Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.4 KB, 19 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>LỜI NĨI ĐẦU</b>
Ngơn ngữ là cơng cụ, là chất liệu cơ bản của văn học. Vì vậy, văn học được gọi là
loại hình nghệ thuật ngơn từ. M.Gorki khẳng định: “Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn
<i>học”. Nếu người họa sĩ dùng màu sắc để làm chất liệu cho những tác phẩm hội họa. Nhà</i>
điêu khắc dùng hình khối đường nét để tạc nên những bức tượng nghệ thuật thì nhà văn,
nhà thơ dùng ngôn từ để làm chất liệu cho những kiệt tác văn chương nghệ thuật của
mình. Đây là điều tiên quyết cho bất cứ nhà văn, nhà thơ nào.
Trong tác phẩm, ngôn ngữ văn học là một trong những yếu tố quan trọng thể hiện
cá tính sáng tạo, phong cách, tài năng của nhà văn. Mỗi nhà văn lớn bao giờ cũng là tấm
gương sáng về mặt hiểu biết sâu sắc ngôn ngữ nhân dân, cần cù lao động để trau dồi ngơn
ngữ trong q trình sáng tác.Ngơn ngữ văn học là hình thái hoạt động ngơn ngữ mang tính
thẩm mỹ. Nó được sử dụng để phục vụ nhiệm vụ trung tâm là xây dụng hình tượng văn
học và giao tiếp nghệ thuật. Các nhà văn, nhà thơ khi sáng tác đều cố gắng phát huy hết
chức năng của ngôn ngữ trong phong cách văn chương. Và giá trị của tác phẩm dù nó
chuyên chở giá trị nội dung hay giá trị hình thức nghệ thuật đều phải nhờ đến ngôn ngữ,
nghệ thuật dùng ngôn ngữ. Vậy là giá trị văn học không chỉ phụ thuộc vào quy mô dài
ngắn mà thật sự phụ thuộc vào giá trị của ngôn ngữ. Ngôn ngữ sẽ hàm chứa tất cả dụng ý
nghệ thuật, tư tưởng, tình cảm, thẩm mĩ. Ngơn ngữ trong văn học rất đa dạng từ mộc mạc,
giản dị, đến sang trọng quý phái, rồi mượt mà trau chuốt ... đều phụ thuộc tài năng sử
dụng ngôn ngữ của người nghệ sĩ. Rõ ràng ngôn ngữ trong văn học có ma lực rất lớn từ
phía người sáng tác, khơng những thế mà ma lực đó cịn lan truyền cả sang người tiếp
nhận.
Chế Lan Viên là thi sĩ tài danh, ơng là một nhà thơ thích suy tư, biện luận, triết lý.
Thao tác sử dụng ngôn ngữ của Chế Lan Viên luôn co giãn, năng động, dựa trên khả năng
lựa chọn và kết hợp của chúng để tạo ra nhũng tín hiệu ngơn ngữ với các sắc thái mang ý
nghĩa và giá trị đặc biệt, có khi khơng hồn tồn giống ngơn ngữ bình thường hàng ngày.
Hành trình thơ Chế Lan Viên là một q trình phát triển liên tục trên cơ sở có biến đổi, kế
thừa; có phủ định nhưng vận động biện chứng; có sáng tạo bổ sung. Với quá trình lặp lại
Những điều đó phần nào đã thu hút chúng tơi tìm hiểu “ Ngơn ngữ màu sắc trong
<b>thơ Chế Lan Viên” với mục đích làm cuộc “hành trình thám mã” thế giới nghệ thuật thơ</b>
Chế Lan Viên. Đây là đề tài khá hấp dẫn nhưng cũng không kém phần khó khăn trong
khn khổ thời gian hạn hẹp của bài nghiên cứu. Vì vậy, chúng tơi tạm giới hạn phạm vi
nghiên cứu ở một số tập thơ tiêu biểu của Chế Lan Viên. (9/15tập thơ).
Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về các chặng đường thơ Chế Lan Viên về thế
giới nghệ thuật và phong cách thơ của ông. Nhưng hầu hết các cơng trình này chưa đi sâu
khảo sát hệ thống từ ngữ đa phong cách, hệ thống từ ngữ biểu thị màu sắc trong thơ Chế
Lan Viên. Một số tác giả đã tìm hiểu về quan niệm nghệ thuật, những nét đặc sắc cơ bản
của hình thức nghệ thuật, tính triết lý, khơng gian & thời gian nghệ thuật… của thơ ơng.
Để tìm hiểu “ <b>Ngơn ngữ màu sắc trong thơ Chế Lan Viên”, chúng tôi đã tiến hành</b>
thống kê, khảo sát, phân loại hệ thống từ ngữ đa phong cách biểu thị màu sắc trong 9 tập
thơ đọc được của Chế Lan Viên. Từ đó đi đến nhận xét, lý giải, phân tích và rút ra kết
luận về việc sử dụng từ ngữ đa phong cách biểu thị màu sắc trong thơ ông .
Qua bài viết này, chúng tơi muốn góp phần tìm hiểu thi pháp và phong cách thơ
Chế Lan Viên. Góp phần chỉ ra những đóng góp độc đáo khơng chỉ ở nội dung tư tưởng
mà cịn ở hình thức nghệ thuật trong tiến trình hiện đại hóa thơ ca Việt Nam.
<b>1.1</b><i><b>- Vai trị của ngơn ngữ:</b></i>
Ngôn ngữ là yếu tố ban đầu để tạo nên một tác phẩm văn học. Nếu khơng có ngơn
ngữ thì sẽ khơng có văn học vì ngơn ngữ đã trở thành chất liệu cho người nghệ sĩ sáng tạo
Thật vậy, nếu hời hợt trong cách phân tích, cách cảm ngơn ngữ thì người đọc khó
hiểu đúng, hiểu hết giá trị của tác phẩm. Do vậy trong văn thô địi hỏi người phân tích tác
phẩm phải đặc biệt quan tâm đến mặt hình thức của tác phẩm, nhất là ngơn ngữ và chìa
khóa để mở ra tư tưởng, tình cảm thẩm mĩ của tác phẩm văn học đấy cũng chính là ngơn
ngữ.
Ngơn ngữ trong văn học được người sáng tác và người đọc xem là nghệ thuật ngôn
từ. Vì ngơn ngữ trong tác phẩm văn học có vai trị khác với các ngơn ngữ trong các văn
bản khác. Các ngôn ngữ trong: Phong cách ngôn ngữ khoa học; Phong cách ngơn ngữ
hành chính và Phong cách ngơn ngữ chính luận rất chuẩn mực. Nó mang tính chính xác,
tường minh rất cao nhưng có phần khơ khan thiếu cảm xúc. Mỗi câu chữ trong văn bản
trên đều có tác dụng thông báo trực tiếp nội dung hiện thực. Trái lại trong văn bản nghệ
thuật ngôn từ tuy không trực tiếp thơng báo hiện thực nhưng nó là chất liệu để xây dựng
hình tượng văn học. Do đó, khi sáng tác người nghệ sĩ rất chú ý trong việc lựa chọn ngơn
ngữ, nhất là những ngơn ngữ có nhiều từ đồng nghĩa trong trường nghĩa. Vì vậy, người
đọc phải có cách lựa chọn từ ngữ để có cách hiểu thật hiệu quả và có thể trùng khít ý với
ngơn ngữ của nhà văn, nhà thơ.
<i><b>1.2- Từ ngữ đa phong cách trong tiếng Việt:</b></i>
Việt. Do các đơn vị từ ngữ này được dùng chung cho mọi phong cách nên chúng ta
không thể liên tưởng đến một phong cách cụ thể nào, nói khác đi là các đơn vị này không
mang một màu sắc phong cách cụ thể nào.
Từ ngữ đa phong cách tiếng Việt được phân bố trong các phạm vi biểu thị sự vật,
Vai trò cơ bản của từ ngữ đa phong cách tiếng Việt là ở chỗ nó tạo ra nền tảng từ
ngữ chung cho mọi phong cách tiếng Việt. Từ ngữ đa phong cách chứng tỏ, các phong
cách tiếng Việt tuy đa dạng, tuy khác nhau nhưng thống nhất với nhau và gắn với nhau
bởi một nền tảng từ ngữ chung. Mỗi phong cách tiếng Việt chỉ có thể là một dạng tồn tại
của tiếng Việt chứ không thể lập thành một hệ thống ngôn ngữ riêng, chính là nhờ sự có
mặt của từ ngữ đa phong cách. Như vậy, từ ngữ đa phong cách có nhiệm vụ gắn các
phong cách tiếng Việt với nhau.
Từ ngữ đa phong cách tiếng Việt có một phạm vi dùng rất rộng rãi: khi trực tiếp
(nói) khi gián tiếp (viết), lúc thân mật, lúc trang nghiêm, có thể dùng trong lý giải khoa
học và cũng có thể dùng trong miêu tả văn chương. Vì thế từ ngữ đa phong cách thuộc
loại từ ngữ vừa quen thuộc vừa dễ hiểu. Một trong những tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá
tính chất đại chúng trong sử dụng ngơn ngữ của cá nhân chính là tiêu chuẩn nắm vững và
sử dụng thành thạo vốn từ ngữ đa phong cách tiếng Việt. Đại chúng hóa lời ăn tiếng nói
trước hết là biết dùng vốn từ ngữ đa phong cách.
chỉ màu sắc: trắng, đen, xanh, đỏ, tím, vàng....thuộc lớp từ vựng đa phong cách biểu thị
tính chất mà chúng tơi sẽ đi tìm hiểu qua một số tập thơ của Chế Lan Viên.
<b>2- Vài nét về quan niệm thơ của Chế Lan Viên: </b>
Quan niệm thơ của Chế Lan Viên được thể hiện ở các bài viết, bài nói chuyện, đặc
biệt là trong rất nhiều bài thơ và tập trung chủ yếu vào các vấn đề sau:
<i><b>2.1 - Quan niệm về vị trí và phẩm chất của nhà thơ: </b></i>
Chế Lan Viên quan niệm sáng tạo thơ là một nghề cao quý trong xã hội, nhà thơ
phải có vị trí, sứ mệnh cao cả đối với đời. Nghề thơ, khơng phải ai cũng làm được, bởi
Chế Lan Viên luôn xem việc học hỏi, sáng tạo là cuộc vượt bể trong suốt cả đời
mình và ông khẳng định: Nghề của chúng ta cần phải nắm bắt chính xác vịng quay thời
đại để tạo nên mùa và đừng để thời gian trôi qua một cách vơ ích, phải ln biết vượt lên
tất cả để Săn thơ, Tìm thơ.
Chế Lan Viên địi hỏi, nhà thơ cần phải có cá tính sáng tạo. Ơng ví mỗi nhà thơ
như một dịng sơng mang đặc tính và vẻ đẹp riêng. Nhà thơ cần phải giữ được cái tạng
riêng cho mình. Nếu chỉ biết đi theo lối mịn trong sáng tạo, thì tất yếu nhà thơ tự đánh
mất mình, hoặc sẽ rơi vào cái đội quân nhạt nhạt mờ mờ. Nghề thơ địi hỏi nhà thơ khơng
chỉ có tài năng, mà cịn phải có nhân cách, có cái tâm trong sáng bởi đó là gốc rễ của văn
chương.
người cầm bút có ích, làm thơ có ích. Mặt khác, Chế Lan Viên quan niệm, thơ không chỉ
đưa ru, sưởi ấm người đọc bằng tình cảm mãnh liệt, ước mơ lãng mạn, mà cịn phải có
khả năng thức tỉnh họ bằng ánh sáng của trí tuệ.
Qua cách thể hiện khác nhau, Chế Lan Viên luôn nhấn mạnh, thơ góp thêm tiếng
cười, thêm vị muối cho đời, là nhành hoa mát mắt cho đời, thơ có khả năng kì diệu: tát bể,
cân đời, thơ làm cho con người tự tin hơn trong cuộc sống.
Từ quan niệm, thơ là các đỉnh tinh thần chất ngất, Chế Lan Viên đã chỉ rõ tác dụng
Ông khẳng định: thơ phải trả lời, phải có khả năng giải đáp được những gì đã, đang
và sẽ xảy ra trong đời sống. Nếu thiếu lời giải đáp thì thơ đã mắc Nợ đối với đời. Chế Lan
Viên cịn muốn thơ phải là Thuốc có khả năng chữa lành vết thương trong cõi tinh thần
con người, có ích cho nỗi đau người, để phục sinh con người. Thơ là Tiếng hú, một tín
hiệu giao cảm để từ đó lay động tâm hồn người đọc khiến họ sống có ý nghĩa hơn đối với
đời.
Tóm lại, Chế Lan Viên ln tâm niệm: thơ cần có ích và hãy bắt đầu từ nơi ấy mà đi, đó
là cái đích mà Chế Lan Viên ln hướng tới.
<i><b>2.3 - Nghệ thuật sáng tạo thơ của Chế Lan Viên : </b></i>
Chế Lan Viên đòi hỏi người thợ thơ phải nắm bắt được một số kĩ thuật và phương
pháp cần thiết cho việc sáng tạo thơ. Ông cho rằng: làm thơ là tạo ra một hành tinh thứ hai
bằng ngơn ngữ. Ngơn ngữ thơ có lúc mộc mạc hồn nhiên, nhưng lại có lúc phải mang vẻ
đẹp kì diệu như hài hoa cơ Tấm, như mái tóc thơm hương cấm cung. Nhà thơ phải biết
tìm tịi, cân nhắc, lựa chọn để từ ngữ được sử dụng thêm cái đa thanh, đa sắc của đời. Chế
Lan Viên không chấp nhận sự cầu kì, gị gẫm, mà cần phải căng cái dây hình ảnh ngữ
ngơn qua vực tâm hồn sâu thẳm. Ông đã phê phán kiểu cố làm cho mới lạ, làm xiếc chữ
nghĩa trong thơ
Nhà thơ cần chọn được cho thơ mình cách nói, giọng điệu hợp lí nhất với tình cảm
và nhận thức của người đọc trong những hoàn cảnh khác nhau của đời sống xã hội và ở
giọng điệu nào cũng tốt lên sự chân tình, tâm huyết vì con người, vì cuộc đời. Nhà thơ
phải ln biết mở rộng tâm hồn lắng nghe, đón nhận nhiều cung bậc của nhạc điệu cuộc
sống để tạo nên chất nhạc cho thơ. Thơ cần có sự quyện hịa giữa nhạc và ý, câu thơ ở
Mặt khác, Chế Lan Viên rất chú trọng đến mối quan hệ giữa nội dung và hình thức
của thơ. Ðạt đến cái Thiện, cái Chân là mục đích mà thơ hướng tới, nhưng tất cả điều đó
phải được biểu hiện bằng hình thức <i>Ðẹp. Ơng khẳng định: Hình thức cũng là vũ khí. Sắc</i>
đẹp câu thơ cũng phải đấu tranh cho chân lí. Sự hài hịa giữa nội dung và hình thức trong
thơ sẽ tạo nên vẻ đẹp cho thơ.
Tóm lại, trong suốt quá trình sáng tạo, Chế Lan Viên ln có những trăn trở, suy
ngẫm về nghề, về thơ. Ðiều đó đã góp phần không nhỏ đối với sự phát triển của thơ ca
Việt Nam hiện đại.
<b>B- NGÔN NGỮ MÀU SẮC TRONG THƠ CHẾ LAN VIÊN</b>
<b>1- Sự đa dạng về màu sắc trong thơ Chế Lan Viên </b>
<b>1.1- </b><i><b>Khảo sát sơ bộ từ chỉ màu sắc trong thơ</b></i>
rất mẫn cảm, có ý thức tự giác cao đối với nó, vừa có khả năng vận dụng hữu hiệu nó
trong tạo hình và biểu cảm, trong thực hiện chức năng thi ca. Có thể nói ơng là người có
đóng góp xuất sắc trong việc làm mới tính từ chỉ màu sắc, nhất là màu “xanh”. Đây là
màu sắc chủ đạo mà ông có nhiều tâm đắc kí thác nhất.
<i><b>1.2- Vài nét về phương thức biểu hiện màu sắc trong thơ Chế Lan Viên</b></i>
<i><b>1.2.1- Màu xanh</b></i>
Trước hết có thể thấy nét riêng của Chế Lan Viên trong cảm quan màu sắc trong thơ ơng
đó là từ chỉ màu xanh xuất hiện nhiều nhất trong các màu.
- Từ chỉ màu xanh trong thơ Chế Lan Viên sống động, phong phú thể hiện rõ trên cả hai
trục: trục dọc (hay là trục lựa chọn, tương ứng với quan hệ liên tưởng) và trục ngang (hay
là trục kết hợp, tương ứng với quan hệ “ngữ đoạn”)
Màu xanh được Chế Lan Viên sử dụng để chỉ màu xanh đầy sức sống của núi
rừng, cây cỏ, đất trời nước Việt, của các sự vật hiện tượng được ông quan sát, cảm nhận
được cả xa và gần: “Xanh biết mấy là trời xanh tổ quốc”; “Trời xanh ta, xanh bao nhiêu
<i>hải lý”; “Chiếc khăn xanh mẹ bịt trên đầu”; “Nghìn gốc tùng xanh . Đứng lặng yên”;</i>
<i>“Đường nhân loại đi qua bóng lá xanh rờn”....thể hiện trong thơ Chế Lan Viên chủ yếu</i>
là màu xanh tả thực, tức màu xanh của thế giới khách thể mà ơng có thể quan sát, tri giác
được một cách cụ thể. Điều mà chúng ta nhận thấy rõ nhất ở thơ ông là màu xanh được
“diễn đạt” qua tính từ chỉ màu xanh: từ chỉ màu xanh trong thơ Chế Lan Viên nhìn trên
trục dọc chỉ có 2 từ “xanh” và “biếc” , nhưng sức khái quát của nó quả là độc đáo hiếm
thấy. Điều này có thể cắt nghĩa bằng khả năng vận dụng uyển chuyển sáng tạo của nhà
thơ.
Tuy nhiên vấn đề không chỉ dừng lại ở đấy, mà bằng năng lực nhạy cảm của người
nghệ sĩ Chế Lan Viên đã cảm thức được một cách sâu sắc đặc trưng riêng của tính từ
tiếng Việt. Nhất là “ở sự thống nhất của hai loại đặc trưng: đặc trưng thông báo và đặc
<i>trưng hạn định”</i><sub>, ở khả năng kết hợp với những từ phụ bổ sung cho nó các chi tiết chỉ</sub>
mức độ, trình độ của tính chất màu sắc (xanh). Vì vậy, từ chỉ màu xanh trong thơ ơng vừa
có khả năng khái quát hữu hiệu đặc thù sắc xanh của từng đối tượng, vừa thể hiện được
cái nhìn riêng của phong cách cá nhân. Chế Lan Viên thật sự nhạy cảm trong phát hiện
khả năng kết hợp của xanh (thể hiện trên trục ngang): “một màu xanh xanh xanh”, “Trời
<i>xanh biếc của người đầu tuyến lửa”, “chim cu gáy thì xanh rờn cỏ mọc”, “Rừng lộc biếc</i>
<i>xanh um”, “Đường nhân loại đi qua bóng lá xanh rờn”, “Lá xanh non, lá nõn, lá ngần”,</i>
<i>“Cây xanh đến rồi, màu xanh tha thiết nhất”, “Trời xanh hỡi? xanh khơng nói”... Trong</i>
đó, “Xanh xanh xanh” (láy âm), “xanh ngắt”, “xanh um”, “xanh rờn”, “xanh biếc”,
<i>“xanh non” (láy nghĩa), vốn đã giàu khả năng phân sắc nay xét trong quan hệ ngữ đoạn,</i>
các câu thơ lại càng giàu khả năng phân sắc hôn.
Chế Lan Viên là người tinh tế đến mức có thể nhận thấy được bước chuyển giao
của thời gian qua màu xanh: “Cây xanh đến rồi, màu xanh tha thiết nhất...”, thời gian
khơng chỉ được cảm nhận trong lịng mà hình như mọi vật xung quanh cũng đang đổi thay
bằng ngôn ngữ của màu xanh.Với sự nhậy cảm và khả năng diễn đạt tinh tế, ta nhận thấy
ít ai có cách nói như Chế Lan Viên : “màu xanh tha thiết”, “màu xanh khơng nói”, phải
chăng màu xanh vừa hiện thực, vừa tượng trưng và gắn với những buồn vui, mộng mơ,
hoài niệm....
Khi dùng từ chỉ màu xanh, Chế Lan Viên thiên về láy nghĩa hơn láy âm. Cững là
màu xanh thăm thẳm của bầu trời như bao nhiêu người đã nói và nếu ta bắt gặp ở thơ
Nguyễn Khuyến là màu xanh ngắt của bầu trời thu thì ở thơ Chế Lan Viên lại là màu
<i>xanh biếc của bầu trời. Đây không thể là điều ngẫu nhiên mà là một ám ảnh sâu sắc đối</i>
với nhà thơ và cách thể hiện bầu trời xanh biếc cũng rất linh hoạt: “Trời xanh biếc”, “trời
<i>xanh rất biếc”, “biếc trời xanh”, “biếc xanh”, “xanh sắc biếc”, “trời ta cứ biếc”..</i>.nhằm
đặc tả sắc xanh của bầu trời. Một mặt, xanh biếc vừa khái quát được màu sắc vừa xanh –
<i>trong- sáng rất thực. Mặt khác, trong cái thực đã có cái hư bởi xanh biếc là màu xanh ở độ</i>
cao ngồi tầm nhìn, xanh đến mức làm nhịe cả tính từ gốc chỉ màu xanh. Việc láy nghĩa
<i>xanh biếc còn làm nhịe ý, tăng độ phiếm định của hình tượng thơ. Cái nhìn của Chế Lan</i>
Viên đã vươn đến độ khó có sự phân định đường biên giữa xanh – trong- sáng, giữa thực
<i>- ảo giữa cụ thể - mơ hồ ... đây sẽ là những màu sắc đặc biệt làm xuất hiện những tính từ</i>
chỉ màu sắc: “trong”, “khói” như: “Dăm ba bóng khói...”, “Nao nao khói biếc”.... Có
khi từ biếc ở dạng nguyên khối, đơn tiết “chim rừng lơng trở biếc”, “mái đầu sớm cịn tơ
<i>biếc”, “tình ta như lộc biếc”....</i>
Qua đó ta thấy mơ típ trời xanh trong thơ Chế Lan Viên như một biểu trưng của
niềm hy vọng khiến ta liên tưởng đến hình tượng trời xanh trong thơ của Nguyễn Khuyến
và thơ Baudelaire .
<i><b>1.2.2- Màu trắng </b></i>
Để diễn đạt màu sắc “không màu”- trắng của đối tượng cảm nhận và cái chính là nhằm
biểu hiện khát vọng thẩm mỹ của mình, Chế Lan Viên đã rất linh hoạt trong việc tìm từ,
tạo từ. Có khi ông dùng trực tiếp tính từ trắng hoặc ở dạng nguyên khối, đơn tiết: “<i>mây</i>
<i>trắng”, “ ...màu da vàng hay trắng”, “tuyết trắng”, “hoa lê rụng trắng thềm”,”chiến</i>
<i>khu phương ấy trắng mây trời”, “...trời xanh chen bọt trắng”, “trắng là màu mây của</i>
<i>em”, “trắng trời anh lại nhớ em thêm”, “muối trắng”, “cát trắng”...</i> hoặc sử dụng cấu
tạo từ đơn tiết theo phương thức láy nghĩa là nhiều hơn hẳn so với phương thức láy âm:
“trắng ngời chân núi”, “trắng ngời râu tóc”, “trắng muốt mùa sen”...Có khi ơng dùng
thủ pháp so sánh để biểu đạt cái sắc riêng, cái giá trị của trắng “<i>trắng như không”, “trắng</i>
<i>như mây trời”...</i>
Nếu màu xanh thiên về tả thực thì màu trắng (phần nhiều) lại thiên về biểu trưng và ông
cũng đã định nghĩa:
Cách sử dụng màu sắc trắng trong bài thơ thể hiện một tình yêu đằm thắm, trang nhã, ý
nhị. Đó cũng là nét riêng về thơ tình của Chế Lan Viên và cũng là một phương diện của
cuộc sống hàng ngày góp phần làm nên vẻ đẹp của cuộc đời. Có khi, màu <i>trắng được</i>
hốn chuyển mang ý nghĩa biểu trưng “trắng bình n”. Nhìn trên trục dọc ta thấy, Chế
Lan Viên phân biệt Trắng - bạc chủ yếu được dùng như một tín hiệu chỉ sự trôi đi của
thời gian, đời người “Mẹ tóc bạc có cịn chăng hỡi mẹ”, “...đất bạc màu”, “bạc phơ
<i>phơ”...</i>
Do sử dụng nhiều hình ảnh thực và tượng trưng kết hợp với kiểu tư duy triết lý nên
thơ Chế Lan Viên mạnh về khái quát và phân tích. Có khi được kết hợp cả hai và được
chứa đựng bởi ngôn ngữ riêng, cách diễn đạt riêng nhằm lôi cuốn người đọc nâng họ lên
tầm triết lý và tự ý thức cùng nhà thơ.
<i><b>1.2.3</b></i>- <i><b>Màu đỏ</b></i>
Màu đỏ là một trong những màu vốn có năng lực phản xạ mạnh nhất trên giải phổ
ánh sáng, là một trong những màu thuộc gam đặc biệt được coi trọng trong quan niệm của
người xưa và nay.
Màu đỏ trong thơ Chế Lan Viên xuất hiện đứng thứ 3 sau màu sau <i>xanh và trắng,</i>
chủ yếu là màu tả thực: “lửa đỏ”, “ngói đỏ”, “đỏ trái chín”, “đơi mơi như cũng đỏ....”,
<i>“hoa đại đỏ”, “con tàu đỏ”... Cịn với nghĩa tượng trưng, ơng diễn đạt cũng khá mới mẻ,</i>
rất riêng “một bờ sông đỏ”, “anh yêu đỏ hoa hồng”...Tính từ chỉ màu đỏ trong thơ Chế
Lan Viên nhìn trên trục dọc ta khơng phân biệt rõ Đỏ - Hồng- Son trong nhóm từ cùng
gam này, chỉ có từ “son” xuất hiện 6 lần, về cơ bản mang biểu trưng đẹp <i>“lịng son...”,</i>
<i>“ngón son” . Với màu “hồng”, quan niệm truyền thống coi đây là màu đẹp của thế giới</i>
vương giả, quý phái, màu của ước mơ, hạnh phúc. Chẳng hạn, Nguyễn Du “Biểu trưng
Kiều dưới một sắc hồng...chứng tỏ niềm tin vào phẩm giá, vẻ đẹp của con người”<sub>. Cái</sub>
nhìn của Nguyễn Khuyến lại là màu hồng biểu trưng cho chốn phồn hoa náo nhiệt (hồng
trần) cuả nó, tỏ thái độ xa lánh nó, đáng khinh sợ những kẻ “<i>hồng bào kim đới”, “ả hồng</i>
<i>nhan”. Còn Chế Lan Viên một nghệ sĩ đi từ “Chân trời của một người đến chân trời của</i>
tất cả”, ông cũng tả thực màu hồng “viên gạch hồng”, “ngón tay hồng”, “lửa hồng”,
<i>“nhớ một cành hồng”... Nhưng đáng nói nhất là ơng nhấ mạnh biểu trưng hình ảnh “mặt</i>
<i>trời hồng”, thể hiện niềm tin, tình u đối với đát nước. “Kìa bóng Bác đang hơn lên hịn</i>
<i>đất / Lắng nghe trong màu hồng hình đất nước phôi thai”, “Ta đội triệu tấn bom mà hái</i>
<i>mặt trời hồng”, “như một rắng hồng”...</i>
<i><b>1.2.4- Màu</b><b>vàng</b></i>
Chế Lan Viên cũng nhiều lần sử dụng màu vàng. Trong đó màu vàng gắn với nghĩa
“tượng trưng cho vương quyền” <sub>, danh giá và được dùng trong 4 trường hợp, nhưng chủ</sub>
yếu dùng với tinh thần gợi cổ. Số còn lại chiếm nhiều nhất là màu vàng của các loại hoa:
<i>“Sen vàng như...”, “mà đó hoa vàng, xn tháng 3”, “Hồng thảo hoa vàng..”, “Cánh</i>
<i>kiến hoa vàng...”, “Vàng hoa mai...”, “sắc mai vàng”....</i>
Để soi rọi vấn đề từ nhiều góc độ đặc biệt trong vấn đề chính trị, Chế Lan Viên sử
dụng màu vàng mang ý nghĩa tượng trưng: “Chúng ta không bắn màu da vàng hay trắng.
<i>Mà bắn bọn súc sinh trong tất cả các màu”. Những hình thức này khơng có gì là lạ so với</i>
văn học đương đại các nước, nhưng nếu khơng có một tư duy nghệ thuật mới mẻ, khơng
có tài hoa vận dụng thì làm sao có thể đổi mới câu thơ, bài thơ được. Việc làm giàu thêm
các cách biểu hiện của thơ quả là một điều đáng ghi nhận. Tìm hiểu ta nhận thấy , màu
vàng trong thơ Chế Lan Viên không chỉ là màu vàng của hoa mà còn là màu tả thực của
“trăng”,”lúa”... màu vàng tượng trưng của”sao”, “thơ”... “mà thơ vàng chói lọi ở từng
<i>câu”, “Đêm nay sao chín vàng như thóc giống”.Như vậy với cách biểu đạt tinh tế, cách</i>
lựa chọn và sử dụng từ, Chế Lan Viên đã gợi bước đi của thời gian và là nguồn mạch khởi
đầu của lòng yêu nước, của sự phát sinh mọi giá trị nhân bản còn lẩn khuất trong con
người để biến họ thành chủ thể của ý thức, biết mình tồn tại có ích cho Tổ quốc, cho nhân
dân.
1.2.5- Màu đen
Với màu “đen”, quan niệm chung của truyền thống coi nó là màu tiêu cực, màu xấu
(<i>về cả nghóa đen lẫn nghóa bóng</i>) nên dễ bị phủ định. Chế Lan Viên vẫn nằm trong quy
luật này, ơng vẫn dùng ngun khối các tính từ gốc chỉ màu đen đã có sẵn trong tiếng
“<i>Tăm tối cần lao nay hóa những anh hùng”; “Hãy giết sạch lũ hung thần bóng tối”; “U</i>
<i>tối vạn yêu ma...”</i>
Trong “<i>Điêu tàn</i>”, Chế Lan Viên biến bi kịch tinh thần cá nhân dễ xúc cảm của
mình thành một thái độ, một ước nguyện trước vịng u hận của dân tộc. Bóng tối thuộc
về đêm, đêm là thời gian, nhưng ở đây đêm cịn là khơng gian. Chế Lan Viên gián
tiếp nói về nỗi đau thực tại của đân tộc Việt. Với màu đen, Chế Lan Viên hầu như ít tả
thực (<i>mật ong đen)</i> mà đa số là màu tượng trưng. Nhìn trên trục dọc, trong nhóm màu
cùng gam như <i>xám, nâu, mờ tối... </i>ta thấy ít xuất hiện. Ơâng có tả thực ‘chiếc áo nâu”
để gợi kỷ niệm về những người du kích sống giản dị và hết lịng vì đồng đội. Nhưng
ngược lại, gam màu “xám” lại mang ý nghĩa biểu trưng <i>“ Những trời mây xám xịt đã</i>
<i>qua rồi</i>”. Với sự nhạy cảm trong phát hiện khả năng kết hợp của “xám” (trên trục
ngang): <i>xám xịt</i> – láy âm, mặc dù cách thể hiện này chưa có gì mới mẻ nhưng đã góp
phần thể hiện thế giới quan của nhà thơ.
<i><b>1.2.6- Màu tím</b></i>
Chế Lan Viên ít dùng màu tím. Với gam màu “tím”, ơng thường dùng ở góc độ
tả thực về các lồi hoa: <i> Hoa súng tím; hoa phong lan tím; hoa xoan tím; ...</i> Nhưng độc
đá là cách sáng tạo phương thức thể hiện của Chế Lan Viên khi thưởng hoa <i>“Hoa</i>
<i>phong lan nửa tím, nửa màu em”. </i>Hai gam màu vừa thực, vừa ảo, gợi nên những nỗi
nhớ nhung xa xôi về em qua việc cảm nhận từng chùm hoa phong lan tím. Cũng như
ứng, tương hỗ với con người. Khơng gian đó làm cho con người, sự vật thêm lung linh,
hịa hợp.
<b>2.2- Nhận xét chung</b>
Thơ Chế Lan Viên là sự thể nghiệm, sáng tạo về cái đẹp, là kết quả của sự
nhận thức, suy nghĩ sâu rộng trong mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể. - Theo Chế
Lan Viên, thơ trước hết phải bắt nguồn từ cuộc sống và hòa nhập vào từng bước đi, thơ
phải trở thành vũ khí đấu tranh cho chân lý, cho những gì tốt đẹp nhất của con người
bằng nhiều lối đi; thơ với nhiều tiếng nói lạ độc đáo qua cách sử dụng màu sắc: <i>Màu</i>
<i>xứ sở ; màu cứu khổ ; màu nguyệt quế ; màu phú quý ; màu em ; màu trắng bình yên ...</i>
Trong suốt quá trình sáng tạo thơ, Chế Lan Viên ln có khát vọng phát giác sự
việc ở cái bề chưa thấy, khám phá sự vật, hiện tượng ở cái bề sâu, ở cái bề sau, ở cái bề xa
để từ đó đem lại nhiều vần thơ mới lạ, đặc sắc, gây cho người đọc sự bất ngờ, thú vị.
- Với trí tưởng tượng phong phú, sức liên tưởng kì diệu, cách nhìn sự vật trong sự đối lập.
Chế Lan Viên chiếm lĩnh được thực tại cuộc sống để từ đó có cách suy ngẫm, triết lí sâu
sắc, cũng như sự khái quát chính xác về những vấn đề trong đời sống.
nó. Ðặc biệt, ơng có ý thức tìm kiếm, khám phá và làm nổi bật sự tương quan đối lập,
cũng như những mối liên hệ giữa các mặt đối lập của hiện thực. Nguyễn Văn Hạnh khẳng
định: Hình thức cơ bản phổ biến trong tư duy nghệ thuật của Chế Lan Viên là sự đối lập.
Nguyễn Xuân Nam quan niệm :Nét nổi bật của tư duy nghệ thuật của Chế Lan Viên là sự
đối lập. Còn Nguyễn Văn Long cho rằng: Tư duy thơ của Chế Lan Viên thường xem xét
sự vật trong những mối quan hệ đối lập.
- Có thể nói, sự đối lập của sự vật và hiện tượng được Chế Lan Viên cảm nhận từ cái nhìn
- Ngay từ thuở viết Ðiêu tàn, nhà thơ đã thể hiện được cảnh thái bình trong Chiêm Quốc
với cảnh đền xưa đổ nát, tháp gầy mịn mong đợi, tượng chàm lở lói rỉ rên than , để qua
đó gửi gắm nỗi đau về sự hủy diệt, nỗi buồn thương cho số phận của dân tộc trước cảnh
đời hiện tại.
- Trong cuộc sống xây dựng chủ nghĩa xã hội, Chế Lan Viên thường nói đến sự đối lập:
giữa cái nhỏ bé, nhỏ hẹp, riêng tây với cái rộng lớn mênh mơng; giữa bóng đêm tăm tối,
đêm tàn với bình minh, chói lịa ánh sáng, chói lịa hào quang hơm nay; giữa lạnh lẽo với
ấm áp, giữa cái đói nghèo khổ đau với hạnh phúc; giữa giọt lệ với lời ca, tiếng hát, nụ
cười, nhành vui; giữa cay đắng, chua cay, tủi cực với ngọt ngào, đời hồng; giữa cái đá sỏi,
cây cằn, ruộng đói mùa với phù sa, hoa trái mỡ màu. Thơng qua đó, nhà thơ nhằm ngợi
ca, khẳng định những đổi thay lớn lao và ý nghĩa của dân tộc trong cuộc sống xây dựng
chủ nghĩa xã hội .
từ tạ; giữa bể căm thù với bể yêu thương, giữa cánh đồng vàng óng ả, cửa sổ sơn hồng với
pháp trường và những bãi tha ma; giữa văn minh với dã man; giữa tồn tại với hủy diệt;
giữa sống với chết; giữa cái bình thường với phi thường; giữa trong với đục; giữa nhớ với
quên. Bằng cách cảm nhận đó, nhà thơ lí giải và thể hiện được những phẩm chất cao đẹp
của con người Việt Nam trong chiến tranh, cũng như vạch trần bản chất hung bạo và xảo
quyệt của kẻ thù xâm lược.
- Vào những năm cuối đời, khi thời gian cịn lại của đời mình cạn dần, khi căn bệnh hiểm
nghèo đang tàn phá sức lực, và trong cảnh Viên Tĩnh Viên, Chế Lan Viên vẫn ln trăn
trở, thao thức về những gì đang diễn ra trong đời sống. Ơng nhìn sự vật trong sự đối lập
giữa phía bên này với phía bên kia; giữa quá khứ với hiện tại; giữa hiện tại với mai sau;
- Qua tìm hiểu ngơn ngữ màu sắc trong thơ Chế Lan Viên, chúng tơi nhận thấy, nhà thơ
thường chú trọng khai thác, suy ngẫm về các quan hệ đối lập giữa : quá khứ - hiện tại,
hiện tại tương lai, quá khứ - tương lai, cái riêng cái chung, nhỏ bé vĩ đại, cái bi cái hùng,
cái động cái tĩnh, thấp hèn cao cả, yêu thương - căm thù, niềm vui nỗi đau, ngày - đêm,
ánh sáng - bĩng tối, ... Từ những mối quan hệ đối lập đĩ, nhà thơ đã giúp cho người đọc
cĩ điều kiện thuận lợi để nhận thức rõ hơn về cuộc sống ở bề chưa thấy, ở cái bề sâu, ở
cái bề sau, ở cái bề xa.
Ngồi ra, sáng tạo hình ảnh cũng là một trong những biện pháp hàng đầu mà Chế
Lan Viên đã sử dụng để đem lại hiệu quả cao cho việc tăng năng suất cho thơ, nhằm gĩp
phần tạo thêm sức hấp dẫn, bay bổng cho ý tưởng và tình cảm trong thơ ơng.
- Thơ Chế Lan Viên có đủ loại hình ảnh, nhưng nổi bật nhất và tác động mãnh liệt nhất
đối với người đọc là hình ảnh vừa thực vừa ảo, hình ảnh tượng trưng, hình ảnh so sánh,
hình ảnh ẩn dụ, hình ảnh liên kết thành một hệ thống
- Trước cách mạng tháng Tám, Chế Lan Viên đã sớm bộc lộ tài năng sáng tạo hình ảnh
thơ. Ơng đã đưa đến cho người đọc hình ảnh của một thế giới đầy sọ dừa, xương máu
cùng yêu ma, về một hệ thống hình ảnh với nhiều màu sắc độc đáo, thấm đẫm nỗi đau
đời.
- Sau cách mạng tháng Tám, hình ảnh thơ Chế Lan Viên mang vẻ đẹp của sự chân chất
bình dị, đậm đà tình u q hương, đất nước. Thơng qua hệ thống hình ảnh, Chế Lan
Viên đã giúp cho người đọc cảm nhận được hiện thực đời sống kháng chiến chống Pháp,
chống Mĩ nhiều gian khổ hi sinh mà rất đỗi hào hùng của dân tộc, cũng như nhận thức sâu
<b>KẾT LUẬN</b>
Chế Lan Viên là nhà thơ ln có sự tìm tịi, khám phá và sáng tạo. Ơng có sự nhận
thức sâu sắc về chức năng của văn chương và trách nhiệm của người nghệ sĩ đối với cuộc
sống.
chung truyền thống mà bao nhà thơ khác đã thể hiện. Tất cả sự hịa hợp những yếu tố
nội dung và hình thức thơ Chế Lan Viên đã tạo nên một phong cách thơ độc đáo, ln
biến đổi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Nguyễn Phan Cảnh-<i>Ngơn ngữ thơ, </i>Nxb Đaị học và Giáo dục chuyên nghiệp,
Hà Nội, 1987.
2- Hữu Đạt (Nhiều tác giả)- <i>Cơ sở tiếng việt,</i>Nxb Giáo dục, 1998
3- Đinh Văn Đức- <i>Ngữ pháp tiếng Việt </i>(từ loại), Nxb Đại học và Trung học
chuyên nghiệp, Hà Nội,1986, tr 157.
4- Tôn diễn Phong- <i>Vài nét về nghiên cứu qua văn hóa</i>, Tạp chí Ngơn ngữ và đời
sống, số 4 (42), 1999.
5- Trần Đình Sử- <i>Những thế giới nghệ thuật thơ,</i>Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1995.
6- Chế Lan Viên- <i>Điêu tàn,</i>Nxb Hoa tiên, Sài Gịn, 1967.
7- Chế Lan Viên- <i>Ánh sáng và phù sa</i>, Nxb Văn học, Hà Nội, 1960.
8- Chế Lan Viên- <i>Hoa ngày thừơng, chim báo bão, </i>Nxb Văn học, Hà Nội, 1960.
9- Chế Lan Viên - <i>Hái theo mùa, </i>Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội, 1977.
10- Chế Lan Viên – <i>Hoa trên đá</i>, Nxb Văn học, Hà Nội, 1984.
11- Chế Lan Viên – <i>Ta gửi cho mình</i> Nxb Văn học, Hà Nội, 1986.
12- Chế Lan Viên – <i>Di cảo thơ (Tập 1) </i>Nxb Thuận hóa, Huế, 1992.
13- Chế Lan Viên – <i>Di cảo thơ (Tập 2) </i>Nxb Thuận hóa, Huế, 1993.
14- Chế Lan Viên – <i>Di cảo thơ (Tập 3) </i>Nxb Thuận hóa, Huế, 1996.
15- Chế Lan Viên – <i>Tuyển tập Chế Lan Viên (tập 1), </i>Nxb Văn học, Hà Nội, 1985.
16- Chế Lan Viên – <i>Tuyển tập Chế Lan Viên (tập 2), </i>Nxb Văn học, Hà Noäi, 1990.