TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT QUỐC TẾ
KHĨA LUẬN CỬ NHÂN LUẬT
ĐỀ TÀI:
LUẬT NHÂN ĐẠO QUỐC TẾ:
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
SVTH : VŨ THỊ THU TRANG
GVHD : Th.S - GVC NGUYỄN NGỌC LÂM
MSSV : 3120192
LỚP : CLCK31
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2010
LỜI CÁM ƠN
Trong q trình học tập cũng như hồn thành khóa luận này,
em đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, hỗ trợ từ Thầy cơ, gia đình,
bạn bè. Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến thầy Nguyễn
Ngọc Lâm, người đã hướng dẫn, chỉ bảo tận tình trong suốt thời
gian em thực hiện khóa luận này.
Em xin cảm ơn gia đình ln là chỗ tựa vững chắc cho em
và bạn bè đã động viên và giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập.
Cảm ơn sự giúp đỡ của các bạn trong lớp Chất lượng cao K31.
Đề tài là một cơng trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc
của bản thân, song vì thời gian khơng nhiều, đề tài cịn mới mẻ nên
tài liệu tham khảo khơng có nhiều, hơn nữa do trình độ nghiên cứu
của bản thân cịn hạn chế. Vì lẽ đó chắc chắn đề tài khơng tránh
khỏi những thiếu sót nhất định, em mong các Thầy, Cơ trong hội
đồng bảo vệ Khố luận góp ý, sửa chữa để giúp em hoàn thiện hơn
đề tài của mình..
Xin chân thành cảm ơn!
TP.HCM, ngày 28 tháng 7 năm 2010
VŨ THỊ THU TRANG
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ............................................................................................................. 1
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ LUẬT NHÂN ĐẠO QUỐC TẾ ........................... 4
1.1 Khái niệm về Luật nhân đạo quốc tế ................................................................. 4
1.1.1 Sơ lược về sự hình thành và phát triển của Luật nhân đạo quốc tế ................. 4
1.1.2 Nguồn và những nguyên tắc cơ bản của luật nhân đạo quốc tế ...................... 8
1.1.3 Ý nghĩa và phạm vi áp dụng của luật nhân đạo quốc tế trong điều kiện
quốc tế ngày nay........................................................................................................... 10
1.1.3.1 Ý nghĩa của Luật nhân đạo quốc tế ......................................................... 10
1.1.3.2 Phạm vi áp dụng của Luật nhân đạo quốc tế trong điều kiện hiện nay ... 11
1.2 Những nội dung cơ bản và xu hƣớng phát triển của Luật nhân đạo trong
một số điều ƣớc quốc tế. ............................................................................................ 17
1.2.1. Công ước Giơnevơ và Nghị định thư bổ sung ............................................. 17
1.2.1.1 Quy tắc bảo vệ những người bị thương, bị ốm, bị đắm tàu .................... 18
1.2.1.2 Những quy tắc bảo vệ và đối xử tù binh (Công ước Geneve III) ............ 24
1.2.1.3 Các quy tắc bảo vệ thường dân (Công ước IV) ....................................... 29
1.2.2 Tập quán về nhân đạo .................................................................................... 33
1.2.3. Xu hướng phát triển của luật nhân đạo quốc tế trong điều kiện quốc tế
hiện nay ....................................................................................................................... 36
1.3 Vấn đề nhân đạo và áp dụng luật nhân đạo ở Việt Nam ............................... 38
1.3.1 Tư tưởng nhân đạo Hồ Chí Minh trong tư duy lập pháp Việt Nam ............. 38
1.3.2 Việt Nam tham gia và thực hiện các công ước quốc tế về Luật nhân đạo
quốc tế ......................................................................................................................... 41
1.3.3 Hội chữ thập đỏ Việt Nam và vai trị của nó trong sự phát triển luật nhân
đạo ở Việt Nam. ........................................................................................................... 42
CHƢƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG LUẬT NHÂN ĐẠO QUỐC TẾ
TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY ............................................................................ 45
2.1 Thực tiễn áp dụng Luật nhân đạo quốc tế thông qua hoạt động của Hội
chữ thập đỏ tại các quốc gia ...................................................................................... 45
2.1.1 Châu Phi ....................................................................................................... 46
2.1.2 Châu Á .......................................................................................................... 47
2.1.3 Châu Âu và Châu Mỹ ................................................................................... 49
2.1.4 Trung Đông và Bắc Phi ................................................................................ 51
2.2 Thực tiễn áp dụng Luật nhân đạo thông qua hoạt động xử lý vi phạm
của Tòa án quốc tế...................................................................................................... 52
2.2.1 Khởi tố Thomas Lubanga Dyilo .................................................................... 53
2.2.2 Khởi tố Germain Katanga and Methieu Ngudjolo Chui .............................. 54
2.2.3 Khởi tố Joseph Kony, Vincent Otti, Okot Odhiambo, Dominic Ongwen
và Raska Lukwiya (Uganda) ........................................................................................ 55
2.2.4 Khởi tố Ahmad Muhammad Harun và Ali Muhammad Ali Abd – AlRahman ( Sudan) .......................................................................................................... 55
2.2.5 Khởi tố Jean-Pierre Bemba Gombo Jean-Pierre Bemba Gombo (Cộng
hòa Trung Phi).............................................................................................................. 56
2.3 Quan hệ giữa Luật nhân đạo quốc tế và Luật quốc tế về nhân quyền
trong xu thế phát triển của quốc tế ngày nay ......................................................... 59
2.3.1 Thuật ngữ “nhân đạo” và “nhân quyền” ........................................................ 59
2.3.2 Tác động qua lại trong việc điều chỉnh quan hệ xã hội của Luật nhân đạo
và Luật quốc tế về nhân quyền ..................................................................................... 61
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thiên tai, thảm họa, bạo lực, chiến tranh…luôn là những vấn đề nan giải, đi
kèm với nó là những sự mất mát to lớn về nhân mạng và vật chất, đó là điều tưởng
chừng như không thể tránh khỏi, nhưng với nhận thức tiến bộ và một giá trị văn minh
của nhân loại được hình thành nhằm để khắc phục, hạn chế những thiệt hại của thiên
tai, bạo lực, chiến tranh mang lại đó là tư tưởng về chủ nghĩa nhân đạo. Ngày nay do
sự phát triển sâu rộng của các quan hệ quốc tế nói chung và vấn đề về nhân đạo nói
riêng, đã làm cho vấn đề nhân đạo khơng chỉ còn là vấn đề riêng của từng quốc gia hay
một số quốc gia mà đòi hỏi sự nỗ lực hợp tác của tồn nhân loại. Từ đó, Luật nhân đạo
quốc tế ra đời, điều chỉnh và bảo vệ các đối tượng là con người và những giá trị văn
hóa, tinh thần trong những điều kiện nhất định.
Trong tình hình quốc tế hiện tại vẫn có sự tồn tại và gia tăng bạo lực ở các khu
vực Trung Đông, Thái Lan, Kyrgyzstan,… cũng như quan hệ căng thẳng kéo dài giữa
một số nước đặc biệt là giữa Hàn Quốc và Triều Tiên hiện nay. Các cuộc xung đột vũ
trang đã, đang và có thể xảy ra bất cứ lúc nào và không thể loại trừ nguy cơ lan rộng ra
phạm vi toàn thế giới tạo thành chiến tranh thế giới thứ III như lo sợ của một số nhà xã
hội học, chính trị dự báo. Vì lẽ đó mà việc tìm hiểu và phổ biến Luật nhân đạo quốc tế
lại càng trở thành vấn đề cấp thiết trong điều kiện hiện nay. Sự hiểu biết về ngành luật
này sẽ mang lại những lợi ích thiết yếu cho con người để tự bảo vệ mình, hiểu rõ quyền
lợi cũng như nghĩa vụ phải tôn trọng những quy định pháp luật đặc biệt trong từng
hoàn cảnh nhất định.
Qua thực tiễn đấu tranh phát triển của nhân loại đã cho thấy tầm quan trọng, tính
cấp thiết của những văn kiện quốc tế về nhân đạo. Để có một cách nhìn nhận tồn diện
cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn, tác giả đã mạnh dạn chọn đề tài: “Luật nhân đạo
quốc tế: Lý luận và thực tiễn áp dụng” làm khoá luận tốt nghiệp cử nhân luật của
mình.
2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là khái quát những vấn đề cơ bản của Luật nhân
đạo quốc tế, từ đó đối chiếu và phân tích những vấn đề liên quan đến nhân đạo xảy ra
trên thực tế hiện nay, nhằm đánh giá vai trò và sự cần thiết của Luật nhân đạo quốc tế
trong điều kiện quốc tế hiện nay.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này tác giả tập trung vào tìm hiểu tổng quan
về Luật nhân đạo quốc tế từ khái niệm đến nội dung và thực tiễn áp dụng Luật nhân
đạo quốc tế trong điều kiện hiện nay với các vấn đề chính sau đây:
- Tổng quan về Luật nhân đạo quốc tế, trong đó tác giả nêu khái quát, nội dung
và Việt Nam đối với ngành luật này. Tuy nhiên, phạm vi của ngành luật này rất rộng
cùng với hệ thống nhiều các Công ước, Nghị định thư, Tuyên bố… nên phần nội dung
chính ngoài giới thiệu về tập quán nhân đạo quốc tế và xu hướng phát triển, tác giả chỉ
đề cập tới bốn Công ước Geneve và Hai nghị định thư bổ sung là xương sống của Luật
nhân đạo quốc tế. Phần liên hệ tới Việt Nam tác giả nêu lên tư tưởng nhân đạo xuyên
suốt lịch sử, sự gia nhập và thực hiện các công ước của Việt Nam và vai trò của Hội
chữ thập đỏ.
- Luật nhân đạo quốc tế có nhiều các phương pháp để thực thi qua sự tự nguyện
thi hành của các quốc gia, qua các tổ chức quốc tế, tòa án quốc tế… Trong đề tài tác
giả chỉ đề cập tới quá trình thực hiện Luật nhân đạo của tổ chức có ý nghĩa như là
người sáng lập ra ngành luật này – Hội chữ thập đỏ quốc tế và sự trừng phạt đối với
những tội ác quốc tế, các trường hợp vi phạm bị xử lý bởi Tịa án hình sự quốc tế. Cuối
cùng, tác giả đề cập tới một thực tiễn, xu hướng phát triển mới nhất của Luật nhân đạo
quốc tế đó là sự phân biệt cũng như kết hợp nhất định với Luật nhân quyền quốc tế.
3. Tình hình nghiên cứu đề tài
Luật nhân đạo quốc tế dù đã được nghiên cứu sâu sắc và tiếp cận dưới nhiều góc
độ khác nhau đối với một số quốc gia nhưng vẫn là một đề tài khá mới mẻ đối với Việt
Nam và có thể nói, trong một chừng mực nhất định nó chưa thực sự được quan tâm ở
Việt Nam. Bằng chứng là các giáo trình, tài liệu bài viết về Luật nhân đạo quốc tế
trong các sách báo pháp lý ở Việt Nam rất ít, theo tìm hiểu của tác giả thì vấn đề này
được đề cập đến trong một số bài viết như “Vấn đề nhân đạo trong Luật quốc tế hiện
đại” của tác giả Lê Hồng Sơn trong Tạp chí Nhà nước và Pháp luật (số 6/2001) và
“Luật nhân đạo quốc tế và việc bảo hộ nạn nhân chiến tranh” của tác giả Vũ Công
“Luật nhân đạo quốc tế - Những nội dung cơ bản” của Trung tâm nghiên cứu quyền
con người...Nhìn chung, về vấn đề nhân đạo và Luật điều chỉnh về vấn đề này chưa có
các cơng trình nghiên cứu mang tính tồn diện nhìn ở cả góc độ lý luận và thực tiễn.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Về phương pháp nghiên cứu: các nội dung được nghiên cứu trong khóa luận đều
dựa trên các nguyên lý của Chủ nghĩa Mác – Lê nin; tư tưởng Hồ Chí Minh; chủ
trương, đường lối của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế. Ngoài ra trong quá trình phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật về vấn
đề nhân đạo và việc vận dụng nó vào thực tiễn, các phương pháp khác cũng được áp
dụng như phương pháp phân tích, chứng minh, tổng hợp để đạt được mục đích khi
nghiên cứu các vấn đề trong phạm vi mà khóa luận đặt ra.
5. Bố cục đề tài
Bố cục của đề tài ngoài phần mở đầu, mục lục, kết luận và danh mục tài liệu
tham khảo, đề tài được trình bày thành 2 chương:
Chương I: Tổng quan về Luật nhân đạo quốc tế.
Chương II: Thực tiễn áp dụng Luật nhân đạo quốc tế trong điều kiện hiện nay.
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ LUẬT NHÂN ĐẠO QUỐC TẾ
1.1. KHÁI NIỆM LUẬT NHÂN ĐẠO QUỐC TẾ
1.1.1. Sơ lƣợc về sự hình thành và phát triển của Luật nhân đạo quốc tế
Trong xã hội hội dù là nguyên thủy hay hiện đại, để một cá nhân có thể sống
hịa hợp trong cộng đồng thì điều tất yếu là người đó phải có những hành vi xử sự nhất
định phù hợp với các chuẩn mực công bằng xã hội đưa ra. Tuy nhiên, không phải mọi
quy tắc, tập quán ngầm định những nguyên tắc xử sự của con người đều được nhận
thức và quy định rõ ràng để trở thành luật pháp có tính ràng buộc cao. Cũng như những
ngành luật khác, Luật nhân đạo quốc tế cũng có một q trình dài hình thành và phát
triển xuất phát từ những mâu thuẫn đảo lộn trật tự xã hội, trước hết bắt nguồn từ thực
tiễn và từ những ý tưởng, học thuyết của các nhà hoạt động chính trị, xã hội, các học
giả lỗi lạc.
Tư tưởng nhân đạo đã xuất hiện những mầm mống sơ khai đầu tiên bắt đầu từ
khi con người sống thành những thị tộc, bộ lạc đã có mong muốn tìm đến những vùng
đất với tài nguyên thiên nhiên giàu có, nhưng tài nguyên là có hạn khi có quá nhiều
người cùng tranh giành, từ đó tranh chấp xảy ra trước hết là từ những nhóm người, bộ
lạc và trở thành giữa các dân tộc, quốc gia. Nếu chiến tranh là sự đảo lộn trật tự xã hội,
tranh giành, chém giết, cướp bóc… tất cả để nhằm đạt được mục đích khơng từ một thủ
đoạn nào dù là có hay khơng phù hợp đạo đức thì liệu xã hội con người cịn có thể tồn
tại hay khơng? Từ đó đã hình thành nên một câu hỏi lớn đó là liệu các quy phạm pháp
luật có thể phát huy tác dụng trong các cuộc xung đột vũ trang?
Thực tại cùng với những hậu quả nghiệt ngã, đau thương do chiến tranh mang
lại đã làm cho một số người tin rằng chiến tranh khốc liệt chỉ có bạo lực, hận thù, chém
giết và trong bối cảnh đen tối đẫm máu ấy tất cả chỉ có một kết quả là kẻ chiến thắng
và kẻ chiến bại chứ khơng có một luật lệ nào được tôn trọng. Quan điểm ấy đã tồn tại
và ăn sâu trong tiềm thức của một số người nên họ phủ nhận sự tồn tại và ý nghĩa của
mọi luật lệ, quy tắc về bất cứ vấn đề nào nói chung hay nhân đạo nói riêng trong chiến
tranh dù là từ thời xa xưa hay thời hiện đại. Vì lý do gì mà quan điểm này dường như
trở nên được tin tưởng khá rộng rãi trong một số đơng quần chúng? Có thể ngun
nhân xuất phát từ cơ chế thi hành của Luật nhân đạo quốc tế. Không có một cơ quan,
bộ máy cưỡng chế nào sẽ làm nhiệm vụ tuân thủ luật lệ cho các bên tham chiến mà lý
do duy nhất để Luật nhân đạo được tuân thủ là dựa trên tinh thần tự nguyện và được
tuyên truyền, thuyết phục vận động nhằm khơi dậy tình cảm con người tồn tại vượt lên
chiến tranh và thù hận.
Tuy nhiên, lịch sử của nhân loại về các cuộc xung đột vũ trang lại cho thấy điều
ngược lại với quan điểm đã nêu trên rằng không phải mọi cuộc chiến tranh diễn ra đều
không tồn tại những quy tắc hay tập quán có thể là ngầm định hoặc là thỏa thuận trực
tiếp giữa các bên xung đột. Xuyên suốt chiều dài lịch sử hình thành, phát triển của lồi
người những tư tưởng ấy vơ tình hoặc đã được sắp đặt mà tồn tại và cũng từ đó đặt nền
tảng cho sự thành lập một ngành luật đó là Luật nhân đạo quốc tế.
Những tập quán ở thời kỳ đầu, đơi khi chỉ mang tính “có đi có lại” hoặc nhằm
mục đích kinh tế nhưng dù sao, việc thực thi chúng rõ ràng đưa đến kết quả mang tính
nhân đạo.1 Lâu ngày, từ những tập quán, thỏa thuận nhỏ này dần đã tạo thành một hệ
thống các quy tắc và mục đích nhân đạo có một vị trí ngày một quan trọng hơn trong
các tập quán chiến tranh. Không chỉ là tập quán, ý thức truyền miệng nữa mà Luật
nhân đạo đã được ghi nhận cả trong sử sách, kinh bổn của các tơn giáo điển hình như là
Sử thi Mahabharata, Kinh thánh, Kinh Koran, Kinh Phật,... tuy những nguyên tắc nhân
đạo này không chi phối rộng rãi mà chỉ giới hạn ràng buộc đối với từng tôn giáo, từng
cuộc chiến cụ thể.
Hơn nữa, không chỉ dừng lại ở trong sách vở lưu truyền lại mà những quy tắc
nhân đạo còn được quy định trong Bộ luật thành văn. Thống kê sơ bộ cho thấy, từ thời
tiền sử của nhân loại cho đến khi văn kiện đầu tiên của Luật nhân đạo quốc tế hiện đại
được thơng qua đã có khoảng 500 bản thỏa thuận, nguyên tắc ứng xử, bộ luật và những
1
Xem: Luật nhân đạo quốc tế những nội dung cơ bản – Trung tâm nghiên cứu quyền con người. NXB Lý luận Chính trị 2005
- trang 36
văn kiện khác có liên quan đến vấn đề này được nhiều dân tộc khắp nơi trên trái đất
ban hành.2 Tiêu biểu có những văn kiện nổi tiếng như: Bộ luật Hamurabi (ban hành
vào thời 1728-1686 trước công nguyên), Luật Manu (ban hành vào năm 400 trước
công nguyên), Viqayet (được viết vào cuối thế kỷ XIII) thời điểm người Ả rập thống trị
Tây Ban Nha đều chứa đựng các quy tắc xử sự trong chiến tranh. Đến giữa thế kỷ XIX,
một văn bản chuyên biệt quy định về những quy tắc xử sự trong từng hoàn cảnh cụ thể
ra đời như là một bước tiến của nhân loại trong việc pháp điển hóa những tập quán và
những luật lệ chiến tranh đó là Lieber Code. Ngun tắc chính trong bộ luật này là đối
xử nhân đạo với kẻ thù đã bị loại khỏi vịng chiến đấu nhưng nó chỉ ràng buộc đối với
lực lượng vũ trang Hoa Kỳ chứ không có hiệu lực đối với các bên khác.
Khởi nguồn từ những tư tưởng nhân đạo xuất hiện rải rác khắp nơi trong lịch sử
nhân loại, Luật nhân đạo quốc tế hiện đại chính thức được hình thành bắt đầu từ trận
chiến giữa Áo, Pháp và Ý diễn ra tại Solferino (miền Bắc nước Ý) vào tháng 6/1859.
Chứng kiến trận chiến thảm khốc với sự đau đớn của hàng vạn người bị thương, chết,
nằm la liệt trên chiến trường, một công dân Thụy Sĩ là Henri Duanant vô cùng xúc
động và đã cùng một số người tình nguyện khác vận động cứu chữa, làm tất cả những
gì có thể để giảm thiểu đau đớn cho họ. Sau tất cả sự việc đó, Henri về Thụy Sĩ và
cuốn sách “Kỷ niệm về Solferino” (xuất bản năm 1862) trong đó ơng đã miêu tả lại nỗi
thống khổ mà các binh sĩ phải chịu đựng trong chiến tranh và đề xuất ý tưởng thành lập
một tổ chức quốc tế nhằm cứu chữa, chăm sóc cho tất cả nạn nhân chiến tranh không
phân biệt chủng tộc, quốc tịch, tôn giáo hoặc bên tham chiến. Sau khi cuốn sách được
xuất bản đã gây được tiếng vang lớn trên toàn châu Âu và vài tháng sau khi cuốn sách
được xuất bản một Ủy ban– là tiền thân của Hội chữ thập đỏ sau này, được thành lập ở
Geneve. Mục tiêu chính của Ủy ban này là kiểm tra tính khả thi trong đề xuất của
Henri và tìm cách để hiện thực hóa nó.
Một năm sau, Ủy ban Geneve đã thuyết phục được Chính phủ Thụy Sĩ tổ chức
Hội nghị ngoại giao vào tháng 8/1864 với sự tham gia của 16 quốc gia và Công ước
Geneve về cải thiện tình trạng của thương binh trên chiến trường (Geneve Convention
2
Xem: Marco Sassòu and Antoine A.Bouvier - How does Law Protect in war, ICRC, Geneva 2006 - trang 122.
for the Amelioration of the Condition of the Wounded in Amies in the Field) ra đời.
Công ước Geneve 1864 đã trở thành Công ước quốc tế đầu tiên điều chỉnh quan hệ
giữa các bên tham chiến trong chiến tranh khởi nguồn từ đề xuất của Henri Dunant.
Văn kiện này được gọi là Công ước Geneve lần thứ nhất, đã đặt ra nguyên tắc về sự
phổ biến và hòa hợp trong các vấn đề chủng tộc, dân tộc, tôn giáo; đồng thời xác định
dấu hiệu của Hội chữ thập đỏ quốc tế là một lá cờ có chữ thập đỏ trên nền trắng (ở
những nước Hồi giáo, cờ hiệu mang hình lưỡi liềm đỏ trên nền trắng) và những người
mang dấu hiệu này được các bên tham chiến chấp nhận như là các nhân viên, các cơ sở
y tế và được coi là trung lập3. Từ đó, Luật nhân đạo quốc tế hiện đại ra đời và Công
ước Geneve lần thứ nhất là văn kiện đặt nền tảng cho ngành luật này trong pháp luật
quốc tế.
Chiến tranh và sự tàn phá của nó cũng đi kèm theo với sự tiến bộ trong những
thành tựu khoa học kỹ thuật của con người. Các cuộc xung đột vũ trang ngày càng gay
gắt hơn với sự xuất hiện của nhiều loại vũ khí hủy diệt chưa từng tồn tại vào thời điểm
ra đời Công ước Geneve lần thứ nhất. Tất cả đòi hỏi phải có sự sửa đổi, bổ sung thêm
những quy tắc mới trong chiến tranh để đảm bảo tính nhân đạo. Từ đó, một loạt các
văn kiện khác cũng được ban hành với nhiều nội dung, phạm vi tác động khác, một số
văn kiện tiêu biểu4 nhất có ý nghĩa quan trọng, là bước ngoặt đối với sự phát triển của
Luật nhân đạo quốc tế như:
3
Xem: Vũ Công Giao – Luật nhân đạo quốc tế và việc bảo hộ nạn nhân chiến tranh - Tạp chí nhà nước và pháp luật số
6/2001, trang 65.
44
Luật Geneve: bao gồm các Cơng ước được hình thành dưới sự tác động của Hội chữ thập đỏ và thông qua tại Hội nghị
ngoại giao tổ chức tại Geneve. Các văn kiện này nhằm bảo vệ nạn nhân của các cuộc xung đột vũ trang. Các văn kiện của yếu
là Công ước Geneve năm 1864, 1906, 1929 và bốn Công ước Geneve năm 1949.
Luật Lahay: là những văn kiện được thơng qua trong các hội nghị hịa bình tổ chức tại Lahay vào 1899 (Công ước Lahay số
II, III) và 1907 (Công ước Lahay số III – XV) điều chỉnh các vấn đề về phương thức tiến hành chiến tranh, các vũ khí,
phương tiện, biện pháp tiến hành chiến tranh.
Luật Liên Hiệp Quốc: là các văn kiện, Công ước do Liên Hiệp Quốc ban hành và thông qua bao gồm Các Công ước ngăn
ngừa và trừng trị tội diệt chủng; Công ước về việc không áp dụng thời hiệu đối với các tội phạm chiến tranh và tội phạm
chống nhân loại, cấm sử dụng vũ khí vi trùng, vũ khí hóa học,… Mục tiêu chung của các văn kiện này là đảm bảo quyền con
người, hạn chế hoặc chống lại các loại vũ khí nguy hiểm có nguy cơ diệt chủng.
Các văn kiện của các quốc gia hay một khu vực điều chỉnh trong phạm vi hẹp như Hội nghị quốc tế và các văn kiện về xét
xử tội phạm chiến tranh được các nước Đồng minh thông qua năm 1945, những Công ước bảo vệ tài sản văn hóa trong thời
gian chiến tranh…
– 1906 Công ước Geneve lần thứ nhất được sửa đổi nhằm bảo vệ hiệu quả hơn
các nạn nhân các cuộc chiến tranh trên đất liền và mở rộng ra các cuộc chiến tranh trên
biển trong một năm sau.
– 1925 Nghị định thư về cấm sử dụng hơi cay, hơi độc ra đời.
– 1929 sửa đổi Công ước Geneve lần thứ nhất và thông qua Công ước về đối xử
với tù binh.
– Tại hội nghị ngoại giao từ tháng 4 đến tháng 8/1949, Công ước Geneve I, II, III,
IV ra đời sửa đổi và dựa trên nội dung của các Cơng ước trước đó, mở rộng đối tượng
bảo vệ đến thường dân và thiết lập các quy tắc tối thiểu mà các bên tham chiến phải
tuân thủ.
– Sau đó, nhiều dạng xung đột vũ trang mới xuất hiện có nhu cầu cần phải điều
chỉnh làm ra đời hai nghị định thư quan trọng bổ sung cho bốn Công ước trên. Hai
Nghị định thư này củng cố việc bảo hộ các nạn nhân của xung đột vũ trang mang tính
chất quốc tế (Nghị định thư I) và trong xung đột vũ trang khơng mang tính chất quốc tế
(Nghị định thư II).
1.1.2. Những nguyên tắc cơ bản của Luật nhân đạo quốc tế
Cũng như các ngành luật khác, Luật nhân đạo quốc tế được hình thành xuất phát
từ những tơn chỉ, đường hướng, mục tiêu và có những nguyên tắc cơ bản làm định
hướng cho nội dung trong các văn kiện của ngành luật này. Đó là những quy tắc tối
thiểu và chung nhất mà các bên tham chiến phải tuân thủ để đảm bảo được mục tiêu
nhân đạo. Tuy nhiên, Luật nhân đạo ra đời với mục tiêu ngăn chặn, hạn chế bạo lực
nhưng lại không thể cấm việc sử dụng bạo lực bởi việc sử dụng bạo lực để giải quyết
tranh chấp giữa các bên tham chiến là một điều tất yếu, đó là bản chất của chiến tranh.
Hiểu được rằng khi chiến tranh xảy ra là điều không thể tránh khỏi thì việc nên làm
khơng phải là cố gắng ảo tưởng cấm nó xảy ra mà đưa nó vào trong những khuôn khổ
nên tuân thủ. Do vậy, Luật nhân đạo quốc tế không ngăn cản các hành vi của các bên
tham chiến như sử dụng bạo lực để đánh bại đối phương bằng cách làm suy giảm và
tiêu diệt sức mạnh quân sự của kẻ thù, gây ra những thương vong về người và tài sản
đối với các đối tượng tham chiến như những binh sĩ mang vũ khí chiến đấu, những
mục tiêu quân sự,… Các tư tưởng chỉ đạo được hình thành từ quá trình phát triển lâu
dài của tinh thần nhân đạo và phạm vi áp dụng của nó ngày càng được mở rộng theo
thời gian. Đến thời điểm hiện nay thì Luật nhân đạo quốc tế được áp dụng trong bất cứ
trường hợp nào, không phụ thuộc vào quy mô hay loại hình chiến tranh hay mục đích
của các cuộc xung đột đó. Hơn nữa, Luật nhân đạo cũng đương nhiên được áp dụng mà
khơng cần phải xét tới tính chất của các bên tham chiến dù khi phát động chiến tranh là
chính nghĩa hay phi nghĩa đều phải tuân thủ các nguyên tắc:
(i) Nguyên tắc cấm tấn công và bảo hộ những người khơng tham gia hoặc bị loại
khỏi vịng chiến, nội dung cơ bản của nguyên tắc này quy định: những người nằm
ngồi và những người bị loại khỏi vịng chiến phải được tôn trọng về sinh mạng, được
đảm bảo toàn vẹn về thân thể và tinh thần. Trong mọi trường hợp, các đối tượng trên
phải được bảo hộ và đối xử nhân đạo khơng có bất kỳ sự phân biệt nào. Nghiêm cấm
việc giết hoặc làm bị thương đối phương khi họ đã quy hàng hoặc đã bị loại khỏi vịng
chiến đấu.
(ii) Ngun tắc nhân đạo, tơn trọng quyền tối thiểu của tù binh và những người bị
đối phương bắt giữ. Người bị thương hoặc bị ốm phải được thu gom lại và chăm sóc
bởi bên đối phương đang cầm giữ họ. Các nhân viên y tế, các trạm và phương tiện vận
chuyển và trang thiết bị y tế phải được tôn trọng và bảo vệ. Biểu tượng Chữ thập đỏ và
Trăng lưỡi liềm đỏ trên nền trắng là dấu hiệu bảo hộ những người và vật dụng nói trên
nên phải được tôn trọng. Tù binh và dân thường bị phía đối phương bắt giữ phải được
tơn trọng về sinh mạng, phẩm giá, các quyền tự do và tư tưởng cá nhân, chính trị, tín
ngưỡng và tập tục tơn giáo. Cấm sử dụng các hành động bạo lực hoặc trả đũa đối với
họ. Họ được bảo đảm quyền liên lạc với gia đình và tiếp nhận sự cứu trợ. Mỗi người
đều có quyền hưởng các bảo đảm luật pháp thiết yếu. Không ai phải chịu trách nhiệm
về những việc mà họ không vi phạm. Không được tra tấn về thể chất và tinh thần, dùng
nhục hình hoặc đối xử tàn bạo hoặc làm mất nhân phẩm đối với họ.
(iii) Nguyên tắc hạn chế tối thiểu những thương vong không cần thiết. Các bên
tham chiến và thành viên các lực lượng vũ trang phải tuân thủ việc hạn chế sử dụng các
biện pháp và phương tiện chiến tranh gây ra những tác hại không cần thiết hoặc quá
đau đớn.
(iv) Nguyên tắc phân biệt giữa dân thường và binh sĩ tham chiến. Các bên tham
chiến phải luôn luôn phân biệt rõ dân thường và tài sản của họ. Đại bộ phận nhân dân
cũng như mỗi con người đều không thể bị coi là mục tiêu để tấn công. Chỉ được tấn
công vào các mục tiêu quân sự, có thể sát thương, tiêu diệt kẻ địch để làm suy yếu sức
mạnh của họ nhưng không được giết hại thường dân.
(v) Nguyên tắc về sự tương xứng. Để đảm bảo nguyên nguyên tắc này các bên tham
chiến xem xét đảm bảo tính cân bằng giữa những hành động quân sự với khả năng gây
thiệt hại của nó và vấn đề nhân đạo. Hạn chế tới mức tối thiểu có thể những thiệt hại
gây ra, khơng để xảy ra tình trạng vì đạt được mục tiêu quân sự mà vi phạm các quy
tắc của Luật nhân đạo quốc tế.
1.1.3. Ý nghĩa và phạm vi áp dụng của Luật nhân đạo quốc tế trong điều kiện
quốc tế ngày nay
1.1.3.1. Ý nghĩa của Luật nhân đạo quốc tế
Trải qua hai cuộc chiến tranh với những thiệt hại vô cùng to lớn về người cũng
như về vật chất thì con người nhận ra được vai trị vơ cùng quan trọng của những
nguyên tắc nhân đạo trong khi tham chiến. Trong mối quan hệ của chiến tranh, vũ lực
và nguyên tắc thì tồn tại hai khái niệm “luật hạn chế sử dụng vũ lực” (jus ad bellum) và
“luật trong thời chiến” (jus in bello). Sự khác biệt của “luật hạn chế sử dụng vũ lực”
hay còn gọi là “luật chiến tranh” đó là những quy tắc pháp lý được thừa nhận khi
quyền được phát động và tiến hành chiến tranh còn được các quốc gia thừa nhận. Mãi
tới khi kết thúc chiến tranh thế giới thứ nhất, việc sử dụng vũ lực đã gặp phải sự phản
đối kịch kiệt và bị giới hạn phạm vi áp dụng với những kiểm soát chặt chẽ.
Điều lệ của Hội Quốc liên năm 1919 và Hiệp định Paris (Hiệp ước BriandKellogg) năm 1928 đều nhằm ngăn ngừa chiến tranh. Việc thông qua Hiến chương
Liên Hợp quốc năm 1945 đã khẳng định khuynh hướng: "Trong mối bang giao quốc
tế, không cho phép các thành viên của Liên Hợp Quốc sử dụng những biện pháp đe
dọa hoặc sử dụng vũ lực (...)". Tuy nhiên, khi một quốc gia hoặc một nhóm các quốc
gia bị một quốc gia hoặc một nhóm các quốc gia khác tấn cơng thì Hiến chương cho
phép được sử dụng quyền phản ứng tự vệ cá nhân hoặc tập thể. Theo quy định tại
Chương VII của Hiến chương Liên Hợp Quốc, Hội đồng Bảo an cũng có thể quyết
định việc sử dụng vũ lực tập thể. Điều này bao gồm: (i) sử dụng các biện pháp cưỡng
chế đối với các quốc gia đang đe dọa an ninh quốc tế nhằm mục đích khơi phục nền
hịa bình; (ii) sử dụng các biện pháp gìn giữ hịa bình thơng qua các hình thức: cử quan
sát viên hay các lực lượng gìn giữ hịa bình.
Luật nhân đạo quốc tế từ lâu đã được xem như là “Luật trong thời chiến” bởi nó
khác với những khái niệm đã nêu trên. Mục đích của Luật nhân đạo quốc tế là hạn chế
những đau khổ do chiến tranh gây ra thông qua việc bảo hộ và giúp đỡ các nạn nhân
theo khả năng cao nhất của mình. Bởi vậy, luật nêu lên thực trạng của xung đột mà
không quan tâm tới lý do hoặc tính chất pháp lý của việc sử dụng vũ lực. Luật chỉ quy
định các yếu tố liên quan đến vấn đề nhân đạo trong cuộc xung đột. Đó cũng chính là
luật thời chiến (Jus in bello). Các điều khoản của đạo luật này được áp dụng cho các
bên tham chiến mà không quan tâm tới lý do của cuộc xung đột cũng như nguyên nhân
đúng hay sai của bất cứ bên nào.
Ý nghĩa to lớn nhất của Luật nhân đạo quốc tế không phải là có thể cấm khơng
cho chiến tranh xảy ra mặc dù mục tiêu của luật này là để ngăn chặn, hạn chế tối đa
những cuộc chiến tranh có thể nhưng có những điều mà dù khơng muốn nó vẫn xảy ra
như một điều tất yếu. Vì lẽ đó, Luật nhân đạo quốc tế tập trung vào những điều cần
thiết hơn đó là bảo vệ những nạn nhân của chiến tranh, giảm thiểu những thương vong,
những thiệt hại xảy ra, ngăn chặn sự tàn bạo của vũ lực bất kể là vì ngun nhân gì, bất
kể điều đó có phải là hợp lý hay khơng. Trong tư tưởng nhân đạo thì lẽ phải nằm ở sự
khoan dung, lẽ phải là tôn trọng sinh mạng, phẩm giá của con người cho dù người ấy là
ai.
1.1.3.2. Phạm vi áp dụng của Luật nhân đạo quốc tế trong điều kiện hiện nay
Từ năm 1949, theo nội dung của Cơng ước Geneve lần thứ nhất thì theo một số
quốc gia Luật nhân đạo quốc tế được áp dụng khi xảy ra “xung đột vũ trang” thay vì
xảy ra “chiến tranh” như thuật ngữ vẫn sử dụng từ trước. Sự thay đổi này xuất phát từ
ý nghĩa: chiến tranh nhằm chỉ những cuộc giao chiến thực sự giữa hai bên, có tuyên
chiến giữa lực lượng quân sự của các quốc gia,5 còn “xung đột vũ trang” xuất hiện ở
đây với nội hàm rộng hơn so với thuật ngữ “chiến tranh”, là sự xung đột giữa hai bên
có thể là giữa các quốc gia, hoặc trong phạm vi quốc gia giữa các nhóm người đối lập
với nhau về quyền lợi. Sự thay đổi này đã mở rộng phạm vi áp dụng của Luật nhân đạo
quốc tế, nó góp phần ngăn ngừa sự lẩn tránh áp dụng Luật nhân đạo quốc tế bằng cách
tuyên bố rằng hành động quân sự họ đang thực hiện chống lại quốc gia khác hoặc một
lực lượng tự vệ khác chỉ nhằm ổn định an ninh hoặc là một hành động tự vệ.6 Theo quy
định tại Điều 2 chung và Điều 3 chung của Công ước Geneve “xung đột vũ trang” chịu
sự tác động của Luật nhân đạo quốc tế bao gồm:
Thứ nhất: Các cuộc xung đột vũ trang mang tính chất quốc tế
Trước sự ra đời của Nghị định thư bổ sung thì quan niệm truyền thống về “Các
cuộc xung đột vũ trang mang tính chất quốc tế” được hiểu là những cuộc xung đột vũ
trang diễn ra giữa hai hoặc nhiều bên tham chiến mà có ít nhất hai bên khơng thuộc
cùng một quốc gia.7 Các bên tham chiến theo quan điểm cũ phải là các quốc gia độc
lập, có chủ quyền và “xung đột vũ trang” thì như đã nói trên khơng chỉ là hành động
quân sự có tuyên chiến giữa hai bên mà áp dụng cả với tự vệ, không công nhận chiến
tranh hay trường hợp: “Công ước vẫn sẽ áp dụng trong mọi trường hợp có sự chiếm
đóng một phần hay toàn bộ lãnh thổ của một bên ký kết, dù sự chiếm đóng ấy khơng
gặp bất kỳ sự kháng cự vũ trang nào”(Điều 2 chung Công ước Geneve). Tuy nhiên,
5
Điều 2 của Cơng ước Geneve thì: “Ngồi những quy định được thực thi trong thời bình, Cơng ước này sẽ được áp dụng
trong mọi trường hợp chiến tranh có tuyên chiến, hoặc bất cứ cuộc xung đột vũ trang nào nảy sinh giữa hai hay nhiều Bên ký
kết, dù tình trạng chiến tranh khơng được một trong các bên đó cơng nhận”.
6
Pictet, J.S., Commentary of the First Geneve Convention for the Amelioration of the Condition of the Wounded and Sick in
Arimed Forces in the Field, Geneve, International Comitee of the Red Cross, 1952 – Trang 32
7
Trung tâm nghiên cứu quyền con người - Luật nhân đạo quốc tế những nội dung cơ bản – NXB Lý luận chính trị 2005 –
trang 65
chủ thể của các cuộc xung đột vũ trang này khơng cịn giới hạn ở các quốc gia độc lập
có chủ quyền nữa mà tại Hội nghị ngoại giao về tái khẳng định và phát triển của Luật
nhân đạo quốc tế tại Geneve (1974-1977) với sự đấu tranh của các nước xã hội chủ
nghĩa và sự thành công vang dội trong các cuộc đấu tranh giải phóng nhân dân của các
nước thì thế giới phải thừa nhận thêm sự tồn tại của các chủ thể mới của Luật quốc tế
theo Khoản 4 Điều 1 Nghị định thư I khẳng định: “Những hoàn cảnh nêu ở đoạn trên
bao gồm các cuộc xung đột vũ trang, trong đó các dân tộc chiến đấu chống lại sự đô
hộ của thực dân, sự chiếm đóng của nước ngồi và chống lại các chế độ phân biệt
chủng tộc để thực hiện quyền tự quyết của dân tộc được thừa nhận trong Hiến chương
Liên Hiệp Quốc và trong Tuyên bố về những Nguyên tắc của Luật pháp quốc tế về
Quan hệ hữu nghị và Hợp tác giữa các quốc gia phù hợp với Hiến chương Liên Hiệp
Quốc”. Như vậy, những tổ chức và phong trào giải phóng dân tộc mà được quốc tế
thừa nhận như: Tổ chức giải phóng Palestin (Palestin Liberation Organization), Tổ
chức nhân dân Tây Nam Phi (The South West Africa People’s Organization), Phong
trào cách mạng giành độc lập Đông Timo,… cũng được thừa nhận là chủ thể của các
cuộc xung đột vũ trang mang tính chất quốc tế.
Luật nhân đạo nhằm chủ yếu vào các bên tham chiến, đồng thời bảo vệ từng con
người hoặc từng nhóm người nằm ngồi vịng chiến hoặc đã bị loại khỏi vòng chiến
như:
– Binh sĩ bị ốm hoặc bị thương trên chiến trường; và các nhân viên y tế phục vụ
trong các lực lượng vũ trang.
– Binh sĩ bị ốm, bị thương hoặc bị đắm tàu thuộc lực lượng hải quân; và các nhân
viên y tế phục vụ trong ác lực lượng hải quân.
– Tù binh chiến tranh.
– Dân thường, ví dụ như: Người nước ngồi sống trên lãnh thổ các bên tham gia
xung đột, kể cả người tị nạn; thường dân sống trên lãnh thổ bị chiếm đóng;
thường dân bị bắt giữ hoặc bị cầm tù; các nhân viên y tế, tơn giáo hoặc phịng
hộ dân sự.
Thứ hai: Các cuộc xung đột vũ trang không mang tính chất quốc tế, theo quy
định tại Điều 3 chung của Cơng ước Geneve thì Luật nhân đạo quốc tế sẽ được áp dụng
đối với các bên tham chiến trong các cuộc xung đột vũ trang khơng mang tính chất
quốc tế như: “Trong trường hợp xảy ra xung đột vũ trang khơng có tính chất quốc tế
trên lãnh thổ của một Bên ký kết Công ước này, mỗi bên xung đột vẫn có trách nhiệm
thi hành ở mức tối thiểu những quy định sau đây: (i) Những người không tham gia trực
tiếp vào chiến sự, bao gồm thành viên các lực lượng vũ trang đã hạ vũ khí và những
người khơng cịn tham gia chiến đấu vì bị thương, bị ốm, bị giam giữ hoặc do bất cứ
nguyên nhân nào khác, đều được đối xử một cách nhân đạo trong mọi trường hợp,
khơng có sự phân biệt có tính chất bất lợi nào căn cứ vào chủng tộc, màu da, tơn giáo
hoặc tín ngưỡng, giới tính, dịng dõi hoặc tình trang giàu nghèo, hoặc bất cứ một tiêu
chuẩn tương tự nào khác.
Để đạt được mục đích kể trên, vào bất cứ lúc nào và bất cứ nơi đâu, nghiêm cấm
thực hiện những hành động sau đây với những người kể trên:
a) Xâm phạm tính mạng và thân thể, nhất là chủ ý sát hại dưới mọi hình thức,
gây thương tích, đối xử tàn bạo và tra tấn;
b) Bắt làm con tin;
c) Xúc phạm đến danh dự và nhân phẩm, nhất là làm nhục và đối xử tàn tệ;
d) Kết án và thi hành án mà trước đó khơng có sự xét xử của một Tòa án được
thành lập dưới cách thức với những bảo đảm tư pháp đã được các dân tộc văn minh
nhìn nhận là cần thiết;
(ii) Những người bị thương và bị ốm sẽ được tìm kiếm và cứu chữa; (iii) Một tổ
chức nhân đạo không thiên vị như Ủy ban Chữ Thập đỏ Quốc tế có thể đứng ra giúp
đỡ các bên xung đột; (iv) Các bên cần thực hiện toàn bộ hay một phần những điều
khoản của Công ước này thông qua những thỏa thuận đặc biệt; (v) Việc thi hành
những quy định kể trên không làm ảnh hưởng đến quy chế pháp lý của các bên xung
đột.”
Tuy nhiên, Cơng ước Geneve đã khơng có định nghĩa rõ ràng như thế nào là
“các cuộc xung đột vũ trang khơng mang tính chất quốc tế” mà đến khi diễn ra Hội
nghị ngoại giao về tái khẳng định và phát triển Luật nhân đạo quốc tế tại Geneve
(1974-1977) mới xác định những dấu hiệu nhận biết về khái niệm này. Theo đó, Nghị
định thư bổ sung II tại khoản 1 điều 1 quy định: “Để phát triển và bổ sung điều 3
chung của các Công ước Geneve ngày 12 tháng 8 năm 1949 nhưng không làm thay đổi
các điều kiện áp dụng hiện hành của nó, Nghị định thư này sẽ áp dụng cho tất cả các
cuộc xung đột vũ trang ngoài phạm vi của Điều 1 Nghị định thư bổ sung các Công ước
Geneve ngày 12 tháng 8 năm 1949 về Bảo hộ nạn nhân chiến tranh trong các cuộc
xung đột vũ trang có tính chất quốc tế (Nghị định thư I) và diễn ra trên lãnh thổ của
một Bên ký kết giữa các lực lượng vũ trang của Bên đó với các lực lượng vũ trang ly
khai hoặc nhóm vũ trang có tổ chức đặt dưới sự chỉ huy có trách nhiệm, thực hiện việc
kiểm sốt một phần lãnh thổ đủ rộng để tiến hành các hoạt động quân sự thường xuyên
có phối hợp và áp dụng được Nghị định thư này.”
Tóm lại, có thể khái quát thuộc tính cấu thành khái niệm xung đột vũ trang
khơng mang tính chất quốc tế là: xung đột vũ trang diễn ra trên phạm vi lãnh thổ của
một nước, giữa các lực lượng vũ trang của nhà nước đó với các lực lượng vũ trang
chống đối hay ly khai hay với các nhóm vũ trang khác có tổ chức được đặt dưới sự chỉ
huy có trách nhiệm và kiểm sốt một phần lãnh thổ đủ rộng để triển khai các hoạt động
qn sự thường xun, có phối hợp. Mục đích của các lực lượng tiến hành hoạt động
vũ trang chống đối trong các cuộc xung đột vũ trang không mang tính chất quốc tế là
lật đổ chính phủ đang cầm quyền hay đi đến thỏa thuận thành lập một nhà nước mới.8
Trước đây, vào thời điểm bốn Công ước Geneve chưa ban hành thì “các cuộc
xung đột vũ trang khơng mang tính chất quốc tế” hay cịn gọi là “nội chiến” được xem
là công việc nội bộ của quốc gia mà luật quốc tế quy định các quốc gia khác không thể
can thiệp. Nhưng từ khi Công ước Geneve được ban hành thì đã khẳng định trong Điều
3 chung như đã nêu trên rằng các “cuộc xung đột không mang tính chất quốc tế” vẫn
8
Trung tâm nghiên cứu quyền con người - Luật nhân đạo quốc tế những nội dung cơ bản – NXB Lý luận chính trị 2005 –
trang 68
thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật nhân đạo quốc tế. Tuy nhiên, Công ước cũng như
Nghị định thư chỉ điều chỉnh xung đột vũ trang khơng mang tính chất quốc tế xảy ra
phải có sự tham gia của Chính phủ cầm quyền. Các hoạt động quấy rối, bạo loạn, hay
tình trạng căng thẳng giữa chính phủ với các phe đối lập, xung đột giữa các nhóm dân
tộc dù căng thẳng kéo dài cũng không thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật nhân đạo
quốc tế mà sẽ được hướng dẫn bằng các điều khoản của luật về quyền con người cũng
như viện dẫn luật pháp của quốc gia.
Ngày nay, nói đến xung đột ở một quốc gia thì ngồi những trường hợp đã nêu
trên thì cịn xuất hiện các dạng “xung đột mới” (new conflict). Xung đột mới bao gồm
hai loại đó là xung đột tự phát (xung đột vơ chính phủ) và xung đột sắc tộc.
– Xung đột tự phát: hậu quả tất yếu nảy sinh từ sau Chiến tranh lạnh. Dạng xung
đột này thường biểu hiện bằng sự suy yếu từng phần hoặc đơi khi tan rã hồn tồn cơ
cấu nhà nước. Trong bối cảnh đó, một số phe nhóm có vũ trang đã lợi dụng khoảng
trống chính trị hịng cướp chính quyền. Tuy nhiên, dạng xung đột này, trước hết,
thường gây nên sự suy yếu hoặc tan rã của hệ thống chỉ huy chính ngay trong nội bộ
các phe nhóm có vũ trang đó.
– Xung đột sắc tộc: là kiểu xung đột nhằm loại bỏ kẻ thù bằng thủ đoạn gọi là
“huỷ diệt dân tộc”. Đặc tính của thủ đoạn này là nhằm cưỡng chế di cư hoặc thậm chí
tàn sát hủy diệt các nhóm dân tộc khác. Chịu ảnh hưởng của những cuộc tuyên truyền
dồn dập, của bạo lực và của sự hận thù, kiểu xung đột này thường tạo nên một động lực
kích động tinh thần của phe nhóm gây thù hận sâu sắc giữa các nhóm sắc tộc, qua đó
loại trừ hẳn khả năng cùng chung sống hịa bình với những phe nhóm khác9.
Luật nhân đạo quốc tế hiện vẫn áp dụng đối với xung đột kiểu “tự phát” và
“xung đột sắc tộc”, bởi vì các cuộc xung đột đó đã lơi cuốn dân thường vào các hoạt
động bạo lực. Hai dạng xung đột này không nằm trong phạm vi điều chỉnh của Nghị
định thư II nhưng quay trở lại Điều 3 chung Công ước Geneve quy định: yêu cầu tất cả
các phe nhóm có trang bị vũ trang, dù họ có tham gia hoạt động nổi loạn hay không
9
/>
phải tơn trọng những người đã bng vũ khí và những người đứng ngồi vịng chiến.
Khơng phải vì cơ cấu của một quốc gia bị suy yếu hoặc không tồn tại tạo ra khoảng
trống pháp lý đối với luật pháp quốc tế mà không thể áp dụng. Trái lại, rõ ràng là trong
những bối cảnh tình hình như trên Luật nhân đạo cần phát huy hiệu lực để bảo vệ nạn
nhân của các cuộc xung đột vũ trang.
Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng rất khó áp dụng Luật nhân đạo đối với những
kiểu xung đột trên. Việc thiếu tính kỷ luật giữa những bên tham chiến, việc trang bị vũ
khí cho thường dân tràn lan khắp lãnh thổ và việc ngày càng thiếu sự phân biệt rõ ràng
giữa lính chiến và dân thường... gây nên những cuộc đụng độ dẫn tới hậu quả tàn khốc
mà hầu như ở đó khó có cơ hội để vận dụng Luật nhân đạo. Kết quả là trong những bối
cảnh tình hình đã nêu trên, cần phát huy mọi nỗ lực để phổ biến Luật nhân đạo thật
rộng rãi dù không giải quyết được nguyên nhân làm nảy sinh xung đột nhưng nó có
khả năng làm giảm bớt hậu quả thảm khốc do các cuộc xung đột gây ra.
Sự điều chỉnh của Luật nhân đạo đối với các cuộc xung đột vũ trang khơng
mang tính chất quốc tế có phần hạn chế hơn so với các cuộc xung đột vũ trang mang
tính chất quốc tế do yếu tố chủ quyền quốc gia. Theo quan điểm của nhiều học giả, do
tính chất, xung đột vũ trang khơng mang tính chất quốc tế trong một số trường hợp có
thể chuyển thành xung đột vũ trang mang tính chất quốc tế. Hiện tượng này được gọi là
“quốc tế hóa các cuộc xung đột vũ trang nội bộ” (internationalized internal armed
conflict). Sự chuyển đổi xảy ra khi có một trong các dấu hiệu: (i) một hoặc nhiều quốc
gia khác đưa lực lượng vũ trang vào hỗ trợ một trong các bên xung đột; (ii) hai quốc
gia đưa lực lượng vũ trang vào hỗ trợ hai bên xung đột khác nhau; (iii) Chính phủ của
quốc gia đang có xung đột thừa nhận lực lượng nổi dậy là một bên tham chiến.
1.2. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VÀ XU HƢỚNG PHÁT TRIỂN CỦA LUẬT
NHÂN ĐẠO TRONG CÁC ĐIỀU ƢỚC QUỐC TẾ
1.2.1. Công ƣớc Giơnevơ và hai Nghị định thƣ bổ sung
Được hình thành từ Hội nghị ngoại giao các nước năm 1949, khi đã trải qua một
thời gian phát triển nhất định với một các văn kiện Công ước, Nghị định thư, Tuyên bố
Lahay…Luật nhân đạo quốc tế được hình thành với hệ thống văn bản chính thức tạo
xương sống cho ngành luật này gồm 4 Công ước Geneve và hai Nghị định thư bổ sung.
Nội dung cơ bản của những văn kiện này đã nêu lên các đối tượng quan trọng được
hưởng sự bảo hộ của Luật nhân đạo quốc tế như: người bị thương, bị ốm, bị đắm tàu,
các nhân viên tôn giáo, tù binh, thường dân, quy chế bảo hộ nạn nhân trong các cuộc
xung đột vũ trang khơng mang tính chất quốc tế. Tất cả những người này gọi chung là
đối tượng khơng cịn khả năng tự vệ trong chiến tranh. Trong Luật nhân đạo quốc tế,
việc đối xử nhân đạo với những đối tượng khơng có khả năng tự vệ trong chiến tranh là
một nghĩa vụ nhân đạo phổ biến (general obligation of humane treatment) mà các bên
tham chiến và các chủ thể có liên quan đều phải tuân thủ.10 Xuất phát từ nguyên tắc cơ
bản của Luật nhân đạo quốc tế đó là “Nguyên tắc cấm tấn công và bảo hộ những người
không tham gia hoặc bị loại khỏi vịng chiến” với mục đích bảo vệ cho những người
khơng tham chiến hay khơng cịn có thể trực tiếp tham chiến.
Bốn Công ước Geneve và Hai nghị định thư bổ sung có thể khái quát chung là
đề cập tới các vấn đề: Quy chế bảo vệ người bị thương, bị ốm, bị đắm tàu; quy chế bảo
vệ tù binh; quy chế bảo vệ dân thường; quy chế bảo vệ các nhân viên y tế và tôn giáo
và quy chế bảo vệ trong các cuộc xung đột vũ trang khơng mang tính chất quốc tế. Tuy
nhiên, trong phạm vi đề tài chỉ đề cập tới ba đối tượng đầu do những quy tắc bảo vệ
cho các nhân viên y tế, tôn giáo và các nạn nhân trong các cuộc xung đột vũ trang
khơng mang tính chất quốc tế là tương tự nhau.
10
“Luật nhân đạo quốc tế những nội dung cơ bản”. Trung tâm nghiên cứu quyền con người. NXB Lý luận Chính trị 2005 –
trang 286.
1.2.1.1. Quy tắc bảo vệ những ngƣời bị thƣơng, bị ốm, bị đắm tàu
(i) Những ngƣời bị thƣơng, bị ốm, bị đắm tàu phải khơng cịn bất kỳ hành
động đối địch nào(quy tắc điều kiện hƣởng bảo hộ). Trong Luật nhân đạo quốc tế,
những người bị thương (wounded), người bị ốm (sick) và người bị đắm tàu
(shipwrecked) được xếp vào phạm trù những người được bảo vệ (protected person).11
Từ khi Ủy ban quốc tế về thương binh được thành lập do Henri Dunant và một số bạn
bè của ông đã tập trung vào việc quan tâm và cứu chữa các nạn nhân bị thương, bị ốm
khơng cịn khả năng tự bảo vệ trên chiến trường. Đến khi xác lập các Công ước đầu
tiên năm 1864 là Công ước Geneve về cải thiện tình trạng của thương binh trên chiến
trường được thơng qua thì cũng mới chỉ xác lập các quy tắc bảo vệ cho thương binh,
người bị ốm trong các cuộc chiến tranh trên bộ. Cho đến khi bốn Công ước Geneve
được thơng qua thì phạm vi bảo vệ mới được mở rộng tới tất cả mọi người bị thương,
bị ốm trong chiến tranh bất kể người đó là binh lính hay dân thường. Những quy tắc về
bảo vệ người bị thương bị ốm, bị đắm tàu thuộc các bên tham chiến nằm chủ yếu trong
Công ước Geneve I và II. Công ước I quy định về người bị thương, bị ốm trên chiến
trường trên bộ cịn Cơng ước II về người bị thương, bị ốm, bị đắm tàu thuộc các lực
lượng vũ trang trên biển. Tất cả quy chế bảo vệ đối với dân thường trong chiến tranh
được quy định trong Cơng ước IV và nó bao gồm cả những người bị thương, bị ốm là
dân thường. Tuy nhiên, dù đã xác lập quy chế bảo vệ đối với những đối tượng kể trên
nhưng trong Công ước lại không có định nghĩa rõ ràng những người nào thuộc các đối
tượng được bảo vệ đó.
Nhận biết được điểm thiếu sót trong các Công ước, các nhà soạn thảo đã bổ
sung phần kiếm khuyết ấy vào trong Nghị định thư I. Theo đó, tại Điểm a Điều 8 Nghị
định thư I quy định: “Những danh từ “người bị thương” và “người bị bệnh” chỉ
những người bất kể là binh lính hay dân thường, do nguyên nhân của chấn thương,
bệnh tật hay những sự rối loạn hoặc bất lực khác về thể chất hoặc tinh thần nên cần sự
chăm sóc y tế và khơng có bất kỳ hành động đối địch nào. Những danh từ này cũng
bao gồm những sản phụ, trẻ sơ sinh và những người cần sự chăm sóc y tế ngay lập tức
11
Xem Điều 13 Công ước Geneve I và II.
như những người tàn tật, phụ nữ có thai mà khơng có bất kỳ hành động đối địch nào”.
Các khái niệm “người bị thương” và “người bị bệnh” như nêu trong Nghị định thư I đã
thể hiện rằng đây là một khái niệm mở vì định nghĩa nêu lên ở đây là rất chung không
phải liệt kê một số đối tượng cụ thể nào, chỉ cần được cho rằng bị “rối loạn hoặc bất
lực về thể chất hoặc tinh thần” và cần sự chăm sóc về y tế thì sẽ lập tức rơi vào đối
tượng được bảo hộ. Còn như thế nào là rối loạn hoặc bất lực về thể chất hoặc tinh thần
thì khơng có hướng dẫn nào giải thích nên tất nhiên nó sẽ được hiểu theo ý kiến chủ
quan của mỗi cá nhân. Như vậy, nó sẽ tạo nên khung bảo hộ cho những đối tượng rất
rộng.
Tại điểm b Điều 8: “Danh từ “người bị đắm tàu” chỉ những người bất kể là
binh lính hay dân thường đang ở trong tình huống nguy hiểm trên mặt biển hay ở
những vùng nước khác do sự rủi ro xảy ra cho họ hay cho tàu hay máy bay chở họ và
những người này khơng có bất kỳ hành động đối địch nào. Những người này, với điều
kiện họ tiếp tục khơng có hành động đối địch nào, phải tiếp tục được coi là người bị
đắm tàu trong khi họ được cứu vớt cho đến khi họ được hưởng một quy chế khác theo
các Công ước và Nghị định thư này”. Về thuật ngữ “người bị đắm tàu” thì khơng hề
giới hạn phạm vi người bị gặp nạn khi đi trên tàu biển mà có thể người gặp nạn khi đi
trên tàu hoặc máy bay trên bất cứ vùng biển nào hoặc thậm chí là những vùng sơng hồ
khác vì định nghĩa đã nêu rằng khi đang ở trong tình huống nguy hiểm trên “mặt biển
hay ở những vùng nước khác”. Bên cạnh đó thì “sự rủi ro” lại ám chỉ một nghĩa rất
rộng có thể người gặp nguy hiểm do tàu bị tai nạn kỹ thuật, thiên tai hay tàu tham
chiến bị bắn chìm như quy định tại Điều 12 Công ước II: “Ở đây thuật ngữ đắm tàu
được hiểu là bị đắm tàu vì bất cứ lý do gì và bao gồm cả trường hợp bắt buộc phải đáp
xuống biển bằng máy bay hoặc rơi từ máy bay”.
Nghị định thư cũng khơng hề giới hạn các tình huống mà chỉ đưa vào một từ
chung là “rủi ro”. Những định nghĩa trên cũng thể hiện trong đó tinh thần nhân đạo
xuyên suốt khi luôn đặt ra những khái niệm mở để tình huống và hồn cảnh cứu giúp
người khác luôn để ngỏ cho suy nghĩ của mỗi con người.
Kết hợp cùng với Nghị định thư là Điều 13 của Cơng ước I, II có quy định rõ
trường hợp nào thì thuộc đối tượng được gọi là người bị thương, bị ốm thuộc lực lượng
vũ trang trên bộ và trường hợp nào thì thuộc lực lượng vũ trang trên biển. Cơng ước IV
thì chỉ nêu điều khoản bảo hộ chung đối với người bị thương, bị ốm là dân thường tại
Điều 16: “Người bị thương và bị bệnh, cũng như người ốm yếu và phụ nữ có thai,
thuộc đối tượng được bảo hộ và tôn trọng đặc biệt. Trong phạm vi điều kiện quân sự
cho phép, mỗi bên xung đột phải tạo điều kiện để tiến hành những biện pháp tìm kiếm
người bị giết và bị thương, cứu trợ người bị đắm tàu và người khác gặp nguy hiểm
trầm trọng, và bảo hộ họ khỏi bị cướp bóc và đối xử tàn tệ”.
Như Điều 8 Nghị định thư I quy định luôn kèm theo điều kiện những người
được xem xét bảo hộ đó phải khơng có bất cứ một hành động đối địch nào. Quy định
này được xem là phù hợp với nguyên tắc “cấm tấn công kẻ địch đã bị loại khỏi vòng
chiến đấu và bảo vệ thường dân” bởi theo định nghĩa tại Nghị định thư I Điều 41:
“những người đã bị loại khỏi vòng chiến đấu trong trường hợp họ không tham gia các
hành động đối địch và khơng có ý định chạy trốn”, cịn thường dân phải là những
người không liên quan tới các hoạt động qn sự thì hiển nhiên khơng được có hành
động thể hiện thái độ đối địch với các bên tham chiến.
(ii) Những thành viên lực lƣợng vũ trang hoặc những ngƣời khác bị thƣơng, bị
ốm, bị đắm tàu phải đƣợc tơn trọng và bảo vệ trong mọi tình huống. Nghiêm cấm
mọi hành vi xâm phạm đến tính mạng và thân thể của họ. Quy định quan trọng đầu
tiên này tại Điều 12 Công ước I, II. Những người bị thương, bị ốm, bị đắm tàu “Họ
phải được các bên xung đột đối xử và chăm sóc một cách nhân đạo, khơng có sự phân
biệt bất lợi nào căn cứ vào giới tính, chủng tộc, quốc tịch, tơn giáo, chính kiến hoặc
các tiêu chuẩn tương tự khác. Nghiêm cấm mọi hành động xâm phạm đến tính mạng và
thân thể của họ như sát hại hoặc thủ tiêu, tra tấn hoặc sử dụng cho các cuộc thí
nghiệm sinh học, cố ý khơng chăm sóc y tế hoặc chủ tâm đặt họ vào nguy cơ có thể bị
lây bệnh hay nhiễm trùng; Ưu tiên về thứ tự điều trị chỉ được phép tiến hành vì các lý
do y tế khẩn cấp; Phụ nữ phải được đối xử phù hợp với giới tính của họ.”