Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Giới hạn của việc xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (920.64 KB, 73 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
KHOA LUẬT HÌNH SỰ



NGUYỄN THỊ PHƢƠNG YẾN
MSSV: 0855030104

GIỚI HẠN CỦA VIỆC XÉT XỬ SƠ THẨM
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

KHĨA LUẬN CỬ NHÂN LUẬT
Niên Khóa: 2008 - 2012

Ngƣời Hƣớng Dẫn: TS. LƢƠNG THỊ MỸ QUỲNH

Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2012

1


LỜI CÁM ƠN

Trước tiên, em xin gửi lời cám ơn sâu sắc đến cô Lương Thị Mỹ Quỳnh, người
đã tận tình hướng dẫn em trong suốt quá trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp, cơ đã
cung cấp cho em nhiều kiến thức, ln định hướng, góp ý và sửa chữa những chỗ
sai. Cho đến nay, luận văn tốt nghiệp của em đã hồn thành, đó cũng chính là nhờ
sự hướng dẫn tận tình đó của cơ.
Em xin chân thành cám ơn quý thầy cô trường đại học Luật TP.HCM đã tận
tình giảng dạy em trong suốt bốn năm học qua. Chính những thầy cơ đã xây dựng


cho em kiến thức để em có thể hồn thành luận văn này và giúp em vững bước
trong tương lai.
Mình xin cám ơn đến tất cả những người bạn đã ln giúp đỡ mình trong q
trình nghiên cứu hồn thành khóa luận này.
Cuối cùng, con xin gửi lời cám ơn sâu sắc đến cha mẹ, anh hai, những người
thân trong gia đình đã ln bên cạnh ủng hộ, động viên con, cho con những lời
khuyên tốt nhất.
Tôi thực sự biết ơn tất cả mọi người!

2


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

TAND

Tịa án nhân dân

TANDTC

Tịa án nhân dân tối cao

TP.HCM


Thành phố Hồ Chí Minh

TTHS

Tố tụng hình sự

TP.HCM

Thành phố Hồ Chí Minh

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

VKS

Viện kiểm sát

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

3



MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN GIỚI HẠN
CỦA VIỆC XÉT XỬ SƠ THẨM TRONG TTHS VIỆT NAM
1.1.Khái niệm giới hạn của việc xét xử sơ thẩm trong TTHS Việt Nam.............. 1
1.1.1.Khái niệm giới hạn của việc xét xử ................................................................. 1
1.1.2.Khái niệm giới hạn của việc xét xử sơ thẩm trong TTHS Việt Nam........... 3
1.2.Cơ sở của việc quy định giới hạn của việc xét xử sơ thẩm trong TTHS Việt
Nam............................................................................................................................. 8
1.2.1.Bản chất của TTHS và mối quan hệ giữa Tòa án và VKS ........................... 8
1.2.2.Phƣơng pháp điều chỉnh mối quan hệ giữa Tòa án và VKS ........................ 9
1.2.3. Nguyên tắc chung chi phối mối quan hệ giữa Tòa án và VKS ................. 12
1.3.Lịch sử hình thành và phát triển của chế định giới hạn của việc xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự trong TTHS Việt Nam .......................................................... 19
1.3.1. Giai đoạn phong kiến đến trƣớc năm 1945................................................. 19
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến trƣớc năm 1988 .............................................. 20
1.3.3. Giai đoạn 1988 đến nay................................................................................. 22
1.4. Quy định của một số nƣớc trên thế giới về giới hạn của việc xét xử sơ thẩm
trong TTHS .............................................................................................................. 28
CHƢƠNG 2.THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH GIỚI HẠN CỦA VIỆC
XÉT XỬ SƠ THẨM TRONG TTHS VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
2.1. Thực tiễn áp dụng quy định giới hạn xét xử sơ thẩm trong TTHS Việt
Nam........................................................................................................................... 33
2.1.1. Những kết quả đạt đƣợc trong thực tiễn áp dụng Điều 196 BLTTHS năm
2003 ........................................................................................................................... 33
2.1.2. Những hạn chế trong việc quy định và áp dụng chế định giới hạn xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự ............................................................................................. 40
2.1.2.1. Những hạn chế về quy định pháp luật hiện hành ..................................... 40
2.1.2.2. Những hạn chế trong thực tiễn áp dụng pháp luật ................................... 48


4


2.2. Một số ý kiến đề xuất hoàn thiện chế định giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự ...................................................................................................................... 54
2.2.1. Về mặt lý luận ................................................................................................ 54
2.2.2. Về mặt thực định ........................................................................................... 56
PHẦN KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

5


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bất cứ một vụ án hình sự nào nếu đã đưa ra xét xử cũng đều trải qua giai đoạn
xét xử sơ thẩm. Đây là một giai đoạn quan trọng của TTHS vì theo quy định tại
Điều 72 Hiến pháp 1992 quy định: “Khơng ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt
khi chưa có bản án kết tội của Tồ án đã có hiệu lực pháp luật.” Việc kết luận một
người phạm tội để buộc tội họ phải chịu hình phạt, làm hạn chế quyền cơ bản, thậm
chí tước đi mạng sống của họ là một điều vô cùng hệ trọng. Do đó, khi xét xử để
cho ra một bản án, một quyết định đảm bảo công bằng, đúng người đúng tội, đúng
pháp luật, Tòa án phải căn cứ vào nhiều yếu tố như kết quả tranh tụng tại phiên toà,
trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của KSV, của người bào
chữa, bị cáo, nhân chứng, và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa. Nghị
quyết số 08-NQ/TW ngày 02-01-2002 của Bộ Chính Trị về “Một số nhiệm vụ trọng
tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” cũng đã khẳng định:”Việc phán quyết của
Toà án phải căn cứ căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở
xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của KSV, của người bào chữa, bị
cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để

ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn
pháp luật quy định”.
Tuy nhiên, hiện nay nhiều thẩm phán đã khẳng định rằng: trong công tác xét
xử nhiều khi phải tuyên những bản án chưa tương xứng với hành vi phạm tội của bị
cáo, để lọt tội phạm chỉ vì “giới hạn của việc xét xử sơ thẩm” – chỉ được xét xử
những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà VKS truy tố và Tòa án đã quyết
định đưa ra xét xử. Và trong thực tiễn xét xử hiện nay, đã xảy ra nhiều sai phạm dẫn
đến việc phải hủy án để điều tra xét xử lại từ đầu. Ngay cả trong lý luận, quy định
về giới hạn của việc xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự đã gây ra nhiều tranh cãi,
nhiều vướng mắc và hạn chế ảnh hưởng đến việc áp dụng pháp luật, làm cho pháp
luật được ban hành nhưng khơng có tính khả thi. Trong bài viết “Cần sửa đổi quy
định giới hạn việc xét xử trong BLTTHS hiện hành”, tạp chí kiểm sát số 9/1999, tác

6


giả Nguyễn Đức Lương có nói: “Những bản án thuộc trường hợp này tuy có đúng
người, nhưng khơng đúng tội, khơng đúng pháp luật, khơng được quần chúng đồng
tình ủng hộ và khơng có tác dụng giáo dục”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Giới hạn của việc xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự đang là một vấn đề
gây nhiều tranh cãi hiện nay. Tác giả Trần Văn Độ đã khẳng định: “Đây là một
trong những vấn đề phức tạp và gây tranh luận nhất không những về mặt lý luận
mà cả trong thực tiễn TTHS hiện nay ở nước ta”[8-tr.1]. Trong nhiều năm qua, đã
có nhiều cuộc hội thảo, nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu về vấn đề này, cũng
như đã có rất nhiều tác giả viết bài đăng trên các tạp chí thể hiện quan điểm của
mình, có người ủng hộ, có người khơng đồng tình với quy định giới hạn của việc
xét xử sơ thẩm trong TTHS nước ta. Đại diện cho quan điểm ủng hộ là các tác giả:
Nguyễn Văn Tuân, Nguyễn Duy Hưng, Đỗ Thị Ngọc Tuyết,… Mặc dù vậy, vẫn có
một số các tác giả không tán thành quan điểm này, ví dụ như: Phạm Hồng Hải,

Nguyễn Hữu Chính, Nguyễn Nơng, Nguyễn Thái Phúc, Đinh Văn Quế,… Như vậy,
đã khơng có sự thống nhất trong cách hiểu về vấn đề này.
Do vậy, việc nghiên cứu đề tài “giới hạn xét xử sơ thẩm trong TTHS” có ý nghĩa
quan trọng trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện nay ở nước ta.
3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu một cách có hệ thống và khá tồn diện về
giới hạn xét xử sơ thẩm trong TTHS cả về lý luận, pháp lý và thực tiễn, tác giả đã
chỉ ra những vướng mắc và bất cập về lý luận cũng như trong thực tiễn áp dụng. Từ
đó, đề xuất một số kiến nghị góp phần hồn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu
quả hoạt động xét xử của Tòa án.
Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ đặt ra cho việc nghiên cứu đề
tài này là:
- Tìm hiểu khái niệm, cơ sơ hình thành giới hạn của việc xét xử sơ thẩm
trong TTHS Việt Nam;

7


-

Lịch sử hình thành và phát triển của chế định giới hạn của việc xét xử sơ

thẩm vụ án hình sự trong TTHS Việt Nam;
- Tìm hiểu quy định giới hạn của việc xét xử sơ thẩm trong pháp luật
TTHS của một số nước để phần nào hoàn thiện pháp luật trong nước;
- Tìm hiểu, phân tích thực trạng áp dụng quy định về giới hạn của việc xét
xử sơ thẩm trong TTHS Việt Nam, sau đó chỉ ra những vướng mắc, những bất cập;
- Đề ra một số kiến nghị nhằm góp phần hồn thiện hệ thống pháp luật,
nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử của Tòa án.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu đề tài

Trong việc nghiên cứu đề tài này, tác giả đã sử dụng phương pháp duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử của triết học Mác – Lênin, tư trưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước và Pháp luật.
Ngồi ra, tác giả cịn sử dụng các phương pháp khác như: phương pháp so
sánh, tổng hợp, phân tích, chứng minh,…
5. Ý nghĩa của việc nghiên cứu
Về mặt lý luận: Qua việc nghiên cứu một cách khá toàn diện, luận văn đã làm
sáng tỏ những vấn đề lý luận chung và thực tiễn áp dụng quy định giới hạn của việc
xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam. Từ đó, giúp nhận thức đúng đắn
hơn về vấn đề này.
Về mặt thực tiễn:
- Là tài liệu tham khảo cho tất cả những ai quan tâm nghiên cứu về đề tài
này.
- Qua các kiến nghị đã đưa ra, luận văn góp phần hồn thiện hệ thống pháp
luật, nâng cao vai trị cũng như tính khả thi của pháp luật.
6. Cơ cấu của luận văn
Mục lục;
Phần mở đầu;
Nội dung bao gồm hai chương:

8


- Chương 1: Những vấn đề lý luận có liên quan đến giới hạn của việc xét
xử sơ thẩm trong TTHS Việt Nam.
- Chương 2: Thực tiễn áp dụng quy định giới hạn của việc xét xử sơ thẩm
trong TTHS Việt Nam và một số kiến nghị.
Phần kết luận;
Danh mục tài liệu tham khảo.


9


CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN GIỚI HẠN
CỦA XÉT XỬ SƠ THẨM TRONG TTHS VIỆT NAM
Để hiểu một cách chính xác, tồn diện vấn đề giới hạn của việc xét xử sơ
thẩm trong TTHS Việt Nam, Chương 1 sẽ tìm hiểu các nội dung sau: Khái niệm
giới hạn của việc xét xử sơ thẩm trong TTHS Việt Nam; Cơ sở hình thành quy định
về giới hạn này; Lịch sử hình thành và phát triển của chế định giới hạn của việc xét
xử vụ án hình sự trong TTHS Việt Nam; Và tìm hiểu quy định của một số nước trên
thế giới về giới hạn của việc xét xử sơ thẩm trong TTHS.
1.1. Khái niệm giới hạn của việc xét xử sơ thẩm trong TTHS Việt Nam
1.1.1. Khái niệm giới hạn của việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Theo từ điển Tiếng Việt, giới hạn là “phạm vi được quy định, không thể vượt
qua”[29-tr.646].
Thuật ngữ “xét xử” có nghĩa là “hoạt động xem xét, đánh giá bản chất pháp
lý của vụ việc nhằm đưa ra một phán xét về tính chất, mức độ pháp lý của vụ việc,
từ đó nhân danh Nhà nước đưa ra một phán quyết tương ứng với bản chất, mức độ
trái hay không trái pháp luật của vụ việc (xét xử vụ án hình sự, dân sự, kinh doanh,
thương mại, lao động, hành chính,…)”[28-tr.869]. Xét xử là chức năng đặc thù
riêng của Tòa án. Lịch sử Nhà nước và pháp luật Việt Nam trong các Hiến pháp và
các Luật tổ chức TAND đều khẳng định: Tòa án là cơ quan duy nhất có chức năng
xét xử. Chức năng xét xử là chức năng của Tòa án trong lĩnh vực tố tụng, trong đó
có TTHS, gồm hai cấp xét xử, đó là cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm. Trong đó, xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự là hoạt động Nhà nước do Toà án thực hiện ở cấp xét xử
thứ nhất nhằm xem xét, đánh giá toàn diện các chứng cứ, các tài liệu của vụ án hình
sự, trên cơ sở đó ra bản án, quyết định xác định có hành vi phạm tội hay không,
người thực hiện hành vi phạm tội, hình phạt được áp dụng đối với người đã thực
hiện hành vi phạm tội và giải quyết các vấn đề khác có liên quan trong vụ án hình
sự. Trình tự giải quyết một vụ án hình sự trải qua nhiều giai đoạn như khởi tố, điều

tra, truy tố, xét xử, thi hành án, trong đó xét xử sơ thẩm chính là thủ tục đầu tiên sau
khi có quyết định truy tố của VKS và là giai đoạn bắt buộc đối với bất kỳ một vụ án

10


hình sự nào nếu Tịa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử trên cơ sở truy tố của
VKS. Điều này khác với thủ tục xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm hay tái thẩm, bởi
Tòa án chỉ có thể tiến hành các thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm sau khi
đã qua xét xử sơ thẩm. Và trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thì việc tồn
tại mối quan hệ giữa Tòa án và VKS là điều rất cần thiết. Giới hạn của việc xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự xuất phát từ mối quan hệ này.
Như vậy, từ những phân tích trên ta có thể hiểu, giới hạn của việc xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự là giới hạn mà Tòa án ở cấp sơ thẩm khi thực hiện chức năng
xét xử của mình phải tuân theo. Giới hạn này là giới hạn ở nội dung truy tố của
VKS, nghĩa là Tòa án chỉ được xét xử trong phạm vi truy tố của VKS, không được
vượt quá giới hạn đó.
Tuy nhiên, giữa quy định của pháp luật với khoa học pháp lý vẫn còn tồn tại
nhiều quan điểm chưa thống nhất về giới hạn của việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự,
cụ thể là hiện nay có quan điểm cho rằng giới hạn này bao gồm cả phạm vi, thẩm
quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án.
-

Thạc sĩ Đinh Văn Quế cho rằng: “Quy định tại Điều 196 BLTTHS

2003 là giới hạn của việc xét xử hiểu theo nghĩa hẹp và cũng chủ yếu đối với Tồ án
cấp sơ thẩm. Hiểu theo nghĩa rộng thì giới hạn của việc xét xử sơ thẩm không chỉ
bao gồm nội dung của Điều 196 BLTTHS 2003, mà còn bao gồm cả nội dung về
phạm vi, thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Toà án các cấp theo quy định của
BLTTHS”[19-tr.26].

-

Một tác giả khác cho rằng: “Khái niệm giới hạn xét xử là một khái

niệm rất trừu tượng và nội dung của khái niệm này hàm chứa không chỉ phạm vi
những người phạm tội, những hành vi phạm tội, những tội danh mà Tòa án được
quyền xét xử tại phiên tòa. Nội dung của khái niệm “giới hạn xét xử” còn bao hàm
thẩm quyền xét xử, quyền hạn của Tòa án về các trường hợp thay đổi tội danh tại
phiên tòa…”[13-tr18].
Theo tác giả, giới hạn của việc xét xử sơ thẩm khác với thẩm quyền xét xử sơ
thẩm của Tòa án. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là “tổng hợp các dấu

11


hiệu của một vụ án hình sự mà dựa vào đó có thể xác định được Tịa án này hay Tịa
án khác có quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đó”[21-tr.292]. Thẩm quyền xét xử
sơ thẩm của Tịa án gồm: thẩm quyền xét xử theo sự việc; thẩm quyền xét xử theo
đối tượng và thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ. Ví dụ như thẩm quyền xét xử theo
lãnh thổ của TAND quận 1 TP.HCM cho ta thấy chức năng xét xử của Tòa án này
với tư cách là Tịa án cấp sơ thẩm về hình sự bị giới hạn trong phạm vi đơn vị hành
chính – lãnh thổ của quận 1. Tịa án này khơng có thẩm quyền xét xử các vụ án hình
sự xảy ra trên địa bàn đơn vị hành chính – lãnh thổ khác. Như vậy, thẩm quyền xét
xử sơ thẩm của Tòa án là xác định được Tòa án này hay Tòa án khác có quyền xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự. Còn giới hạn của việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là
xác định giới hạn thực hiện chức năng xét xử của Tòa án ở cấp xét xử sơ thẩm trong
một vụ án hình sự cụ thể và giới hạn đó chính là phạm vi truy tố của VKS trong vụ
án đó gồm số lượng bị cáo bị truy tố, hành vi bị truy tố, tội danh mà VKS viện dẫn
khi truy tố.
Do đó, giới hạn của việc xét xử sơ thẩm trong TTHS là giới hạn của Tòa án

cấp sơ thẩm đối với nội dung truy tố của VKS. Nghĩa là Tòa án chỉ được xét xử
trong phạm vi truy tố của VKS, không được vượt quá giới hạn đó, giới hạn này
khơng bao gồm cả nội dung về thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Toà án các cấp theo
quy định của BLTTHS như ý kiến của một số tác giả.
1.1.2. Khái niệm giới hạn của việc xét xử sơ thẩm trong TTHS Việt Nam
Khái niệm giới hạn của việc xét xử sơ thẩm trong TTHS Việt Nam được quy
định tại Điều 196 BLTTHS 2003: “Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành
vi theo tội danh mà VKS truy tố và Tòa án đã quyết định đưa ra xét xử. Tồ án có
thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà VKS đã truy tố trong cùng một
điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà VKS đã truy tố”.
Giới hạn của việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là giới hạn ở nội dung truy tố
của VKS. Điều 196 BLTTHS 2003 đã xác định nội dung truy tố của VKS gồm: số
lượng bị cáo bị truy tố, hành vi bị truy tố, tội danh mà VKS viện dẫn khi truy tố và
theo đó:

12


-

Tòa án chỉ xét xử những bị cáo mà VKS đã truy tố;

-

Tòa án chỉ xét xử những hành vi mà VKS truy tố;

-

Tòa án xét xử theo tội danh mà VKS đã truy tố, không được xét xử tội


danh nặng hơn tội danh mà VKS đã truy tố nhưng Tồ án có thể xét xử bị cáo theo
khoản khác với khoản mà VKS đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội
khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà VKS đã truy tố.
-

Những bị cáo, những hành vi và tội danh đó phải do VKS truy tố và

tịa án có quyết định đưa ra xét xử.
Tịa án Việt Nam được tổ chức thành hai cấp xét xử, đó là cấp sơ thẩm và
cấp phúc thẩm. Thực hiện chế độ hai cấp xét xử này cũng là một trong những
nguyên tắc quan trọng trong TTHS Việt Nam, là biểu hiện của dân chủ và tiến bộ
trong TTHS. Nguyên tắc này được quy định ở điều 20 BLTTHS 2003. Mục đích
của việc thực hiện nguyên tắc này là nhằm đảm bảo việc xét xử đúng pháp luật; bảo
vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác;
đồng thời giúp cho ngành Tòa án sửa chữa được những sai lầm của Tịa án cấp dưới
trong q trình giải quyết vụ án hình sự, trực tiếp thực hiện sự giám sát của Tòa án
cấp trên đối với hoạt động xét xử của Tịa án cấp dưới.
Cấp sơ thẩm tiến hành trình tự, thủ tục giải quyết vụ án hình sự lần thứ nhất.
Tất cả các vụ án nếu đưa ra xét xử thì đều phải tiến hành qua cấp sơ thẩm. Đây là
thủ tục đầu tiên và bắt buộc, Tòa án chỉ có thể tiến hành các thủ tục phúc thẩm,
giám đốc thẩm, tái thẩm sau khi đã xét xử sơ thẩm. Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm,
mọi tài liệu, chứng cứ của vụ án do cơ quan điều tra, VKS thu thập được trong quá
trình giải quyết vụ án được đưa ra xét xử công khai, nội dung của vụ án được giải
quyết một cách toàn diện, bảo đảm quyền và lợi ích của những người có liên quan
trong vụ án, từ đó bảo vệ quyền lợi của Nhà nước. Mặc dù cấp sơ thẩm là cấp xét
xử đầu tiên nhưng được xác định như một giai đoạn kết thúc của quá trình giải
quyết vụ án hình sự. Tất cả những vấn đề thuộc nội dung vụ án đều được hội đồng
xét xử xem xét và giải quyết trong bản án, bao gồm những vấn đề liên quan đến bị
cáo như: bị cáo có phạm tội hay khơng, phạm tội gì, hình phạt như thế nào,… và


13


những vấn đề thuộc trách nhiệm dân sự liên quan đến tài sản hoặc vấn đề xử lý vật
chứng, án phí,… Cấp sơ thẩm là cấp xét xử có ý nghĩa quan trọng trong quá trình
giải quyết vụ án hình sự. Lý luận và thực tiễn đều cho thấy, nếu cấp sơ thẩm xét xử
chính xác, nghiêm túc thì bản án sẽ ít bị kháng cáo hoặc kháng nghị theo thủ tục
phúc thẩm, từ đó vụ án sẽ khơng bị kéo dài, ngược lại, nếu bản án bị kháng cáo
hoặc kháng nghị để xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm thì cũng khơng mất nhiều
cơng sức, thời gian và tiền của của Nhà nước cũng như của những người tham gia tố
tụng.
Cấp phúc thẩm tiến hành trình tự, thủ tục giải quyết vụ án hình sự lần thứ
hai, đây không phải là cấp xét xử đương nhiên và bắt buộc với mọi vụ án hình sự.
Cấp phúc thẩm chỉ phát sinh khi có kháng cáo, kháng nghị theo đúng trình tự, thủ
tục do pháp luật TTHS quy định. Pháp luật quy định có cấp phúc thẩm là xuất phát
từ việc tơn trọng và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố
tụng, mặt khác là xuất phát từ việc các phán quyết của Tòa án trước khi có hiệu lực
pháp luật phải được xem xét một cách thận trọng.
Khi xét xử sơ thẩm, Tòa án phải tuân theo một giới hạn được quy định tại
Điều 196 BLTTHS 2003. Và khi xét xử phúc thẩm, để tránh sự tùy tiện, lạm quyền,
Tòa án cũng cần phải tuân theo một giới hạn nhất định, giới hạn đó được quy định
tại Điều 241 BLTTHS 2003 với nội dung: “Tòa án cấp phúc thẩm xem xét nội dung
kháng cáo, kháng nghị. Nếu xét thấy cần thiết thì Tịa án cấp phúc thẩm có thể xem
xét các phần khác không bị kháng cáo, kháng nghị của bản án”. Giới hạn của việc
xét xử phúc thẩm ở đây là nội dung kháng cáo, kháng nghị. Ngoài ra, khi xem xét
lại bản án, quyết định sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị Tòa án cấp phúc thẩm bị
hạn chế bởi nguyên tắc “khơng làm xấu hơn tình trạng của bị cáo”, cho nên nếu
kháng cáo, kháng nghị khơng có u cầu tăng hình phạt, tăng mức bồi thường thì
Tịa án cấp phúc thẩm không được xét xử theo hướng tăng nặng, Tịa phúc thẩm vẫn
có quyền sửa án theo hướng tăng nặng nếu hội đủ hai điều kiện là có kháng cáo,

kháng nghị theo hướng tăng nặng và có căn cứ để tăng.

14


Đối với thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm, theo quy định tại Điều 284
BLTTHS 2003 thì phạm vi giám đốc thẩm và tái thẩm là xem xét lại tồn bộ vụ án
mà khơng chỉ hạn chế trong nội dung kháng nghị. Phạm vi này rộng hơn phạm vi
xét xử sơ thẩm, phúc thẩm. Tuy nhiên, giám đốc thẩm và tái thẩm theo quy định của
pháp luật không phải là một cấp xét xử mà là một thủ tục đặc biệt - xét lại bản án
hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có sự vi
phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án hoặc vì phát hiện có tình tiết
mới làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định mà Tịa án đã khơng
biết được khi ra bản án hoặc quyết định đó.
Qua những quy định của BLTTHS về giới hạn của việc xét xử sơ thẩm, xét
xử phúc thẩm vụ án hình sự, có thể hiểu giới hạn của việc xét xử được xác định
bằng bốn yếu tố: bị cáo, hành vi phạm tội, khoản (khung hình phạt) trong cùng một
điều luật, tội danh. Đối với bị cáo và hành vi phạm tội, Tòa án chỉ xét xử những bị
cáo và những hành vi mà VKS truy tố và Tòa án đã quyết định đưa ra xét xử, không
thể vượt quá giới hạn đó, tức là khơng thể xét xử những bị cáo khác và những hành
vi khác ngoài những bị cáo và những hành vi mà VKS đã truy tố và Tòa án chưa có
quyết định đưa ra xét xử. Đối với khoản (khung hình phạt) trong cùng một điều luật
và tội danh thì trong một số trường hợp nhất định giới hạn xét xử có thể được thay
đổi. Về khoản (khung hình phạt) trong cùng một điều luật, Tịa án có thể xét xử theo
bất kỳ khoản khác nào khác với khoản mà VKS đã truy tố không phân biệt điều
khoản đó quy định mức hình phạt nhẹ hơn hay nặng hơn đối với bị cáo. Về tội danh,
Tòa án chỉ có thể xét xử một tội danh khác, nhưng với điều kiện là tội danh đó phải
bằng hoặc nhẹ hơn tội mà VKS đã truy tố. Phạm vi của Tòa án cấp sơ thẩm là phải
xét xử một cách đầy đủ, toàn diện những vấn đề được xác định trong giới hạn của
việc xét xử. Còn phạm vi của Tòa án cấp phúc thẩm hẹp hơn vì Tịa án cấp phúc

thẩm không phải bao giờ cũng xét xử đầy đủ, toàn diện những vấn đề được xác định
trong giới hạn xét xử. Phạm vi xét xử phúc thẩm bao gồm những vấn đề mà Tòa án
cấp sơ thẩm đã quyết định nhưng có kháng cáo, kháng nghị và những vấn đề mà

15


Tịa án cấp sơ thẩm đã quyết định nhưng khơng có kháng cáo, kháng nghị nhưng
chỉ khi xét thấy cần thiết.
Như vậy, qua quy định về chế độ hai cấp xét xử và qua việc so sánh giới hạn
của việc xét xử sơ thẩm và giới hạn của việc xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái
thẩm, ta thấy vai trò của Tòa án khi tiến hành xét xử sơ thẩm vơ cùng quan trọng.
Tịa án khi xét xử sơ thẩm phải kiểm tra lại tất cả các tài liệu, chứng cứ mà cơ quan
điều tra, VKS đã thu thập được xem có hợp pháp, đầy đủ hay khơng, có căn cứ để
kết tội bị cáo hay khơng… Từ đó ra bản án khẳng định bị cáo có tội hay khơng có
tội, nếu có tội thì là tội gì, theo điều nào của BLHS và mức hình phạt mà người
phạm tội phải chịu, các biện pháp tư pháp khác và trách nhiệm dân sự. Bản án của
giai đoạn xét xử sơ thẩm sẽ là căn cứ khởi đầu cho giai đoạn tố tụng xét xử phúc
thẩm, có xét xử sơ thẩm mới có xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, và xét
xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm là không đương nhiên. Hoạt động xét xử
phúc thẩm chỉ là việc kiểm tra, đánh giá, khắc phục những thiếu sót, sai lầm của
giai đoạn xét xử sơ thẩm chứ không phải xét xử lại vụ án. Và giám đốc thẩm, tái
thẩm cũng chỉ là “xét lại” chứ không phải “xử lại”.
Như vậy, theo quy định của Điều 196 BLTTHS 2003 thì giới hạn của việc
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là:
-

Tịa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo truy tố của

-


Tòa án chỉ xét xử theo tội danh mà VKS đã truy tố, không được xét

VKS;
xử bị cáo theo tội danh khác nặng hơn tội danh mà VKS đã truy tố, nhưng Tịa án
có quyền xét xử bị cáo theo tội danh khác bằng hoặc nhẹ hơn tội danh mà VKS đã
truy tố;
-

Tồ án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà VKS đã

truy tố trong cùng một điều luật, khoản khác này có thể nặng hơn hoặc nhẹ hơn so
với khoản mà VKS đã truy tố trong cùng một điều luật;
-

Những bị cáo, những hành vi và tội danh đó phải do VKS truy tố và

Tịa án có quyết định đưa ra xét xử.

16


1.2. Cơ sở của việc quy định giới hạn của việc xét xử sơ thẩm trong TTHS Việt
Nam
Trong TTHS, giữa Tịa án và VKS ln tồn tại một mối quan hệ nhất định.
Và mối quan hệ này đã được pháp lý hóa bằng một chế định của BLTTHS – chế
định giới hạn của việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Thơng qua chế định này, mối
quan hệ giữa Tòa án và VKS trong giai đoạn xét xử sơ thẩm được thể hiện rõ rệt:
hoạt động xét xử của Tịa án chỉ xuất hiện khi có truy tố của VKS, tòa án chỉ được
quyền xét xử trong nội dung truy tố của VKS về số lượng bị cáo, hành vi bị truy tố

và tội danh mà VKS viện dẫn khi truy tố, nhưng Tịa án có quyền xét xử bị cáo theo
tội danh khác bằng hoặc nhẹ hơn tội danh mà VKS đã truy tố hoặc Tịa án có quyền
xét xử bị cáo về khoản khác với khoản mà VKS đã truy tố trong cùng một điều luật.
1.2.1. Bản chất của TTHS và mối quan hệ giữa tòa án và VKS
TTHS là q trình tồn bộ những hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, các cơ quan nhà nước khác và
những cơng dân có liên quan nhằm giải quyết đúng đắn vụ án hình sự theo quy định
của pháp luật. Đó chính là các hoạt động trong q trình giải quyết vụ án hình sự,
những hoạt động ấy bao gồm: khởi tố vụ án hình sự; điều tra vụ án hình sự; truy tố,
xét xử vụ án hình sự; thi hành án. Mỗi hoạt động đều thực hiện chức năng riêng,
trong đó, chức năng buộc tội và truy tố là hai chức năng cơ bản và quan trọng của
TTHS.
Buộc tội là “hoạt động của cơ quan Nhà nước hoặc người có thẩm quyền
theo quy định của pháp luật truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội được BLHS quy định là tội phạm”[28-tr.88]. Trong
TTHS, khơng có chức năng buộc tội thì sẽ khơng có chức năng bào chữa và tất
nhiên cũng sẽ khơng có chức năng xét xử. Chức năng buộc tội có vai trị rất quan
trọng trong sự vận hành của TTHS, là một chức năng mang tính bắt buộc, không thể
thiếu được trong TTHS.
Chức năng xét xử là hoạt động tố tụng của Tịa án có thẩm quyền xem xét,
quyết định người bị buộc tội có tội hay khơng và trách nhiệm hình sự đối với người

17


có tội. Là một trong những chức năng cơ bản trong TTHS, chức năng xét xử có vai
trị quan trọng trong việc đảm bảo cho TTHS được vận hành đúng theo quy định
của pháp luật. Chức năng xét xử được xem như là chức năng trung tâm, giữ vai trò
quyết định trong TTHS.
Bản chất của TTHS là việc Toà án như một trọng tài đứng ra phân xử và

phán quyết khi tồn tại sự cáo buộc của bên này với bên kia. Chức năng xét xử của
Toà án nhằm thực hiện nhiệm vụ nhân danh công lý và nhân danh Nhà nước kết
luận một người phạm tội hay không phạm tội. Tuyên bố một người phạm tội nào đó
phải dựa trên sự buộc tội và tất nhiên cần xét xử. Ngược lại khơng có sự buộc tội thì
sự tun bố của Tồ án sẽ khơng có ý nghĩa bởi khơng ai buộc tội bị cáo thì đương
nhiên họ khơng có tội và không cần thiết phải xét xử. Việc thực hiện tốt chức năng
buộc tội và chức năng bào chữa sẽ là tiền đề quan trọng cho Tòa án thực hiện chức
năng xét xử.
Như vậy, chức năng xét xử và chức năng buộc tội có mối liên hệ chặt chẽ với
nhau, chúng cùng với chức năng bào chữa đảm bảo chu trình thủ tục giải quyết vụ
án hình sự theo đúng quy định của pháp luật. Chức năng buộc tội và xét xử thể hiện
rõ nét nhất bản chất hoạt động của VKS và Tòa án, thiếu một trong những chức
năng ấy thì TTHS sẽ khơng vận hành được. Mối quan hệ giữa tịa án và VKS chính
là mối quan hệ giữa các chức năng này và đó là cơ sở cho việc quy định Điều 196
BLTTHS 2003 về giới hạn của việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Bản chất của quy
định này là sự điều chỉnh hài hòa mối quan hệ giữa ba chức năng cơ bản của TTHS:
chức năng xét xử của Tòa án, chức năng buộc tội của VKS và chức năng bào chữa.
Từ đó giới hạn này sẽ đảm bảo cho sự vận hành có hiệu quả của TTHS.
1.2.2. Phƣơng pháp điều chỉnh mối quan hệ giữa Tòa án và VKS
Mối quan hệ giữa Tòa án và VKS ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động TTHS,
mối quan hệ này vừa đảm bảo cho mỗi cơ quan thực hiện đúng, đầy đủ chức năng,
nhiệm vụ của mình, vừa đảm bảo cho quá trình giải quyết vụ án hình sự được chính
xác, khách quan và cơng bằng hơn. Do đó, cần có một phương pháp điều chỉnh phù
hợp để định hướng cho mối quan hệ này. Và phương pháp này cũng là nền tảng, là

18


cơ sở cho quy định về giới hạn của việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Điều 196
BLTTHS 2003.

Mỗi ngành luật đều có một phương pháp điều chỉnh riêng. Dựa vào những
đặc tính của mối quan hệ xã hội mà Luật TTHS điều chỉnh, Luật TTHS có hai
phương pháp điều chỉnh, đó là phương pháp quyền uy điều chỉnh mối quan hệ giữa
các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng với những người tham gia tố tụng, các
tổ chức xã hội và các nhân có liên quan đến vụ án hình sự và phương pháp phối hợp
- chế ước điều chỉnh mối quan hệ giữa các cơ quan và cá nhân có thẩm quyền tiến
hành tố tụng với nhau. Như vậy, phương pháp phối hợp - chế ước sẽ điều chỉnh
mối quan hệ giữa Tòa án và VKS là những cơ quan tiến hành tố tụng.
VKS và Tòa án là hai cơ quan tiến hành tố tụng có vị trí, vai trị hồn tồn
khác nhau trong TTHS. VKS thực hiện chức năng chủ yếu là truy tố người phạm tội
ra trước Tòa án, thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp
phần đảm bảo cho pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh, thống nhất (Điều 137
Hiến pháp 1992). Còn Tòa án thực hiện chức năng chủ yếu là xét xử, Tòa án là cơ
quan xét xử duy nhất của nước ta (Điều 127 Hiến pháp 1992). Như vậy, chỉ có VKS
mới có quyền quyết định truy tố trách nhiệm hình sự người đã thực hiện hành vi
phạm tội bằng bản cáo trạng theo tội danh được quy định trong BLHS nhưng việc
xác định người đó có tội hay khơng có tội, nếu có thì phạm tội gì, theo điều khoản
nào của BLHS thì lại thuộc thẩm quyền của Tịa án. Chính vì sự phân chia chức
năng này mà Tịa án và VKS phải có nghĩa vụ phối hợp với nhau mới có thể đạt
mục đích chung là giải quyết vụ án hình sự một cách nhanh chóng, cơng minh, đảm
bảo xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, bảo vệ một cách có hiệu quả nhất
lợi ích của Nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân. Khơng
có sự phối hợp khơng làm được việc, khơng có sự phối hợp khơng thể đạt được mục
đích chung. Nhưng để tránh sự lạm dụng, đảm bảo sự khách quan, công bằng, đảm
bảo hiệu quả của hoạt động tố tụng, không để lọt tội phạm, không làm oan người vơ
tội thì giữa hai cơ quan này phải có mối quan hệ chế ước lẫn nhau.

19



Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, mối quan hệ phối hợp – chế ước giữa Tòa án
và VKS là bắt buộc. Tác giả Hồ Sỹ Sơn đã từng nhận định: “Trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm, quan hệ giữa hai cơ quan này có ở tất cả mọi trường hợp khi quá trình tố
tụng bước sang giai đoạn này và mối quan hệ này có tính chất bắt buộc đối với cả
hai phía: VKS và Tịa án”[20-tr.64]. Tịa án chỉ có thể thực hiện chức năng xét xử
của mình khi có truy tố của VKS. Tuy nhiên khơng phải cứ có truy tố của VKS là
Tịa án phải đưa vụ án ra xét xử vì khi khơng đồng ý, Tịa án có thể trả hồ sơ để
điều tra bổ sung hay ra quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ vụ án hoặc Tòa án sẽ tiến
hành trao đổi với VKS. Đồng thời, VKS có quyền giám sát việc tuân theo pháp luật
trong hoạt động xét xử của Tòa án, kiểm sát bản án và các quyết định của Tòa án…
Đó là mối quan hệ phối hợp – chế ước giữa Tịa án và VKS. Thơng qua giới hạn của
việc xét xử sơ thẩm được quy định tại Điều 196 BLTTHS 2003, chúng ta thấy rõ
mối quan hệ phối hợp – chế ước giữa Tòa án và VKS: chức năng buộc tội là cơ sở
làm phát sinh chức năng xét xử của Tòa án nhưng Tòa án thực hiện chức năng xét
xử để đánh giá kết quả của chức năng buộc tội là có căn cứ và hợp pháp, thơng qua
hai chức năng này mà mục đích của TTHS được đảm bảo thực hiện; đồng thời Tòa
án chỉ được quyền xét xử những bị cáo, những hành vi theo tội danh mà VKS đã
truy tố, không được xét xử theo tội danh nặng hơn, nhưng Tịa án vẫn có quyền áp
dụng mức hình phạt khác với mức hình phạt mà VKS đề nghị trong cùng một điều
luật hoặc Tòa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh bằng hoặc nhẹ hơn tội danh mà
VKS đã truy tố.
Khi thực hiện chức năng xét xử của mình, Tịa án bị chi phối bởi ngun tắc
“khơng làm xấu đi tình trạng của bị cáo”. Tình trạng của bị cáo bị làm xấu đi trong
các trường hợp sau: áp dụng điều luật với hình phạt nặng hơn hình phạt mà VKS đã
truy tố, hoặc áp dụng điều luật về tội danh nặng hơn tội danh mà VKS đã truy tố,
hoặc thay đổi tội danh tại phiên tịa. Chính vì ngun tắc này mà pháp luật TTHS
cần phải quy định giới hạn của việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Giới hạn này sẽ
đảm bảo cho Tòa án chỉ được xét xử trong phạm vi truy tố của VKS, không làm xấu
đi tình trạng của bị cáo.


20


Như vậy, qua việc phân tích trên thì phương pháp điều chỉnh mối quan hệ
giữa Tòa án và VKS là một trong những yếu tố tạo cơ sở cho việc quy định giới hạn
của việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
1.2.3. Nguyên tắc chung chi phối mối quan hệ giữa Tòa án và VKS
Mối quan hệ giữa Tòa án và VKS là mối quan hệ giữa hai chức năng cơ bản
của TTHS: chức năng xét xử của Tòa án và chức năng buộc tội của VKS. Việc thực
hiện mỗi chức năng này cũng như thực hiện mối quan hệ giữa hai chức năng này có
nhiều đụng chạm đến quyền tự do và dân chủ của công dân. Do đó, mối quan hệ
giữa Tịa án và VKS cần phải tuân thủ theo những nguyên tắc nhất định của TTHS,
có như vậy quá trình TTHS mới vận hành một cách thống nhất, đồng bộ và đạt hiệu
quả cao.
Mối quan hệ phối hợp và chế ước giữa Tòa án và VKS phải đảm bảo tuân
theo quy định pháp luật, trong khuôn khổ pháp luật; phải đảm bảo sự độc lập khi xét
xử của Tịa án chứ khơng phải Tịa án phụ thuộc vào VKS; đảm bảo sự thật của vụ
án chứ không thể dựa vào mối quan hệ phối hợp – chế ước để làm sai lệch sự thật
vụ án theo ý kiến chủ quan của mình; mối quan hệ này phải đảm bảo quyền bào
chữa của bị cáo vì mối quan hệ này có ảnh hưởng rất lớn đến quyền bào chữa của bị
cáo. Do đó, trong TTHS có rất nhiều nguyên tắc nhưng các nguyên tắc: đảm bảo
pháp chế XHCN, nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập khi xét xử và
chỉ tuân theo pháp luật, nguyên tắc xác định sự thật của vụ án, nguyên tắc đảm bảo
quyền bào chữa của bị cáo là những nguyên tắc chi phối mạnh mẽ đến mối quan hệ
này. Mối quan hệ phối hợp – chế ước giữa Tòa án và VKS là cơ sở hình thành giới
hạn của việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và giới hạn này cũng là sự thể hiện mối
quan hệ này. Do đó, khi quy định giới hạn này thì cũng sẽ bị chi phối bởi các
nguyên tắc trên.
Thứ nhất, mối quan hệ giữa Tòa án và VKS bị chi phối bởi nguyên tắc đảm
bảo pháp chế XHCN trong TTHS. Nguyên tắc này được quy định tại điều 3

BLTTHS 2003, đây là nguyên tắc bao trùm trong tất cả các giai đoạn của TTHS, từ
những quy định chung cho đến những quy định cụ thể. Nguyên tắc pháp chế XHCN

21


đảm bảo tính hợp pháp và có căn cứ cho từng giai đoạn TTHS cũng như tồn bộ
q trình TTHS. Nội dung của nguyên tắc này là sự đòi hỏi mọi hoạt động tố tụng
của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng
phải được tiến hành theo quy định của BLTTHS [21-tr.36].
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, giữa Tòa án và VKS tồn tại mối
quan hệ phối hợp và chế ước. Mối quan hệ này có ảnh hưởng rất lớn đến việc giải
quyết vụ án hình sự, nó có liên quan đến việc thực hiện chức năng truy tố của VKS
và chức năng xét xử của Tòa án. VKS thực hiện chức năng buộc tội, do tính chất
chất đặc thù của chức năng này bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền cơ bản
của công dân đã được Hiến pháp ghi nhận cho nên mọi hoạt động của VKS phải
tuân thủ nguyên tắc pháp chế XHCN. Tòa án với vai trò là cơ quan xét xử, trong
giai đoạn xét xử Tòa án phải xét xử đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, không
bỏ lọt tội phạm, khơng được làm oan người vơ tội. Hình phạt mà Tòa án tuyên cho
kẻ phạm tội phải phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội và phù hợp
với các quy định của luật hình sự. Mọi trường hợp tuyên quá nặng hay quá nhẹ đều
là vi phạm nguyên tắc pháp chế XHCN. Do đó, nguyên tắc đảm bảo pháp chế
XHCN trong TTHS chi phối rất lớn đến mối quan hệ này. Nguyên tắc này sẽ giúp
định hướng cho mối quan hệ này, giúp mối quan hệ này chỉ nằm trong một khuôn
khổ mà pháp luật quy định, khơng đi q giới hạn, Tịa án và VKS chỉ được phối
hợp hay chế ước trong những hoạt động mà pháp luật cho phép, đảm bảo dù là phối
hợp hay chế ước thì cũng đều nhằm giúp cho việc giải quyết vụ án một cách nhanh
chóng, kịp thời, khách quan, đúng pháp luật chứ không phải phối hợp và chế ước để
giải quyết vụ án theo ý chí chủ quan của VKS hay của Tịa án, đảm bảo tính hợp
pháp của việc giải quyết vụ án hình sự, đồng thời giúp cho hai cơ quan này thực

hiện đúng chức năng, quyền hạn của mình mà pháp luật quy định. Nguyên tắc này
chính là cơ sở pháp lý quan trọng cho mọi hoạt động của VKS và Tòa án. Bảo đảm
pháp chế XHCN trong TTHS là một yêu cầu khách quan trong đấu tranh phòng và
chống tội phạm hiện nay giúp các cơ quan tiến hành tố tụng tiến hành các hoạt động
tố tụng nhằm ra các bản án và quyết định đúng đắn.

22


Việc trao đổi giữa VKS và Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm,
theo hướng dẫn tại Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 08-12-1988 của
TANDTC và VKSNDTC hướng dẫn thi hành một số quy định trong BLTTHS thì
chỉ trong những trường hợp sau đây thì VKS và Tòa án mới tiến hành trao đổi với
nhau chứ khơng phải lúc nào cũng phải trao đổi: khi Tịa án thấy cần trả hồ sơ để
VKS điều tra bổ sung, đổi tội danh nặng hơn hoặc áp dụng khung hình phạt nặng
hơn; khi Tịa án thấy cần đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án; khi cần nhập hoặc tách
vụ án; khi cần chuyển vụ án cho Tòa án khác giải quyết; khi chuẩn bị xét xử vụ án
điểm hoặc vụ án phức tạp và các trường hợp cần thiết khác. Và trao đổi là nhằm
giúp thực hiện tốt hơn những việc thuộc chức năng của mỗi ngành chứ không phải
là “bắt tay nhau” làm sai lệch hồ sơ vụ án, chuyển kết quả đi theo hướng chủ quan
của VKS hay của Tòa án.
Thứ hai, nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập khi xét xử và
chỉ tuân theo pháp luật (hay còn gọi là nguyên tắc độc lập khi xét xử của Tòa án)
cũng chi phối đến mối quan hệ giữa Tòa án và VKS.
Nguyên tắc độc lập khi xét xử của Tòa án là nguyên tắc cơ bản và quan trọng
chi phối hoạt động xét xử của Tòa án. Nguyên tắc này được quy định tại Điều 30
Hiến Pháp 1992, Điều 16 BLTTHS 2003 và Điều 5 Luật tổ chức TAND. Về nội
dung, nguyên tắc này ghi nhận sự độc lập của Tòa án khi xét xử, không bị chi phối,
chỉ đạo của bất kỳ cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội hoặc cá nhân nào và khi xét xử
hội đồng xét xử chỉ tuân theo pháp luật. Nguyên tắc này đảm bảo cho bản án hay

quyết định của hội đồng xét xử chính xác, khách quan, đúng pháp luật vì bản án hay
quyết định của hội đồng xét xử có liên quan trực tiếp đến quyền tự do, lợi ích hợp
pháp, tài sản,.., thậm chí cả tính mạng của người bị kết án [21-tr.49].
Mối quan hệ phối hợp giữa Tòa án và VKS phải đảm bảo sự độc lập khi xét
xử của Tịa án vì phối hợp là nhằm giải quyết vụ án hình sự một cách nhanh chóng,
cơng minh, đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật chứ không phải
phối hợp là làm giúp nhau, làm hộ nhau. Phối hợp khi trao đổi với VKS trước khi
mở phiên tịa hay phối hợp tại phiên tịa khơng có ý nghĩa quyết định trong hoạt

23


động xét xử của Tịa án. Sự phối hợp đó là chỉ là cơ sở có ích cho Tịa án thực hiện
hoạt động xét xử được đúng đắn, khi xét xử Tòa án chỉ căn cứ vào pháp luật để ra
bản án hay quyết định về vụ án.
Việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Tòa án và VKS đều thông qua
những con người cụ thể, cùng một vấn đề mỗi người có cách suy nghĩ, có quan
điểm khác nhau, cách nhìn nhận, đánh giá khác nhau. Việc trao đổi án giữa hai cơ
quan là nhằm để thảo luận với nhau để tìm ra sự thật của vụ án, làm rõ những mâu
thuẫn, những chứng cứ, nội dung chưa rõ của vụ án. Trong q trình trao đổi, VKS
và Tịa án vẫn độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, mỗi cơ quan vẫn có quyền giữ
quan điểm của mình. Thông tư liên ngành số 01/TANDTC-VKSNDTC/TTLT ngày
08-12-1988 của TANDTC và VKSNDTC hướng dẫn thi hành một số quy định
trong BLTTHS năm 1988 đã nêu rõ: “BLTTHS không quy định thủ tục họp trù bị,
cho nên họp trù bị không phải là thủ tục tố tụng bắt buộc, mà chỉ là lề lối làm việc
trong quan hệ phối hợp giữa Tòa án và VKS nhằm giúp nhau thực hiện tốt hơn
những công việc thuộc chức năng của mỗi ngành” và “Sau khi trao đổi, dù nhất trí
hay khơng nhất trí, mỗi bên vẫn tiến hành những công việc thuộc chức năng của
mình”. Sự bàn bạc giữa VKS và Tịa án trong thời gian chuẩn bị xét xử chỉ nhằm
mục đích lựa chọn cách thức giải quyết vụ án đúng đắn nhất theo quy định của pháp

luật, như tinh thần Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02-01-2002 của Bộ chính trị về một
số nhiệm vụ trọng tâm trong công tác tư pháp trong thời gian tới: “Tăng cường sự
phối hợp giữa các cơ quan tư pháp trong hoạt động tố tụng trên cơ sở thực hiện
đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan, không hữu khuynh hoặc
đùn đẩy trách nhiệm”.
Mối quan hệ chế ước giữa Tòa án và VKS thể hiện tính độc lập khi xét xử
của Tịa án. Do ngun tắc độc lập khi xét xử của Tòa án, nên VKS không được
phép can thiệp vào hoạt động xét xử của Tòa án, VKS thực hiện việc kiểm sát trong
phạm vi quyền hạn của mình bằng việc kiến nghị với Tòa án cấp trên yêu cầu khắc
phục khi phát hiện có sai phạm trong hoạt động xét xử của Tịa án, bằng việc kháng
nghị các bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của Tịa án theo thủ tục

24


phúc thẩm; đối với các bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tịa án,
VKS có thể kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Chế ước ở đây là
nhằm tránh sự lạm quyền giữa hai cơ quan này, chế ước là việc hai cơ quan này
thực hiện đúng, đầy đủ, độc lập chức năng, quyền hạn của mình mà pháp luật quy
định, không ai được quyền can thiệp, cũng như không bị chi phối, chỉ đạo của bất
kỳ ai, bất kỳ cơ quan nào. Tác giả Tôn Thiên Phương khẳng định: “Mối quan hệ chế
ước thể hiện tính độc lập xét xử của Tịa án và tính độc lập đó cũng phải tuân theo
pháp luật TTHS là đối tượng kiểm sát hoạt động tư pháp thuộc chức năng của VKS
mà BLTTHS quy định”[18-tr.42].
Thứ ba, mối quan hệ giữa Tòa án và VKS còn chịu sự chi phối của nguyên
tắc xác định sự thật của vụ án.
Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án được ghi nhận tại điều 10 BLTTHS
2003. Đây khơng chỉ là ngun tắc mà cịn là mục đích của quá trình giải quyết vụ
án hình sự. Nguyên tắc này đảm bảo cho các hoạt động và quyết định tố tụng phù
hợp với thực tế và diễn biến của việc giải quyết vụ án. Đảm bảo sự thật của vụ án là

đảm bảo việc giải quyết vụ án được chính xác, khách quan, khơng bỏ lọt tội phạm
cũng như không làm oan người vô tội [21-tr.42].
Khi truy tố, VKS có trách nhiệm kiểm tra, nghiên cứu tồn bộ hồ sơ vụ án.
Trách nhiệm kiểm tra hồ sơ là hành vi tố tụng quan trọng của VKS nhằm đảm bảo
“xác định sự thật của vụ án” được thực hiện, tức là VKS tiến hành kiểm tra tính có
căn cứ và tính hợp pháp trong các hành vi tố tụng mà cơ quan điều tra đã thực hiện.
VKS sau khi kiểm tra mà thấy có đủ căn cứ, có cơ sở buộc tội mà kết quả điều tra
đã thể hiện thì VKS ra quyết định truy tố bằng bản cáo trạng. Trong giai đoạn xét
xử, vai trò của Tòa án thể hiện rõ nét vì xét xử là giai đoạn trung tâm của q trình
tố tụng thực hiện mục đích, nhiệm vụ của hoạt động tố tụng là chứng minh có tội
phạm hoặc khơng có tội phạm nên trách nhiệm của thẩm phán là thực hiện hành vi
kiểm tra hồ sơ, chứng cứ và nội dung bản kết luận điều tra, nội dung cáo trạng để
xác định sự thật khách quan của vụ án, phải thẩm tra, đánh giá một cách tổng hợp

25


×