BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÌNH SỰ
VŨ THỊ LÝ
ĐẤU TRANH PHỊNG CHỐNG TỘI PHẠM CĨ
TỔ CHỨC
KHỐ LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
CHUN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ
TP. HỒ CHÍ MINH - 2012
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH HỐ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÌNH SỰ
KHỐ LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
ĐẤU TRANH PHỊNG CHỐNG TỘI PHẠM CÓ
TỔ CHỨC
SINH VIÊN THỰC HIỆN
GVHD
: VŨ THỊ LÝ
: Th.S. LÊ NGUYÊN THANH
TP. HỒ CHÍ MINH - 2012
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................................................. 1
CHƢƠNG I: KHÁI NIỆM TỘI PHẠM CĨ TỔ CHỨC VÀ TÌNH HÌNH TỘI
PHẠM CĨ TỔ CHỨC Ở VIỆT NAM.......................................................................... 5
1.1.
Khái niệm tội phạm có tổ chức ....................................................................... 5
1.1.1. Tội phạm có tổ chức theo quy định của Luật hình sự Việt Nam và Luật hình sự
quốc tế............................................................................................................................... 9
1.1.2. Phân biệt khái niệm tội phạm có tổ chức với một số khái niệm khác có liên quan.13
1.1.2.1. Phân biệt khái niệm tội phạm có tổ chức với khái niệm tổ chức tội phạm ....... 13
1.1.2.2. Phân biệt tội phạm có tổ chức với người tổ chức trong đồng phạm. ................ 15
1.1.2.3. Phân biệt tội phạm có tổ chức với hành vi tổ chức trong một số tội phạm cụ thể16
1.1.2.4. Phân biệt khái niệm tội phạm có tổ chức với khái niệm phạm tội có tổ chức .. 17
1.2. Tình hình tội phạm có tổ chức ở Việt Nam trong những năm gần đây ........... 18
1.2.1. Một số vấn đề lí luận khi nghiên cứu tình hình tội phạm ..................................... 18
1.2.2. Tình hình tội phạm có tổ chức ở Việt Nam .......................................................... 21
1.2.2.1. Thực trạng, động thái của tội phạm có tổ chức. ................................................ 21
1.2.2.2. Cơ cấu của tội phạm có tổ chức. ....................................................................... 32
1.2.2.3. Thiệt hại do tội phạm có tổ chức gây ra. ........................................................... 33
1.2.3. Đặc điểm tội phạm học của tình hình tội phạm có tổ chức .................................. 37
CHƢƠNG II: NGUYÊN NHÂN, ĐIỀU KIỆN CỦA TỘI PHẠM CĨ TỔ CHỨC VÀ
DỰ BÁO TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRONG THỜI GIAN TỚI ............................. 45
2.1. Một số vấn đề lí luận về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm có tổ
chức.
45
2.2. Những ngun nhân và điều kiện của tình hình tội phạm có tổ chức .............. 46
2.2.1. Nguyên nhân và điều kiện kinh tế ........................................................................ 47
2.2.2. Nguyên nhân và điều kiện về chính trị - xã hội.................................................... 48
2.2.3. Nguyên nhân và điều kiện về tâm lí xã hội .......................................................... 50
2.2.4. Nguyên nhân và điều kiện về tổ chức, quản lí kinh tế - xã hội ............................ 51
2.2.5. Nguyên nhân và điều kiện về công tác đấu tranh phịng chống tội phạm có tổ chức.
........................................................................................................................................ 52
2.2.6. Ngun nhân và điều kiện về sự bành trướng của các tổ chức, băng nhóm tội phạm
quốc tế............................................................................................................................. 54
2.2.7. Nguyên nhân và điều kiện về pháp luật................................................................ 54
2.2.8. Nguyên nhân và điều kiện về hợp tác quốc tế trong hoạt động đấu tranh
phịng
chống tội phạm có tổ chức. ............................................................................................. 56
2.3. Dự báo tình hình tội phạm có tổ chức trong thời gian tới ................................. 58
2.3.1. Khái quát chung về dự báo tình hình tội phạm có tổ chức ................................... 58
2.3.2. Những dự báo cụ thể về tình hình tội phạm có tổ chức........................................ 60
CHƢƠNG III: MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐẤU TRANH PHỊNG CHỐNG TỘI PHẠM
CĨ TỔ CHỨC .............................................................................................................. 64
3.1. Lí luận về các biện pháp đấu tranh phòng chống tội phạm có tổ chức ............ 64
3.2. Thực trạng phịng chống tội phạm có tổ chức ở Việt Nam trong thời gian qua..
66
3.3. Những biện pháp cụ thể để nâng cao hiệu quả phịng chống tội phạm có tổ chức
ở Việt Nam. .................................................................................................................... 69
3.3.1. Biện pháp về kinh tế - xã hội ................................................................................ 69
3.3.2. Biện pháp về tuyên truyền nâng cao ý thức của quần chúng nhân dân trong công
tác đấu tranh phịng chống tội phạm có tổ chức. ............................................................ 71
3.3.3. Biện pháp về văn hoá – giáo dục .......................................................................... 72
3.3.4. Biện pháp tổ chức - quản lí xã hội ........................................................................ 72
3.3.5. Biện pháp về pháp luật ......................................................................................... 74
3.3.6. Biện pháp về hợp tác quốc tế................................................................................ 75
3.3.7. Biện pháp về chuyên môn nghiệp vụ và sử dụng các thành tựu khoa học kĩ thuật
vào trong cơng tác phịng chống tội phạm có tổ chức. ................................................... 76
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 81
LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn hiện nay, cùng với công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước cũng như
quá trình gia nhập vào WTO, Việt Nam đã đạt được những thành quả nhất định về kinh tế,
chính trị, văn hóa – xã hội, đời sống của nhân dân ngày càng được nâng cao về vật chất lẫn
tinh thần. Thành quả của công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế đã góp phần quan trọng
cho việc giữ gìn anh ninh trật tự của đất nước, hoàn thiện hệ thống pháp luật và xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì tình hình tội phạm và các tệ nạn xã
hội lại diễn ra ngày càng đa dạng và phức tạp theo chiều hướng gia tăng cả về quy mô lẫn
mức độ nguy hiểm. Cùng với sự gia tăng của tội phạm có tổ chức trong thời gian qua, đã
gây ảnh hưởng rất lớn đến an tồn xã hội, đe dọa đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của nhân
dân. Nhiều băng đảng, nhiều tổ chức tội phạm đã được thành lập để tiến hành hoạt động
mua bán người, đánh bạc, buôn lậu, tham nhũng, rửa tiền… Đặc biệt, các đối tượng đã móc
nối, liên kết với các tổ chức tội phạm bên ngoài, hình thành nên những tổ chức tội phạm
xuyên quốc gia, đe dọa trực tiếp đến sự ổn định và phát triển của đất nước.
Đã có nhiều chính sách, chủ trương của Đảng và Nhà nước về việc thực hiện các biện pháp
nhằm đấu tranh phịng chống tội phạm có tổ chức. Tuy nhiên vẫn chưa đạt được những kết
quả như mong muốn. Trên thực tế, tội phạm có tổ chức vẫn diễn ra với tính chất, quy mơ,
thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi, xảo quyệt, tổ chức chặt chẽ hơn so với thời gian trước
đây rất nhiều.
Chính vì vậy, tác giả đã chọn đề tài “Đấu tranh phòng chống tội phạm có tổ chức” để làm
luận văn tốt nghiệp với hi vọng sẽ tìm ra những nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh, tồn
tại và phát triển của tội phạm này trong giai đoạn hiện nay cũng như xu hướng phát triển
của tội phạm này trong thời gian tới. Qua đó, đề xuất những biện pháp hữu ích góp phần
vào việc thực hiện tốt hơn nữa cơng tác đấu tranh phịng chống tội phạm có tổ chức.
1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Đấu tranh phịng chống tội phạm có tổ chức hiện nay đang trở thành một trong những vấn
đề được toàn xã hội quan tâm. Thực tế, vấn đề này cũng đã được đăng trên các tạp chí hay
trong các báo cáo của cơ quan bảo vệ pháp luật. Và cũng đã có rất nhiều bài viết của nhiều
tác giả, trong đó có những bài viết của các nhà nghiên cứu luật học hay những người hoạt
động trong lĩnh vực pháp luật. Cụ thể như: GS. TS Nguyễn Xuân Yêm với “Tội phạm có tổ
chức, mafia và tồn cầu hóa”, Nguyễn Trường Giang, Nguyễn Ngọc Anh với “Công ước
của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và các Nghị định thư bổ
sung”, PGS. TS Hồ Trọng Ngũ với “Tội phạm có tổ chức – Lịch sử và vấn đề hôm nay”
hay PGS. TS Nguyễn Quốc Nhật với “Tội phạm có tổ chức – Một số vấn đề lí luận và thực
tiễn”…
Những bài viết này đã nêu lên những quan điểm riêng của tác giả về tình hình tội phạm có
tổ chức, thực trạng cũng như xu hướng phát triển của tội phạm có tổ chức trong điều kiện
hiện nay.
Tuy nhiên, cho đến nay, nhiều cơng trình nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở việc khuyến nghị
mà chưa đưa ra được những biện pháp cụ thể để đấu tranh phòng chống tội phạm có tổ
chức một cách hồn thiện, tồn diện và hiệu quả nhất.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Đề tài này có mục đích là nhằm đi từ lí luận đến thực tiễn bắt đầu bằng việc nghiên cứu
khái niệm tội phạm có tổ chức trong pháp luật hình sự Việt Nam cũng như trong pháp luật
quốc tế. Từ đó đưa ra những dấu hiệu đặc trưng của tội phạm có tổ chức qua đó tìm hiểu,
đánh giá đúng thực trạng hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm có tổ chức hiện nay,
làm sáng tỏ những nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm này. Đồng thời, đề
xuất những biện pháp cụ thể để đấu tranh phịng chống tội phạm có tổ chức được thực hiện
một cách có hiệu quả nhất trên thực tế, bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia, trật tự xã hội
góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế nước ta trong những năm tới.
Xuất phát từ những mục đích trên, đặt ra cho đề tài những nhiệm vụ sau:
-
Nghiên cứu, phân tích tình hình tội phạm có tổ chức trong thời gian qua.
2
-
Nghiên cứu những nguyên nhân, điều kiện dẫn đến sự phát sinh, tồn tại và phát triển
của tội phạm này, đồng thời dự báo tình hình tội phạm có tổ chức trong thời gian
tới.
-
Qua đó, đề xuất những biện pháp đấu tranh phịng chống tội phạm có tổ chức.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu, tìm hiểu những vấn đề lí luận chung về tội phạm có tổ chức,
làm sáng tỏ nội dung khái niệm, dấu hiệu đặc trưng của tội phạm này. Trên cơ sở tìm hiểu
và phân tích, đánh giá về những nguyên nhân và điều kiện dẫn đến sự phát sinh, tồn tại và
phát triển của loại tội phạm này cũng như thực trạng, động thái của tội phạm có tổ chức
trong thời gian qua để thấy được những yêu cầu đặt ra trong thời gian tới. Từ đó có thể đưa
ra những biện pháp đấu tranh cần thiết góp phần nâng cao hiệu quả cơng tác đấu tranh
phịng chống tội phạm nói chung và tội phạm có tổ chức nói riêng.
5. Cơ sở lí luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn đã được nghiên cứu và trình bày trên cơ sở vận dụng những quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta trong cơng tác đấu tranh phịng
chống tội phạm nói chung và đấu tranh phịng chống tội phạm có tổ chức nói riêng.
Trên cơ sở phương pháp luận nêu trên, luận văn đã sử dụng một số phương pháp cụ thể
như phương pháp so sánh, phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp thống kê tư
pháp… Để đánh giá một cách có hệ thống về những nguyên nhân và điều kiện của tội
phạm có tổ chức trong những năm gần đây.
6. Cơ cấu của đề tài
Kết cấu của luận văn bao gồm:
-
Mục lục
-
Lời nói đầu
-
Phần nội dung: gồm có ba chương
+
Chương I: Khái niệm tội phạm có tổ chức và tình hình tội phạm có tổ chức ở Việt
Nam.
+
Chương II: Nguyên nhân, điều kiện của tội phạm có tổ chức và dự báo tình hình tội
phạm trong thời gian tới.
3
Chương III: Một số biện pháp đấu tranh phòng chống tội phạm có tổ chức.
+
-
Kết luận
-
Danh mục đề tài tham khảo.
4
CHƢƠNG I
KHÁI NIỆM TỘI PHẠM CĨ TỔ CHỨC VÀ TÌNH HÌNH TỘI PHẠM CĨ
TỔ CHỨC Ở VIỆT NAM
1.1. Khái niệm tội phạm có tổ chức
Thuật ngữ “Tội phạm có tổ chức” là một thuật ngữ mới xuất hiện trong các tài liệu, các báo
cáo về tình hình tội phạm ở nước ta vào những năm đầu thập kỉ 90 của thế kỉ XX. Trước
đây, khái niệm này không được sử dụng vì chúng ta cho rằng, ở các nước xã hội chủ nghĩa
tội phạm có tổ chức khơng tồn tại.
Tuy nhiên cùng với sự phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế đã kéo theo những diễn biến
phức tạp của tình hình tội phạm, dẫn đến sự xuất hiện và gia tăng của tội phạm có tổ chức
ở nước ta và trên thế giới.
Tội phạm có tổ chức từ lâu đã có một thế lực rất lớn ở các nước phương Tây. Hằng năm,
bằng hoạt động tội phạm và các hoạt động bất hợp pháp khác, tội phạm có tổ chức ở các
nước trên thế giới đã thu được những khoản tài chính khổng lồ, gây thiệt hại cho nền kinh
tế thế giới và trở thành hiểm họa đối với các quốc gia, phá hoại sự bình yên của hàng triệu
gia đình.
Để đưa ra một khái niệm khoa học về tội phạm có tổ chức ở nước ta, phải xuất phát từ
những cơ sở sau:
Thứ nhất, tội phạm có tổ chức trước hết phải là tội phạm.
Thứ hai, khái niệm về tội phạm có tổ chức muốn được thừa nhận phải phản ánh đầy đủ
những dấu hiệu, bản chất của tội phạm có tổ chức.
Khái niệm “tội phạm có tổ chức” phải trên cơ sở khái niệm tội phạm, phải xuất phát từ khái
niệm tội phạm và trước hết phải được hiểu rõ là tội phạm. Điều đó có nghĩa là khái niệm
“tội phạm có tổ chức” khơng được trái, không được mâu thuẫn với khái niệm tội phạm
được quy định tại Điều 8, Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009).
Cụm từ “có tổ chức” được sử dụng để chỉ tính chất của tội phạm đó. Hay nói cách khác, đó
là những hành vi nguy hiểm cho xã hội do một tổ chức tội phạm thực hiện. Hay cũng có
5
thể hiểu, tội phạm có tổ chức là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện theo
một kế hoạch thống nhất bởi một tổ chức tội phạm có tổ chức chặt chẽ.
Khái niệm tội phạm có tổ chức đang có rất nhiều luồng quan điểm, nhiều ý kiến khác nhau.
Có ý kiến cho rằng: “Tội phạm có tổ chức là hoạt động tội phạm nguy hiểm cho xã hội,
được thực hiện bởi một nhóm tội phạm có cơ cấu tổ chức rõ ràng, khá chặt chẽ, có mối
quan hệ với các phần tử biến chất trong các cơ quan nhà nước, ln có ý đồ bành trướng
về phạm vi ảnh hưởng nhằm mục đích thu lợi bất chính bằng bất kì thủ đoạn tội ác nào”
[18-tr.56].
Có quan điểm thì cho rằng: “Tội phạm có tổ chức thường được sinh ra trong xã hội có nền
kinh tế thị trường, hoạt động phạm tội theo một phương hướng, mục đích nhất định, có cơ
cấu, tổ chức chặt chẽ, có kỉ luật nghiêm khắc, có quỹ tài chính độc lập, mọi hoạt động
phạm tội đều có sự chỉ đạo thống nhất từ trên xuống dưới” [21-tr.55].
Đứng ở một góc độ khác, lại có người định nghĩa: “Tội phạm có tổ chức là tổ chức tội
phạm có hệ thống, tổ chức kỉ luật chặt chẽ dưới dạng phân tầng, hoạt động theo những
phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, có cấu kết chặt chẽ với những phần tử thối hóa,
biến chất trong bộ máy nhà nước, trong các cơ quan bảo vệ pháp luật nhằm mục đích trục
lợi về chính trị, kinh tế và các lợi ích khác” [18-tr.58].
Theo PGS.TS Nguyễn Quốc Nhật thì: “Tội phạm có tổ chức là hệ thống những hành vi
nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, bị xử lí bằng hình phạt, do một nhóm người từ ba người trở
lên, có tổ chức, có kỉ luật và có câu kết chặt chẽ với nhau, có mối quan hệ rộng rãi, thực
hiện bằng các thủ đoạn tội ác, hoạt động tội phạm có tính chất chun nghiệp, cố ý xâm
hại những quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ với động cơ và mục đích vụ lợi”
[15-tr.29].
Cịn theo quan điểm của TS. Trần Hữu Ứng: “Tội phạm có tổ chức là hệ thống các hành vi
phạm tội do nhiều người (từ ba người trở lên), câu kết chặt chẽ với nhau trong khoảng thời
gian nhất định (hoặc lâu dài) theo hình thức tổ chức từ đơn giản đến phức tạp hoặc rất
phức tạp, cùng bàn bạc và thực hiện kế hoạch phạm tội với mục đích chiếm đoạt tài sản
hoặc thu lợi bất hợp pháp về kinh tế” [31-tr.01].
6
Đối với quan điểm của TS. Nguyễn Phong Hoà: “Tội phạm có tổ chức là một dạng tội
phạm do ít nhất hai người trở lên thực hiện, có sự câu kết chặt chẽ với nhau trong một thời
gian nhất định, có động cơ, mục đích rõ ràng. Hay nói khác đi, tội phạm có tổ chức là các
hoạt động thành lập, tham gia, tổ chức chỉ đạo, thực hiện một hay nhiều tội phạm dưới
hình thức đồng phạm” [27-tr.12].
Như vậy, có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau dưới góc nhìn của tội phạm học, từ phương
thức tổ chức đến nguyên nhân, điều kiện hình thành và phát triển. Hay tiếp cận dưới góc
nhìn của việc xem xét hành vi phạm tội.
Và dưới góc độ nào thì tội phạm có tổ chức cũng phải là những hành vi do lỗi cố ý của một
tổ chức tội phạm, được tổ chức một cách chặt chẽ và có sự chỉ huy thống nhất của người
cầm đầu. Từ đó, có thể hiểu, tội phạm có tổ chức khơng thể là loại tội phạm hoạt động đơn
lẻ, với lỗi vô ý.
Với phương pháp tiếp cận và kế thừa những kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học đã
được trình bày ở trên, cũng như qua thực tiễn nghiên cứu về thực trạng tình hình tội phạm
có tổ chức, có thể đi đến khái niệm như sau:
“Tội phạm có tổ chức là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi được tiến hành bởi
các nhóm tội phạm có cơ cấu từ ba người trở lên, câu kết chặt chẽ với nhau để cùng thực
hiện một hay nhiều tội phạm nghiêm trọng trong một khoảng thời gian nhất định hay lâu
dài, có kỉ luật nghiêm khắc, có sự phân cơng rõ ràng, có sự câu kết với các phần tử thoái
hoá, biến chất trong các cơ quan Nhà nước và có nguồn tài chính để phục vụ cho hoạt
động phạm tội với phạm vi khơng chỉ trong nước mà cịn mang tính chất xun quốc gia
nhằm mục đích vụ lợi bằng bất kì thủ đoạn nào”.
Từ khái niệm này, chúng ta có thể rút ra được những dấu hiệu đặc trưng của tội phạm có tổ
chức:
Thứ nhất, tội phạm có tổ chức là hệ thống những hành vi nguy hiểm cho xã
hội, có lỗi, vi phạm những quy định của pháp luật hình sự.
Như vậy, tội phạm có tổ chức trước hết là tội phạm song là một dạng tội phạm đặc biệt.
Tính chất đặc biệt của tội phạm có tổ chức được thể hiện rõ nét ở chỗ đó là hệ thống những
7
hành vi phạm tội rất nguy hiểm cho xã hội, không phải là những hành vi phạm tội đơn lẻ
mà là nhiều hành vi phạm tội. Những hành vi này do một tổ chức tội phạm thực hiện, tức là
chủ thể của tội phạm là một nhóm người, một tổ chức tội phạm chứ không phải là một
người. Hoạt động phạm tội có tính chun nghiệp, lấy việc làm giàu bất hợp pháp, chiếm
đoạt bất hợp pháp tài sản của nhà nước, của tập thể, của nhân dân làm nguồn sống.
Dấu hiệu đặc trưng này loại trừ những trường hợp tội phạm có tổ chức được thực hiện với
lỗi vơ ý.
Thứ hai, mỗi tổ chức tội phạm có phạm vi ảnh hưởng rất lớn tới các tổ chức
hoặc ổ, nhóm tội phạm khác. Phạm vi hoạt động có thể là lãnh địa cũng có thể là
hướng hoạt động cụ thể như buôn bán ma túy, đánh bạc, buôn lậu, hoạt động mại
dâm. Các tổ chức tội phạm thường hoạt động trên địa bàn rộng, có thể là một tỉnh,
một thành phố, cũng có thể là liên tỉnh, có thể là xuyên quốc gia và có quan hệ với
các tổ chức tội phạm nước ngồi, mang tính chất quốc tế.
Thứ ba, tội phạm có tổ chức được thực hiện bởi một tổ chức tội phạm có ít
nhất là ba người trở lên.
Trong tổ chức tội phạm thường có sự bàn bạc, lập kế hoạch trước khi hành động phạm tội
và có sự phân cơng rõ ràng.
Đối với nhóm cầm đầu có xu hướng hoạt động bí mật. Nhóm thứ hai là nhóm trực tiếp thực
hiện hoạt động phạm tội. Nhóm này thường phải chuẩn bị cơng cụ, phương tiện phạm tội.
Nhóm thứ ba, thực hiện chức năng tham mưu, tổ chức, kiểm tra các hoạt động phạm tội,
truyền tin, truyền mệnh lệnh. Nhóm này phải vạch ra kế hoạch, xác định mục tiêu, thời
gian, địa điểm để tiến hành phạm tội.
Thứ tư, chủ thể gây ra tội phạm có tổ chức đã tồn tại hoạt đơng phạm tội
trong một thời gian nhất định. Phương thức, thủ đoạn phạm tội của tội phạm có tổ
chức rất tinh vi, xảo quyệt, có tính chun nghiệp cao. Để có đủ điều kiện cho việc
thực hiện tội phạm có tổ chức với thủ đoạn gây án và che giấu tội phạm tinh vi, có
sự cấu kết chặt chẽ giữa các đối tượng thực hiện tội phạm không chỉ một lần mà
nhiều lần, khơng chỉ một tội mà nhiều tội thì trước hết tổ chức tội phạm đó phải
được tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định.
8
Thứ năm, tội phạm có tổ chức được thực hiện với động cơ, mục đích vụ lợi.
Thực tiễn cho thấy, tổ chức tội phạm hoạt động có tính chất chuyên nghiệp cao, gây ra
nhiều loại án khác nhau như giết người, cướp của, buôn lậu, đưa hối lộ, buôn bán ma túy…
Nhưng động cơ và mục đích cuối cùng của tổ chức tội phạm là nhằm thu lợi bất chính.
Việc xác định mục đích kinh tế và vụ lợi cá nhân cịn là tiêu chí để phân biệt với mục đích
lật đổ chính quyền của các tổ chức gián điệp phản động.
Thứ sáu, xu hướng chung của các tổ chức tội phạm là ln tìm cách móc nối,
mua chuộc những người trong các cơ quan công quyền, những người có chức vụ,
đặc biệt là những người trong cơ quan bảo vệ pháp luật có liên quan đến hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử, trại giam, cơ quan báo chí. Thậm chí cịn có trường hợp cài
người của tổ chức vào trong các cơ quan này với mục đích che dấu tội phạm để chạy
tội hoặc để tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình hoạt động tội phạm.
Ví dụ: Tổ chức tội phạm Năm Cam đã mua chuộc cán bộ điều tra, cán bộ Viện kiểm sát,
cán bộ báo chí từ cơ sở đến trung ương, biến những người công quyền thành tay sai, bảo kê
cho hoạt động của tổ chức này, đồng lõa, che dấu cho tội phạm hoạt động.
Trên đây là những dấu hiệu đặc trưng để thơng qua đó xác định được một tội phạm xảy ra
có phải là tội phạm có tổ chức hay không. Các dấu hiệu này tồn tại song song và có mối
quan hệ mật thiết với nhau. Nhưng quan trọng nhất vẫn là dấu hiệu hành vi phạm tội và dấu
hiệu chủ thể thực hiện hành vi phạm tội ấy.
Cùng với sự phát triển và diễn biến của tội phạm, khái niệm về tội phạm có tổ chức cũng
như những dấu hiệu đặc trưng được điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện nhằm đáp ứng được
những yêu cầu của thực tiễn đấu tranh phịng chống tội phạm có tổ chức trong từng thời kì
và phù hợp với mỗi quốc gia riêng biệt.
1.1.1. Tội phạm có tổ chức theo quy định của Luật hình sự Việt Nam và Luật hình sự
quốc tế.
Trước hết, tội phạm có tổ chức theo quy định của luật hình sự Việt Nam:
Hiện nay, tội phạm có tổ chức đang trở thành một vấn đề hết sức nóng bỏng và bức xúc ở
Việt Nam cũng như trên toàn thế giới. Một thực tế đặt ra là tội phạm có tổ chức đang có xu
9
hướng ngày càng gia tăng về tính chất, mức độ nguy hiểm, với quy mô, phạm vi hoạt động
ngày càng rộng và có sự liên kết giữa các băng nhóm tội phạm với nhau. Nhiều hội thảo
trong nước và quốc tế cũng đã đề cập tới vấn đề này nhằm mục đích cung cấp thơng tin cho
nhau một cách nhanh chóng để phối hợp chặt chẽ hơn nữa trong cơng tác đấu tranh phịng
chống tội phạm có hiệu quả.
Tuy nhiên, về mặt quy định pháp luật thì trong Bộ luật hình sự nước Cộng hịa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam chưa đề cập đến khái niệm “Tội phạm có tổ chức” mà chỉ mới đề cập tới
khái niệm “Phạm tội có tổ chức” mà thơi.
Về “Phạm tội có tổ chức” được quy định tại Điều 20, Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi,
bổ sung năm 2009) như sau: “Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết
chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm”.
Phạm tội có tổ chức là một hình thức của đồng phạm, là những trường hợp hai người trở
lên có sự câu kết chặt chẽ với nhau để cùng thực hiện tội phạm. Sự liên kết này, đạt đến
một mức độ bền vững nào đó để thực hiện tội phạm sẽ trở thành tổ chức tội phạm. Như
vậy, khi nói đến phạm tội có tổ chức là đang nói đến dạng đặc biệt của đồng phạm, nghĩa là
nói đến hành vi phạm tội mà hành vi ấy có sự câu kết chặt chẽ giữa người tổ chức, người
thực hành, người xúi giục và người giúp sức để thực hiện tội phạm một cách dễ dàng cũng
như che dấu tội phạm để tránh bị phát hiện.
Việc làm rõ khái niệm “tội phạm có tổ chức” và đưa khái niệm này vào trong Luật hình sự
Việt Nam đang là vấn đề cấp thiết để có những kế hoạch, những biện pháp đấu tranh phịng
chống tội phạm có hiệu quả.
Cịn đối với quy định của Luật hình sự quốc tế về “tội phạm có tổ chức”:
Khái niệm tội phạm có tổ chức đã được Tổng thư kí Liên hợp quốc Kơfi Anal nêu lên trong
Hội nghị lần VIII tổ chức tại Lahabana – Cuba từ ngày 27/8 đến ngày7/9/1990 về ngăn
chặn và đấu tranh phịng chống tội phạm có tổ chức như sau: “Tội phạm có tổ chức là hoạt
động của những hiệp hội phạm tội hoặc những nhóm tội phạm được liên kết lại trên cơ sở
kinh tế, là hoạt động bí mật, có cơ cấu, đẳng cấp, kế hoạch, thực hiện những hoạt động bất
hợp pháp thông qua các tổ chức kinh tế, sử dụng các biện pháp khác nhau từ tinh vi xảo
10
quyệt đến các biện pháp trắng trợn thô bạo, thâm nhập vào các hoạt động hợp pháp, mua
chuộc quan chức để đạt được mục đích hợp pháp” [27-tr.09].
Trong cuộc hội thảo quốc tế Liên hợp quốc về đấu tranh phòng chống tội phạm, tổ chức ở
Xu-zơ-đan, Liên Xô (cũ) từ ngày từ ngày 21 đến ngày 25/9/1991, đã đưa ra khái niệm tội
phạm có tổ chức như sau: “Tội phạm có tổ chức được hiểu là những nhóm cộng đồng bền
vững, được quản lí của những tên tội phạm, hoạt động phạm tội như một nghề nghiệp, hình
thành hệ thống bảo vệ chống sự kiểm soát của xã hội với việc sử dụng các phương tiện bất
hợp pháp như bạo lực, đe doạ, tham nhũng và trộm cắp ở phạm vi rộng lớn” [24-tr.22].
Theo quy định tại Điều 2, Công Ước Liên hợp quốc năm 2000 về phòng chống tội phạm có
tính chất xun quốc gia đã quy định về tội phạm có tổ chức như sau:
“Nhóm tội phạm có tổ chức nghĩa là một nhóm người có cơ cấu từ ba người trở lên, đã tồn
tại trong một thời gian nhất định, cùng phối hợp thực hiện một hoặc nhiều tội phạm
nghiêm trọng hoặc có hành vi phạm tội được quy định trong Công ước này nhằm trực tiếp
hay gián tiếp đạt được các lợi ích tài chính, vật chất thông qua các thủ đoạn bạo lực, hối
lộ, tham nhũng”.
Luật đấu tranh chống tội phạm có tổ chức ở Liên bang Nga, tại Điều 2 đã quy định:
“Tội phạm có tổ chức là hoạt động nguy hiểm cho xã hội do tổ chức tội phạm (băng nhóm
tội phạm có tổ chức) gây ra vì động cơ mục đích vụ lợi”.
Tuy nhiên, theo quan điểm của các luật gia Hoa Kì thì “Tội phạm có tổ chức là hoạt động
phạm tội của các tổ chức chính quy, rất phát triển và hướng mọi nỗ lực để đạt được lợi
nhuận thông qua những phương tiện bất hợp pháp”.
Còn đối với Liên minh Châu Âu thì quan niệm: “Tội phạm có tổ chức là hành động phạm
pháp có hoạt động chung của ít nhất hai người, mỗi người được giao nhiệm vụ riêng, hoạt
động trong thời gian dài, có kỉ luật, được kiểm soát, sử dụng bạo lực hoặc các thủ đoạn đe
dọa khác…vì mục đích vụ lợi hay quyền lực”.
Quan điểm của Cộng hoà Liên bang Đức xác định: “Tội phạm có tổ chức là những băng
nhóm phạm pháp, là hành động phi pháp của ít nhất từ hai người trở lên hoạt động trong
một khoảng thời gian được chuẩn bị theo chương trình với mục đích thu lợi, tăng thêm
11
quyền lực hoặc những hoạt động có ảnh hưởng quan trọng trong tồn bộ nhóm tội phạm
với nhau và thường có thêm những biểu hiện:
+ Hình thức hoạt động dưới dạng kinh doanh thương mại
+ Dùng bạo lực hoặc các hình thức đe doạ khác
+ Gắn ảnh hưởng với chính trị, ngơn luận, hành chính, tư pháp…” [27-tr.10].
Hiện nay, pháp luật hình sự của nhiều quốc gia trên thế giới đã hình sự hố hành vi tham
gia tội phạm có tổ chức như: Điều 46 Bis Bộ luật hình sự Cộng hoà Italia 1982 quy định:
“hành vi tham gia mafia – một kiểu hiệp hội bất hợp pháp”, theo đó chỉ cần một thành viên,
thậm chí là thành viên bị động thì cũng đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Theo pháp luật Bồ
Đào Nha cũng quy định hành vi thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm có tổ chức được
xem là tội phạm. Pháp luật hình sự của một số nước ở Trung và Đông âu hay 15 nước
thành viên Liên minh châu Âu cũng có những quy định tương tự như vậy [13-tr.92].
Qua các quy định về tội phạm có tổ chức ở các nước trên thế giới hiện nay, thì khái niệm
này vẫn chưa có một cách hiểu thống nhất, vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau.
Điều này được thể hiện:
Thứ nhất, sự khác nhau về số lượng thành viên của tội phạm có tổ chức.
Có khái niệm khơng quy định rõ số lượng thành viên, nhưng có khái niệm thì chỉ rõ số
lượng thành viên phải ít nhất là hai người trở lên hoặc ít nhất là ba người trở lên.
Thứ hai, chưa có sự thống nhất về mức độ liên kết của tổ chức tội phạm. Có khái niệm xác
định mức độ liên kết được biểu hiện qua sự tổ chức một cách chặt chẽ. Có khái niệm lại
xác định mức độ liên kết không chỉ biểu hiện qua sự tổ chức chặt chẽ mà cịn có “luật
riêng” của mỗi tổ chức tội phạm.
Thứ ba, về động cơ, mục đích của tội phạm có tổ chức.
Có nước thì quy định động cơ, mục đích của tội phạm có tổ chức là vụ lợi, mục đích kinh
tế. Ngược lại, có nước lại quy định động cơ mục đích của tội phạm có tổ chức khơng chỉ là
vụ lợi mà cịn có cả những động cơ mục đích khác như quyền lực.
12
1.1.2. Phân biệt khái niệm tội phạm có tổ chức với một số khái niệm khác có liên
quan.
1.1.2.1. Phân biệt khái niệm tội phạm có tổ chức với khái niệm tổ chức tội phạm
Trước hết, chúng ta có thể nhận thấy giữa hai khái niệm tội phạm có tổ chức và khái niệm
tổ chức tội phạm có một điểm giống nhau đó là đều có cùng chung một thuật ngữ “có tổ
chức”. Đây là thuật ngữ dùng để chỉ tính chất của một sự vật, hiện tượng được tập hợp một
cách thống nhất và các yếu tố cấu thành nên tổ chức ln có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau. Tội phạm có tổ chức và tổ chức tội phạm đều hoạt động phạm tội vì mục đích vụ lợi
và trong q trình hoạt động thì đều có sự phân công một cách rõ ràng giữa các thành viên
với nhau.
Mặc dù có một số điểm giống nhau nhưng giữa hai khái niệm này lại có những điểm khác
biệt cần phải làm rõ:
Thứ nhất, tội phạm có tổ chức là khái niệm của tội phạm học được sử dụng để chỉ một
dạng hành vi xâm hại nghiêm trọng tới xã hội và cần phải có những chế tài hình sự. Tội
phạm có tổ chức là một dạng tội phạm đặc biệt, một dạng hành vi nguy hiểm cho xã hội mà
trong đó bao gồm nhiều dạng hành vi phát triển từ thấp đến cao. Mục đích sâu xa cuối cùng
của tội phạm có tổ chức là về kinh tế chứ khơng phải là những mục đích về chính trị, hoạt
động của tội phạm này không đặt ra vấn đề lật đổ hay thay đổi chính quyền. Cịn đối với tổ
chức tội phạm thì đây lại là khái niệm của Luật hình sự, được sử dụng để chỉ một tập hợp
người có sự phối hợp với nhau do một hoặc một số cá nhân thành lập, điều khiển có kế
hoạch nhằm thực hiện một hoặc nhiều tội phạm với mục đích chung nhất định.
Thứ hai, tội phạm có tổ chức thường được tiến hành bởi các nhóm tội phạm có cơ cấu từ ba
người trở lên, có câu kết chặt chẽ với nhau để cùng thực hiện tội phạm, có kỉ luật, có sự
phân cơng rõ ràng và có sự liên kết với các phần tử thối hóa biến chất trong các cơ quan
quyền lực nhà nước. Việc câu kết với các quan chức cao cấp trong bộ máy nhà nước hoặc
trong các cơ quan bảo vệ pháp luật là nhằm tạo nên những điều kiện thuận lợi cho hoạt
động tội phạm được thực hiện một cách dễ dàng và che đỡ cho chúng khi cần thiết. Trong
khi đó, theo các chuyên gia tội phạm học ở Nhật Bản, Hồng Kơng, Malaysia…thì “tổ chức
13
tội phạm là hiệp hội tội phạm có số lượng lớn các thành viên, có thể lên đến hàng nghìn
người, có tên gọi, có người chỉ huy, có điều lệ, có tơn chỉ mục đích, có các chi nhánh, có hệ
thống đào tạo tuyển dụng…”.
Thứ ba, cả hai khái niệm này đều chưa được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa
đổi, bổ sung 2009) nhưng khái niệm tổ chức tội phạm cũng đã được đề cập trong “ tổ chức”
nhằm lật đổ chính quyền nhân dân tại Điều 79, tuy nhiên vẫn còn rất sơ lược. Trong khi,
đối với khái niệm tội phạm có tổ chức thì khơng có bất kì một quy định nào.
Như vậy, so với khái niệm tội phạm có tổ chức thì tổ chức tội phạm có thể được hiểu là
một tổ chức phi pháp, thành lập với động cơ, mục đích vụ lợi thông qua hoạt động tội
phạm. Sự tồn tại trên thực tế của tổ chức tội phạm đã gây nguy hiểm lớn cho xã hội, bất kể
tổ chức này đã thực hiện được tội phạm hay chưa thực hiện được tội phạm, thực hiện tội
phạm một lần hay nhiều lần, thực hiện một tội phạm hay nhiều tội phạm, thực hiện tội
phạm theo đúng ý đồ hay chưa đúng với ý đồ của người cầm đầu tổ chức.
Mặc dù hai khái niệm có những điểm tương đồng và khác biệt nhưng lại có mối liên hệ
chặt chẽ với nhau. Điều này được thể hiện ở chỗ, tội phạm có tổ chức trên thực tế luôn
được thực hiện bởi các tổ chức tội phạm xác định trong một khoảng không gian và thời
gian nhất định bằng thủ đoạn phạm tội có tổ chức. Nếu một cá nhân đơn lẻ thực hiện một
hành vi cho dù có đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì chúng ta cũng khơng thể kết luận đó là
tội phạm có tổ chức. Điều này hồn tồn dễ hiểu khi một cá nhân thực hiện hành vi cướp
tài sản với một băng nhóm cũng thực hiện cùng hành vi cướp tài sản ấy. Do vậy, các tổ
chức tội phạm thì thực hiện tội phạm có tổ chức nhưng tội phạm có tổ chức cũng chính là
tội danh mà phải do các tổ chức tội phạm thực hiện thì mới đầy đủ các yếu tố cấu thành.
Như vậy, để được coi là tội phạm có tổ chức trước hết phải có dấu hiệu “do một tổ chức tội
phạm thực hiện”. Mà để một tội phạm được coi là do một tổ chức thực hiện thì phải có sự
câu kết một cách chặt chẽ giữa các nhóm người để thực hiện tội phạm nhất định trên thực
tế.
14
1.1.2.2. Phân biệt tội phạm có tổ chức với ngƣời tổ chức trong đồng phạm.
So với khái niệm và những dấu hiệu đặc trưng của tội phạm có tổ chức thì người tổ chức
trong đồng phạm lại có một số điểm khác biệt. Sự khác biệt này được thể hiện:
Thứ nhất, khái niệm tội phạm có tổ chức cho đến nay vẫn là một khái niệm mới, xuất
hiện cùng với sự phát triển của xã hội mà Bộ luật hình sự chưa theo kịp để điều chỉnh.
Nhưng đối với khái niệm “người tổ chức” trong đồng phạm thì lại được quy định cụ thể tại
Khoản 2, Điều 20, Bộ luật hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2009): “Người tổ chức là người
chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm”.
Thứ hai, khái niệm “người tổ chức” trong đồng phạm nói lên vai trị, nhiệm vụ của một
người trong vụ án có đồng phạm cùng thực hiện tội phạm đó. Trong khi khái niệm tội
phạm có tổ chức lại nói lên quy mơ, tính chất, mức độ nguy hiểm mà tội phạm đó đã xảy ra
trên thực tế. Đây là một điểm đáng lưu ý để phân biệt khái niệm “tội phạm có tổ chức” với
“người tổ chức” trong đồng phạm.
Tuy nhiên, không chỉ trong đồng phạm mới có người tổ chức mà ngay cả trong tội phạm có
tổ chức vẫn ln tồn tại yếu tố này. Bởi vì, tội phạm có tổ chức được thực hiện bởi các tổ
chức tội phạm, mà thực tế các tổ chức này ln có những người đứng đầu, những thủ lĩnh
chỉ huy, điều khiển hoạt động tội phạm một cách nhanh chóng và tinh vi. Mặc dù, khái
niệm người tổ chức trong đồng phạm đã được quy định rõ trong Bộ luật hình sự và chưa hề
có bất kì quy định nào về yếu tố này ở tội phạm có tổ chức nhưng ở đây khái niệm “người
tổ chức” đều được hiểu không chỉ đơn thuần là người đứng đầu mà còn được hiểu là người
chủ mưu, người cầm đầu và người chỉ huy.
Người chủ mưu là người chủ động về mặt tinh thần gây ra tội phạm, có sáng kiến thành lập
các băng, nhóm tội phạm, đề xuất âm mưu và vạch ra các phương hướng, đường lối hoạt
động chung cho nhóm đồng phạm, kích động, thúc đẩy đồng bọn phạm tội.
Người cầm đầu là người đứng ra thành lập các nhóm đồng phạm hoặc tham gia soạn thảo
kế hoạch, phương hướng hoạt động chính của nhóm tội phạm, phân công, giao trách nhiệm
cho đồng bọn, đôn đốc và điều khiển mọi hoạt động của nhóm đồng phạm.
15
Tuy nhiên, điều đó khơng có nghĩa là, trong mọi trường hợp, người cầm đầu là người đã
sáng lập ra nhóm đồng phạm, họ có thể tham gia khi nhóm đồng phạm đã hồn thành,
nhưng lại được tín nhiệm nên được cử vào bộ máy lãnh đạo của nhóm đồng phạm.
Người chỉ huy là người trực tiếp điều khiển hoạt động của nhóm đồng phạm có vũ trang
hay bán vũ trang.
Một điểm giống nhau giữa mức hình phạt cho người tổ chức trong đồng phạm với người tổ
chức trong tội phạm có tổ chức, đó là do người tổ chức đã đóng một vai trị hết sức quan
trọng trong việc đưa ra sáng kiến thành lập các băng, nhóm để thực hiện tội phạm nên hành
vi của người tổ chức có tính chất rất nguy hiểm. Chính vì vậy, khi quyết định hình phạt,
người tổ chức thường phải chịu một mức hình phạt nặng hơn so với các đồng phạm khác.
1.1.2.3. Phân biệt tội phạm có tổ chức với hành vi tổ chức trong một số tội phạm cụ
thể
Hành vi tổ chức trong một số tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật hình sự (sửa đổi,
bổ sung năm 2009) như tội tổ chức tảo hôn (Điều 148), tội tổ chức sử dụng trái phép chất
ma túy (Điều 197), tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc (Điều 249), tội tổ chức đua xe trái
phép (Điều 206) và tội tổ chức, cưỡng ép người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước
ngoài trái phép (Điều 275)… So với khái niệm “tội phạm có tổ chức” thì có một số điểm
khác biệt cụ thể như:
- Nếu khái niệm “tội phạm có tổ chức” nói lên mức độ, tính chất nguy hiểm của tội phạm
thì khái niệm “tổ chức” trong một số tội phạm cụ thể được hiểu là hành vi phạm tội. Theo
đó, luật khơng địi hỏi hành vi tổ chức phải là hành vi do nhiều người thực hiện mà một
người cũng có thể thực hiện được hành vi này. Trong khi đó, tội phạm có tổ chức lại bắt
buộc phải có ba người trở lên có câu kết chặt chẽ với nhau, có sự phân cơng vai trò trong tổ
chức để thực hiện tội phạm.
Mặc dù, đối với hành vi tổ chức trong một số tội phạm cụ thể thì khơng bắt buộc phải có
nhiều người cùng thực hiện hành vi nhưng trên thực tế vẫn có trường hợp nhiều người cùng
cố ý thực hiện các tội phạm cụ thể này.
16
Hành vi tổ chức không chỉ tồn tại trong các tội phạm cụ thể quy định ở Bộ luật hình sự mà
trong tội phạm có tổ chức cũng có các hành vi tổ chức này. Điều này được thể hiện ở chỗ,
khi các tổ chức tội phạm thực hiện hành vi phạm tội thì các tổ chức tội phạm ln có sự lơi
kéo, tạo các điều kiện thuận lợi cho hoạt động tội phạm đặc biệt là đối với các cơ quan
công quyền trong bộ máy nhà nước.
Và hành vi tổ chức trong tội phạm có tổ chức cũng như trong các tội phạm cụ thể đều có
thể được hiểu là hành vi lơi kéo, rủ rê, kích động hoặc là hành vi sắp đặt hay tạo điều kiện
cần thiết cho việc thực hiện hành vi phạm tội hoặc hành vi vi phạm pháp luật.
Một trường hợp đơn cử như: nếu một cá nhân thực hiện hành vi tổ chức đánh bạc thì đó
được hiểu là hành vi tổ chức trong các tội phạm cụ thể. Nhưng nếu các băng nhóm tội
phạm tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc thì khi đó khơng chỉ là hành vi tổ chức trong tội phạm
cụ thể nữa mà đã là hành vi tổ chức của các tổ chức tội phạm, là hành vi tổ chức trong tội
phạm có tổ chức.
1.1.2.4. Phân biệt khái niệm tội phạm có tổ chức với khái niệm phạm tội có tổ chức
Giữa khái niệm tội phạm có tổ chức đã được trình bày ở trên với khái niệm phạm tội có tổ
chức quy định tại khoản 3, Điều 20, Bộ luật hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2009) thì có
một số điểm khác biệt cần lưu ý:
Thứ nhất, nếu đã là tội phạm có tổ chức thì phương pháp phạm tội của các thành viên luôn
là phạm tội có tổ chức nhưng khơng phải bất kì tội phạm nào sử dụng phương pháp phạm
tội có tổ chức đều là tội phạm có tổ chức.
Thứ hai, phạm tội có tổ chức chỉ đơn thuần là trường hợp hai người trở lên cùng cố ý thực
hiện một tội phạm mang tính chất có tổ chức, có sự liên kết giữa các thành viên trong đó có
người cầm đầu, người xúi giục, người giúp sức, người thực hành…Còn tội phạm có tổ
chức là hệ thống các hành vi cố ý phạm tội của một tổ chức gồm nhiều người và nhiều
hành vi khác nhau trong quá trình thực hiện tội phạm của những người mà hành vi phạm
tội đã trở thành thường xuyên bằng nhiều vai trò khác nhau.
Thứ ba, phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm đặc biệt – đồng phạm có tổ chức, cịn
tội phạm có tổ chức mặc dù ln hàm chứa yếu tố đồng phạm nhưng yếu tố “có tổ chức”
17
đã là thuộc tính, quy định nên yếu tố đồng phạm. Nếu như yếu tố “có tổ chức” trong phạm
tội có tổ chức là tình tiết phản ánh mối liên hệ của các hành vi phạm tội giữa các thành viên
thì yếu tố “có tổ chức” trong tội phạm có tổ chức lại là yếu tố thuộc về bản chất, thể hiện
sự liên kết bền vững không chỉ của hệ thống hành vi phạm tội mà còn là của cả mục tiêu,
động cơ thực hiện tội phạm.
Thứ tư, tội phạm có tổ chức ln ln có cấp cầm đầu, ln có một người được gọi là “thủ
lĩnh”, “đại ca” đứng ra điều hành hoạt động phạm tội của tất cả các thành viên còn lại theo
một tổ chức, kỉ luật rõ ràng. Điển hình như tổ chức Năm Cam, Khánh Trắng…
Trong phạm tội có tổ chức có thể có hoặc khơng có cấp cầm đầu, chỉ huy. Nhiều trường
hợp, đó chỉ là sự tập hợp những tên chuyên phạm tội đã thống nhất cùng nhau để thực hiện
hoạt động phạm tội mà thôi.
Hai khái niệm này không phải là hai khái niệm tách biệt nhau mà khái niệm phạm tội có tổ
chức lại thuộc khái niệm tội phạm có tổ chức. Có quan điểm cho rằng, tội phạm có tổ chức
là tổ chức tội phạm. Đây là quan điểm đúng, tuy nhiên vẫn chưa đầy đủ bởi vì đã loại bỏ
mất hoạt động phạm tội có tổ chức ra ngồi tội phạm có tổ chức. Trong khi đó, yếu tố này
lại là một biểu hiện rất cơ bản trong tập hợp tội phạm có tổ chức.
Như vậy, mặc dù là hai khái niệm khác nhau nhưng giữa khái niệm tội phạm có tổ chức và
khái niệm phạm tội có tổ chức lại có mối liên hệ mật thiết với nhau. Do đó, cần khẳng
định, mọi tội phạm thuộc phạm trù tội phạm có tổ chức dứt khốt phải được thực hiện bằng
phương thức phạm tội có tổ chức cũng như phải có đầy đủ cả yếu tố về chủ thể thực hiện
đó là các tổ chức tội phạm nữa. Nếu tội phạm do một tổ chức thực hiện nhưng không mang
phương thức phạm tội có tổ chức thì cũng khơng thể kết luận được đó là tội phạm có tổ
chức.
1.2. Tình hình tội phạm có tổ chức ở Việt Nam trong những năm gần đây
1.2.1. Một số vấn đề lí luận khi nghiên cứu tình hình tội phạm
Trong quá trình đấu tranh phịng chống tội phạm có tổ chức, muốn áp dụng các biện pháp
đấu tranh một cách có hiệu quả thì điều cần thiết là phải tìm hiểu và nghiên cứu tình hình
tội phạm trên thực tế. Đây khơng chỉ là điều kiện để đảm bảo cho công tác đấu tranh phòng
18
chống tội phạm có tổ chức được thực hiện khoa học mà còn thể hiện được yêu cầu về đảm
bảo tính thực tiễn.
Trong tội phạm học, “tình hình tội phạm là một hiện tượng xã hội tiêu cực, trái pháp luật
hình sự, mang tính giai cấp, thay đổi theo q trình lịch sử, được thể hiện bằng tổng hợp
các tội phạm đã xảy ra trong xã hội và trong một khoảng thời gian nhất định” [10-tr.91].
Khái niệm này đã thể hiện được đầy đủ những thuộc tính của tội phạm học, là cơ sở giúp
cho việc nhận thức đúng bản chất, các đặc điểm đặc trưng của tội phạm có tổ chức xảy ra
trong xã hội, trong từng giai đoạn, từng thời kì nhất định. Từ đó, có thể đề ra cũng như thực
hiện những biện pháp đấu tranh phòng chống tội phạm có tổ chức trên thực tế một cách
nhanh chóng, hiệu quả.
Tình hình tội phạm có nguồn gốc trong xã hội, tồn tai trong xã hội, do con người thực hiện
xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Do đó, tình hình tội phạm có tổ
chức là một hiện tượng xã hội mà khơng phải là bất kì hiện tượng nào khác.Tình hình tội
phạm có mối quan hệ mật thiết với các hiện tượng quá trình xã hội khác nhau. Khi những
yếu tố làm phát sinh tình hình tội phạm bị mất đi thì tình hình tội phạm cũng sẽ khơng cịn
tồn tại. Chính vì vậy, khi nghiên cứu, đánh giá tình hình tội phạm, ta phải đặt trong điều
kiện kinh tế xã hội nhất định, trong mối tương quan với các điều kiện xã hội khác.
Tình hình tội phạm là một hiện tượng mang tính giai cấp. Điều này được thể hiện ở nguồn
gốc phát sinh và nội dung của tình hình tội phạm.
Trong xã hội lồi người, tình hình tội phạm khơng phải là hiện tượng có sẵn mà nó chỉ ra
đời cùng với sự xuất hiện của sở hữu tư nhân, sự phân chia xã hội thành các giai cấp đối
kháng, với sự ra đời của Nhà nước và pháp luật. Mỗi giai cấp thống trị đều quy định hệ
thống các hành vi phạm tội và hệ thống các biện pháp trừng trị những hành vi đó trong
pháp luật hình sự dựa trên sự căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của những hành vi
đó đối với các lợi ích cả về vật chất lẫn tinh thần của giai cấp mình. Nghĩa là tình hình tội
phạm chỉ phát sinh trong xã hội có giai cấp, xâm hại đến các quan hệ xã hội được giai cấp
thống trị bảo vệ. Và một khi xã hội khơng cịn bất bình đẳng, khơng cịn Nhà nước và pháp
luật nữa thì tình hình tội phạm cũng sẽ mất đi.
19
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội và trái pháp luật hình sự mà tình hình tội phạm
lại được tạo bởi các tội phạm cụ thể đã xảy ra trong xã hội. Vì vậy, tình hình tội phạm cũng
mang tính trái pháp luật hình sự. Thuộc tính này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc
nghiên cứu, đáng giá thực trạng, cơ cấu, động thái của tình hình tội phạm. Bởi vì, thơng
qua đó, cho phép chúng ta xác định được hành vi nguy hiểm nào cho xã hội là tội phạm,
đồng thời cũng phân biệt được tội phạm với các hành vi vi phạm pháp luật khác. Hơn nữa,
khi chính sách hình sự có sự thay đổi theo hướng mở rộng hay thu hẹp phạm vi tội phạm
đều dẫn đến sự khác nhau của tình hình tội phạm, làm thay đổi những thơng số của tình
hình tội phạm cả về lượng lẫn về chất.
Đời sống xã hội và các quan hệ xã hội luôn luôn vận động và biến đổi. Do đó, tình hình tội
phạm cũng thay đổi theo. Sự vận động và biến đổi của tình hình tội phạm phụ thuộc vào
mỗi hình thái kinh tế xã hội khác nhau. Bởi vì, mỗi hình thái kinh tế xã hội lại thể hiện ý
chí của giai cấp thống trị là không giống nhau. Ngay cả trong cùng một hình thái kinh tế xã
hội ở những thời kì, những khoảng thời gian khác nhau, tình hình tội phạm cũng có những
sự thay đổi khác nhau. Sự thay đổi về cơ cấu kinh tế, cơ cấu xã hội cũng là yếu tố ảnh
hưởng đến sự thay đổi của tình hình tội phạm. Nhận thức đúng quy luật vận động của tình
hình tội phạm cũng như nghiên cứu tính lịch sử của tình hình tội phạm sẽ cho thấy được
một cách toàn diện về sự ra đời, tồn tại và phát triển của tình hình tội phạm. Chính sự thay
đổi của tình hình tội phạm phụ thuộc vào các nhân tố trong xã hội sẽ giúp cho chúng ta dự
báo được tình hình tội phạm trong tương lai nói chung và tình hình tội phạm có tổ chức nói
riêng. Đồng thời giúp cho việc hoàn thiện pháp luật được nhanh chóng và hiệu quả hơn nữa
trên thực tế.
Khi nói đến tính thống nhất của tình hình tội phạm, ta phải giới hạn được không gian và
thời gian mà những tội phạm cụ thể đã xảy ra. Bởi vì, có những trường hợp tội phạm xảy ra
trong cùng một thời gian nhưng lại ở các quốc gia khác nhau hoặc trong cùng một quốc gia
nhưng không cùng một địa phương thì tội phạm xảy ra cũng khác nhau. Do vậy, khơng thể
nói tình hình tội phạm một cách chung chung mà chỉ có thể nói tình hình tội phạm trong
một địa bàn nhất định và trong một khoảng thời gian nhất định.
20
Khi nghiên cứu tình hình tội phạm, ngồi việc nghiên cứu những thuộc tính như tính lịch
sử, tính giai cấp, tính xã hội thì chúng ta cịn phải nghiên cứu những vấn đề có liên quan
như:
- Thơng số về thực trạng của tình hình tội phạm: được hiểu là tổng số các tội phạm đã xảy
ra trong thực tế và số lượng người thực hiện các tội phạm đó trong khoảng thời gian nhất
định và ở địa bàn nhất định.
- Thơng số về cơ cấu của tình hình tội phạm: là tỉ trọng, mối tương quan giữa các nhóm
tội, loại tội khác nhau trong chỉnh thể chung tổng hợp các tội phạm đã xảy ra trong cùng
địa bàn và trong cùng một khoảng thời gian nhất định.
- Thông số về động thái của tình hình tội phạm: là sự vận động, biến đổi về thực trạng
và cơ cấu của tình hình tội phạm trong một khoảng thời gian nhất định.
- Thơng số về thiệt hại của tình hình tội phạm: là tồn bộ những thiệt hại mà tình hình
tội phạm đã gây ra cho xã hội, bao gồm những thiệt hại về vật chất lẫn tinh thần.
Trên đây là những thơng số của tình hình tội phạm và đóng vai trị rất quan trọng trong việc
giúp chúng ta có thể xác định được đúng số lượng các tội phạm, số lượng người thực hiện
tội phạm, mối tương quan giữa các loại tội, nhóm tội, cũng như diễn biến của tình hình tội
phạm trong một khoảng thời gian, khơng gian nhất định. Để từ đó có thể đưa ra một kết
luận chính xác về tình hình tội phạm đồng thời đề xuất những biện pháp đấu tranh phịng
chống tội phạm có hiệu quả, phù hợp với đặc điểm của riêng từng địa phương, từng loại tội
phạm cụ thể đã xảy ra trên thực tế.
1.2.2. Tình hình tội phạm có tổ chức ở Việt Nam
1.2.2.1. Thực trạng, động thái của tội phạm có tổ chức.
Ngay từ đầu thế kỉ XX, ở Việt Nam đã xuất hiện những đám lưu manh chuyên nghiệp, kết
nối với nhau để hoạt động những nghề phi pháp, tổ chức theo “luật giang hồ”, theo giới anh
chị ở Sài Gòn, Chợ Lớn, Hải Phòng, Nam Định. Phạm vi hoạt động của các băng nhóm tội
phạm có tổ chức trước 1975 chủ yếu tập trung ở những khu vực có nhiều tài sản, nơi tập
trung đơng qn đội và các căn cứ hậu cần của quân đội Mỹ. Giai đoạn này đã xuất hiện
nhiều băng nhóm tội phạm, kể cả các băng nhóm hoạt động theo kiểu “xã hội đen” mà điển
21