Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

Đảm bảo quyền con người của bị can, bị cáo trong biện pháp tạm giam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (880.01 KB, 66 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

CƠNG TRÌNH DỰ THI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SINH VIÊN CẤP TRƯỜNG

ĐỀ TÀI: ĐẢM BẢO QUYỀN CON NGƯỜI
CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO TRONG BIỆN PHÁP TẠM GIAM

THUỘC NHÓM NGÀNH: LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
GVHD: TS.Võ Thị Kim Oanh
SV thực hiện: Phạm Thị Phương Lớp HS32B
: Lê Hiệp Anh
Lớp HS32A

MSSV: 3240135
MSSV: 3240011

TP Hồ Chí Minh, tháng 6 năm 2010


BẢNG DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT.
BLTTHS
VBPL
HP 1992

Bộ Luật tố tụng hình sự 2003
Văn bản pháp luật
Hiến pháp 1992



MỤC LỤC
Trang
Bảng danh mục các từ viết tắt.
2
Mở đầu.
3
1. Tính cấp thiết của đề tài.
3
2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài.
3
3. Lịch sử nghiên cứu và nguồn tài liệu nghiên cứu.
3
3.1 Lịch sử nghiên cứu đề tài.
4
3.2 Nguồn tài liệu nghiên cứu.
4. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu. 4
4.1. Đối tượng nghiên cứu.
4
4.2. Phạm vi nghiên cứu.
4
4.3. Phương pháp nghiên cứu.
4
5. Bố cục của cơng trình.
5
Chương 1: Nhận thức chung về bảo đảm quyền con người của bị can bị cáo. 6
1.Một số vấn đề chung về quyền con nguời
6
2. Lịch sử hình thành và phát triển của nhân quyền.
8
1.2.1 Nhân quyền trong thời kì cổ đại

8
2.2 Nhân quyền trong thời kì trung đại
10
2.3 Nhân quyền trong thời kì cận đại.
11
2.3 Nhân quyền trong thời kì hiện đại
13
13.Khái niệm chung về quyền con người của bị can bị, bị cáo trong
tố tụng hình sự.
14
13.1.Khái niệm
14
13.2.Đặc điểm
16
1.4.Quyền con người của của bị can bị cáo trong biện pháp tạm giam.
16
1.4.1.Sơ lược về quyền con người của bị can, bị cáo trong các biện pháp ngăn chặn
tạm giam.
16
3.3.2. Sơ lược về quyền con người của bị can,bị cao khi bị áp dụng biện pháp ngăn
chặn tạm giam trong pháp luật Việt Nam.
18
Chương 2 : Nội dung đảm bảo quyền con người của bị can bị cáo trong biện pháp tạm
giam.
20
2.1 Đảm bảo quyền con người trong việc áp dụng căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam
20
2.2Đảm bảo quyền con người trong thời hạn tạm giam
25
2.2.1 Thời hạn tạm giam để điều tra

25
2.2.2 Thời hạn tạm giam trong giai đoạn truy tố.
29
2.2.3 Thời hạn tạm giam trong giai đoạn xét xử
29
2.2.4Thời hạn tạm giam trong thủ tục rút gọn
32
2.3 Đảm bảo quyền con người trong trình tự, thủ tục tạm giam.
33


2.4 Đảm bảo quyền con người trong chế độ tạm giam
2.5 Đảm bảo về quyền con người trong lĩnh vực bồi thường
2.7 Đảm bảo quyền con người trong vấn đề bào chữa
2.7Đảm bảo quyền con người trong việc giải quyết khiếu nại.

35
36
39
43

Chương 3: Thực tiễn đảm bảo quyền con người của bị can bị cáo trong biện pháp tạm
giam và những phương hướng hoàn thiện.
47
3.1 Thực tiễn việc thực hiện biện pháp ngăn chặn tạm giam
47
3.2Nguyên nhân
58.
3.2.1 Nguyên nhân khách quan.
58

3.2.2 Nguyên nhân chủ quan
58.
3.3 Định hướng hoàn thiện
59
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.

66
68


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm trọng nhất được quy định trong Bộ luật
tố tụng hình sự với mục đích kịp thời ngăn chặn tội phạm, tạo điều kiện thuận lợi cho
việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng cho thấy việc
vi phạm nhân quyền khi áp dụng biện pháp này là khá phổ biến. Đó là tình trạng ép
cung, mớm cung, dùng cực hình trong quá trình tạm giam, biện pháp ngăn chặn này
đơi khi cịn được sử dụng tùy tiện, tạm giam không đúng đối tượng, không đúng thẩm
quyền, tạm giam quá hạn …. gây oan sai, ảnh hưởng tiêu cực đến quyền con người,
quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo. Nguyên nhân của thực trạng nói trên là
do nhận thức khơng thống nhất của các cơ quan tiến hành tố tụng, tình trạng lạm dụng
biện pháp tạm giam của những người tiến hành tố tụng,… nhưng cũng một phần do
các quy định của pháp luật về biện pháp tạm giam chưa hoàn thiện và chặt chẽ, chưa
quan tâm đúng mức tới việc đảm bảo quyền con người trong việc tạm giam...Các
khiếm khuyết của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành và các văn bản pháp luật có liên
quan đang tiềm tàng khả năng làm nảy sinh những vi phạm pháp luật trong quá trình
giải quyết vụ án hình sự. Điều này là rất nguy hiểm, gây nên sự bất bình trong dư luận
xã hội, làm ảnh hưởng xấu đến uy tín của nhầ nước nói chung, của các cơ quan bảo vệ
pháp luật nói riêng và làm suy giảm lòng tin của nhân dân, tạo điều kiện cho các thế

lực thù địch lợi dụng vấn đề nhân quyền để chống phá đảng và nhà nước. Do đó việc
nghiên cứu bảo đảm quyền con người trong biện pháp ngăn chặn tạm giam là cần thiết
và cấp bách có ý nghĩa lý luận cũng như thực tiễn trong việc xây dựng và áp dụng
pháp luật. Với những lý do trên chúng tôi chọn đề tài: “Bảo đảm quyền con người của
bị can bị cáo trong biện pháp ngăn chặn tạm giam”.
2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài.
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn cũng như sự cần thiết phải tôn trọng
và bảo đảm quyền con người của bị can bị cáo trong biện pháp tạm giam..
- Thông qua những kiến nghị, đề xuất của mình nhóm tác giả hy vọng góp tiếng nói
của mình vào việc xây dựng hồn thiện hệ thống pháp luật về bảo đảm quyền con
người trong pháp luật hình sự nói chung, của bị can, bị cáo khi áp dụng biện pháp tạm
giam nói riêng. Đồng thời hiện thực hóa các quy định của pháp luật về bảo đảm quyền
con người trong thực tiễn áp dụng biện pháp tạm giam trong tiến trình cải cách tư
pháp.
3. Lịch sử nghiên cứu và nguồn tài liệu nghiên cứu.
3.1 Lịch sử nghiên cứu đề tài.
Ở nước ta trong những năm qua, khoa học pháp lí nghiên cứu về biện pháp ngăn chặn
tạm giam và nghiên cứu về bảo đảm biện pháp ngăn chặn tạm giam được đề cập trong
rất nhiều cơng trình nghiên cứu, như:
1


Luận văn thạc sĩ: “Biện pháp tạm giam trong Tố tụng hình sự Việt Nam - Vũ Văn
Nhiêm”
- Luận văn thạc sĩ :“Đảm bảo quyền của người bị bắt,bị can,bị cáo - Nguyễn Tiến
Đạt”
- Luận văn thạc sĩ : “Đảm bảo quyền công dân trong trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự - Nguyễn Văn Quý”
- Luận văn thạc sĩ : “Các biện pháp ngăn chặn và giải pháp nâng cao hiệu quả áp
dụng biện pháp ngăn chặn tại thành phố Hồ Chí Minh”

Bảo vệ quyền con người trong Luật hình sự và luật tố tụng hình sự Việt Nam - Tiến sĩ
Trần Quang Tiệp
- Về biện pháp ngăn chặn tạm giữ,tạm giam,tạp chí Nhà nước và pháp luật số 5 năm
2002
- Một số ý kiến về việc bắt khẩn cấp,tạm giam và thời hạn trong tố tụng hình sự Phạm Mạnh Hùng
… nhưng thực chất chưa hề có một cơng trình nghiên cứu cụ thể nào đi sâu vào phân
tích việc bảo đảm quyền con người trong biện pháp ngăn chặn tạm giam trong
BLTTHS của Việt Nam.
3.2 Nguồn tài liệu nghiên cứu.
Nguồn tư liệu chính, được quan tâm hàng đầu chính là những văn bản pháp luật của
nước ta; bên cạnh đó nhóm nghiên cứu cũng tham khảo trong một số cơng trình
nghiên cứu độc lập, các sách và tạp chí chuyên ngành cùng nguồn tư liệu phong phú
trên internet.
4. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu.
Cơng trình đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu tổng thể về biện pháp ngăn chặn tạm giam đặt
trong mối quan hệ về bảo đảm quyền con người khi áp dụng nó. Đồng thời, nhóm
nghiên cứu muốn thơng qua đề tài tìm ra những hạn chế và nguyên nhân phát sinh của
những hạn chế này, qua đó có thể tìm ra những biện pháp cũng như các kiến nghị phù
hợp khắc phục những hạn chế này.
4.2. Phạm vi nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu dựa trên các qui định của pháp luật thế giới và Việt Nam, đồng thời
kết hợp với thục tiễn thực hiện tại Việt Nam trong một giai đoạn cụ thể.
4.3. Phương pháp nghiên cứu.
2


Về phương pháp nghiên cứu, đề tài xin vận dụng quan điểm duy vật biện chứng của
chủ nghĩa Marx.
Ngoài ra để đạt được mục đích nghiên cứu,cũng như giải quyết được những vấn đề

đạt ra, đề tài còn sử dụng các phương pháp khác như phương pháp xã hội học, phương
pháp thống kê, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh, phương
pháp logic, phương pháp trừu tượng khoa học vào quá trình thực hiện.
5. Bố cục của cơng trình.
Cơng trình được chia là 3 chương cụ thể.
Chương 1: Nhận thức chung về bảo đảm quyền con người của bị can bị cáo. Trong
chương này nội dung chính khái quát định nghĩa thế nào là nhân quyền, lịch sử phát
triển của nhân quyền, mối quan tâm của thế giới và Việt Nam về tình hình nhân quyền
trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam.
Chương 2 : Nội dung đảm bảo quyền con người của bị can bị cáo trong biện pháp tạm
giam. Nội dung chương đi vào phân tích việc bảo đảm nhân quyền trong biện pháp
ngăn chặn tạm giam dựa trên cơ sở lí luận thơng qua các văn bản pháp lí mà nhà nước
ta đã ban hành.
Chương 3: Thực tiễn đảm bảo quyền con người của bị can bị cáo trong biện pháp tạm
giam và giải pháp nâng cao. Nội dung chính đi sâu vào thực trạng về nhân quyền
trong biện pháp ngăn chặn tạm giam trong thời gian vừa qua, đồng thời khái quát
nguyên nhân và tìm ra những giải pháp khắc phụ phù hợp.

3


Chương 1: NHẬN THỨC CHUNG VỀ ĐẢM BẢO QUYỀN CON NGƯỜI CỦA
BỊ CAN BỊ CÁO
1.Một số vấn đề chung về quyền con nguời.
1.1 Quan niệm về nhân quyền trong lịch sử lồi người.
Có một triết gia đã từng nhận xét:” Thế giới tròn, cứ đi mãi ta sẽ trở lại điểm xuất phát
ban đầu, có mỗi điểm khác là bản thân sẽ biết nhiều hơn lúc khởi hành” điều này thật
đúng với những gì mà nhân loại nhận thức về quyền con người. Quyền con người –
hay Nhân quyền , dù được xem là một trong mười sáng kiến vĩ đại nhất của nhân loại
làm thay đổi thế giới 1 song để tìm được một định nghĩa đúng đắn và tồn vẹn nhất thế

nào là nhân quyền thì đây quả là một vấn đề nan giải. Trong tiếng Anh, nhân quyền
được viết Human Rights; đó là các quyền cá nhân của nam và nữ dựa trên nền tảng
các quyền, như quyền tự do lập hội, tự do ngôn luận…2
Trong tiếng Pháp, nhân quyền được thể hiện với cụm từ Droits de l'Homme, là khái
niệm mà mỗi con người được có quyền lợi, phổ quát, không thể chuyển nhượng, bất
kể các qui định của pháp luật được áp đặt bởi một lực lượng nào đó hoặc các yếu tố
địa phương khác như các dân tộc , quốc gia, khuynh hướng tình dục hoặc tôn giáo.3
Trong tiếng Trung Quốc, nhân quyền thể hiện bằng cụm từ人權 , (quyền con người
cơ bản hoặc các quyền tự nhiên) dành cho "mọi người, bởi vì con người được hưởng
quyền."4
Theo các nhà nghiên cứu nhân quyền, kể từ sau khi Bản tuyên ngôn nhân quyền và
dân quyền của cách mạng Pháp 1789 , thế giới đang trải qua bốn thế hệ phát triển của
nhân quyền, đó là :
- thế hệ của những quyền tự do chính trị;
- thế hệ của những quyền lợi kinh tế xã hội;
- thế hệ của các quyền lợi cộng đồng;
- thế hệ của những quyền lợi nhân lọai.5
1

“10 ideas that changed the world”. CNN.

2

Nguyên văn: Rights of individual men and women to basic freedoms, such as freedom of associan, freedom
of speech… Ph.Collin-Dictionary of Law, Third Edition. Peter Collin Publishing Ltd.
3

Nguyên văn: Les droits de l'homme sont un concept selon lequel tout être humain possède des droits
universels, inaliénables, quel que soit le droit positif en vigueur ou les autres facteurs locaux tels que l'ethnie, la
nationalité, l'orientation sexuelle ou la religion.

/>4

Nguyên văn:
人權(基本人權或自然權利)是指“人,因其為人而應享有的權利”。[1]它主要的含義:每個人都應該
受到合乎人權的對待。人權的這種普適性和道義性,是它的兩種基本特征。
戴維·米勒,韋農·波格丹諾,《布萊克維爾政治學百科全書》

4


Trong những năm gần đây, dù Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền và Hội đồng Nhân
quyền Liên hiệp Quốc cố gắng đưa những chuẩn mực chung nhất về nhân quyền song
do có nhiều bất đồng quan điểm giữa một số quốc gia, đặc biệt về thể chế chính trị mà
vấn đề nhân quyền được nhận thức rất khác biệt giữa các quốc gia với nhau. Trên thế
giới hiện nay tồn tại hai nhóm quan điểm chính về nhân quyền, đó là nhóm quan điểm
của các nước đang phát triển và nhóm quan điểm của Mỹ và Phương Tây. Theo đó
quan điểm của các nước Phương Tây nhấn mạnh các quyền chính trị-dân sự và các
quyền tự do cá nhân với dụng ý đề cao và áp đặt nền "dân chủ" và hệ thống giá trị
chính trị-xã hội của phương Tây. Các nước đang phát triển đòi hỏi phải coi trọng
ngang bằng cả hai loại quyền chính trị-dân sự và kinh tế-xã hội-văn hố, khơng thể
chỉ chú trọng một loại quyền, ưu tiên thúc đẩy các quyền tự do chính trị; đồng thời họ
cho rằng các quyền tự do cá nhân không thể vượt lên trên mà phải gắn liền với quyền
và lợi ích của số đơng, của cộng đồng và dân tộc, quyền của thiếu số phải phục tùng
quyền của đa số, quyền lợi phải đi đôi với nghĩa vụ đối với xã hội. Tuy nhiên có một
thực tế khơng thể phủ nhận như một xu thế tất yếu trong xã hội, đó là các chính phủ
dân chủ ngày càng mở rộng hơn các quyền tụ do cho nhân dân trong Hiến Pháp và
pháp luật đặc biệt là trong mối quan hệ của nó với quyền cơng dân.
Tại Việt Nam, quan điểm thế nào là nhân quyền, phạm vi nhân quyền, cách thức bảo
vệ nhân quyền.., cũng được tranh luận và đưa ra bàn thảo bởi rất nhiều học giả khác
nhau. Như sổ tay khoa Thuật ngữ pháp lý thông dụng định nghĩa: “Quyền con người

là những quyền tối thiểu mà các cá nhân, những con người cụ thể phải có. Nhà nước
thừa nhận và tơn trọng các quyền này;cịn theo PGS.TS Nguyễn Đăng Dung đã từng
nhận xét: “…Quyền con người là những quyền cơ bản của con người, được có một
cách tự nhiên gắn bó mật thiết với con người – một động vật cao cấp có lý trí và có
tình cảm làm con người khác với động vật khác, mà nhà nước thành lập với một tròn
những nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của mình là bảo vệ các quyền đó…” 6 ; hay như
GS.TS Trần Ngọc Đường cho rằng “Quan niệm nhân quyền vừa khẳng định cơ sở tự
nhiên và giá trị nhân loại của quyền, đồng thời cũng thừa nhận thuộc tính xã hội,
chính trị và lịch sử cụ thể của quyền con người thuộc một quốc gia, một dân tộc…” 7
hoặc TS Trần Quang Tiệp lại quan niệm: “Quyền con người là những đặc lợi vốn có
của tự nhiên mà chỉ con người mới được hưởng trong những điều kiện kinh tế, văn
hóa, xã hội nhất định” 8.Cịn theo nhóm nghiên cứu nhận xét trong các bài viết gần
đây, có hai quan điểm đưa ra khái niệm có thể bao hàm gần hết nội dung về quyền
con người, một là của PGS. Lê Cảm : “Quyền con người – một phạm trù lịch sử - cụ
thể, là giá trị xã hội cao quý nhất được thừa nhận chung cuả nền văn minh nhân loại
5

Các nhà nhân quyền theo trường phái Liên Xơ cũng có một cách chia khác là chia làm ba thời kì. Cách chia
này được biết đến bởi học giả người Czech là Karel Vasak.
6
Nguyễn Đăng Dung. Sự hạn chế quyền lực nhà nước. NXB Đại học quốc gia Hà Nội. 2005. tr112
7
Trần Ngọc Đường. Bàn về quyền con người và quyền công dân. NXB Chính trị quốc gia Hà Nội. 2004. tr21.
8
Trần Quang Tiệp. Bảo vệ quyền con người trong Luật hình sự và Tố tụng hình sự Việt Nam. NXB Chính trị
quốc gia Hà Nội. 2004. tr16.

5



và là đặc trưng tự nhiên vốn có cần được tôn trọng và không thể bị tước đoạt của bất
cứ cá nhân con người nào sinh ra trên trái đất , đồng thời phải được bảo vệ bằng pháp
luật của các quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc cũng như cộng đồng quốc tế” 9.Quan
điểm còn lại thuộc về TS. Vũ Văn Nhiêm, theo đó “Quyền con người – nhân quyền:
là quyền hoặc khả năng mà con người với tư cách là một sinh vật cao cấp phải được
hưởng mà khơng kể con người đó sinh ra hoặc cư trú tại đâu” 10. Từ những ý kiến trên
cho thấy, quyền con người khơng thể hình thành cứng nhắc như một định luật tốn
học mà nó là sự vận dụng uyển chuyển, kết hợp giữa sự phát triển theo xu thế chung
của thế giới với điều kiện kinh tế xã hội Việt Nam. Việt Nam chúng ta ngày càng tôn
trọng hơn nữa những giá trị về nhân quyền trong Luật quốc tế và đã nội hóa khá nhiều
những nguyên tắc cơ bản được qui định trong các văn bản pháp lý quốc tế vào pháp
luật của mình, tương lai xa hy vọng về một nhà nước pháp quyền tôn trọng con người
sẽ sớm được thực hiện .
1.2.Lịch sử hình thành và phát triển của nhân quyền
1.2.1 Nhân quyền trong thời kì cổ đại 11
Cũng như hầu hết những phát kiến vĩ đại của nhân loại trong thời kì cổ đại, tư tưởng
về nhân quyền cũng được xuất hiện đầu tiên ở Phương Đơng. Trong thời kì cơng xã
ngun thủy, khi mà xã tồn xã hội đang chìm trong bóng đêm dài của thời kì mơng
muội, lồi người hồn tồn khơng có ý thức gì về các quyền của mình có, hay đơn
giản hơn, những gì mà họ làm chỉ là để giữ gìn sự tồn tại của giống lồi trước tự nhiên
và trước các chủng tộc khác nhau trong cùng một lãnh địa. Song bước đến thời kì
chiếm hữu nơ lệ, khi những nhà nước đầu tiên được hình thành, dường như nhân loại
đã mơ hồ nhận thức và công nhận một phần nào đó về sự tồn tại của nhân quyền.
Những tư tưởng đầu tiên về nhân quyền được manh nha xuất hiện trong Bộ luật cải
cách, của Urukagina thành phố Lagash, được biết đến sớm nhất (khoảng năm 2350
TCN)12 đã nói đến những khái niệm về quyền ở mức độ nào đó, văn bản chính thức
bộ luật đó của ông ta vẫn chưa được tìm thấy. Bộ luật cổ nhất hiện còn ngày nay là
Neo-Sumerian Luật Ur-Nammu (khoảng 2050 TCN)13. Một số bộ luật khác cũng
được ban hành ở Mesopotamia, gồm cả Bộ luật Hammurabi (khoảng 1780 TCN)14
một trong những ví dụ điển hình nhất của loại tài liệu này. Nó có các luật, và hình

phạt nếu những luật này bị vi phạm ở nhiều khía cạnh khác nhau, kể cả nữ quyền,
9

Lê Cảm. Những vấn đề lí luận bảo vệ quyền con người bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự. Tạp chí
Tịa án nhân dân, số 11 – tháng 6/2006.
10
Vũ Văn Nhiêm. Đề cương bài giảng môn Quyền con người và quyền công dân. Lưu hành nội bộ.
11
Nhóm nghiên cứu dùng cách chia đặc thù của khoa học lịch sử. Theo đó lịch sử thế giới được chia làm bốn
giai đoạn: cổ đại, trung đại, cận đại, hiện đại. Xin tham khảo thêm trong bộ Lịch sử thế giới của NXB giáo dục
2001.
12

/> />14
/>13

6


quyền trẻ em, và quyền của nô lệ. Lời tựa của những bộ luật này viện dẫn sự đồng ý
thiêng liêng của Thần của người Mesopotamian. Bên cạnh đó các sử gia phương Tây
cho rằng trụ Cyrus( hay Cyrus Cylinder có từ thời hồng đế Cyrus Đại đế (559-530
TCN) được cho là hiến chương đầu tiên của nhân quyền thế giới 15. Tại Ấn Độ, dưới
những tác động của thời kì Vêđa và sau này được thừa nhận rõ nét của đạo Hinđu, chế
độ đẳng cấp (là chế độ xã hội dựa trên sự phân biệt về chủng tộc, màu da, dịng dõi,
nghề nghiệp, tơn giáo, quan hệ giao tiếp, tục cấm kỵ hôn nhân...) đã triệt tiêu rất nhiều
quyền cơ bản của con người. Sau này khi Phật giáo tư tưởng “Chúng sinh bình đẳng”
và sự truyền bá rộng rãi của Phật giáo sang Châu Á cũng là những tín hiệu đầu tiên về
sự thừa nhận giá trị của con người.
Ở Trung Quốc, những tư tưởng sơ khai về nhân quyền được định hình rõ nét nhất

trong hệ tư tưởng của Khổng giáo, đặc biệt là hai nhà tư tưởng Mạnh Tử và Tuân Tử.
Mạnh Tử đề ra tư tưởng “Dân là quý nhất , xã tắc thứ hai, vua thì coi nhẹ”, do đó, họ
phải biết “vui cái vui của dân, lo cái lo của dân”, phải giảm nhẹ thuế khóa ,sưu dịch
để “trơng lên có thể đủ thờ cha mẹ, trông xuống đủ để nuôi vợ con, năm được màu thì
được no ln, năm mất mùa thì khơng khỏi phải chết đói”16. Với Tn Tử, ơng cho
rằng con người là lồi q nhất vì so với chim mng, cây cỏ, con người khơng chỉ có
sự sống, có tri giác mà cịn có nghĩa. Theo Tn Tử, giai cấp thống trị phải nhận thức
rằng: “Vua là thuyền, dân là nước, nước có thể đẩy thuyền, song nước cũng có thể lật
thuyền”17. Tiếc thay do thời kì Xn Thu – Chiến Quốc kéo dài, các quốc gia chỉ coi
trọng Võ trị và Pháp trị nên những tư tưởng về nhân nghĩa này khơng có chỗ phát
huy.
Phải đến sau này, trong thời kì văn minh Hy Lạp – La Mã, quyền con người mới được
khái quát hóa và cụ thể hóa đến một giá trị nhất định và được thừa nhận trong xã hội.
Từ thế kỉ V – VI trước CN, trong một số nhà nước cổ đại như Hy Lạp ( điển hình là
thành bang Aten) và sau này là nhà nước La Mã , quyền con người có một sự xuất
hiện vững chắc thông qua một hệ thống các tư tưởng triết học– pháp lí khá vững chắc
được công nhận. Về tư tưởng triết học, biểu hiện đầu tiên được biết đến trong tác
phẩm Antigone của Sơphơclê có kể lại một thiếu nữ đã dám bất tuân lệnh của nhà vua
cấm không được chôn cất người anh của mình can tội phản quốc. Nàng dám khẳng
khái tâu với vua rằng sở dĩ cô dám làm trái lệnh của vua là vì có luật trời cịn cao hơn
nữa 18. Dù còn sơ khai song nhờ các tư tưởng bất diệt của nhà triết học mà chế định
quyền công dân – tức một con người tự do trong một nhà nước tự do – đã ra đời được
xem là một bước tiến bộ vượt bậc của nhân loại trong thời kì bấy giờ. Tại Athen, hình
thức trưng cầu dân ý bằng bỏ phiếu lần đầu tiên được thực hiện khi Athen muốn xác
định thành bang này theo chế độ quân chủ hay dân chủ. Mỗi công dân Athen được
phát hai hòn sỏi đen và trắng , họ khi quyết định được bỏ phiếu và lấy ý kiến theo đa
15

/>Lịch sử thế giới cổ đại. NXB Giáo dục 2003.tr 153
17

Lịch sử thế giới cổ đại. NXB Giáo dục 2003.tr 153; 154
18
Lịch Sử Vấn Đề Nhân Quyền. TSTH Số 12/1998. />16

7


số. Hình thức trưng cầu dân ý này dần đân lan rộng sang toàn cõi Hy Lạp. Cũng tại
Athen, chế độ công dân thành bang và chuyển tiếp từ nô lệ sang bán công dân 19 dành
cho các nô lệ chạy trốn đến Athen lần đầu tiên xuất hiện. Nền dân chủ của La Mã sau
này kế thừa những giá trị của nền văn minh Hy Lạp trước đó ở những điểm tiến bộ
trong việc công nhận tư cách công dân của đế quốc, hình thức bầu cử tự do được duy
trì trong một thời gian dài, tự do về tơn giáo ở La Mã cho phép mọi người có thể tôn
thờ bất cứ vị thần nào, miễn sao họ có thể cơng nhận vị thần của người khác, luật
pháp được áp dụng cho tất cả mọi công dân cũng như giới quyền quý, những nguyên
tắc tiến bộ của pháp luật La Mã thậm chí cịn được duy trì và trở thành nền tảng cho
pháp luật hiện đại ngày nay. Đáng tiếc là khi bước sang thời đại đế chế những quyền
dân chủ này ngày càng mờ nhạt, đất nước bắt đầu được cai trị bởi một vị vua độc tài,
giới quý tộc lao vào hưởng lạc, đế quốc suy yếu và bắt đầu rơi vào hỗn loạn và cuối
cùng La Mã bị những chủng tộc khác chinh phạt.Đến năm 476, người Giécmanh lật
đổ hòang đế cuối cùng của đế quốc Tây La Mã. Đến đây đế quốc La Mã đi vào diệt
vong cùng với sự mai một trong một thời gian dài những thành tựu tiến bộ về nhân
quyền.
2.2 Nhân quyền trong thời kì trung đại
Sự sụp đổ của đế chế La Mã trong lịch sử Châu Âu đã khiến cho việc phát triển của
những định chế về quyền con người có sự thụt lùi đáng kể. Trên tồn thế giới từ Á
sang Âu, việc cai trị của chế độ phong kiến, lúc mà vương quyền cấu kết chặt chẽ với
thần quyền, quyền lực tập trung mạnh mẽ trong tay giới quí tộc mà đại biểu là vị thiên
tử được mệnh danh là người kế thừa thiên mệnh một cách hợp pháp dẫn dắt dân
chúng, ở Châu Âu hay Ấn Độ, quyền lực của tôn giáo lớn đến mức chúng hình thành

được cả một hệ thống đẳng cấp vững chắc trong xã hội. Quyền được sống, quyền tự
do ngôn luận, tự do học hành… dường như là những thứ xa xỉ phẩm gói gọn trong
một bộ phận tầng lớp q tộc, hồn tồn khơng có quyền bình đẳng giới dành cho phụ
nữ. Song thực tế không phải lúc nào cũng diễn ra như giới cầm quyền mong muốn.
Cột mốc đầu tiên đánh giá sự phục hồi lại giá trị cao cả về nhân quyền có lẽ là tại
nước Anh khi mà Hiến chương Magna Carta (1215) 20 ra đời đánh dấu sự thắng lợi
của giới quí tộc trong việc hạn chế quyền lực tối thượng của nhà vua . Trong bản Hiến
chương còn bao gồm các điều khoản hạn chế sự lộng hành của các quan đại thần
trong triều đình, u cầu khơng bổ nhiệm vào các chức vụ quan trọng như Thẩm
phán, Chưởng lý những người không hiểu biết về pháp luật. Thắng lợi có ý nghĩa nhất
là tại Điều 39 Hiến chương có qui định khi áp dụng những hình thức trừng phạt đối
với những người tự do phải căn cứ vào bản án hợp pháp và bình đẳng theo đạo luật
của đất nước.

19

Tên gọi chế độ này do nhóm nghiên cứu tự đặt ra, theo các nhà nghiên cứu lịch sử, các nô lệ khi chạy trốn
sang Athen được cấp tư cách công dân tự do song họ bị hạn chế khá nhiều quyền, đặc biệt là quyền bầu cử.
20
/>
8


Thành cơng tiếp theo diễn ra trong thời kì Phục Hưng cũng tại Anh quốc khi ban bố
Thỉnh luật về quyền năm 1968 21 . Trong Thỉnh luật có qui định những nghĩa vụ mà
nhà vua phải làm để bảo vệ thần dân của mình khỏi sự lộng quyền của quan lại triều
đình. Nối tiếp đó là việc thơng qua đạo dụ 1969 qui định các thủ tục tố tụng bảo đảm
sự bất khả xâm phạm của cá nhân, nguyên tắc suy đốn vơ tội và những biện pháp bảo
vệ quyền của cá nhân. Dưới tác động như vũ bão của các trào lưu của bộ phận tư sản
đang lên, giai cấp phong kiến tiếp tục thỏa hiệp bằng cách thông qua và ban hành Luật

về các quyền năm 1689. Luật này nêu cao vai trị của nghị viện, khơng cho phép đình
chỉ hiệu lực các đạo luật, khơng cho phép thu thuế phục vụ cho nhà vua, không được
phép lập qn đội trong thời bình nếu khơng có sự cho phép của Nghị viện. Hơn thế
nữa, thành tựu quan trọng nhất mà đạo luật này đem lại trong việc tăng cường nhân
quyền chính là những qui định về tự do ngôn luận, tự do bầu cử vào Nghị viện, quyền
được khiếu kiện lên nhà vua 22. Đáng kể nhất là là những thành tựu tư tưởng mà “Văn
hóa Phục Hưng” tại Châu Âu với triết lí khơi phục Văn hóa Hy La cổ đại đã sản sinh
những nhà tư tưởng, nhà văn, nghệ sĩ… lớn đấu tranh chống lại ách áp bức của nhà
thờ Thiên chúa giáo, đề cao giá trị của con người và tự do cá nhân. Con người trong
Văn hóa Phục Hưng khơng cịn là đồ chơi của tầng lớp thống trị mà họ trở thành Mẫu
mực và thước đo lường của vạn vật. Chính những tư tưởng này đã trở thành tiền đề
cho cuộc đấu tranh bất tận đề cao nhân quyền của các cuộc cách mạng tư sản sau này.
2.3 Nhân quyền trong thời kì cận đại.
Tại châu Âu, sau giấc ngủ đơng dài của “Đêm trường trung cổ”, dưới sự phục hồi của
trào lưu văn hóa Phục hưng tại Châu Âu và sự phát triển như vũ cuả cuộc đại cách
mạng công nghiệp gắn với sự phát triển đang lên của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa,
hàng loạt tư tưởng mới về nhân quyền ra đời gắn liền với hàng loạt các nhà khoa học
xã hội nổi tiếng như Thomas Hobbes (1588-1679), Edward Coke (1552-1634), John
Locke (1632-1704), Montesquieu(Charles - Louis de Secondat de Montesquieu, 1689
– 1755)… Đặc biệt là vai trò của học thuyết “Khế ước xã hội” do Hobbes đề xướng
và sau này Locke hoàn thiện. Đối với Quyền con người , T. Hobbes nêu ra trong lý
luận về quá trình chuyển biến từ trạng thái tự nhiên sang trạng thái công dân, Locke
đã điều chỉnh theo tinh thần thể chế hóa quyền con người thành quyền cơng dân,
quyền được thừa nhận trong trạng thái tự nhiên thành quyền được hợp pháp hóa trong
nhà nước, hay trạng thái cơng dân, xã hội công dân 23. Tiếp nối thành công về mặt tư
tưởng cùng với sự phát triển không ngừng nghỉ của các cuộc đấu tranh của các phong
trào cách mạng tư sản, giai cấp tư sản lần đầu tiên đứng lên giành độc lập bằng cuộc
cách mạng của một nhà nước tư sản non trẻ nhất thế giới thời bấy giờ :”Hoa Kỳ”(The
21


Lê Minh Thơng. Quyền con người – q trình hình thành và phát triển.Tạp chí Nhà nước và pháp luật
,2/1998.
22
Lê Minh Thơng. Quyền con người – q trình hình thành và phát triển.Tạp chí Nhà nước và pháp luật
,2/1998.
23
PGS, TS. Đinh Ngọc Thạch.Từ Lốccơ và Mơngtéxkiơ –q trình hiện thực hóa quyền con người
và quyền cơng dân trong nhà nước pháp quyền. Hội thảo bảo vệ quyền con người trong pháp luật TTHS Đại
học Luật Tp.Hồ Chí Minh.

9


United States of America). Cùng lúc với sự ra đời của Liên bang Hợp Chúng Quốc
Hoa Kì là bản tuyên ngôn độc lập (1776) thể hiện những điểm chủ yếu của việc xây
dựng một xã hội dân chủ , khẳng định rõ những nguyên tắc chính trị và nhân quyền.
Trong tun ngơn độc lập đoạn mở đầu có viết “Sự thật hiển nhiên là mọi người sinh
ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa ban cho họ những quyền khơng ai có thể xâm
phạm được trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Để
đảm bảo những quyền này, các chính phủ phải do dân bầu ra, quyền lực là quyền lực
của nhân dân. Nếu chính phủ nào hủy hoại những mục tiêu này thì người dân có
quyền thay đổi hoặc lật đổ chính phủ và hình thành nên chính phủ mới, dựa trên
những ngun tắc và tổ chức quyền lực theo hình thức mà người dân cho là chắc chắn
sẽ đảm bảo được sự an toàn và hạnh phúc của họ.” 24 Bản tuyên ngơn ấy xuất hiện
như một ánh bình minh đầu tiên hé mở cho một thời đại mới của loài người. C.Mac
khi đánh giá văn kiện tuyên ngôn độc lập đầu tiên ấy cũng đã từng nhận xét “ Nước
Mỹ - đó là nơi đầu tiên xuất hiện một tư tưởng về nền Cộng hòa dân chủ vĩ đại, nơi
tuyên bố bản tuyên ngôn đầu tiên về quyền con người và đưa cú hích đầu tiên cho
cuộc cách mạng ở châu Âu thế kỉ XVIII”25. Tiếp sau thành công ấy là bản hiến pháp
thành văn đầu tiên của thế giới – bản Hiến Pháp Hoa Kỳ (1787). Tại điều 1 Hiến pháp

này khẳng định: “Chúng tôi, nhân dân Hợp chúng quốc Hoa Kỳ với mục đích xây
dựng một Liên Bang hồn hảo hơn nữa, thiết lập công lý, đảm bảo an ninh trong
nước, tạo dựng phòng thủ chung, thúc đẩy sự thịnh vượng trong toàn khối, giữ vững
nền tự do cho bản thân và con cháu chúng ta, quyết định xây dựng Hiến pháp này cho
Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ”26.Hiến pháp Hoa Kỳ không quy định những quyền tự
nhiên bất khả xâm phạm của con người, nhưng đến 1789 sau khi 10 tu chính án đầu
tiên của hiến pháp được thơng qua đã tạo thành đạo luật về các quyền và được phê
chuẩn vào năm 1791.
Thành công nối tiếp thành công, tại châu Âu, cuộc cách mạng tư sản Pháp (1789) đã
thông qua một tuyên ngôn bất hủ: “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền
(Déclaration des droits de l'Homme et du citoyen)”. Ngay tại điều 1 Tuyên ngôn này
khẳng định: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải ln ln
được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Sự phân biệt xã hội chỉ được phép thành lập
trên cơ sở nó đem lại lợi ích chung cho cả cộng đồng.” Bản Tuyên ngôn chịu ảnh
hưởng bởi học thuyết các quyền tự nhiên, các quyền con người là bình đẳng: có giá trị
tại mọi thời điểm và tại mọi không gian, gắn với bản chất con người. Dù văn bản này
thiết lập các quyền cơ bản cho tất cả công dân Pháp và tất cả con người khơng ngoại
lệ, nó khơng hề để cập đến vị trí của phụ nữ cũng như nơ lệ; dù vậy, nó vẫn là tiền
thân của các phương thức nhân quyền quốc tế 27. Trong suốt giai đoạn 1795 – 1830,
24

TÓM LƯỢC VỀ NHÂN QUYỀN .Ấn phẩm của Chương trình Thơng tin Quốc tế, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ,
tháng 3/2008.
25
C.Mac toàn tập.NXB Chính trị quốc gia 2002.
26
/>27
Lê Minh Thơng. Quyền con người – q trình hình thành và phát triển.Tạp chí Nhà nước và pháp luật
,2/1998.


10


đã có hơn 70 bản Hiến pháp ra đời có những luận điểm của Tuyên ngôn Nhân quyền
và Dân quyền được thông qua tại châu Âu.
2.4 Nhân quyền trong thời kì hiện đại.
Mở đầu cho thời kì lịch sử thế giới hiện đại là việc kết thúc thế chiên thứ nhất và sự ra
đời của nhà nước Liên Bang Xô Viết. Ngay từ bản hiến pháp đầu tiên của mình, Liên
Bang Xô Viết đã khẳng định quyền lao động, quyền học tập của người dân được đưa
lên hàng đầu. Sau này khi hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa được thành lập, trong
các bản hiến pháp cảu các nước xã hội chủ nghĩa khác tiếp tục khẳng định giá trị pháp
lí của các quyền xã hội, kinh tế, văn hóa của con người như quyền tự do lao động và
tìm kiếm việc làm, quyền bầu cử và ứng cử, quyền được bảo đảm xã hội, quyền được
nghỉ ngơi, quyền được bảo vệ bà mẹ, trẻ em, quyền được học tập, quyền tham gia vào
đời sống văn hóa, xã hội của xã hội. Các nước xã hội chủ nghĩa đi đầu là Liên Xô
luôn đấu tranh cho nhân quyền và đã đề xướng Công ước quốc tế về các quyền kinh tế
- xã hội và văn hóa song khơng được các nước tư bản đồng ý thông qua.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai dẫn đến việc giành độc lập của một loạt các nước
thuộc địa cũng tác động không nhỏ đến nhận thức của thế giới vè quyền con người.
Đáng nghi nhận nhất là bản Hiến Pháp đầu tiên của Việt Nam, một nước thuộc địa
nhỏ bé của Pháp ở bán đảo Đông Dương vừa giành độc lập, lần đầu tiên có ghi nhận
rất nhiều các quyền dành cho con người, trịn đó đặc biệt quyền bình đẳng nam nữ,
quyền tự do ứng cử, quyền tụ do cư trú, lập hội… dù những quyền đó phải đến sau
này mới được ghi nhận trong các văn kiện quốc tế quan trọng về quyền con người của
Liên Hiệp Quốc.28
Một bước tiến dài tiếp theo trong lịch sử phát triển của nhân quyền được xuất hiện khi
Liên Hiệp Quốc ra đời. Ngay từ ngày đầu thành lập, vấn đề về nhân quyền luôn dành
được mối quan tâm đặc biệt, Hiến chương Liên Hiệp Quốc đã dành nhiều đoạn, mục
khẳng định mục tiêu, quy định nghĩa vụ và trách nhiệm của Liên Hiệp Quốc trong
việc bảo vệ và thúc đẩy tôn trọng các quyền và quyền tự do cơ bản của con người.

Ngay trong Lời mở đầu, Hiến chương đã khẳng định: “ phòng ngừa cho những thế hệ
tương lai khỏi thảm hoạ chiến tranh, đã xảy ra hai bão lần trong đời chúng ta, gây cho
nhân loại đau thương không kể xiết, và khẳng định lại sự tin tưởng vào những quyền
cơ bản của con người, vào nhân phẩm và giá trị của con người, vào quyền bình đẳng
giữa nam và nữ và giữa các quốc gia lớn bé, và tạo mọi điều kiện cần thiết để giữ gìn
cơng lý và tôn trọng những nghĩa vụ do những hiệp ước và các nguồn khác do luật
quốc tế đặt ra, và khuyến khích sự tiến bộ xã hội và nâng cao điều kiện sống trong
một nền tự do rộng rãi hơn…”. Chỉ vài năm sau, vào ngày 10 tháng 12 năm 1948, Đại
Hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua và công bố Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền và
28

Những quyền cơ bản này được ghi nhận trong Hiến Pháp 1946 sớm hơn 2 năm sau khi công ước quốc tế về
các quyền chính trị dân sự văn hóa ra đời. Có thể xem đây là một bước tiến bộ đáng kể đối với một nước thuộc
địa non trẻ mới dành được độc lập.

11


lấy đó làm Ngày Nhân quyền hàng năm. Tun ngơn ra đời như một biểu tượng thắng
lợi về mặt chính trị mà nó cịn đại diện cho sự thắng lợi to lớn chủ nghĩa nhân đạo và
nhân văn trên toàn thế giới. Kể từ đây, quyền con người được pháp điển hố trong
một loạt Cơng ước quốc tế về nhân quyền. Hai mươi bốn Công ước quốc tế về nhân
quyền (và ngày càng nhiều hơn nữa ra đời), trong đó quan trọng nhất là 2 Công ước
1966 về các quyền dân sự, chính trị và về các quyền kinh tế, văn hoá, xã hội. Lần đầu
tiên "quyền tự quyết của các dân tộc kể cả quyền của họ được tự do sử dụng của cải
và nguồn tài nguyên thiên nhiên của mình" được đảm bảo trong 2 cơng ước nêu trên
(điều này trước đây không được nêu trong Tuyên ngôn nhân quyền). Đây là cơ sở
pháp lý quan trọng cho cuộc đấu tranh vì quyền tự quyết của các dân tộc, kể cả quyền
lựa chọn con đường phát triển cho chính họ. Q trình pháp điển hố và xây dựng các
Cơng ước về nhân quyền là q trình đấu tranh gay gắt giữa các thế lực phản động và

các lực lượng tiến bộ. Không chỉ xuất hiện về mặt văn bản, hàng loạt tổ chức đấu
tranh về nhân quyền cũng được ra đời vào thế kỉ XX và thập niên đầu thế kỉ XXI,
trong đó quan trọng nhất là tổ chức Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc (United
Nations Human Rights Council) được ra đời ngày 15 tháng 3 năm 2006 sau khi Đại
Hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua nghị quyết thành lập một tổ chức nhân quyền
mới, thay thế Ủy ban Nhân quyền Liên Hiệp Quốc. Tuy hoạt động của những tổ chức
này cịn mang tính hình thức, thậm chí chưa có một chế tài phù hợp (hiện mới chỉ có
Tịa án hình sự quốc tế chun xử các tội phạm chiến tranh, các tội phạm chống lại
hòa bình, lồi người…) song với xu thế quốc tế hóa ngày càng mở rộng, khoảng cách
giữa các quốc gia, các dân tộc đang dần xích lại gần nhau hơn thì nhân loại càng lúc
càng tôn trọng những giá trị nhân bản, đề cao quyền con người, xem nó như một trong
những tài sản quí nhất mà con người cần bảo vệ.
1.3.Khái niệm chung về quyền con người của bị can bị, bị cáo trong tố tụng hình
sự.
1.3.1.Khái niệm.
Như đã đề cập trong phần trong Chương I, quyền con người là những giá trị thiêng
liêng và cao quí dành cho mỗi con người và được thừa nhận và bảo vệ bởi một nhà
nước khi họ là công dân và luật pháp quốc tế. Song thực tế khi sống trong một nhà
nước, phần nào chế định về quyền công dân đã hạn chế bớt một phần các quyền của
họ. Đặc biệt, đặc biệt trong lĩnh vực tố tụng hình sự, cơng dân dễ dàng bị xâm phạm
các quyền của mình bởi các các cơ quan cơng quyền, Vì tính chất hoạt động của cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là nhân danh nhà nước và mang quyền
lực nhà nước, nên trong quan hệ của họ với bị can, bị cáo thì đây là quan hệ bất bình
đẳng. Vì vậy, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, giảm thiểu các
nguy cơ xâm phạm bất hợp pháp là mối quan tâm hàng đầu của pháp luật quốc tế về
bảo vệ quyền con người trong hoạt động tố tụng hình sự. Do đó,bảo vệ quyền con
người của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự là “ Bảo vệ các quyền tự do cơ bản của
con người, của công dân khi họ tham gia vào quá trình tố tụng với tư cách là bị can, bị
12



cáo. Các quyền này không chỉ được qui định trong các văn bản như Hiến Pháp và
Luật pháp của riêng mỗi quốc gia mà còn bằng cả Luật pháp quốc tế”. Pháp luật quốc
tế về quyền con người có những chuẩn mực tối thiểu đảm bảo các quyền và lợi ích
hợp pháp của cá nhân trong tố tụng hình sự được áp dụng trong phạm vi tồn cầu,
khơng kể hệ thống chính trị, trình độ phát triển kinh tế, xã hội. Hệ thống các chuẩn
mực tối thiểu về quyền con người trong tố tụng hình sự được quy định trong nhiều
văn kiện, đáng chú ý nhất là Tuyên ngôn nhân quyền thế giới năm 1948; Công ước
quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966; Những nguyên tắc cơ bản trong việc
đối xử với tù nhân; Công ước chống tra tấn, đối xử vô nhân đạo và hạ nhục con người
năm 1985 và một loạt các chuẩn mực tối thiểu khác như về vai trò của luật sư, các
quan chức thực thi pháp luật, cơ quan công tố; về tính độc lập của cơ quan tư pháp…
Các quy định trong các văn kiện trên tạo thành hệ thống các chuẩn mực tối thiểu về
quy tắc ứng xử của cơ quan và nhân viên thực thi pháp luật cũng như đảm bảo cho bị
can, bị cáo có các quyền pháp lý nhất định để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, giảm
thiểu các nguy cơ xâm hại bất hợp pháp từ các cơ quan thực thi pháp luật.
Các chuẩn mực pháp lý tối thiểu đảm bảo quyền con người trong hoạt động tố tụng
được quy định trong các văn bản pháp lý quốc tế đều dựa trên các ngun tắc có tính
chất nền tảng, xun suốt q trình tố tụng như: ngun tắc suy đốn vơ tội; ngun
tắc khơng phân biệt đối xử; ngun tắc bình đẳng; khơng bị tra tấn, nhục hình; nguyên
tắc đối xử nhân đạo và tơn trọng nhân phẩm (phẩm giá vốn có của con người)…Tại
Việt Nam, bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự được thể hiện ở nhiều khía
cạnh khác nhau, đó là bảo vệ thơng qua việc quy định các nguyên tắc cơ bản trong
Hiến pháp trong Tố tụng hình sự và bằng cả Pháp luật quốc tế thơng qua các công ước
mà Việt Nam gia nhập hoặc đã nội hóa vào pháp luật; bằng việc xác lập quyền của
chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật tố tụng hình sự; bằng việc xác định trách
nhiệm cơ quan tiến hành tố tụng; thông qua thủ tục, điều kiện áp dụng biện pháp ngăn
chặn; trình tự thủ tục điều tra, truy tố, xét xử. Đối với bị can, bị cáo, Bộ luật Tố tụng
hình sự đã giành nhiều quy định thể hiện sự tôn trọng quyền con người của bị cáo.
Các quy định này trải đều ở các chế định trong Bộ luật Tố tụng hình sự.

1.3.2. Đặc điểm:
- Về đối tượng cần bảo vệ : là đối tượng đặc biệt. Họ là những bị can, bị cáo tham gia
vào quá trình tố tụng ở các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
Những đối tượng này dễ dàng bị xâm hại do trong quá trình tham gia tố tụng, những
quyền con người của họ bị hạn chế một cách tối đa dưới tác động của các cơ quan tiến
hành tố tụng.
- Về phạm vi, nội dung cần bảo vệ : Có một điểm đáng lưu ý là do đặc điểm riêng,
Việt Nam chưa thể gia nhập hoàn toàn vào tất cả các công ước quốc tế về bảo vệ nhân
quyền, song khôn có nghĩa là chúng ta khơng tơn trọng và bảo vệ các quyền này. Do
đó mà đó là những quyền cơ bản của con người trước hết được ghi nhận trong các văn
13


bản pháp luật quốc tế được Liên Hiệp Quốc và cộng đồng quốc tế thông qua và thừa
nhận, những quyền đó được ghi nhận trong Hiến Pháp và pháp luật nước ta.
- Về khả năng bảo đảm quyền con người: chúng ta hồn tồn có khả năng làm tốt việc
bảo đảm quyền con người bằng một hệ thống các qui định pháp luật tương đối hồn
chỉnh và có sự theo dõi, kiểm tra, giám sát từ phía các cơ quan chức năng khác nhau.
-Về chủ thể có khả năng bảo đảm quyền con người: điều này phụ thuộc rất lớn vào
các chủ thể tham gia tố tụng, đặc biệt là về phía cơ quan nhà nước.
1.4.Quyền con người của của bị can bị cáo trong biện pháp tạm giam.
1.4.1.Sơ lược về quyền con người của bị can, bị cáo trong các biện pháp ngăn
chặn tạm giam.
Cùng với lịch sử phát triển của chế định quyền con người (nhân quyền) trong thời kì
hiện đại, nhân loại ngày càng quan tâm nhiều hơn đến những biện pháp tước đi quyền
tự do của con người, đặc biệt là biện pháp ngăn chặn tạm giam. Pháp luật quốc tế hiện
đại rất quan tâm đến vấn đề quyền của bị can, bị cáo những người bị áp dụng biện
pháp ngăn chặn tạm gian nhưng chưa được xét xử. Ở giai đoạn trước khi xét xử,
những người đang bị giam giữ chờ xét xử (bị can) là những người đang bị tình nghi có
hành vi phạm tội vì thế cơ quan có thẩm quyền áp dụng những biện pháp nghiệp vụ

để chứng minh hành vi phạm tội, và vì vậy, tuỳ trường hợp cụ thể họ có thể bị áp
dụng những biện pháp ngăn chặn nhất định. Tuy nhiên ở giai đoạn này, dù có đủ
chứng cứ để chứng minh họ phạm tội hay chưa, thì bị họ vẫn là người vô tội.
Theo các quy chuẩn quốc tế ở giai đoạn trước khi xét xử, người bị giam giữ chờ xét
xử có các quyền pháp lý sau đây:
Trước hết đó là: Quyền được coi là vơ tội và phải được đối xử như là người vô tội.
Đây là quyền pháp lý rất quan trọng, xuyên suốt quá trình tố tụng từ khi khi khởi tố
đến khi xét xử và bản án chưa có hiệu lực pháp luật. Nhận thức đầy đủ quyền này có ý
nghĩa quan trọng trong hoạt động điều tra, và đặc biệt quy định và áp dụng các hình
thức đối xử thích hợp với người bị giam giữ chờ xét xử. Vì thế Nguyên tắc 8, Tập hợp
các nguyên tắc về bảo vệ tất cả những người bị giam hay tù dưới bất kỳ hình thức nào
được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 9 tháng 12 năm 1988 theo Nghị
quyết số 43/173 quy định: “Những người đang bị giam phải được đối xử đúng với địa
vị chưa bị kết án của họ. Do vậy bất cứ khi nào có thể, họ phải được tách riêng khỏi
những người đang bị tù”29. Việc quyết định có giam giữ hay khơng giam giữ ở giai
đoạn này, các quy định quốc tế đều xác định tránh áp dụng biện pháp giam giữ. Và
nếu có áp dụng việc giam giữ trước khi xét xử phải được sử dụng như là biện pháp
cuối cùng trong tố tụng hình sự. heo Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu về đối xử với tù nhân

29

Quyền con người trong quản lý tư pháp,. Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội – 2000, tr 152

14


quy định những tù nhân chưa xét xử phải được hưởng chế độ đặc biệt mà những yêu
cầu căn bản của nó được thể hiện trong các nguyên tắc sau đây:
- Những tù nhân bị bắt giữ hay đang chờ xét xử phải được giam giữ riêng với tù nhân
đã tuyên án.

- Những tù nhân trẻ tuổi chưa xét xử phải được giam giữ riêng với những người lớn
tuổi và về nguyên tắc phải được giam giữ trong những nhà tù riêng.
- Những tù nhân chưa xét xử phải ngủ một mình trong những buồng riêng, có chú ý
đến phong tục địa phương khác nhau.
- Và trong chừng mực có thể, nếu muốn, có được các thức ăn từ bên ngoài chi bằng
tiền của họ, hoặc nhờ ban quản lý nhà tù hoặc qua gia đình hay bạn bè của họ. Nếu
khơng thì ban quản lý nhà tù phải cung cấp thức ăn cho họ.
- Tù nhân chưa xét xử phải được phép mặc quần áo của mình nếu nó sạch và phù hợp;
nếu tù nhân đó mặc quần áo tù, thì nó phải khác với quần áo cấp cho những tù nhân
đã tuyên án.
- Tù nhân chưa xét xử phải luôn được tạo cơ hội việc làm, nhưng không phải bị yêu
cầu làm việc. Nếu tù nhân đó lựa chọn làm việc thì người đó phải được trả cơng.
- Tù nhân chưa xét xử được phép kiếm mua những thứ như sách báo, tài liệu viết và
những phương tiện nghề nghiệp khác phù hợp với lợi ích của việc quản lý tư pháp và
an ninh, với trật tự của nhà tù, bằng tiền của tù nhân đó hay của một bên thứ ba.
- Tù nhân chưa xét xử được phép cho bác sĩ hay nha sĩ riêng của tù nhân đó khám và
điều trị nếu có cơ sở đề nghị chính đáng của người đó và nếu người đó có khả năng
chi trả bất kỳ những khoản chi phí nào phát sinh.
- Tù nhân chưa xét xử được phép thơng báo ngay cho gia đình tù nhân đó về việc bắt
giữ và phải có điều kiện hợp lý để giao tiếp với gia đình, bạn bè người đó, được tiếp
những cuộc tới thăm của họ và chỉ chịu sự hạn chế, giám sát nếu cần thiết vì lợi ích
của sự quản lý tư pháp và an ninh, của trật tự tốt của nhà tù.
- Tù nhân chưa xét xử được quyền có luật sư bào chữa và được thường xuyên tiếp xúc
với luật sư của mình; được phép tiếp đón các luật sư của mình. Cảnh sát và các cán bộ
nhân viên nhà tù có thể quan sát, chứ khơng được nghe những trao đổi giữa tù nhân
đó với luật sự.30
30

Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của LHQ về những biện pháp không giam giữ (Quy tắc Tôkiô), sđd, tr 135 và
trích trong Tường Duy Kiên,Chuẩn mực quốc tế về bảo đảm quyền con người trong hoạt động TTHS. Tạp chí

Nghề Luật số 5/2006

15


3.3.2. Sơ lược về quyền con người của bị can,bị cao khi bị áp dụng biện pháp
ngăn chặn tạm giam trong pháp luật Việt Nam.
Theo Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 Bị can, bị cáo là những người tham gia tố tụng.
Trong đó bị can là người đã bị khởi tố về mặt hình sự ( Điều 49 ) còn bị cáo là người
đã bị Tòa án đưa ra xét xử (Điều 50). Bắt người, tạm giữ, tạm giam người là những
biện pháp cưỡng chế cần thiết do các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án áp dụng
đối với bị can, bị cáo. Bắt người, tạm giữ, tạm giam người là các biện pháp ngăn chặn
nhằm hạn chế một số quyền của công dân, quyền con người của người bị bắt. Một số
trường hợp, có thể áp dụng cả đối với người chưa bị khởi tố (như người bị bắt trong
trường hợp phạm tội quả tang và trong trường hợp khẩn cấp) nhằm ngăn chặn những
hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp
luật hoặc có hành động cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi hành án. Mục
đích của các biện pháp này là để đảm bảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện
tốt chức năng, nhiệm vụ của mình trong cơng tác đấu tranh chống và phịng ngừa tội
phạm, đảm bảo trật tự pháp luật và pháp chế. Về nguyên tắc bị can khi bị áp dụng
biện pháp ngăn là những người chưa phải là tội phạm, kể cả bị cáo trong giai đoạn
kháng án nếu như bản án chưa chính thức được thi hành thì họ vẫn chưa phải là tội
phạm ( trừ tử tù bị tạm giam để chờ thi hành án). Các biện pháp ngăn chặn nhằm bảo
vệ các quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân , của nhà nước
nhưng khi áp dụng chúng cũng rất dễ tạo ra những ảnh hưởng tiêu cực đến quyền con
người, quyền và lợi ích hợp pháp của người bị áp dụng. Bởi vì, một số hoạt động tố
tụng có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền tự do, quyền bất khả xâm phạm về thân thể,
quyền được thông tin... của người bị bắt.
Xuất phát từ tầm quan trọng của việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân Điều
71 Hiến pháp 1992 quy định: “Cơng dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể,

được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm. Không ai bị
bắt nếu không có quyết định của Tồ án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm
sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng
pháp luật. Nghiêm cấm mọi hành vi truy bức, nhục hình xúc phạm danh dự, nhân
phẩm của cơng dân”. Điều 72 Hiến pháp 1992 cũng nhấn mạnh: “Người bị bắt, bị
giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật
chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố,
xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh”. Những quy định trên
của Hiến pháp nhằm ngăn ngừa sự vi phạm quyền con người, quyền bất khả xâm
phạm về thân thể, quyền được bảo vệ nhân phẩm, danh dự của cơng dân từ phía các
cơ quan, cán bộ nhà nước. Các quy định tại Điều 71 và Điều 72 cũng là cơ sở để xây
dựng Bộ Luật Tố tụng hình sự trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân
trong thực tiễn.

16


Chương 2 : NỘI DUNG ĐẢM BẢO QUYỀN CON NGƯỜI TRONG BIỆN
PHÁP TẠM GIAM
2.1 Đảm bảo quyền con người trong việc áp dụng căn cứ áp dụng biện pháp tạm
giam
Vì là biện pháp nghiêm trọng nhất của BLTTHS nên căn cứ áp dụng biện pháp tạm
giam có phạm vi hẹp hơn so với các biện pháp ngăn chặn khác. Tại Điều 88 Bộ luật tố
tụng hình sự thì căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam được quy định như sau:
“ 1 Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp sau đây :
Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm , phạm tội rất nghiêm trọng
Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng mà BLTTHS quy định
hình phạt tù trên 2 năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc
điều tra, truy tố, xét xử, hoặc có thể tiếp tục phạm tội”
Vậy việc áp dụng biện pháp tạm giam khi có căn cứ sau đây:

Căn cứ thứ nhất: Bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng, phạm tội đặc biệt nghiêm
trọng.
Bị can, bị cáo là những người tham gia tố tụng. Trong đó “bị can là người đã bị khởi
tố về mặt hình sự” 31 cịn “bị cáo là người đã bị Tòa án đưa ra xét xử”32.
Theo Điều 8 của BLHS. Tội rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã
hội mà mức cao nhất của tội ấy là đến mười năm năm năm tù. Tội đặc biệt nghiêm
trọng là tội gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của của khung hình
phạt đối với tội ấy là trên mười năm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Theo điều
luật thì chỉ cần xác định một người gây nguy hại lớn hoặc đặc biệt lớn cho xã hội thì
có thể áp dụng biện pháp tạm giam mà khơng cần các điều kiện khác như cản trở, gây
khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử, có khả năng tiếp tục phạm tội hoặc bỏ
trốn…Bởi vì theo tư duy của các nhà làm luật thì bản thân những người bị khởi tố về
tội nghiêm trong, tội đặc biệt nghiêm trọng khả năng xảy ra các điều kiện như trên là
rất lớn nhưng theo chúng tôi, sự đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội không thể
đồng nhất với khả năng họ sẽ gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử, khả năng
tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn. Mặc dù việc quy định như trên chỉ có tính chất lựa
chọn nhưng vơ hình chung nó đã dẫn đến tình trạng lạm dụng biện pháp tạm giam đối
với những người phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng, không cần biết
bị can, bị cáo có ý định cản trở điều tra, truy tố, xét xử hay khơng, khơng cần biết họ
có tiếp tục phạm tội hay không cứ bị truy tố về tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm
trọng thì sẽ bị tạm giam như vậy việc áp dụng biện pháp tạm giam như một biện pháp
nghiệp vụ của cơ quan điều tra đã đi ngược lại với mục đích, bản chất biện pháp tạm
giam-chỉ là biện pháp ngăn chặn.
31
32

Điều 49 BLTTHS năm 2003
Điều 50 BLTTHS năm 2003

17



Theo chúng tơi, việc xác định một người có thể gây cản trở cho việc điều tra, truy tố,
xét xử, có khả năng tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn…khơng chỉ căn cứ vào tính chất,
mức độ nguy hiểm của hành vi mà còn dựa vào các điều kiện khác nữa như nhân thân
bị can, bị cáo, thái độ của họ trong quá trình điều tra, truy tố (thành khẩn hay quanh
co, chối tội, những lần triệu tập có đến hay không)…
Căn cứ thứ hai : Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, ít nghiêm trọng mà BLHS sự
quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc
cản trở điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội
Theo Điều 8 BLHS tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho
xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội
phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của
khung hình phạt đối với tội ấy là bảy năm tù. Đối với những đối tượng này do tính
chất, mức độ nguy hại cho xã hội là không lớn nên việc áp dụng biện pháp ngăn chặn
đối với tội những đối tượng này cần phải xem xét thêm các điều kiện khác nữa . Đó là
đối với tội phạm gây hại không lớn cho xã hội thì quy định hình phạt từ hai năm trở
xuống thì khơng tạm giam bị can, bị cáo.
Bên cạnh đó đối với căn cứ thứ hai cũng chỉ ra rằng cần phải có thêm điều kiện nữa
mới tạm giam họ đó là phải có căn cứ bị can, bị cáo có thể trốn hoặc cản trở việc điều
tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
Căn cứ cho rằng bị can, bị cáo có thể trốn khơng được quy định trong luật tố tụng
hình sự và các văn bản hướng dẫn cụ thể. Tuy nhiên thực tiễn đấu tranh phòng chống
tội phạm đã được đúc kết những căn cứ chủ yếu cần dựa vào đó để xem xét là: Tình
trạng cư trú của bị can, bị cáo ( Có nơi cư trú rõ ràng khơng? Thường trú hay tạm trú?
Nếu là tạm trú thì dài hạn hay ngắn hạn? Có khai báo với chính quyền địa phương
khơng ? Nơi cứ trú có quá xa nơi tiến hành hoạt động tiến hành tố tụng hay khơng,
Tình trạng nghề nghiệp ( Có nghề nghiệp khơng? Làm việc trong cơ quan tổ chức hay
làm nghề tự do? ) Tính chất hành vi đã thực hiện ( cướp, trộm cắp, giết người hay lừa
đảo …Nhân thân ( tiền án, tiền sự, hồn cảnh gia đình, lịch sử bản thân …) sự ràng

buộc với gia đình, quê quán, cơ sở làm việc . Mối tương quan về lợi ích giữa việc bỏ
trốn hoặc việc chấp nhận bị xử lí trước pháp luật. Những biểu hiện cụ thể của bị can
như liêm hệ với người thân ở xa, mua vé đi xa…Việc đưa ra các căn cứ xác định bị
can, bị cáo có ý định bỏ trốn khỏi địa phương, lẩn trốn các Cơ quan tiến hành tố tụng
hay không cần phải linh hoạt, tùy từng trường hợp cụ thể mà áp dụng các căn cứ trên
cho phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm mặt khác để tạm giam
đúng đối tượng- một trong những phương diện bảo đảm quyền con người, quyền và
lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo.
Căn cứ cho rằng bị can, bị cáo cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử. Cản trở điều tra,
truy tố, xét xử được biểu hiện dưới những hình thức khác nhau như tiêu hủy chứng
cứ, làm giả con dấu tài liệu, làm giả hiện trường, bàn bạc với những người đồng phạm
khác về lờ khai, uy hiếp, mua chuộc người làm chứng, người bị hại hoặc các hình
thức khác…nhưng tựu chung lại việc cản trở, điều tra, truy tố, xét xử có thể làm cho
cơ quan tiến hành tố tụng gặp khó khăn, bất lợi trong quá trình tìm ra sự thật vụ án.
18


Việc xác định một người có khả năng gây cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử không
phải dễ dàng gì, nhất là trong giai đoạn điều tra, bởi vì các cơ quan tiến hành tố tụng
khơng phải đợi những hành vi cản trở việc điều tra, truy tố , xét xử mới tạm giam mà
cần phải ngăn chặn trước những hành vi cản trở trước khi có hậu quả xảy ra. Cũng
như căn cứ cho rằng bị can, bị cáo có thể trốn thì căn cứ bị can, bị cáo có thể cản trở
việc điều tra, truy tố, xét xử không được quy định trong luật nhưng từ thực tiễn đấu
tranh phịng chống tội phạm có thể xem những căn cứ sau để nhận định bị can, bị cáo
có thể cản trở việc tiến hành tố tụng thường là tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi. Như đã phân tích ở trên thì đối với bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm
trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng thì khơng cần có những điều kiện khác nữa nhưng
trong căn cứ thứ hai thì chỉ áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng,
phạm tội ít nghiêm trọng, vậy thì đối với những tội mà bị can, bị cáo phạm tội nghiêm
trọng thì khả năng chống đối đối với các cơ quan chức năng sẽ cao hơn so với các bị

can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng.
Về nhân thân người phạm tội cũng nói lên khả năng của bị can, bị cáo sẽ thực hiện
những hành vi nhằm che dấu, cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Đối với
những đối tượng đã có tiền án, tiền sự, lưu manh, cơn đồ thì thường sẽ có những biểu
hiện đe dọa người làm chứng, người bị hại để họ khai sai sự thật
Những biểu hiện rõ ràng cụ thể của bị can, bị cáo như tiêu hủy chứng cứ, tiêu thụ tài
sản do người phạm khác phạm tội mà có…Tuy nhiên những căn cứ này chỉ có tính
chất định tính, khơng thể tùy tiện suy đốn chủ quan, áp đặt ý chí của mình vào vụ
án.
Căn cứ cho rằng bị can, bị cáo có thể tiếp tục phạm tội. Tiếp tục phạm tội có thể hiểu
là thực hiện tội phạm đến cùng tội phạm đã được ngăn chặn hoặc tiếp tục tội phạm
mới . Khi có căn cứ nếu để họ ra ngoài xã hội họ sẽ tiếp tục phạm tội thì cơ quan có
thẩm quyền có quyền áp dụng biện pháp tạm giam đối với họ .Để nhận định đánh giá
bị can, bị cáo có khả năng tiếp tục phạm tội hay không chúng ta cần dựa vào rất nhiều
tình tiết và phân tích, tổng hợp chúng một cách tổng hợp. Trong Bộ luật tố tụng hình
sự khơng có hướng dẫn cụ thể về những dấu hiệu, căn cứ nhận biết liệu bị can, bị cáo
có thể tiếp tục phạm tội hay không nhưng từ thực tiễn đấu tranh phong chống tội
phạm chúng ta có thể rút ra những căn cứ sau chứng tỏ bị can, bị cáo có thể tiếp tục
phạm tội là:
- Tính chất tội phạm mà bị can, bị cáo đã thực hiện trước
- Nhân thân của bị can, bị cáo,thông thường những đối tượng căm thù chính quyền
nhân dân, những kẻ lưu manh, cơn đồ, tái phạm, tái phạm nguy hiểm, phạm tội có tính
chất chun nghiệp Thì nhiều khả năng bị can, bị cáo sẽ bỏ trốn hơn so với những tội
phạm khác.
- Những biểu hiện cụ thể của bị can, bị cáo như tiếp tục đi lại, gặp gỡ các đối tượng có
tiền án, tiền sự hoặc có hành vi đe doa, trả thù người bị hại, người làm chứng
Hiện nay có 2 quan điểm khác nhau về cách quy định tại Điều 88 Bộ luật tố tụng hình
sự:
19



Quan điểm thứ nhất cho rằng BLTTHS phải quy định cụ thể, rõ ràng, chặt chẽ các
căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam. Các quy định của BLTTHS càng cụ thể , càng
chi tiết bao nhiêu thì càng đảm bảo cho quyền con ngừời không bị xâm hại trái phép.
Quan điểm thứ hai cho rằng để đảm bảo cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử thì
phải áp dụng đa dạng các biện pháp ngăn chặn và không thể quy định cụ thể, chi tiết
từng trường hợp áp dụng bởi hoạt động đó diễn ra rất đa dạng và phức tạp, nếu quy
định chi tiết vơ tình đã “trói chân” các Cơ quan tiến hành tố tụng hình sự và gây khó
khn cho các Cơ quan này thực hiện nhiệm vụ.Chúng tơi cho rằng phải nhìn nhận vấn
đề một cách khách quan, toàn diện. Nhiệm vụ của BLTTHS là “ phát hiện chính xác,
nhanh chóng tội phạm và xử lí nghiêm minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để
lọt tội phạm, không làm oan người vô tội”33 Nếu cứng nhắc theo quan điểm thứ nhất,
chúng ta sẽ khơng tránh khỏi tình trạng bỏ sót tội phạm. Do đó BLTTHS cần quy định
một cách chặt chẽ nhưng mặt khác phải tạo cơ sở quyết định việc áp dụng biện pháp
ngăn chặn tạm giam nói riêng, biện pháp ngăn chặn nói chung một cách linh hoạt.
Điều này hồn toàn phù hợp với yêu cầu của việc thực hiện nhiệm vụ của BLTTHS
đã đặt ra trong giai đoạn hiện nay.Tất nhiên sẽ là sai lầm nếu chúng ta quy định một
cách q chung chung, hồn tồn theo suy đốn chủ quan của người tiến hành tố
tụng. BLTTHS phải quy định một cách chặt chẽ, đặc biệt là quy định của Cơ quan
tiến hành tố tụng.
Ngoài hai trường hợp tạm giam đối với bị can, bị cáo như trên, BLTTHS còn quy
định việc áp dụng tạm giam đối với những đối tượng đặc biệt, đó là phụ nữ có thai
hoặc đang nuôi con bú dưới 36 tháng tuổi , người già yếu hoặc người bị bệnh nặng…
- Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc ni con dưới ba sáu tháng tuổi, là
người già yếu , người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì khơng tạm giam mà áp
dụng các biện pháp ngăn chặn khác, trừ những trường hợp sau đây:
“Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã.
Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc
cố ý cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử.
Bị can, bị cáo phạm tội xâm nguy hại đến an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng

nếu khơng tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.”34
Đây là những quy định thể hiện sách khoan hồng, nhân đạo, quan tâm của nhà nước ta
đối với những người phụ nữ đang phải mang thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi ,
người già yếu, người bị bệnh nặng. Cụ thể khi thỏa mãn những dấu hiệu quy định tại
khoản 1 điều 88 nhưng không áp dụng biện pháp tạm giam đối với những đối tượng
này khi họ có nơi cư trú rõ ràng thì có thể khơng hoặc áp dụng những biện pháp ngăn
chặn khác. Bởi vì những người người này khi áp dụng biện pháp tạm giam đối với họ
dễ có những tổn thương về tâm lí, sức khỏe…Mặc dù vậy nếu họ cố tình vi phạm, đi
ngược lại với chính sách của Nhà nước, lợi ích của chính bản thân họ thì việc áp dụng
33
34

Điều 1 BLTTHS năm 2003
Khoản 2 Điều 88 BLTTHS

20


biện pháp tạm giam là cần thiết, tuy nhiên việc quy định không rõ ràng của điều luật
đã làm cho những quy định trở thành những điều luật chết... Cụ thể hiện nay BLTTHS
cũng như các văn bản liên quan chưa giải thích cụ thể người già yếu là người bao
nhiêu tuổi, người đang bị bệnh nặng sẽ được cơ quan nào xác minh…Đây là một
trong những khiếm khuyết của pháp luật tố tụng hình sự mà trong tương lai chúng ta
cần sửa đổi, bổ sung cho phù hợp để những quy định tiến bộ như thế này được phát
huy trong thực tế.
- Căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam trong các giai đoạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm
và giám đốc thẩm.
Hoạt động tố tụng bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau và xét xử là một giai đoạn
quan trọng trong những giai đoạn ấy. Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối
với từng bị can, bị cáo tùy vào từng giai đoạn mà người đó có thẩm quyền áp dụng

biện pháp ngăn chặn này một cách tương ứng,phù hợp.
Khi chuẩn bị xét xử sơ thẩm, thẩm phán chủ tọa phiên tòa sẽ tiến hành việc nghiên
cứu hồ sơ do Viện kiểm sát chuyển sang. Trong thời gian này Tòa án phải tiến hành
nghiên cứu hồ sơ đề ra một trong ba phương án đó là đưa vụ án ra xét xử, trả hồ sơ
điều tra bổ sung,đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. Để ra quyết định đúng đắn khi
nghiên cứu hồ sơ người có thẩm quyền phải làm rõ những vấn đề như thẩm quyền xét
xử của Tòa án, chứng cứ, tang vật trong vụ án đã đầy đủ, thuyết phục chưa, có căn cứ
để đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án khơng, có cần áp dụng, hủy bỏ các biện pháp ngăn
chặn không.....Trong giai đoạn này thẩm phán được phân công chủ tọa phiên Tịa có
quyền áp dụng hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, trừ việc áp dụng thay đổi, hủy bỏ biện
pháp tạm giam do Chánh án hoặc Phó Chánh án Tòa ra quyết định theo quy định tại
Điều 177 BLTTHS. Bên cạnh đó,đối với bị cáo đang bị tạm giam mà đến ngày mở
phiên tòa mà thời hạn tạm giam đã hết, nếu xét thấy cần tiếp tục tạm giam để hồn
thành việc xét xử thì tịa án ra lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc phiên tịa. Ngồi ra
nếu bị cáo đã bị tuyên phạm tội và xử hình phạt tù nhưng khơng được hưởng án treo
và thời hạn hình phạt tù vẫn cịn sau khi đã trừ vào thời hạn tạm giam trước đó. Trong
trường hợp này bị cáo sẽ bị tạm giam để bảo đảm cho việc thi hành án nếu như thời
hạn tạm giam đã hết tại thời điểm kết thúc phiên tòa. Và giả sử bị cáo đang tại ngọaI
thì cũng có thể bị tạm giam khi có căn cứ chứng tỏ bi cáo có thể trốn hoặc tiếp tục
phạm tội. Quy định này tạo sự đảm bảo cho sự có mặt của bị cáo khi bản án có hiệu
lực pháp luật, phải chấp hành án.
Hội đồng xét xử sơ thẩm có thẩm quyền quyết định tạm giam bị cáo nếu thấy cần
thiết để đảm bảo cho quá trình xét xử và sau khi tuyên an để đảm bảo cho việc chấp
hành án phạt tù. Bị cáo có thể bị áp dụng biện pháp tạm giam trong thời gian tòa án
cấp phúc thẩm xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị sau khi nhận hồ sơ vụ án cho
đến ngày mở phiên tòa phúc thẩm nếu tòa án cấp phúc thẩm thấy cần thiết và có đủ
căn cứ luật định. Hoặc bị cáo có thể tiếp tục bị tạm giam khi đang bị tạm giam cho
đến ngày mở phiên tòa , thời hạn này đã hết mà việc tiếp tục bị cáo là cần thiết để
hoàn thành việc xét xử. Trong khi chuẩn bị xét xử phiên tòa việc áp dụng, thay đổi,
hủy bỏ biện pháp tạm giam do Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh ,

21


×