng Ngãi tỉnh Quảng Ngãi10, phường Tân Thành quận Tân Phú thành
phố Hồ Chí Minh11… Tuy nhiên, người phạm tội không tố giác tội phạm đã lựa
chọn xử sự im lặng trước hành vi phạm tội của người khác. Hành vi không tố giác
tội phạm là một đặc trưng điển hình của dạng khơng hành động phạm tội. Chủ thể
không làm một việc mà pháp luật quy định, là hành vi vi phạm nghĩa vụ pháp lý bắt
buộc. Hành vi không tố giác tội phạm được thể hiện qua việc khơng báo cáo với cơ
quan có thẩm quyền hoặc những người có thẩm quyền biết về tội phạm đang được
chuẩn bị, đang hoặc đã được thực hiện mà mình biết rõ.
Qua khảo sát BLHS năm 2015 và căn cứ theo quy định về Tội không tố giác
tội phạm, tác giả đã minh họa quy định này trên Bảng 4 Phụ lục. Theo đó, có 25 tội
biết rõ đang chuẩn bị nếu khơng tố giác có thể bị coi là tội phạm. Số tội phạm biết
rõ đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện nhà làm luật quy định phải tố giác
nhiều hơn, cụ thể là 90 tội; trong đó, tội phạm rất nghiêm trọng chiếm tỷ lệ cao nhất
42.5% với 110/259 khoản; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng chiếm tỷ lệ 34.4% với
89/259 khoản; tội phạm nghiêm trọng chiếm 20.8% với 54/259 khoản và tội
phạm ít nghiêm trọng có tỷ lệ thấp nhất 2.3% với 6/259 khoản.
Đặc trưng của Tội khơng tố giác tội phạm là có liên quan đến tội phạm khác
nên tội phạm này chủ yếu được xét xử kèm theo các tội phạm mà người đó khơng tố
giác. Do đó, khi khởi tố, truy tố, xét xử một người về Tội không tố giác tội phạm,
cơ quan tiến hành tố tụng phải xác định tội phạm đã xảy ra nhưng không bị tố giác
thuộc trường hợp quy định tại Điều 390 BLHS năm 2015.
Pháp luật hình sự quy định Tội khơng tố giác tội phạm cấu thành hình thức,
hậu quả khơng phải là dấu hiệu bắt buộc, song điều đó khơng có nghĩa là tội phạm
khơng xảy ra. Tội phạm được coi là hồn thành từ thời điểm người phạm tội biết
rõ tội phạm đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện mà
không tố giác. Tùy theo từng trường hợp cụ thể, hậu quả có thể là căn cứ để đưa ra
mức độ trách nhiệm khác nhau, “nếu hành vi khơng tố giác đó chưa gây ra hậu
quả, như lọt người, lọt tội hoặc vụ án không xử lý được, hoặc tuy có được phát
hiện xử lý nhưng chưa gây ra những hậu quả nghiêm trọng khác, thì người khơng
10
Nghiêm Hà, “Móc khóa nhỏ, hiệu quả to”, />14/01/2019.
11
Tuyết Nguyễn, “Phường ở TP HCM phát móc khóa kêu gọi dân tố giác tội phạm”, 20/11/2018.
12
tố giác có thể được miễn TNHS hoặc miễn hình phạt”12 vì tính nguy hiểm cho xã
hội của hành vi khơng cịn.
Hành vi khơng tố giác tội phạm ln được thực hiện dưới hình thức khơng
hành động nên nhà làm luật khơng đặt ra các điều kiện bên ngồi như công cụ,
phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm của việc thực hiện tội phạm.
1.1.2.3. Chủ thể của Tội không tố giác tội phạm
Tội không tố giác tội phạm là một trong số ít tội xâm phạm hoạt động tư pháp
không phải do chủ thể đặc biệt thực hiện. Giống như tất cả các tội phạm khác, chủ
thể của tội phạm này phải đáp ứng các điều kiện: có năng lực TNHS; đạt độ tuổi
luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội.
Trước hết, chủ thể phải là người có năng lực TNHS. Năng lực TNHS được
hiểu là khả năng nhận thức tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi do mình thực
hiện và khả năng điều khiển hành vi cho phù hợp với các chuẩn mực, đòi hỏi của xã
hội. Vậy, năng lực TNHS đối với chủ thể của Tội không tố giác tội phạm là người
có khả năng nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi không tố giác
tội phạm và có khả năng điều khiển hành vi đó.
Về tuổi chịu TNHS, mức tối đa của khung hình phạt đối với Tội không tố
giác tội phạm là 03 năm tù, căn cứ vào Điểm a Khoản 1 Điều 9 BLHS năm 2015 thì
đây là tội phạm ít nghiêm trọng. Tiếp theo đó, Điều 12 BLHS năm 2015 quy định:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm, trừ những
tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS về tội phạm rất
nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123,
134, 141, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252,
265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 Bộ luật này.”
Vậy, chủ thể của Tội không tố giác tội phạm là những người từ đủ 16 tuổi
trở lên.
Tuy nhiên, lưu ý rằng, cũng với vai trò là người thực hiện hành vi được mô tả
trong mặt khách quan của Tội không tố giác tội phạm, nhưng ông, bà, cha, mẹ, con,
12
Đinh Văn Quế (2007), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự - Phần các tội phạm: Bình luận chuyên sâu Tập 10, Nxb Tổng hợp, tr.329.
13
cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng được nhà làm luật quy định TNHS trong giới
hạn như sau:
“Người không tố giác là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ
hoặc chồng của người phạm tội không phải chịu TNHS theo quy định tại Khoản 1
Điều này, trừ trường hợp không tố giác các tội quy định tại Chương XIII của Bộ
luật này hoặc tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”13.
Theo đó, nếu người khơng tố giác tội phạm thuộc chủ thể vừa nêu trên thì
chỉ phải chịu TNHS trong trường hợp khơng tố giác các tội quy định tại Chương
các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng. Quy định này chính là sự ghi nhận truyền thống đạo đức của dân tộc - mối
quan hệ tình cảm gia đình, gia đình cịn là nguồn động viên, khuyên nhủ người
phạm tội đầu thú hoặc tự thú. Điều luật góp phần khẳng định quan hệ biện chứng
giữ đạo đức và pháp luật, “khơng thể nói một hành vi trái pháp luật là hợp đạo đức
và những vi phạm đạo đức lại là những hành vi phù hợp với pháp luật. Do đó việc
tội phạm hóa hành vi này hay hành vi khác phải phù hợp với quan niệm đạo đức
của nhân dân”14. Nhưng ngoài quan hệ truyền thống - huyết thống và hôn nhân,
những chủ thể được liệt kê trong Khoản 2 Điều 19 BLHS năm 2015 cịn là cơng
dân của đất nước, do đó sự loại trừ này là không tuyệt đối. Đây cũng là một quy
tắc xử sự được quy định từ rất sớm, đơn cử Điều 39 Bộ luật Hồng Đức năm 1483
quy định không trừng phạt đối với hành vi giấu tội nhau của những người ruột thịt
trừ tội mưu phản. Trên cơ sở kế thừa truyền thống pháp luật của ông cha ta, nhà
làm luật loại trừ TNHS đối với một số người thân thích của người phạm tội trong
giới hạn nhất định.
Một nội dung rất mới về chủ thể của tội phạm này, đó là Khoản 3 Điều 19
BLHS năm 2015:
“Người không tố giác là người bào chữa không phải chịu TNHS theo quy
định tại Khoản 1 Điều này, trừ trường hợp không tố giác các tội quy định tại
Chương XIII của Bộ luật này hoặc tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do
chính người mà mình bào chữa đang chuẩn bị, đang thực hiện hoặc đã thực hiện
mà người bào chữa biết rõ khi thực hiện việc bào chữa.”
13
Khoản 2 Điều 19 BLHS năm 2015.
Nguyễn Tất Viễn (1996), Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong Luật Hình sự Việt Nam, Luận án Phó
Tiến sĩ khoa học Luật học, Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật, tr. 66.
14
14
Như vậy, người bào chữa chỉ phải chịu TNHS trong trường hợp không tố
giác các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội đặc biệt nghiêm trọng khi biết
rõ người “đang chuẩn bị, đang thực hiện hoặc đã thực hiện” các tội phạm này là
người mà họ bào chữa. Quy định này góp phần thu hẹp phạm vi phải chịu TNHS
đối với hành vi không tố giác tội phạm của người bào chữa. Theo đó, người bào
chữa được đưa vào như một trường hợp loại trừ TNHS bên cạnh những chủ thể có
quan hệ huyết thống và hơn nhân được đánh giá là một bước tiến quan trọng.
1.1.2.4. Mặt chủ quan của Tội không tố giác tội phạm
Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong, là hoạt động tâm lý của người
phạm tội liên quan đến việc thực hiện tội phạm, bao gồm yếu tố: lỗi, động cơ phạm
tội và mục đích phạm tội.
Lỗi là dấu hiệu không thể thiếu của bất cứ cấu thành tội phạm nào. Đó là thái
độ tâm lý của một người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với
hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý15. Lỗi
của người phạm tội không tố giác tội phạm thực hiện hành vi của mình là lỗi cố ý
trực tiếp. Người phạm tội biết rõ một tội phạm đang được chuẩn bị, đang được thực
hiện hoặc đã được thực hiện nhưng họ khơng báo với cơ quan có thẩm quyền biết.
Nói cách khác, “người phạm tội nhận thức được hành vi khơng tố giác tội phạm của
mình mặc dù có khả năng thực tế để tố giác tội phạm, nhưng đã không sử dụng khả
năng ấy, tạo điều kiện để người phạm tội trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật, gây
cản trở cho việc điều tra khám phá tội phạm và xử lý tội phạm”16. Về nhận thức,
người phạm tội phải biết rõ tội phạm mà mình không tố giác là tội phạm đang được
chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện. Biết rõ tức là có đủ căn cứ
để nhận thức hành vi phạm tội của người khác là có thực, khơng phỏng đốn.
Khoản 1 Điều 390 BLHS năm 2015 đã có sự phân biệt hành vi không tố giác tội
phạm đối với các tội phạm đang được chuẩn bị và hành vi không tố giác tội phạm
đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện.
- Hành vi không tố giác tội phạm đang được chuẩn bị chỉ cấu thành tội phạm
khi hành vi chuẩn bị phạm tội đó phải chịu TNHS theo quy định tại Khoản 2,
15
Trường Đại học Luật Tp. Hồ chí Minh (2016), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần Chung, Nxb Hồng
Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tr. 153.
16
Vũ Thành Long (2005), “Mấy ý kiến về Điều 314 Bộ luật Hình sự Tội khơng tố giác tội phạm”, Tạp chí
Tịa án nhân dân, số 19, tr. 21.
15
Khoản 3 Điều 14 BLHS năm 2015. Khái niệm “biết rõ tội phạm đang được chuẩn bị
là biết rõ một hoặc một số người đang tìm kiếm, sửa soạn cơng cụ, phương tiện
hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm”17 hoặc thành lập, tham gia
nhóm tội phạm. Ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội, hành vi khách quan chưa được thực
hiện cũng như hậu quả chưa xảy ra do đó tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội
khơng cao. Vì vậy, hành vi khơng tố giác tội phạm đang được chuẩn bị chỉ bị truy
cứu TNHS khi tội phạm không được tố giác thuộc Khoản 2, Khoản 3 Điều 14
BLHS năm 2015.
- Hành vi không tố giác tội phạm đang được thực hiện hoặc đã thực hiện chỉ
cấu thành tội phạm khi tội phạm đang hoặc đã thực hiện đó thuộc một trong các tội
phạm được quy định tại Điều 389 BLHS năm 2015.
Ngoài dấu hiệu lỗi thì động cơ và mục đích phạm tội cũng có ý nghĩa quan
trọng trong việc quyết định hình phạt. Tuy nhiên, động cơ và mục đích phạm tội
không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm của Tội không tố giác tội
phạm. Người phạm tội không tố giác tội phạm dù xuất phát từ bất kỳ động cơ, mục
đích nào cũng phải chịu TNHS.
1.1.2.5. Hình phạt đối với người phạm Tội khơng tố giác tội phạm
Không tố giác tội phạm là kết quả của sự lựa chọn vì vậy người khơng tố
giác tội phạm phải chịu trách nhiệm tương ứng với mức độ nguy hiểm của hành vi
do họ gây ra. TNHS là hậu quả pháp lý bất lợi mà người thực hiện hành vi phạm
tội phải gánh chịu trước Nhà nước mà hình phạt là hình thức chủ yếu của TNHS.
Theo quy định tại Điều 390 BLHS năm 2015, nhà làm luật quy định hình phạt
chính đối với Tội khơng tố giác tội phạm gồm: cảnh cáo, cải tạo không giam giữ
đến 03 năm hoặc phạt tù với mức tối đa là 03 năm, đồng thời khơng quy định hình
phạt bổ sung.
Xuất phát từ tính chất đứng ngồi cuộc trong q trình thực hiện tội phạm
của người khác nên đường lối xử lý đối với người không tố giác tội phạm chủ yếu
hướng đến giáo dục là chính. Tùy theo mức độ nguy hiểm của hành vi không tố giác
tội phạm, mức độ nghiêm trọng của tội phạm mà người phạm tội không tố giác
cùng với các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ, cơ quan có thẩm quyền sẽ cân nhắc
quyết định hình phạt có thể là cảnh cáo hoặc cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù.
17
Khoản 1 Điều 14 BLHS năm 2015.
16
Nhằm ghi nhận sự chuyển biến tích cực từ chính người phạm Tội không tố
giác tội phạm, đảm bảo nguyên tắc cơng bằng, nhân đạo của Luật Hình sự và đặc
biệt đề cao vai trò của từng cá thể, khuyến khích mọi người tích cực tham gia đấu
tranh phịng chống tội phạm cũng như động viên những người đã có hành vi can
ngăn người phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm, Khoản 2 Điều 390 quy
định: “Người không tố giác nếu đã hành động can ngăn người phạm tội hoặc hạn
chế tác hại của tội phạm thì có thể miễn TNHS hoặc miễn hình phạt”.
Điểm đặc thù của Tội không tố giác tội phạm là tội phạm này chỉ đặt ra khi
có một tội phạm đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện
mà khơng tố giác. Hay nói cách khác, nếu khơng có tội phạm cụ thể nào đó xảy ra
thì cũng khơng có khơng tố giác tội phạm và do vậy không đặt ra vấn đề TNHS.
Tuy nhiên, bên cạnh điểm đặc thù này và các dấu hiệu pháp lý đã phân tích, Tội
khơng tố giác tội phạm cịn có những dấu hiệu tương đồng với các tội phạm khác,
do đó, tiếp theo tác giả sẽ phân biệt tội phạm này với một số tội phạm khác.
1.2. Phân biệt Tội không tố giác tội phạm với một số tội phạm khác trong
Luật Hình sự Việt Nam
1.2.1. Phân biệt Tội khơng tố giác tội phạm (Điều 390 BLHS năm 2015) với
tội che dấu tội phạm (Điều 389 BLHS năm 2015)
Sự đúng đắn của hoạt động tố tụng và thi hành án là khách thể của Tội không
tố giác tội phạm và Tội che giấu tội phạm. Do đó, hai tội phạm này cùng được quy
định tại Chương các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. Đây là hai tội độc lập mặc dù
có liên quan đến tội phạm khác nhưng khơng phải là hành vi đồng phạm, cùng được
thực hiện với hình thức lỗi cố ý nhưng khơng có sự hứa hẹn trước về việc che giấu
tội phạm hoặc không tố giác tội phạm. Cả hai tội này đều do chủ thể từ đủ 16 tuổi
trở lên thực hiện và hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc. Bên cạnh những điểm
tương đồng, Tội không tố giác tội phạm và Tội che giấu tội phạm cịn có những
khác biệt như sau:
Thứ nhất, về khách thể:
Đối tượng tác động của Tội che giấu tội phạm rộng hơn Tội không tố giác tội
phạm. Đối tượng tác động của Tội không tố giác tội phạm chỉ có thể là người phạm
tội, cụ thể là người đã, đang hoặc sẽ thực hiện thực hiện hành vi phạm tội mà người
phạm tội không tố giác. Đối tượng tác động của Tội che giấu tội phạm có thể là
17
người phạm tội (người thực hiện hành vi phạm tội mà người phạm Tội che giấu tội
phạm che giấu), hoặc cũng có thể là các dấu vết, tang vật của tội phạm,…
Thứ hai, về mặt khách quan:
Xét về hành vi, nếu hành vi khách quan của Tội không tố giác tội phạm là
hình thức khơng hành động phạm tội, người phạm tội không hành động trước một
trách nhiệm mà pháp luật bắt buộc hành động thì hành vi khách quan của Tội che
giấu tội phạm được thể hiện dưới hình thức hành động phạm tội, dạng hành động
che giấu tội phạm khá đa dạng: che dấu tội phạm, che giấu các dấu vết của tội
phạm, che giấu tang vật và các dạng hành vi khác cản trở việc phát hiện, điều tra,
xử lý người phạm tội.
Thời điểm phạm tội không tố giác tội phạm là bất kỳ giai đoạn nào của hành
vi phạm tội khác, có thể là ngay khi tội phạm đó đang chuẩn bị thực hiện, đang hoặc
đã được thực hiện. Khác với Tội không tố giác tội phạm, thời điểm phạm tội che
giấu tội phạm là sau khi biết hành vi phạm tội được thực hiện.
Thứ ba, về chủ thể:
Chủ thể được loại trừ TNHS của Tội không tố giác tội phạm nhiều hơn tội
che giấu tội phạm. Bên cạnh chủ thể được giới hạn TNHS là ông, bà, cha, mẹ, con,
cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội trong một số trường hợp
nhất định như Tội che giấu tội phạm thì Khoản 3 Điều 19 BLHS năm 2015 còn giới
hạn thêm một chủ thể đặc biệt là người bào chữa.
Thứ tư, về mặt chủ quan:
Người phạm tội không tố giác tội phạm “biết rõ” tội phạm sẽ, đang hoặc
đã diễn ra nhưng vẫn im lặng. Tuy nhiên, nhà làm luật quy định mức độ nhận
thức của người phạm tội che giấu tội phạm đối với hành vi phạm tội có liên quan
chỉ là “biết”.
Thứ năm, về hình phạt:
Hình phạt được quy định đối với Tội khơng tố giác tội phạm ít nghiêm khắc
hơn Tội che giấu tội phạm. Mức tối đa của khung hình phạt ở Tội khơng tố giác tội
phạm là 03 năm tù. Ở Tội che giấu tội phạm, mức cao nhất của khung hình phạt thứ
nhất là 05 năm tù và khung thứ hai là 07 năm tù. Lý giải cho sự khác biệt này, có
thể thấy vì mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi che giấu tội phạm là cao hơn,
18
khi không tố giác tội phạm là không hành động thì việc che giấu tội phạm là thực
hiện hàng loạt hành vi mang tính tích cực, chủ động, tạo điều kiện về tinh thần và
vật chất giúp đỡ người phạm tội được che giấu.
1.2.2. Phân biệt Tội không tố giác tội phạm và trường hợp đồng phạm tội
chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có với vai trị người
giúp sức
Tội khơng tố giác tội phạm và trường hợp đồng phạm tội chứa chấp hoặc tiêu
thụ tài sản do người khác phạm tội mà có với vai trò người giúp sức đều liên quan
đến hành vi phạm tội trước đó. Hành vi phạm tội trước đó gián tiếp dẫn đến hành vi
khơng tố giác tội phạm và cũng chính hành vi này, người giúp sức mới phát huy vai
trò đối với tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Cả hai
trường hợp này đều có mặt chủ quan là hình thức lỗi cố ý. Tuy nhiên, giữa chúng
cũng có sự khác biệt:
Thứ nhất, khơng tố giác tội phạm được pháp luật hình sự quy định là hành vi
phạm tội độc lập. Đồng phạm là hình thức phạm tội đặc biệt, người phạm tội sẽ bị
truy cứu TNHS về cùng tội danh với những người đồng phạm khác trong cùng vụ
án, cụ thể ở trong trường hợp này, người giúp sức bị truy cứu TNHS về tội chứa
chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
Thứ hai, tội khơng tố giác tội phạm khơng có sự hứa hẹn trước. Ngược lại,
trường hợp đồng phạm, người giúp sức đã có sự hứa hẹn, phân cơng vai trò, hỗ trợ
lẫn nhau với những người đồng phạm khác để thực hiện tội phạm đó. Vì vậy, việc
chứng minh hành vi phạm tội có sự hứa hẹn trước hay không là một trong những
yếu tố quan trọng để xác định vấn đề truy cứu TNHS.
1.3. Khái quát lịch sử hình thành, phát triển của Tội khơng tố giác tội
phạm trong pháp luật Hình sự Việt Nam
“Mỗi sự vật hoặc hiện tượng của thế giới khách quan đều có quá trình phát
sinh và phát triển của nó, tức là đều có lịch sử của nó”18. Vì vậy, nghiên cứu lịch sử
hình thành và phát triển của Tội khơng tố giác tội phạm trong lịch sử lập pháp hình
sự Việt Nam giúp tác giả tái hiện một cách trung thực quá trình vận động, tiến bộ
của quy định pháp luật đối với tội phạm này theo trình tự thời gian.
18
Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Khoa Triết học (2004), Giáo trình chủ nghĩa duy vật biện
chứng, Nxb Chính trị quốc gia, tr. 257.
19
1.3.1. Pháp luật Hình sự về Tội khơng tố giác tội phạm thời kỳ phong kiến
đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945
Trong lịch sử tồn tại và phát triển hàng ngàn năm, nhà nước Việt Nam đã
nhận thức được từ rất sớm vai trò quan trọng của pháp luật. Hình thư là bộ luật
thành văn đầu tiên của Việt Nam - được ban hành vào thời Lý Thái Tông, cụ thể là
năm Minh Đạo thứ nhất (năm 1402). Tuy nhiên, bộ luật này đã hoàn toàn bị thất
lạc, hiện “chỉ được người đương thời biết đến qua những đoạn trích ngắn trong Đại
Việt sử ký tồn thư và các sử sách khác”19. Trên cơ sở kế thừa và phát huy tư tưởng
lập pháp từ triều đại trước, hai bộ luật được đánh giá có quy mơ lớn với nội dung
phong phú là Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Gia Long. Dưới các góc độ khác nhau,
hai bộ luật này đều đã đề cập đến Tội không tố giác tội phạm.
Trong Quốc triều hình luật hay cịn gọi là Bộ luật Hồng Đức 1483, Tội không
tố giác tội phạm chưa được quy định thành điều luật riêng. Tuy nhiên, bản hình thư
đã mơ tả hành vi phạm tội này trong nhiều điều luật. Ngay từ Điều 2 Bộ luật đã quy
định về tố giác tội phạm: “Bất hiếu là tố cáo, rủa mắng ông bà, cha mẹ, trái lời cha
mẹ dạy bảo”20. Đây là một quy định loại trừ TNHS xuất phát từ chữ “hiếu”. Tư
tưởng Nho giáo ảnh hưởng sâu sắc đến lịch sử phong kiến nước ta. Theo đó, hiếu là
cái gốc của mọi vấn đề kể cả pháp luật. Nó là cơng cụ, là tư tưởng chi phối mọi
người và cũng là cơ sở quan trọng để thiết lập trật tự xã hội. Chính vì vậy, nhà làm
luật giai đoạn này ngăn cấm người thân trong gia đình tố giác nhau, cụ thể như Điều
504 Bộ luật Hồng Đức:
“Con cháu tố cáo ông bà, cha mẹ, nơ tỳ tố cáo chủ có tội lỗi gì, đều xử tội
lưu đi châu xa; vợ tố cáo chồng cũng bị tội trên. Tố cáo ông bà ngoại, cha mẹ và
ông bà, cha mẹ về bậc tôn trưởng vào hàng cơ thân của chồng, cùng là nơ tì tố cáo
vào bậc cơ thân của chủ, dẫu việc có thật cũng phải tội biếm hay đồ; nếu tội mưu
phản, đại nghịch, hay mẹ đích, mẹ kế giết cha, cha mẹ ni giết con đẻ thì cho phép
tố cáo. Nếu xâm phạm đến mình mà đi kiện cáo để giải tỏ lẽ phải của mình thì
được; nếu vu cáo thì xử tội đã vu mà lại tăng thêm một bậc.”21
Bên cạnh chữ hiếu, trong xã hội phong kiến, “quân” là thiết chế mang quyền
lực tuyệt đối. Nhà vua được xem là Thiên tử, cả thiên hạ phải tôn sùng và tuân theo.
19
Nguyễn Anh Tuấn (2010), Nguồn của Luật Hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, tr. 95.
Viện Sử học (2013), Quốc triều hình luật (Luật Hình triều Lê), Nxb Tư pháp, tr. 42.
21
Viện Sử học (2013), tlđd (20), tr. 223.
20