TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT QUỐC TẾ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
LÃNH SỰ DANH DỰ - NHỮNG VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
SINH VIÊN THỰC HIỆN : BIỆN THỊ THU
KHÓA : 33 – MSSV: 0855050171
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN : Th.S NGUYỄN THỊ VÂN HUYỀN
TP HỒ CHÍ MINH, NĂM 2012
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các số liệu và kết
quả trong khóa luận là trung thực và chưa từng được cơng bố trong bất kỳ một cơng
trình nào khác.
Tác giả
MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
Phần mở đầu .............................................................................................................. 1
................................................................................................................
................................................................................................................
................................................................................................................
................................................................................................................
................................................................................................................
CHƢƠNG 1: QUY CHẾ PHÁP LÝ CỦA CƠ QUAN LÃNH SỰ THEO
PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM.
1.1. Khái niệm cơ quan lãnh sự .................................................................................. 6
1.1.1. Lịch sử hình thành cơ quan lãnh sự ................................................................. 6
1.1.2. Đặc điểm của cơ quan lãnh sự ......................................................................... 8
1.1.3. Chức năng của cơ quan lãnh sự ..................................................................... 10
1.2.
Tổ chức của cơ quan lãnh sự ......................................................................... 14
1.2.1. Cấp của cơ quan lãnh sự và người đứng đầu cơ quan lãnh sự ...................... 14
1.2.2. Thành viên cơ quan lãnh sự ........................................................................... 15
1.2.3. Quyền ưu đãi, miễn trừ dành cho cơ quan lãnh sự ........................................ 18
1.3.
Chế định lãnh sự danh dự .............................................................................. 21
1.3.1. Đôi nét về lãnh sự danh dự ............................................................................ 21
1.3.2. Lãnh sự danh dự của Việt Nam ở nước ngoài ............................................... 23
1.3.2.1. Định nghĩa ................................................................................................... 23
1.3.2.2. Tiêu chuẩn bổ nhiệm lãnh sự danh dự của Việt Nam ở nước ngoài ........... 24
1.3.2.3. Thủ tục bổ nhiệm và điều kiện miễn nhiệm lãnh sự danh dự Việt Nam ở nước
ngoài .............................................................................................................
25
1.3.3. Lãnh sự danh dự của nước ngoài tại Việt Nam ............................................. 29
1.3.3.1. Định nghĩa ................................................................................................... 29
1.3.3.2. Tiêu chuẩn của người được cử làm lãnh sự danh dự tại Việt Nam ............. 30
1.3.3.3. Nguyên tắc bổ nhiệm lãnh sự danh dự nước ngoài tại Việt Nam ............... 32
1.3.3.4. Thủ tục thành lập cơ quan lãnh sự do lãnh sự danh dự đứng đầu tại Việt Nam
và bổ nhiệm lãnh sự danh dự ................................................................... 33
1.3.4.
Chức năng của lãnh sự danh dự .................................................................. 34
1.3.5.
Quyền ưu đãi, miễn trừ dành cho lãnh sự danh dự ..................................... 40
1.3.6.
Ý nghĩa của việc thiết lập chế định lãnh sự danh dự ................................... 47
CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG CỦA LÃNH SỰ DANH SỰ
2.1. Thực tiễn thiết lập quan hệ lãnh sự danh dự giữa Việt Nam và các nước......... 50
2.2. Thực tiễn thực hiện chức năng lãnh sự của lãnh sự danh dự ............................ 53
2.2.1. Chức năng thúc đẩy quan hệ hữu nghị hợp tác giữa nước cử lãnh sự và nước tiếp
nhận lãnh sự 53
2.2.2. Chức năng bảo hộ ngoại giao ......................................................................... 58
2.2.3. Các chức năng khác của lãnh sự danh dự ....................................................... 62
2.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định lãnh sự danh dự ở Việt Nam hiện nay
.................................................................................................................................. 63
......................................................................................................................................
......................................................................................................................................
Kết luận khóa luận .................................................................................................... 67
Danh mục tài liệu tham khảo
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Với đường lối đối ngoại “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước”, hoạt
động hợp tác quốc tế của Việt Nam đã trở nên sôi động kể từ khi công cuộc đổi mới
bắt đầu. Công tác ngoại giao được đẩy mạnh. Số lượng các cơ quan đại diện của Việt
Nam ở nước ngoài cũng như cơ quan đại diện nước ngoài được chấp nhận ở Việt Nam
ngày càng tăng. Điều này cho thấy nhu cầu về việc phát triển những cơ quan này là rất
cần thiết. Nắm vững những vấn đề pháp lý về các cơ quan đại diện và thành viên của
các cơ quan này, nhất là những vấn đề mới trong hoạt động ngoại giao của Nhà nước
ta có ý nghĩa khơng nhỏ trong việc hồn thiện và phát huy hiệu quả hoạt động của các
cơ quan đại diện, bảo vệ chủ quyền, lợi ích của Việt Nam trong quá trình hội nhập phù
hợp với quy định của pháp luật quốc tế. Một vấn đề mới trong công tác lãnh sự hiện
nay là chế định lãnh sự danh dự. Hình thức lãnh sự này thực ra đã được đề cập từ Công
ước Viên về quan hệ lãnh sự năm 1963, tuy nhiên nó chưa được áp dụng một cách
rộng rãi ở nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, khơng có nghĩa là lãnh
sự danh dự khơng có những ưu điểm. Ngược lại, với những chức năng được quy định
trong các văn bản pháp luật quốc tế và Việt Nam có liên quan cũng như thực tiễn đã
chứng minh, cơ quan lãnh sự do lãnh sự danh dự đứng đầu đã và đang hoạt động có
hiệu quả, góp phần tích cực vào việc tăng cường hợp tác quốc tế, bảo hộ quyền, lợi ích
chính đáng của cơng dân, pháp nhân Việt Nam ở nước ngồi và cơng dân nước ngồi
tại Việt Nam. Nhu cầu thiết lập cơ quan lãnh sự do lãnh sự danh dự đứng đầu còn gia
tăng nhất là đối với Việt Nam, khi điều kiện thành lập cơ quan lãnh sự và cử viên chức
lãnh sự chuyên nghiệp không phải lúc nào cũng dễ dàng. Lý do một phần là vì chế
định lãnh sự danh dự chưa được dành cho một sự quan tâm đúng mực, từ việc nghiên
cứu về mặt lý luận cũng như thực tiễn.
Xuất phát từ nhu cầu đó, tác giả mạnh dạn chọn đề tài “Lãnh sự danh dự - những
vấn đề lý luận và thực tiễn” làm đề tài nghiên cứu khóa luận của mình. Hiện nay, số
lượng lãnh sự danh dự của Việt Nam ở nước ngoài cũng như lãnh sự danh dự của nước
ngoài ở Việt Nam còn khá khiêm tốn. Các quy định về lãnh sự danh dự được kể tới
1
như: Công ước Viên về quan hệ lãnh sự 1963 quy định trực tiếp về quan hệ lãnh sự,
còn lại, lãnh sự danh dự chủ yếu được điều chỉnh bằng sự thỏa thuận giữa hai quốc gia
thiết lập quan hệ lãnh sự. Chính vì vậy, về mặt lý luận, chế định lãnh sự danh dự chưa
được quy định đầy đủ, riêng biệt. về mặt thực tiễn, cũng cần phải có sự phân tích để
cho thấy hiệu quả hoạt động của lãnh sự danh dự, từ đó chúng ta nhận thức được tầm
quan trọng của chế định lãnh sự danh dự và áp dụng nó có hiệu quả trong thời gian sắp
tới ở Việt Nam.
2. Mục tiêu và đối tƣợng nghiên cứu
Mục tiêu:
Đề tài “Lãnh sự danh dự - lý luận và thực tiễn” được tác giả nghiên cứu trước hết
phục vụ cho việc hồn thành khóa luận tốt nghiệp tại trường. Tuy vậy, khóa luận chỉ
có thể đạt kết quả tốt khi việc nghiên cứu này được tác giả hướng tới những mục tiêu
sau đây:
Thứ nhất, cung cấp một lượng thơng tin có giá trị về lãnh sự danh dự cho khoa
học pháp lý chuyên ngành, đặc biệt là chuyên ngành Luật quốc tế trên cơ sở phân tích
về lãnh sự danh dự ở góc độ lý luận và thực tiễn, phần lớn dựa trên những căn cứ pháp
lý hiện hành và thực tiễn diễn ra trong vài năm gần đây.
Thứ hai, trên cơ sở những kiến thức được truyền tải đó, tác giả mong muốn đưa
đến cho người đọc cái nhìn khách quan và đầy đủ về lãnh sự danh dự, cả những ưu
điểm và khuyết điểm. Tuy vậy ưu điểm của chế định lãnh sự này vẫn chiếm ưu thế,
cho nên tác giả mong muốn các nhà quản lý áp dụng hình thức lãnh sự danh dự nhiều
hơn trong tình hình thế giới nhiều biến động khó khăn như hiện nay.
Đối tượng nghiên cứu:
Trong đề tài “Lãnh sự danh dự - lý luận và thực tiễn”, tác giả tập trung nghiên
cứu vào những vấn đề sau đây:
2
Thứ nhất, tác giả tập trung vào việc nghiên cứu các quy định của Công ước Viên
về quan hệ lãnh sự năm 1963 để bước đầu làm rõ những đặc điểm của cơ quan lãnh sự
chuyên nghiệp, từ đó so sánh với cơ quan lãnh sự do lãnh sự danh dự đứng đầu.
Thứ hai, sau khi tìm hiểu về cơ quan lãnh sự với những nét khái quát nhất, tác giả đi
sâu vào phân tích chế định lãnh sự danh dự dựa vào nguồn chủ yếu là Công ước Viên
1963 về quan hệ lãnh sự, pháp luật Việt Nam có liên quan và một số văn bản khác, so
sánh giữa viên chức lãnh sự chuyên nghiệp và viên chức lãnh sự danh dự thơng qua
các văn bản đó. Ngồi ra, một số ví dụ về thực tiễn cũng được tác giả sử dụng để làm
nổi bật vấn đề về lãnh sự danh dự.
3. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay quan hệ ngoại giao và lãnh sự đã và đang được Nhà nước ta quan tâm
rất nhiều, tuy nhiên vấn đề về lãnh sự danh dự lại được rất ít các nhà quản lý, các nhà
nghiên cứu đề cập tới. Các tài liệu như: Sổ tay công tác ngoại vụ hay Sổ tay Công tác
ngoại giao phục vụ phát triển kinh tế do Bộ Ngoại giao ban hành chủ yếu cung cấp
những thông tin chung nhất về cơ quan lãnh sự chuyên nghiệp cũng như phương thức
để các cơ quan ngoại giao hoạt động có hiệu quả trong lĩnh vực kinh tế, chứ không đề
cập nhiều tới vấn đề lãnh sự danh dự. Gần đây, cuốn sách “Ngoại giao và công tác
ngoại giao” của PGS.TS Vũ Dương Huân, xuất bản năm 2010 đã phân tích nhiều về
mặt pháp lý của cơng tác ngoại giao, trong đó có vấn đề lãnh sự. Tuy nhiên, cuốn sách
viết về khá nhiều các công tác trong hoạt động ngoại giao và vì thế mới chỉ dành cho
chế định lãnh sự danh dự những kiến thức khái quát nhất, chưa làm nổi bật được chức
năng của lãnh sự danh dự cũng như thực tiễn áp dụng hình hình thức lãnh sự này trên
thực tiễn như thế nào. Đáng chú ý là bài viết của ThS. Nguyễn Thị Thuận trên Tạp chí
Luật học tháng 6/2001 đã đề cập riêng vấn đề lãnh sự danh dự, nhưng bài viết chỉ dừng
lại ở việc phân tích về mặt lý luận những đặc điểm về lãnh sự danh dự như: khái niệm,
thủ tục bổ nhiệm, quyên ưu đãi miễn trừ dành cho cơ quan lãnh sự và viên chức lãnh
sự danh dự.
Như vậy, các cơng trình nghiên cứu của các tác giả về lãnh sự danh dự còn rất ít
và hầu hết chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu về mặt lý luận với những vấn đề chung nhất.
3
Vì thế, trong khóa luận của mình, tác giả tập trung đề cập tới vấn đề chức năng của
lãnh sự danh dự, ý nghĩa của việc thiết lập cơ quan lãnh sự do lãnh sự danh dự đứng
đầu, đặc biệt là đi sâu vào phân tích thực tiễn của quan hệ lãnh sự danh dự được thiết
lập giữa Việt Nam và các nước, nhằm phục vụ cho công tác nghiên cứu về lãnh sự
danh dự một cách toàn diện hơn.
4. Phạm vi nghiên cứu
Lãnh sự danh dự là vấn đề còn khá nhiều điều mới mẻ chưa được nghiên cứu phổ
biến. Trong phạm vi khóa luận của mình, về cơ bản, tác giả trình bày bao quát hết
những vấn đề liên quan đến chế định lãnh sự danh dự như: khái niệm cơ quan lãnh sự,
viên chức lãnh sự chuyên nghiệp, trình tự thủ tục bổ nhiệm lãnh sự danh dự,… Tuy
nhiên, với tính chất là một khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật, tác giả chỉ tập trung làm
sáng tỏ các vấn đề trên cơ sở các văn bản pháp luật quốc tế và Việt Nam về: bản chất
của lãnh sự danh dự thông qua các khái niệm, tiêu chuẩn, trình tự bổ nhiệm lãnh sự
danh dự và quyền ưu đãi, miễn trừ dành cho họ; đặc biệt đi sâu phân tích chức năng và
ý nghĩa của lãnh sự danh dự kèm theo những dẫn chứng cụ thể trong thực tiễn.
5. Các phƣơng pháp nghiên cứu
Để phục vụ tốt cho việc nghiên cứu khóa luận một cách có hiệu quả, tác giả đã sử
dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp lịch sử với việc nghiên cứu về
lịch sử hình thành cơ quan lãnh sự, phương pháp thống kê khi dẫn chứng các số liệu
thực tế. Bên cạnh đó, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu là so sánh, phân
tích, tổng hợp, trên cơ sở nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về Nhà nước và
pháp luật.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Trên nền tảng nghiên cứu về lãnh sự danh dự về mặt lý luận và thực tiễn, đề tài
góp phần làm sáng tỏ những vấn đề về lý luận như: khái niệm lãnh sự danh dự, tiêu
chuẩn bổ nhiệm lãnh sự danh dự, thủ tục bổ nhiệm lãnh sự danh dự và các vấn đề về
chức năng, ý nghĩa, quyền ưu đãi, miễn trừ dành cho lãnh sự danh dự,… Điều này
không chỉ giúp bản thân tác giả hiểu được vấn đề pháp lý còn khá mới mẻ này mà có
thể giúp những người nghiên cứu về sau có cơ sở để tiến hành nghiên cứu sâu hơn.
4
Đồng thời, đề tài có thể là nguồn tài liệu tham khảo cho những người cần tìm hiểu về
lãnh sự danh dự hay hoạt động lãnh sự trong pháp luật quốc tế khi tài liệu về vấn đề
này còn khá khiêm tốn như hiện nay.
5
CHƢƠNG 1: QUY CHẾ PHÁP LÝ CỦA CƠ QUAN LÃNH SỰ THEO
PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1.1. Cơ quan lãnh sự theo pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam
Chế định cơ quan lãnh sự bao gồm cơ quan lãnh sự chuyên nghiệp và cơ quan
lãnh sự do lãnh sự danh dự đứng đầu. Ở mục 1.1 và 1.2 của chương này, tác giả chỉ
nghiên cứu cơ quan lãnh sự dưới góc độ là cơ quan lãnh sự chuyên nghiệp, để phân
biệt với lãnh sự danh dự sẽ được nghiên cứu ở mục 1.3.
1.1.1. Khái niệm cơ quan lãnh sự
Trong quan hệ quốc tế, bên cạnh quan hệ ngoại giao được thiết lập từ lâu đời thì
quan hệ lãnh sự cũng là một chế định pháp lý khơng kém phần quan trọng, gắn bó với
quan hệ ngoại giao nhưng lại có những điểm khác biệt và có sự độc lập nhất định với
quan hệ ngoại giao. Nhìn một cách chung nhất, trong khi quan hệ ngoại giao mang tính
chất chính trị và đại diện của một quốc gia trên bình diện quốc tế, thì quan hệ lãnh sự
mang tính chất hành chính – pháp lý được thiết lập để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho các tổ chức và công dân của một nước trên lãnh thổ nước sở tại.
Trong pháp luật quốc tế, theo Công ước Viên về quan hệ lãnh sự 1963 (gọi tắt là
Công ước Viên 1963), quy định: “Cơ quan lãnh sự có nghĩa là Tổng Lãnh sự quán,
Lãnh sự quán, Phó Lãnh sự quán hoặc Đại lý Lãnh sự quán1”. Đồng thời, tại khoản 2
Điều 4 Luật cơ quan đại diện của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước
ngoài năm 2009 (gọi tắt là Luật cơ quan đại diện của Việt Nam năm 2009) cũng quy
định: “Cơ quan đại diện lãnh sự là Tổng Lãnh sự quán và Lãnh sự quán2”.
Các khái niệm này chỉ đề cập tới nội hàm của cơ quan lãnh sự, bao gồm các cơ
quan nêu trên. Thực chất, cơ quan lãnh sự là cơ quan đối ngoại ở nước ngoài của nước
1
Khoản 1 Điều 1 Công ước Viên năm 1963
2
Khoản 2 Điều 4 Luật cơ quan đại diện của Việt Nam năm 2009
6
cử lãnh sự đặt trên lãnh thổ nước tiếp nhận lãnh sự, nhằm thực hiện các chức năng lãnh
sự trong một khu vực lãnh thổ nhất định trên cơ sở thỏa thuận giữa hai quốc gia3.
Chỉ có thể thành lập cơ quan lãnh sự khi hai quốc gia đã thiết lập quan hệ lãnh sự
và được nước tiếp nhận lãnh sự đồng ý4. Thực tiễn pháp lý quốc tế cho thấy, các quốc
gia khi thiết lập quan hệ ngoại giao cũng bao hàm cả việc thiết lập quan hệ lãnh sự.
Nhưng đó khơng phải quy định bắt buộc, vì quan hệ lãnh sự dựa trên sự thỏa thuận
giữa hai nước hữu quan, do đó, các bên có thể thỏa thuận không thiết lập quan hệ lãnh
sự song song với quan hệ ngoại giao. Mặt khác, việc cắt đứt quan hệ ngoại giao không
kéo theo việc cắt đứt quan hệ lãnh sự5. Vì vậy, khẳng định lãnh sự là một chế định
pháp lý độc lập là hồn tồn có cơ sở. Đồng thời, vẫn có thể thiết lập quan hệ lãnh sự
dù hai nước khơng có quan hệ ngoại giao, ví dụ trong trường hợp công nhận quốc gia
hoặc công nhận chính phủ de-facto6. Điều này tùy thuộc vào mức độ công nhận và sự
thỏa thuận giữa các quốc gia.
Thực chất, hệ thống cơ quan lãnh sự mỗi quốc gia đều bao gồm cả cơ quan lãnh
sự trong nước và cơ quan lãnh sự ngoài nước, chịu sự quản lý trực tiếp của Bộ Ngoại
giao. Ở Việt Nam hiện nay, cơ quan lãnh sự trong nước là Cục Lãnh sự thuộc Bộ
Ngoại giao. Cục Lãnh sự bao gồm: Văn phòng, Phòng Xuất – Nhập cảnh, Phịng Lãnh
sự ngồi nước, Phịng Quan hệ lãnh sự, Phịng Hợp pháp hóa và Phịng Pháp lý lãnh
sự, Phòng di cư quốc tế, Phòng Bảo hộ Cơng dân và Pháp nhân Việt Nam ở nước
ngồi7.
1.1.2. Lịch sử hình thành cơ quan lãnh sự
Như đã phân tích ở trên, quan hệ lãnh sự là một bộ phận quan hệ đối ngoại của
Nhà nước nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích của cơng dân, pháp nhân nước mình trên
lãnh thổ nước tiếp nhận lãnh sự, đồng thời thúc đẩy sự phát triển trên mọi mặt giữa
3
Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Quốc tế, Nxb. Cơng an nhân dân, Hà Nội, 2004, trang 287
4
Khoản 1 Điều 4 Công ước Viên năm 1963
5
Khoản 3 Điều 2 Công ước Viên năm 1963
6
Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Quốc tế, nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội, 2004, trang 286
7
/>
7
nước cử lãnh sự và nước tiếp nhận lãnh sự. Để thực hiện các chức năng lãnh sự đó,
nhất thiết phải thành lập cơ quan lãnh sự.
Cơ quan lãnh sự có nguồn gốc từ lâu đời, ra đời sớm hơn rất nhiều so với cơ quan
đại diện ngọai giao. Nếu cơ quan đại diện ngoại giao xuất hiện vào thế kỷ XV thì cơ
quan lãnh sự đã có từ thời Hy Lạp và La Mã cổ đại. Ở Hy Lạp cổ đại, Nhà nước được
tổ chức thành các thành bang. Trong quan hệ giữa các thành bang đã tồn tại một chế
định làm tiền đề cho sự ra đời của cơ quan lãnh sự sau này, đó là Proconsul. Proconsul
được hiểu là các cơng dân có danh tiếng của thành bang, họ sẽ giúp các quan chức
hoặc các công dân của thành bang khác với tư cách là trung gian với chính quyền sở
tại. Proconsul tự nguyện giúp đỡ chính quyền sở tại đón tiếp các quan chức, đề nghị
đưa họ vào tham gia Hội nghị nhân dân. Mặt khác, các Proconsul cũng thực hiện một
số quan hệ ngoại giao giữa các thành bang của Hy Lạp, góp phần khơng nhỏ trong
thành công của các cuộc đàm phán giữa Hy Lạp với cấc nước. Và chính vì vậy, các
Proconsul có được những quyền ưu đãi so với những người nước ngoài khác 8.
Ở La Mã cổ đại, xuất hiện những người đỡ đầu có chức năng giống như các
Proconsul ở Hy Lạp do Viện nguyên lão của La Mã chỉ định. Những người nước ngoài
khi thấy quyền và tự do cá nhân của mình bị xâm phạm sẽ được chọn trong những
người đỡ đầu này để yêu cầu sự giúp đỡ. Cơ quan lãnh sự được ra đời từ đó.
Vào thời kỳ trung cổ (thế kỷ XII-XIII), khi quan hệ hàng hải và thương mại phát
triển, thì cơ quan lãnh sự cũng phát triển nhanh chóng. Chính các cuộc thập tự chinh ở
thế kỷ XI-XII đóng vai trị hết sức quan trọng trong việc phát triển hệ thống các cơ
quan lãnh sự. Bởi lẽ, các cuộc thập tự chinh chính là việc cướp bóc, xâm lược các quốc
gia phương Đơng, biến các nước này thành thuộc địa, giành con đường thương mại
thuận lợi nhất. Sau khi chiếm được phia Đông của Địa Trung Hải, quân thập tự chinh
đã thành lập được nhà nước riêng của mình, lớn nhất là nhà nước Jerusalem. Từ đây,
việc giao lưu buôn bán với phương Đơng và với các nước ở khu vực phía Bắc đã hình
thành hai khu vực mậu dịch: khu vực Địa Trung Hải gồm các thành phố Genoa,
8
Nguồn: PGS.TS Vũ Dương Hn, “Ngoại giao và cơng tác ngoại giao”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2010, trang 214
8
Venice (Italia), Macxay (Pháp), Barcelona (Tây Ban Nha) và khu vực Bắc hải và biển
Ban Tích gồm các thành thị ở Bắc Đức, Đan Mạch, bán đảo Scandinavi9.
Trong đó, mối quan hệ giữa Italia với các thành phố khác rất phát triển. Trong
quan hệ giao thương này, các thương gia Italia được dành cho những quyền ưu đãi
như: thành lập khu phố đặc biệt ở các khu cảng, chỉ tuân theo pháp luật của quốc gia
mình, hồn tồn miễn trừ tài phán của nước ngoài. Người đứng đầu các khu phố đó
được gọi là các Consul. Từ Consul dịch từ tiếng Latinh có nghĩa là “ người hội đồng”,
chính là nguồn gốc của từ “Consulate-Lãnh sự” ngày nay. Consul lúc đầu được các
thương gia bầu lên để đại diện cho họ trong quan hệ với chính quyền địa phương, đồng
thời giải quyết tranh chấp giữa họ với nhau. Sau đó, Consul do chính quyền các thành
phố Italia bổ nhiệm và trở thành quan chức nhà nước. Họ có nhiệm vụ theo dõi việc
thực hiện hợp đồng của chính quyền sở tại, bảo vệ quyền lợi của cơng dân mình, giám
sát tàu thuyền của nước mình tại nước sở tại. Thực tế, họ cịn tham gia vào đàm phán
với chính quyền nước sở tại, nên họ còn thực hiện cả chức năng ngoại giao10.
Cơ quan lãnh sự tiếp tục phát triển mạnh mẽ ở cả phương Đông và phương Tây.
Do lúc này cơ quan đại diện ngoại giao chưa ra đời nên cơ quan lãnh sự có các quyền
ưu đãi và miễn trừ như cơ quan đại diện ngoại giao sau này, thậm chí họ cịn được
quyền xét xử dân sự, hình sự đối với cơng dân của nước họ ở nước ngoài. Tuy nhiên,
dần dần, các quyền tài phán này mất đi, hình thành điều lệ lãnh sự, quy chế về quyền
và nghĩa vụ lãnh sự. Tới thế kỷ XVIII giao thông, thương mại phát triển, cơ quan lãnh
sự được mở rộng, đặc biệt là lãnh sự danh dự11. Cơ quan lãnh sự mang những đặc
điểm như ngày nay.
Tại Việt Nam, cơ quan lãnh sự ra đời cùng với sự ra đời của Nhà nướcViệt Nam
dân chủ cộng hòa. Ngày 28 tháng 8 năm 1945, Bộ Ngoại giao được thành lập. Tháng 8
năm 1946, cơ quan đại diện ngoại giao đầu tiên của Việt Nam được thiết lập ở
9
Nguyễn Gia Phu-Nguyễn Văn Ánh-Đỗ Đình Hãng-Trần Văn La, “Lịch sử thế giới trung đại”, Nxb. Giáo dục
Việt Nam, 2010, trang 36.
10
PGS.TS Vũ Dương Huân, “Ngoại giao và công tác ngoại giao”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, trang
216
11
PGS.TS Vũ Dương Huân, “Ngoại giao và công tác ngoại giao”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, trang
214-216
9
Bangkok, Thái Lan, tồn tại đến tháng 6 năm 1951. Năm 1953-1954, Việt Nam lập ba
biện sự xứ tại Trung Quốc là Côn Minh (Vân Nam), Nam Ninh (Quảng Tây) và Quảng
Châu (Quảng Đơng)12 sau đó trở thành ba Tổng Lãnh sự quán. Đến nay, chúng ta đã
thiết lập quan hệ ngoại giao và lãnh sự với 174 nước, nhưng mới đặt được 87 cơ quan
đại diện ngoại giao và lãnh sự ở nước ngồi13.
Khơng thể phủ nhận đóng góp của những cơ quan này bởi lẽ cùng với sự
phát
triển của đất nước, các cơ quan này tham gia vào việc bảo vệ cơng dân Việt Nam tại
nước ngồi, thể hiện tiếng nói và hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế.
1.1.3. Đặc điểm của cơ quan lãnh sự
Tìm hiểu về lịch sử hình thành của cơ quan lãnh sự ta thấy rõ ràng cơ quan lãnh
sự ra đời sớm hơn rất nhiều so với cơ quan đại diện ngoại giao, và trước đây cơ quan
lãnh sự cũng mang những đặc điểm của cơ quan đại diện ngoại giao sau này. Điều đó
thể hiện giữa hai cơ quan đối ngoại này có quan hệ gắn bó với nhau. Tuy nhiên đâu là
điểm khác biệt để hai cơ quan này tồn tại song song và tạo thành hai chế định độc lập,
đóng góp to lớn vào sự thành cơng trong quan hệ đối ngoại của mỗi quốc gia? Khi
phân biệt cơ quan lãnh sự với cơ quan đại diện ngoại giao, ta thấy có một số điểm khác
biệt sau đây14:
Thứ nhất, về bản chất, cơ quan đại diện ngoại giao chỉ thực hiện chức năng ngoại
giao mang tính đại diện và chính trị của một quốc gia trên tồn bộ lãnh thổ của nước
nhận đại diện; ngược lại cơ quan lãnh sự thực hiện chức năng lãnh sự mang tính hành
chính – pháp lý trên một hoặc một số khu vực lãnh sự nhất định sau khi có sự thỏa
thuận với nước tiếp nhận lãnh sự.
Thứ hai, cơ quan đại diện ngoại giao luôn được đặt tại thủ đô của nước nhận đại
diện trong khi cơ quan lãnh sự chỉ được đặt tại khu vực lãnh sự, thường là các tỉnh
thành phố có nền kinh tế, thương mại phát triển.
12
Bộ Ngoại giao, “Ngoại giao Việt Nam 1945-2000”, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, trang 124
13
/>14
Ths. Ngô Hữu Phước, Luật Quốc tế, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, trang 481
10
Thứ ba, một quốc gia chỉ có thể có một cơ quan đại diện ngoại giao trên lãnh thổ
nước sở tại nhưng một quốc gia lại có thể thành lập nhiều cơ quan lãnh sự tại nước tiếp
nhận lãnh sự. Điều này tùy thuộc vào sự thỏa thuận giữa hai nước. Ví dụ, Việt Nam có
bốn cơ quan lãnh sự đặt tại Trung Quốc là Hồng Kông, Quảng Châu, Côn Minh, Nam
Ninh; ba cơ quan lãnh sự tại Lào đặt tại ba tỉnh là Pakse’, Savanakhet, Luang Phabang.
Ngược lại, Lào cũng đặt hai cơ quan lãnh sự tại Việt Nam ở thành phố Hồ Chí Minh
và Đà Nẵng.
1.1.4. Chức năng của cơ quan lãnh sự
Ngay từ khi ra đời, cơ quan lãnh sự đã đóng vai trị quan trọng trong quan hệ đối
ngoại của các nước. Để thể hiện được vai trị đó, cơ quan lãnh sự ln phải thực hiện
những chức năng mà các Điều ước quốc tế cũng như quốc gia trao cho.
Theo quy định tại Điều 5 Công ước Viên 1963 về quan hệ lãnh sự, cơ quan lãnh
sự có những chức năng sau đây:
Bảo vệ tại nước tiếp nhận các quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, pháp
nhân và công dân nước cử, trong phạm vi luật pháp quốc tế cho phép;
Phát triển quan hệ thương mại, kinh tế, văn hoá và khoa học giữa nước cử và
nước tiếp nhận cũng như thúc đẩy quan hệ hữu nghị giữa hai nước phù hợp với các
quy định của Công ước này;
Bằng mọi biện pháp hợp pháp, tìm hiểu tình hình và diễn biến trong đời sống
thương mại, kinh tế, văn hoá và khoa học của nước tiếp nhận, báo cáo tình hình đó về
Chính phủ nước cử và cung cấp thông tin cho những người quan tâm;
Cấp hộ chiếu và giấy tờ đi lại cho công dân nước cử và cấp thị thực hoặc các
giấy tờ thích hợp cho những người muốn đến nước cử;
Giúp đỡ công dân bao gồm cả thể nhân và pháp nhân của nước cử;
Hoạt động với tư cách là công chứng viên và hộ tịch viên và thực hiện những
chức năng tương tự, cũng như thực hiện một số chức năng có tính chất hành chính, với
điều kiện khơng trái với luật và quy định của nước tiếp nhận;
11
Bảo vệ quyền lợi của công dân bao gồm cả thể nhân và pháp nhân của nước cử
trong trường hợp thừa kế di sản trên lãnh thổ nước tiếp nhận, phù hợp với luật và quy
định của nước tiếp nhận;
Trong phạm vi luật và quy định của nước tiếp nhận, bảo vệ quyền lợi của những
vị thành niên và những người bị hạn chế năng lực hành vi là công dân nước cử, đặc
biệt trong trường hợp cần bố trí sự giám hộ hoặc đỡ đầu cho những người này;
Phù hợp với thực tiễn và thủ tục hiện hành ở nước tiếp nhận, đại diện hoặc thu
xếp việc đại diện thích hợp cho cơng dân nước cử trước tồn án và các nhà chức trách
khác của nước tiếp nhận, nhằm đưa ra những biện pháp tạm thời phù hợp với luật và
quy định của nước tiếp nhận để bảo vệ các quyền và lợi ích của các cơng dân đó, nếu
vì vắng mặt hoặc vì một lý do nào khác, họ không thể kịp thời bảo vệ các quyền và lợi
ích của họ;
Chuyển giao các tài liệu tư pháp và không tư pháp, hoặc thực hiện các uỷ thác tư
pháp hoặc uỷ thác lấy lời khai cho các toà án ở nước cử phù hợp với các điều ước
quốc tế hiện hành, hoặc nếu khơng có những điều ước quốc tế như vậy thì theo bất cứ
cách nào khác phù hợp với luật và quy định của nước tiếp nhận;
Thực hiện quyền giám sát và thanh tra mà luật và quy định của nước cử cho
phép, đối với tàu thuỷ có quốc tịch nước cử, tàu bay đăng ký ở nước này, thuyền bộ và
tổ bay;
Thực hiện các chức năng khác do nước cử giao cho cơ quan lãnh sự, nếu điều đó
khơng bị luật và quy định của nước tiếp nhận ngăn cấm hoặc không bị nước tiếp nhận
phản đối hoặc điều đó được quy định trong điều ước quốc tế hiện hành giữa nước cử
và nước tiếp nhận.
Như vậy, cơ quan lãnh sự không thực hiện mọi chức năng trên mọi lĩnh vực quan
hệ của nước cử lãnh sự và nước tiếp nhận lãnh sự. Đồng thời, cơ quan lãnh sự cũng chỉ
thực hiện chức năng lãnh sự trên khu vực lãnh sự đã thỏa thuận, quan hệ với chính
quyền địa phương nơi đặt cơ quan lãnh sự15 trừ trường hợp “trong những hoàn cảnh
đặc biệt và được nước tiếp nhận đồng ý, viên chức lãnh sự có thể thực hiện các chức
15
Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Quốc tế, Nxb. Cơng an nhân dân, Hà Nội, 2004, trang 287
12
năng của mình ở ngồi khu vực lãnh sự16”. Trong thực tiễn viên chức lãnh sự thực hiện
chức năng lãnh sự ngoài khu vực lãnh sự trong một số trường hợp như: tai nạn máy
bay, tàu thủy, vấn đề thừa kế khi người nước ngồi có quốc tịch của nước đại diện bị
chết…
Mặt khác, nước cử lãnh sự có thể ủy nhiệm cho một cơ quan lãnh sự đặt ở một
nước nào đó thực hiện chức năng lãnh sự ở một nước khác sau khi có thơng báo cho
các nước hữu quan đồng thời cơ quan lãnh sự cũng có thể thực hiện chức năng lãnh sự
thay mặt cho một nước thứ ba tại nước tiếp nhận nếu được nước này đồng ý sau khi có
sự thơng báo thích hợp cho nước tiếp nhận17.
16
Điều 6 Công ước Viên năm 1963
17
Điều 7, 8 Công ước Viên năm 1963
13
1.2. Tổ chức của cơ quan lãnh sự
1.2.1. Cấp của cơ quan lãnh sự và ngƣời đứng đầu cơ quan lãnh sự
Quan hệ lãnh sự được duy trì và phát triển bởi hệ thống cơ quan lãnh sự và viên
chức lãnh sự nằm trong bộ máy cơ quan đó. Bởi vậy, tìm hiểu về cấp của cơ quan lãnh
sự là cần thiết để hiểu cơ quan lãnh sự được tổ chức như thế nào.
Theo quy định tại Điều 9 Công ước Viên 1963, cơ quan lãnh sự được chia thành
bốn cấp:
- Tổng lãnh sự quán, đứng đầu là Tổng lãnh sự: được đặt ở các trung tâm thương
mại, công nghiệp, hải cảng, nơi đơng kiều dân. Ví dụ: Việt Nam đặt Tổng lãnh sự quán
tại San Francisco (Hoa Kỳ), Sydney (Ôxtrâylia), Quảng Châu (Trung Quốc)…
- Lãnh sự quán, đứng đầu là Lãnh sự
- Phó lãnh sự quán, đứng đầu là Phó lãnh sự
- Đại lý lãnh sự quán, đứng đầu là Đại lý lãnh sự (Việt Nam gọi là Tùy viên lãnh
sự): Là văn phòng được thành lập ở các cảng, với quyền hạn về các vấn đề thương
mại, hàng hải. Viên chức của Đại lý lãnh sự do Lãnh sự bổ nhiệm.
Trong đó, Phó lãnh sự quán và Đại lý lãnh sự quán thực chất là những cơ quan
được Tổng Lãnh sự quán hoặc Lãnh sự quán mở ngoài khu vực lãnh sự đã quy định
khi được nước tiếp nhận lãnh sự đồng ý18.
Trong các cơ quan trên thì Tổng lãnh sự quán là cấp cao nhất, Tổng lãnh sự là
người đứng đầu Tổng lãnh sự quán và lãnh đạo tất cả các lãnh sự của nước mình ở
nước sở tại hay tại một khu vực lãnh sự. Việc thiết lập cơ quan lãnh sự ở cấp nào là do
sự thỏa thuận giữa các quốc gia, nhưng đa số các nước thường đặt cơ quan lãnh sự ở
cấp Tổng lãnh sự quán và Lãnh sự quán.
18
Khoản 4 Điều 4 Công ước Viên năm 1963
14
Đối với Việt Nam, thì cơ quan đại diện lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài chỉ
bao gồm Tổng lãnh sự quán và Lãnh sự quán19. Theo thống kê thì hiện nay Việt Nam
đã đặt 20 Tổng lãnh sự quán tại 11 quốc gia, ở cấp lãnh sự chúng ta đã đặt Lãnh sự
quán Việt Nam tại Geneva và Lãnh sự quán Việt Nam tại NewYork20.
1.2.2. Thành viên của cơ quan lãnh sự
Cơ quan lãnh sự muốn thực hiện chức năng lãnh sự của mình phải thơng qua các
thành viên lãnh sự. Theo Công ước Viên 1963 về quan hệ lãnh sự thì thành viên cơ
quan lãnh sự bao gồm ba loại: Viên chức lãnh sự, nhân viên lãnh sự, nhân viên phục
vụ.
Viên chức lãnh sự: Bao gồm Tổng lãnh sự, Lãnh sự hoặc Trưởng phòng lãnh sự
của Đại sứ quán; Phó lãnh sự; Tùy viên lãnh sự. Bởi theo Cơng ước Viên 1963 về quan
hệ lãnh sự thì viên chức lãnh sự “có nghĩa là bất cứ người nào có nhiệm vụ thi hành
các chức năng lãnh sự trên cương vị đó, kể cả những người đứng đầu cơ quan lãnh
sự21”.
Về nguyên tắc, viên chức lãnh sự phải là người có quốc tịch nước cử22. Như vậy,
nước cử phải cử viên chức lãnh sự là người mang quốc tịch nước mình. Điều này là
phù hợp bởi lẽ việc cử lãnh sự là để nhằm thực hiện chức năng bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của cơng dân nước cử trên khu vực của nước tiếp nhận lãnh sự, nên việc có
cùng quốc tịch là điều kiện thuận lợi để các viên chức lãnh sự thực hiện chức năng
lãnh sự của mình. Tuy nhiên, đây cũng khơng phải là ngun tắc khơng có ngoại lệ,
bởi Cơng ước Viên 1963 đã cho phép các quốc gia có thể cử viên chức lãnh sự là công
dân của nước tiếp nhận lãnh sự nếu được nước này đồng ý một cách rõ ràng, và bất kỳ
19
Khoản 2 Điều 4 Luật cơ quan đại diện của Việt Nam năm 2009
20
Nguồn:
/> />21
Điểm d Khoản 1 Điều 1 Công ước Viên năm 1963
22
Khoản 1 Điều 22 Công ước Viên năm 1963
15
lúc nào nước tiếp nhận lãnh sự cũng có thể thơi khơng đồng ý nữa. Thậm chí, nước
tiếp nhận lãnh sự cũng có thể chấp nhận cơng dân của một nước thứ ba nhưng không
đồng thời mang quốc tịch nước cử lãnh sự làm viên chức lãnh sự tại nước mình23.
Trong thực tiễn quốc tế rất nhiều cơ quan đại diện ngoại giao tổ chức phòng lãnh
sự hay bộ phận lãnh sự do các cán bộ ngoại giao của cơ quan đại diện ngoại giao đảm
nhiệm. Họ chỉ mang hàm và chức vụ ngoại giao, khơng có chức vụ và hàm lãnh sự, đó
là tham tán, bí thư thứ nhất, bí thư thứ hai và tùy viên. Thực tiễn cho thấy cũng có một
số cơ quan đại diện ngoại tổ chức Tổng lãnh sự quán, hoặc Lãnh sự quán như một
phịng của cơ quan đại diện ngoại giao, trong đó người đứng đầu của cơ quan vừa
mang hàm ngại giao vừa mang hàm lãnh sự. Ví dụ, Ba Lan – Tổng Lãnh sự tại Kiep,
đồng thời có hàm tham tán cơng sứ; phịng Lãnh sự của Đại sứ qn Ba Lan tại Vương
quốc Anh cũng gọi là Tổng Lãnh sự quán24.
Bên cạnh việc được chấp nhận là viên chức lãnh sự tại nước tiếp nhận lãnh sự thì
viên chức lãnh sự cũng có thể bị nước tiếp nhận lãnh sự tuyên bố là không được chấp
nhận (Persona non grata). Trường hợp này, nước cử lãnh sự phải triệu hồi đương sự
hoặc đình chỉ cơng việc của người này tại cơ quan lãnh sự25.
Nhân viên lãnh sự: Theo Khoản 1 Điều 1 Cơng ước Viên 1963 về quan hệ lãnh
sự thì nhân viên lãnh sự được hiểu là “bất cứ người nào được tuyển dụng làm cơng
việc hành chính hoặc kỹ thuật trong cơ quan lãnh”.
Nhân viên phục vụ: có nghĩa là bất cứ người nào được cơ quan lãnh sự tuyển
dụng làm công việc phục vụ nội bộ26. Khác với viên chức lãnh sự, nhân viên hành
chính kỹ thuật và nhân viên phục vụ có thể được tuyển dụng từ công dân của một nước
23
Khoản 2, 3 Điều 22 Công ước Viên năm 1963
24
PGS.TS Vũ Dương Huân, “Ngoại giao và cơng tác ngoại giao”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, trang
222.
25
Khoản 1 Điều 23 Công ước Viên năm 1963
26
Điểm f Khoản 1 Công ước Viên năm 1963
16
thứ ba hoặc công dân của nước sở tại mà không cần sự đồng ý của nước tiếp nhận lãnh
sự27.
Theo Luật cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước
ngoài 2009, thành viên của cơ quan đại diện lãnh sự là người đứng đầu cơ quan lãnh
sự, viên chức lãnh sự và nhân viên lãnh sự28. Tại khoản 2 Điều 18 của luật này cũng
quy định, các chức vụ công tác trong cơ quan lãnh sự bao gồm: Tổng Lãnh sự, Phó
Tổng Lãnh sự, Lãnh sự, Phó Lãnh sự, Tùy viên lãnh sự. Người đứng đầu các cơ quan
lãnh sự và các thành viên khác của cơ quan này do Bộ trưởng Bộ Ngoại giao bổ
nhiệm, nhiệm kỳ công tác của các thành viên cơ quan này là 36 tháng và có thể kéo dài
nếu xét thấy cần thiết29.
Tuy nhiên, về mặt cơ cấu tổ chức, Luật cơ quan đại diện của Viêt Nam ở nước
ngồi 2009 khơng quy định cụ thể. Khoản 3 Điều 14 chỉ quy định:
Trên cơ sở đề án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, căn cứ yêu cầu hoạt
động và quan hệ đối ngoại, sau khi trao đổi thống nhất với các cơ quan hữu quan, Bộ
trưởng Bộ Ngoại giao quyết định cụ thể về cơ cấu tổ chức và nhân sự của từng cơ
quan đại diện để phụ trách các lĩnh vực sau đây:a) Chính trị;b) Quốc phòng - an
ninh;c) Kinh tế, thương mại, đầu tư, du lịch, lao động, khoa học - cơng nghệ;d) Văn
hóa, thơng tin, báo chí và giáo dục - đào tạo;đ) Lãnh sự và công tác cộng đồng người
Việt Nam ở nước ngồi; e) Hành chính, lễ tân, quản trị.
Rõ ràng, việc cơ quan lãnh sự được tổ chức như thế nào là tùy thuộc vào thực tế ở
từng quốc gia, từng khu vực lãnh sự.
1.2.3. Quyền ƣu đãi và miễn trừ lãnh sự
Chúng ta đã biết chế định lãnh sự bao gồm cơ quan lãnh sự và viên chức lãnh sự.
Viên chức lãnh sự cũng gồm hai loại là viên chức lãnh sự chuyên nghiệp được quy
27
Ths. Ngô Hữu Phước, Luật Quốc tế, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, trang 489.
28
Khoản 5 Điều 4 Luật cơ quan đại diện của Việt Nam năm 2009
29
Khoản 2 Điều 20, Khoản 1 Điều 23 Luật cơ quan đại diện của Việt Nam năm 2009.
17
định tại chương II Công ước Viên 1963 và viên chức lãnh sự danh dự được quy định
tại chương III Công ước Viên 1963. Những quyền ưu đãi và miễn trừ lãnh sự dành cho
hai loại viên chức lãnh sự này gần giống nhau. Chính vì vậy, nhằm tránh sự trùng lặp
cũng như có sự so sánh giữa hai loại viên chức lãnh sự này, tại phần 1.2.3 này, tác giả
chỉ đề cập tới quyền ưu đãi và miễn trừ lãnh sự dành cho cơ quan lãnh sự. Đối với
quyền ưu đãi và miễn trừ lãnh sự dành cho viên chức lãnh sự chuyên nghiệp xin được
đề cập ở phần 1.3 trong sự so sánh với viên chức lãnh sự danh dự.
Là một cơ quan ngoại giao của quốc gia đặt tại một quốc gia khác, thực hiện chức
năng bảo vệ cơng dân của nước mình tại lãnh thổ nước sở tại nên cơ quan lãnh sự được
hưởng những quyền ưu đãi và miễn trừ lãnh sự. Công ước Viên 1963 đã quy định cụ
thể về vấn đề này.
Thứ nhất: Cơ quan lãnh sự được quyền sử dụng và treo quốc kỳ, quốc huy. Theo
đó, nước cử lãnh sự có quyền treo quốc kỳ, quốc huy của quốc gia mình tại trụ sở cơ
quan lãnh sự, trên nhà ở của người đứng đầu cơ quan lãnh sự, trên phương tiện giao
thông của người đứng đầu cơ quan lãnh sự khi những phương tiện này được sử dụng
cho cơng việc chính thức. Để thực hiện điều này, nước cử cần phải tôn trọng pháp luật
cũng như tập quán của nước tiếp nhận lãnh sự30.
Thứ hai: Trụ sở, đồ đạc, tài sản và phương tiện giao thông của cơ quan lãnh sự
là bất khả xâm phạm. Theo đó, cơ quan có thẩm quyền của nước tiếp nhận lãnh sự
không được vào trụ sở của cơ quan lãnh sự trừ khi có sự đồng ý của người đứng đầu
cơ quan lãnh sự hoặc người đứng đầu cơ quan đại diện ngoại giao của nước cử lãnh sự.
Tuy nhiên, ngoại lệ nằm ở chỗ, nếu xảy ra hỏa hoạn hay một tai biến gì khác cần biện
pháp bảo vệ khẩn cấp thì có thể mặc nhiên coi như người đứng đầu cơ quan lãnh sự
đồng ý. Nước tiếp nhận lãnh sự có nghĩa vụ thi hành mọi biện pháp thích đáng để bảo
vệ trụ sở cơ quan lãnh sự, chống lại sự xâm nhập hay phá hoại, cũng như ngăn ngừa sự
phá rối hay giữ được tính tơn nghiêm của cơ quan lãnh sự. Trụ sở, đồ đạc, tài sản và
phương tiện giao thông của cơ quan lãnh sự không bi trưng dụng dưới bất kỳ hình thức
nào vào các mục đích quốc phịng hoặc lợi ích cơng cộng. Nếu cần lấy để dùng vào
30
Điều 29 Công ước Viên năm 1963
18
mục đích đó thì thì phải áp dụng mọi cách xử lý thích hợp tránh làm cản trở việc thi
hành chức năng lãnh sự, đồng thời phải bồi thường một cách thỏa đáng và hiệu quả
cho nước cử lãnh sự31.
Thứ ba: Quyền ưu đãi, miễn trừ về thư từ, hồ sơ, tài liệu. Mọi thư từ, hồ sơ, tài
liệu một khi đã xác định là của cơ quan lãnh sự sẽ được bảo vệ và bất khả xâm phạm
bất kể thời gian và địa điểm, dù trên lãnh thổ của nước nhận đại diện, hoặc ở một nước
thứ ba bất kỳ, thư từ, tài liệu đó có thể trên đường vận chuyển hoặc chuyển phát32.
Thứ tư, cơ quan lãnh sự được hưởng quyền tự do liên lạc. Đây là một quyền cực
kỳ quan trọng, nó thể hiện sự ưu đãi dặc biệt dành cho cơ quan lãnh sự, giúp bảo vệ an
tồn bí mật của cơ quan lãnh sự, giúp các viên chức lãnh sự thực hiện tốt chức năng
lãnh sự của mình. Theo đó, nước tiếp nhận lãnh sự sẽ cho phép và bảo vệ quyền tự do
liên lạc của cơ quan lãnh sự về mọi mục đích cơng vụ trong việc liên lạc với Chính
phủ, với phái đồn ngoại giao và các cơ quan lãnh sự khác của nước cử đóng tại bất kỳ
chỗ nào. Cơ quan lãnh sự có thể sử dụng mọi phương tiện thích hợp, kể cả giao thông
viên ngoại giao, giao thông viên lãnh sự, túi ngoại giao, túi lãnh sự, điện mật mã. Tuy
nhiên, đối với thiết bị là máy vô tuyến điện phát tin, thì cơ quan lãnh sự chỉ được đặt
và sử dụng khi được nước tiếp nhận lãnh sự đồng ý33.
Thư từ chính thức của cơ quan lãnh sự là bất khả xâm phạm. Thư từ chính thức
được hiểu là mọi thư từ liên quan đến cơ quan lãnh sự và những chức năng của cơ
quan đó. Đồng thời, túi lãnh sự không được mở ra hoặc giữ lại. Tuy nhiên, trong
trường hợp các nhà chức trách có thẩm quyền của nước tiếp nhận lãnh sự có lý do
chính đáng để tin rằng túi lãnh sự đó có chứa các thứ khác ngồi thư từ, tài liệu lãnh sự
thì họ có thể yêu cầu một người đại diện có thẩm quyền của nước cử lãnh sự mở túi
trước mặt họ. Kết quả là, nếu nhà đương cục từ chối việc u cầu đó thì túi lãnh sự sẽ
được trả về nơi xuất phát. Đồng thời, túi lãnh sự cũng có thể được giao cho người chỉ
huy tàu thủy hoặc máy bay thương mại được phép đến một cửa khẩu nhất định. Khi
31
Khoản 2, Khoản 4 Điều 31 Công ước Viên năm 1963.
32
Điều 33 Công ước Viên năm 1963.
33
Khoản 1, Điều 35 Công ước Viên năm 1963.
19
đó, người chỉ huy tàu thủy hoặc máy bay phải mang theo giấy tờ chính thức chỉ rõ số
lượng các gói tạo thành túi lãnh sự, nhưng khơng được coi là giao thơng viên lãnh sự.
Cơ quan lãnh sự có thể thu xếp với nhà đương cục địa phương có thẩm quyền để cử
người trực tiếp nhận túi lãnh sự từ người chỉ huy tàu thủy hay máy bay34.
Thứ năm: Cơ quan lãnh sự đượcmiễn các thứ thuế và lệ phí. Theo đó, trụ sở cơ
quan lãnh sự và nhà ở của người đứng đầu cơ quan lãnh sự là viên chức lãnh sự
chuyên nghiệp được miễn mọi thứ thuế và lệ phí của Nhà nước và địa phương, trừ
những khoản tiền trả cho các công việc phục vụ. Trụ sở cơ quan lãnh sự có thể do
nước cử hoặc người thay mặt nước đó sở hữu hoặc thuê. Tuy nhiên, nước tiếp nhận
lãnh sự cũng có thể quy định các khoản thuế và lệ phí mà người ký hợp đồng với nước
cử hoặc với người thay mặt nước đó phải trả35.
Như vậy, việc được hưởng những quyền ưu đãi và miễn trừ cho thấy cơ quan
lãnh sự được tạo mọi điều kiện thuận lợi để hoàn thành sứ mệnh cao cả của mình tại
lãnh thổ nước tiếp nhận lãnh sự. Điều đó khơng chỉ là nghĩa vụ của các quốc gia mà
cịn thể hiện thiện chí của các quốc gia dành cho nhau trong xu hướng tồn cầu hóa
hiện nay.
1.3. Chế định lãnh sự danh dự
1.3.1. Đôi nét về lãnh sự danh dự
Chế định lãnh sự danh dự xuất hiện từ lâu đời trong quan hệ đối ngoại giữa các
quốc gia. Lãnh sự danh dự cùng với lãnh sự chuyên nghiệp là hai loại viên chức lãnh
sự thuộc cơ quan lãnh sự ở nước ngồi, góp phần thúc đẩy quan hệ ngoại giao giữa các
nước hữu quan.
Lãnh sự danh dự trong luật quốc tế là một chế định tùy nghi, theo đó mỗi quốc
gia có quyền tự quyết định cần hay không cần viên chức lãnh sự ở nước ngoài. Thực
tiễn pháp lý cho thấy, lãnh sự danh dự thường là những luật gia, những nhà kinh
34
Khoản 3, Khoản 7 Điều 35 Công ước Viên năm 1963
35
Khoản 1, Khoản 2 Điều 32 Công ước Viên năm 1963
20
doanh, hay những nhà hoạt động xã hội… Lãnh sự danh dự là người không nằm trong
biên chế của bộ máy cơ quan lãnh sự và cơ quan đại diện ngoại giao nhưng thực hiện
một số chức năng lãnh sự nhất định do Việt Nam giao cho, sau khi có sự đồng ý của
nước tiếp nhận lãnh sự36.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Luật cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngồi năm 2009 thì: “Trong trường hợp có u cầu về
cơng tác lãnh sự nhưng chưa có điều kiện thành lập cơ quan đại diện lãnh sự hoặc bổ
nhiệm viên chức lãnh sự thì Bộ Trưởng Bộ Ngoại giao có thể bổ nhiệm lãnh sự danh
dự”. Cũng theo quy định của luật này, “Lãnh sự danh dự là viên chức lãnh sự không
chuyên nghiệp và không phải là cán bộ, công chức, viên chức Việt Nam, bao gồm
Tổng Lãnh sự danh dự và Lãnh sự danh dự37.
Theo đó, lãnh sự danh dự được lập ở những nơi có yêu cầu cơng việc lãnh sự,
song do có khó khăn về tài chính hoặc do nước cử chưa lập được cơ quan lãnh sự
chuyên nghiệp. Thực tiễn cho thấy lãnh sự danh dự có thể là cơng dân nước cử, nước
tiếp nhận hay công dân của một nước thứ ba. Tuy nhiên, thông thường lãnh sự danh dự
là công dân của nước sở tại, có vị trí xứng đáng và uy tín trong giới hoạt động chính
trị, giới chun mơn nghề nghiệp và kinh doanh38.
Hiện nay trên thế giới có khoảng hơn 15.000 lãnh sự danh dự. Đặc biệt hình thức
lãnh sự danh dự được áp dụng rộng rãi ở các nước Mỹ Latinh, châu Âu, điển hình là
Phần Lan và Hà Lan. Tại Phần Lan có 75 Đại sứ quán, 7 Tổng Lãnh sự quán và 3 Lãnh
sự quán nhưng có trên 400 lãnh sự danh dự; tại Hà Lan có 110 Đại sứ quán, 27 Tổng
Lãnh sự quán, 15 các cơ quan và phái đồn đại diện, nhưng cũng có tới 360 lãnh sự
danh dự. Bên cạnh đó tại khu vực Đông Nam Á, Philippin là nước đang xây dựng
mạng lưới lãnh sự danh dự gần như song hành các cơ quan lãnh sự chuyên nghiệp39.
36
Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Quốc tế, Nxb. Cơng an nhân dân, Hà Nội, 2004, trang 290.
37
Khoản 4 Điều 8 Luật cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài năm 2009
38
PGS.TS Vũ Dương Huân, “Ngoại giao và công tác ngoại giao”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, trang
223.
39
/>
21