Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (320.55 KB, 21 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
Sống trong thời đại có nhiều biến cố phức tạp:
Ví dụ:
Cơ Cầm:
“<i>Ánh hồng trang lộng lấy mặt hoa”</i>
“<i>Tóc hoa râm, mặt võ mình gầy”</i>
Đạm Tiên:
<i>“Nổi danh tài sắc một thì”</i>
<i>“Nửa chừng xuân thoắt gẫy cành thiên </i>
<i>hương”</i>
Tiểu Thanh:
<i>“Son phấn có thần chơn vẫn hận</i>
“<i>Văn chương vơ mệnh đốt cịn vương”</i>
Nàng Kiều:
<i>-</i>Những khái quát của ông về
cuộc đời, về thân phận con người
thường mang tính triết lí cao và
thấm đẫm cảm xúc. Nhà thơ triết
lí với nỗi đau về thân phận bất
hạnh của phụ nữ trong xã hội cũ :
<i>Đau đớn thay phận đàn bà</i>
<i>Lời rằng bạc mệnh cũng là lời </i>
<i>chung</i>
<i>Truyện Kiều</i>
Kiều ở lầu Ngưng Bích
Buồn trơng cửa biển chiều
hơm
Thuyền ai thấp thống cánh
buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về
-Bằng nhãn quan thấu hiểu những xấu xa, nhơ bẩn trên cõi đời này,
Nguyễn Du đã nhận ra rằng: trên thế gian đâu đâu cũng đầy những tên
<i>Hậu thế nhân nhân giai Thượng Quan</i>
<i>Đại địa xứ xứ giai Mịch La</i>
(Người đời sau ai cũng là Thượng Quan
Trên khắp mặt đất, đâu cũng có sông Mịch La!)
Ý nghĩa xã hội sâu sắc gắn chặt với tình đời, tình người bao la.
- Cái nhìn nhân đạo sâu sắc: là người đầu tiên trong VHTĐ đã nêu lên
một cách tập trung vấn đề thân phận những người phụ nữ có sắc đẹp và
tài năng văn chương nghệ thuật
-Bút pháp của đại thi hào
Nguyễn Du được coi là điêu luyện,
tuyệt bút trong đó nghệ thuật tả
cảnh tả tình được người đời sau
khen ngợi "như máu chảy ở đầu
ngọn bút" và "thấu nghìn đời“
-Đoạn Trường Tân Thanh
hay Truyện Kiều của thi hào
Nguyễn Du là một áng văn chương
tuyệt tác trong lịch sử văn học
nước ta. Truyện Kiều có giá trị về
mọi mặt : tư tưởng , triết lý , luân
lý , tâm lý và văn chương.
-Đây là lối tả cảnh mang tính cách chủ quan , man mác khắp
trong truyện Kiều . Cảnh vật bao giờ cũng bao hàm một nỗi niềm
tâm sự của nhân vật chính hoặc phụ ẩn chứa trong đó.Nói một cách
<i>“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu </i>
<i>Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” </i>
-Trong khuynh hướng này , nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn
Du vượt khác hẳn các thi nhân khác , kể cả những thi sĩ Tây
Phương , vốn rất thiện nghệ trong lối tả cảnh ngụ tình . Trong khi
các thi sĩ này chỉ đi một chiều , nghĩa là chỉ tìm những cảnh vật nào
phù hợp với tâm trạng của con người thì mới ghi vào , còn ï
-Nguyễn Du cũng rất nhiều khi phô diễn lối tả cảnh tượng trưng, nghĩa là chỉ dùng
một vài nét chấm phá, thành một nghệ thuật đã đạt đến mức uyển chuyển và tinh
tế .Hãy nghe hai câu thơ :
<i>Vi lô san sát hơi may </i>
<i>Một trời thu để riêng ai lạnh lùng</i>
-Đó là một cảnh một rừng vi lơ trong mùa thu xám có gió heo may, lành lạnh. Lối tả
cảnh này có thể Nguyễn Du chỉ viết theo nghệ thuật cảm quan của mình chứ khơng
hề nghĩ rằng mình đang tạo ra một lối vẽ cảnh một cách tượng trưng bằng những vần
-Nghệ thuật tả cảnh bằng thơ của Nguyễn Du cũng dùng rất nhiều
màu sắc như bức tranh của một người họa sĩ. Trước tiên phải là ánh
sáng , một yếu tố cơ bản, rồi sau đó mới tới các màu sắc với sự c pha chế
sao cho làm nổi được cảnh chính và cảnh phụ .
-Hãy xem một cảnh Xuân tươi mát trên đồng quê qua ngòi bút tả
cảnh đầy màu sắc của Nguyễn Du:
<i>Cỏ non xanh tận chân trời </i>
<i>Cành lê trắng điểm một vài bông hoa</i>
-Nguyễn Du là một thi nhân thuộc dòng dõi quan quyền phú quý ,
nhưng gặp phải cảnh loạn lạc đổi chúa thay ngôi giữa nhà Lê và nhà Nguyễn
, đã phải về quê cũ ở Huyện Tiên Điền để ẩn cư. Cụ đã trải qua những ngày
sống trong phú quý và những ngày sống thanh đạm nơi thôn dã , nên trong
tâm hồn đã thu nhập được hai cảnh sống . Cụ đã hài hịa kết hợp được hai
cảnh sống đó , nên trong lãnh vực văn chương tả cảnh trong truyện Kiều , cụ
có khi dùng những chữ thật trang nhã quý phái , có khi lại dùng những chữ
thật giản dị bình dân.
-Những chữ dùng trang nhã quý phái đă được kể nhiều qua những câu
thơ ở trên, thiết tưởng chẳng cần lậïp lại. Bây giờ chúng ta hãy xem những
chữ rất bình dân mà Nguyễn Du dùng trong lúc tả cảnh.
Ví dụ chị em Kiều du Xn ra về thì trời vừa ngả bóng hồng hơn , Nguyễn
Du dùng hai chữ “tà tà “ chỉ một hành động chậm rãi, có thể là chị em Kiều
thong thả bước chân ra về, mà cũng có thể chỉ sự xuống chầm chậm của mặt
trời chiều:
. -Nguyễn Du là một thi hào dùng rất nhiều điển tích trong
tác phẩm của mình. Nhưng khác với những nhà thơ khác , thường
dùng điển tích chỉ vì chưa tìm được chữ quốc ngữ thích đáng để thay
thế . Nguyễn Du thì khác , cụ đã dùng điển tích để “ làm câu thơ
thêm có ý vị đậm đà mà vẫn lưu lốt tự nhiên, khơng cầu kỳ thắc
mắc “như Giáo sư Hà Như Chi đã nhận định. (Việt Nam Thi Văn
Giảng Luận) Nhưng phải nói, những điển tích mà Nguyễn Du dùng
chính đã làm giàu cho nền văn chương quốc ngữ Việt Nam , thậm
chí nhiều điển tích đã trở thành ngơn ngữ hồn tồn Việt Nam , mà
nói tới ai ai cũng hiểu ý nghĩa đại cương của nó . Chẳng hạn những
chữ Biển dâu, Gót sen, Sư tử Hà Đơng, kết cỏ ngậm vành , mây
mưa, ba sinh, chắp cánh liền cành ..v...v .
-Ngồi lối tả cảnh diễm tình, Nguyễn Du cịn điểm trang cho
truyện Kiều bằng nhiều bức tranh tả chân, tả rất thực, và thuần
túy là những họa xinh đẹp, khơng ngụ tình. Những bức tranh
bằng thơ có khi tươi tắn, có khi sầu mộng được viết theo lối văn
tinh xảo .Chỉ cần một vài nét phác họa với những điểm chính
hiện hữu .
-Đây là cảnh một túp lều tranh bên sơng vắng lúc hồng hôn ,
vừa giản dị , mộc mạc nhưng cũng rất nên thơ:
<i>Đánh tranh chụm nóc thảo đường </i>
<i>Một gian nước biếc mây vàng chia đôi. </i>
<i>-</i>Hoặc chỉ một vài nét chấm phá mà người đọc đã hình dung ra
cảnh một mái tranh nghèo rách nát tơi tả theo tháng ngày:
<i> Nhà tranh vách đất tả tơi </i>
-Nỗi lòng của Nguyễn Du rất phức tạp. Để hiểu nó, các nhà
nghiên cứu văn học thường dựa vào <i>Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền</i>
và các tác phẩm của ông (đặc biệt là <i>Truyện Kiều</i>) để rút ra một số
nhận định. Nhưng những nhận định ấy đến nay vẫn chưa thống nhất,
thậm chí cịn mâu thuẫn với nhau một cách sâu sắc.
-Trích một số ý kiến:
-Năm 1963, GS. Phạm Thế Ngũ viết:
-"Một thuyết thịnh hành từ lâu do Trần Trọng Kim xướng ra
rằng <i>Truyện Kiều chứa đựng một tâm sự tha thiết nhất của Nguyễn </i>
<i>Du, ấy là cái tâm sự của kẻ hàng thần nhớ chúa cũ (hồi Lê)</i>. Thuyết
trên khơng phải là điều bị đặt mà có sở cứ rõ ràng. Thái độ phị Lê
của ơng được tỏ rõ trong những mưu toan chống Tây Sơn. Về sau,
bất đắc dĩ phải ra hợp tác với Nguyễn, ơng thường tỏ ra kín đáo, nếu
khơng nói là lãnh đạm, lúc nào cũng như mang nặng trong lịng một
bầu u uất khó nói. Nỗi lịng ấy chỉ có thể là, như lời ai điếu của Bùi
Kỷ trong bài <i>Truy điệu cụ Tiên Điền</i> vào năm 1927:
– <i>Dở dang thay cái tu mi.</i>
<i>Cực trăm nghìn nỗi trong khi tịng quyền.</i>