BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
TRẦN TIẾN DIỄM HOA
GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2020
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Định hướng nghiên cứu
Mã số: 8380104
Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Nguyên Thanh.
Học viên: Trần Tiến Diễm Hoa.
Lớp: Cao học luật - Khố 25.
Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của cá nhân. Mọi lý luận,
nghiên cứu trong luận văn do tơi tự tìm hiểu, phân tích dưới sự hướng dẫn của
giáo viên hướng dẫn. Các số liệu, trích dẫn, ví dụ có nguồn gốc rõ ràng, đảm bảo
độ tin cậy, khách quan và chính xác.
Người cam đoan
Trần Tiến Diễm Hoa
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Bộ luật Hình sự:
BLHS
Bộ luật Tố tụng hình sự:
BLTTHS
Pháp luật tố tụng hình sự:
PLTTHS
Tịa án nhân dân:
TAND
Tố tụng hình sự:
TTHS
Viện kiểm sát nhân dân:
VKSND
MỤC LỤC TÀI LIỆU
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ
THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ......................................................................................... 8
1.1. Khái niệm, nội dung và ý nghĩa của giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự. ................................................................................................................................ 8
1.1.1. Khái niệm giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ............................... 8
1.1.2. Nội dung giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự............................... 13
1.1.3. Ý nghĩa của giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự .......................... 17
1.2. Cơ sở của giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ................................... 18
1.2.1. Cơ sở lý luận của giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.................. 18
1.2.2. Cơ sở pháp luật của giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự .............. 23
1.2.3. Cơ sở thực tiễn của giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. ............. 33
1.3. Kinh nghiệm lập pháp Việt Nam về giới hạn xét xử sơ thẩm trước năm
2015 ........................................................................................................................... 35
1.3.1. Giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trước khi có Bộ luật Tố tụng
hình sự ....................................................................................................................... 35
1.3.2. Giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo Bộ luật Tố tụng hình sự
1988 ........................................................................................................................... 37
1.3.3. Giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo Bộ luật Tố tụng hình sự
2003 ........................................................................................................................... 39
1.4. Kinh nghiệm lập pháp về giới hạn xét xử sơ thẩm theo luật tố tụng
hình sự một số nước trên thế giới .......................................................................... 41
1.4.1. Giới hạn xét xử sơ thẩm theo luật tố tụng hình sự Nhật Bản ............ 41
1.4.2. Giới hạn xét xử sơ thẩm theo luật tố tụng hình sự Liên bang Nga ... 43
1.4.3. Giới hạn xét xử sơ thẩm theo luật tố tụng hình sự Liên bang Đức ... 44
1.4.4. Giới hạn xét xử sơ thẩm theo luật tố tụng hình sự Italia ................... 45
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ................................................................................... 48
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 2015 VỀ
GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ............................................ 49
2.1. Toà án xét xử bị cáo và hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát đã truy
tố và Toà án đã quyết định đưa vụ án ra xét xử................................................... 49
2.2. Toà án xét xử bị cáo và hành vi của bị cáo theo khoản khác với khoản
mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác
bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố ............................................ 56
2.2.1. Toà án xét xử bị cáo và hành vi của bị cáo theo khoản khác với
khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật ................................... 56
2.2.2. Toà án xét xử bị cáo và hành vi của bị cáo theo tội bằng hoặc nhẹ
hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố .......................................................................... 61
2.3. Toà án xét xử bị cáo và hành vi của bị cáo theo tội khác nặng hơn tội
mà Viện kiểm sát đã truy tố ................................................................................... 63
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ................................................................................... 71
CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ
ÁN HÌNH SỰ VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ............................................................ 72
3.1. Thực tiễn áp dụng quy định giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo
Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 ................................................................................. 72
3.1.1. Tình hình Tồ án áp dụng đúng quy định giới hạn xét xử sơ thẩm... 72
3.1.2. Những hạn chế, vướng mắc khi áp dụng quy định giới hạn xét xử sơ
thẩm và nguyên nhân ................................................................................................ 78
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 ......................................................... 85
3.2.1. Hồn thiện quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong
Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. ................................................................................... 85
3.2.2. Các kiến nghị khác đảm bảo cho việc thực hiện tốt quy định về giới
hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự .............................................................................. 92
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ................................................................................... 95
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC 1
PHỤ LỤC 2
PHỤ LỤC 3
PHỤ LỤC 4
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xét xử sơ thẩm có vị trí quan trọng trong hoạt động tố tụng hình sự. Thơng
qua xét xử sơ thẩm, Tồ án đưa ra Bản án quyết định tội danh và áp dụng các biện
pháp chế tài đối với người phạm tội theo điều, khoản, điểm được quy định trong Bộ
luật hình sự nhằm xử lý cơng minh, chính xác, kịp thời có căn cứ và hợp pháp đối
với hành vi phạm tội, không để bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, bảo vệ
công lý và bảo vệ quyền con người. Trong đó, giới hạn xét xử sơ thẩm là chế định
pháp lý quan trọng trong hoạt động xét xử của Toà án. Giới hạn xét xử sơ thẩm tồn
tại khách quan trong quá trình giải quyết mỗi vụ án hình sự cụ thể. Chế định này có
liên quan đến nhiều chế định pháp lý và các nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố tụng
hình sự cũng như việc định tội danh của các cơ quan tiến hành tố tụng trong hoạt
động áp dụng pháp luật. Việc xây dựng quy định giới hạn xét xử khoa học, phù họp
với thực tiễn xét xử sẽ là cơ sở quan trọng bảo đảm cho Toà án xét xử độc lập, đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật, không để bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội.
Pháp luật tố tụng hình sự nước ta đã trải qua ba lần pháp điển hố, qua đó,
quy định giới hạn xét xử sơ thẩm cũng đã ba lần được sửa đổi, bổ sung theo hướng
ngày càng mở rộng, đảm bảo tôn trọng quyền độc lập trong xét xử của Toà án cũng
như đáp ứng mục tiêu kiểm sốt tội phạm và tìm ra sự thật khách quan của vụ án
của tố tụng hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, về mặt lý luận, giới hạn xét xử sơ thẩm là
một trong những vấn đề phức tạp và gây tranh luận, đặc biệt là những vấn đề liên
quan đến mối quan hệ với chức năng buộc tội với chức năng xét xử và chức năng
bào chữa trong tố tụng hình sự, với nguyên tắc Hội thẩm và Thẩm phán xét xử độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật và nguyên tắc “Không làm xấu đi tình trạng của bị
cáo”.
Trong thời gian qua, đã có nhiều bài viết và cơng trình nghiên cứu của các
tác giả. Đồng thời, trong quá trình xây dựng Dự thảo Bộ luật Tố tụng hình sự 2015
cũng đã có nhiều hội thảo khoa học, bài viết liên quan đến giới hạn xét xử sơ thẩm.
Các cơng trình nghiên cứu này phần lớn nghiên cứu quy định giới hạn xét xử sơ
thẩm trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 và chỉ ra những vướng mắc khi áp dụng
quy định giới hạn xét xử sơ thẩm. Cũng có một số bài viết nghiên cứu về quy định
giới hạn xét xử sơ thẩm trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, tuy nhiên, các tác giả
2
chỉ mới tập trung nghiên cứu những điểm mới của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 so
với các quy định trước đó mà chưa nghiên cứu về thực tiễn áp dụng và những khó
khăn, vướng mắc khi áp dụng giới hạn xét xử sơ thẩm. Do đó, để nghiên cứu toàn
diện những vấn đề lý luận của giới hạn xét xử sơ thẩm, phân tích và đánh giá quy
định giới hạn xét xử sơ thẩm và thực trạng thi hành quy định giới hạn xét xử theo
Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, để từ đó chỉ ra những bất cập, hạn chế tạo cơ sở cho
những kiến nghị hoàn thiện quy định giới hạn xét xử sơ thẩm, tác giả chọn đề tài
“Giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo luật tố tụng hình sự Việt Nam” làm
luận văn Thạc sỹ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu những vấn đề liên quan đến giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố
tụng hình sự Việt Nam đã được các nhà nghiên cứu, các nhà khoa học và cán bộ
làm công tác thực tiễn tiến hành cơng bố trong các cơng trình khoa học, cụ thể:
Luận văn thạc sỹ của tác giả Nguyễn Thị Hồng Hoa thực hiện năm 2016 (Đại
học Luật thành phố Hồ Chí Minh) với đề tài “Giới hạn xét xử trong tố tụng hình
sự Việt Nam”. Trong cơng trình nghiên cứu này, tác giả tập trung nghiên cứu những
vấn đề lý luận về giới hạn xét xử, bao gồm cả giới hạn xét xử sơ thẩm và phạm vi
xét xử phúc thẩm, thực tiễn áp dụng quy định giới hạn xét xử và hướng hoàn thiện
quy định giới hạn xét xử trong Bộ luật Tố tụng hình sự, cũng như các giải pháp đảm
bảo cho việc thực hiện tốt quy định về giới hạn xét xử trong tố tụng hình sự Việt
Nam. Tuy nhiên, do quan điểm của tác giả luận văn không đồng ý với hướng phá vỡ
giới hạn xét xử về tội danh của Tòa án nên trong luận văn này, tác giả không nghiên
cứu về quy định cũng như thủ tục tố tụng trong trường hợp Tòa án áp dụng Điều
298 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 vào thực tiễn xét xử.
Luận văn thạc sỹ của tác giả Phan Vĩnh Chuyển thực hiện năm 2017 (Học
viện Khoa học xã hội Việt Nam) với đề tài “Giới hạn xét xử theo pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng”. Trong công trình nghiên cứu
này, tác giả tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về giới hạn xét xử, quy định
giới hạn xét xử sơ thẩm theo Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, thực tiễn áp dụng quy
định giới hạn xét xử tại địa bàn thành phố Đà Nẵng và một số ý kiến nhận định về
quy định giới hạn xét xử sơ thẩm theo Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, từ đó, tác giả
đưa ra một số yêu cầu và giải pháp để áp dụng đúng quy định của pháp luật tố tụng
3
hình sự về giới hạn xét xử sơ thẩm. Tuy nhiên, trong luận văn, tác giả chưa nghiên
cứu nội dung và cách thức quy định giới hạn xét xử trong pháp luật tố tụng hình sự
của một số nước trên thế giới để làm cơ sở cho việc xây dựng quy định này trong
Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. Bên cạnh đó, tác giả luận văn vẫn tập trung nghiên
cứu về quy định tại Điều 196 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 mà vẫn chưa tiến hành
nghiên cứu chuyên sâu quy định giới hạn xét xử sơ thẩm tại Điều 298 Bộ luật Tố
tụng hình sự 2015.
Luận văn thạc sỹ của tác giả Nguyễn Việt Thưởng thực hiện năm 2018 (Đại
học Luật thành phố Hồ Chí Minh) với đề tài “Việc xét xử bị cáo về tội danh khác
tội danh mà Viện kiểm sát truy tố theo luật tố tụng hình sự Việt Nam”. Trong
cơng trình nghiên cứu này, tác giả tập trung nghiên cứu thực tiễn xét xử bị cáo theo
tội danh khác với tội danh mà Viện kiểm sát truy tố, nêu lên hạn chế, vướng mắc và
có những giải pháp hồn thiện. Tuy nhiên, do đây là cơng trình nghiên cứu luận văn
thạc sỹ theo định hướng ứng dụng nên trong luận văn, tác giả không nghiên cứu
những vấn đề lý luận về giới hạn xét xử sơ thẩm trong pháp luật tố tụng hình sự.
Bài viết “Một số ý kiến về hoàn thiện chế định Giới hạn xét xử trong Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 2015” của tác giả Nguyễn Thái Phúc đăng trên Tạp chí
Kiểm sát số 02/2020. Đây là bài báo khoa học nghiên cứu chuyên sâu về lý luận của
giới hạn xét xử sơ thẩm. Trong bài viết này, tác giả nghiên cứu, phân tích chế định
giới hạn xét xử trong thực tiễn áp dụng, những hạn chế của chế định này với một số
nguyên tắc của Hiến pháp 2013 liên quan đến hoạt động xét xử, đồng thời, trên cơ
sở liên hệ với pháp luật của một số nước, tác giả đưa ra một số ý kiến hoàn thiện
Điều 298 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. Tuy nhiên, do tác giả Nguyễn Thái Phúc
không đồng ý với định hướng mở rộng giới hạn xét xử sơ thẩm được quy định tại
Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 nên trong bài viết, tác giả cũng không nghiên cứu về
thủ tục tố tụng trong trường hợp Tòa án cần xét xử bị cáo theo tội danh khác với tội
danh mà Viện kiểm sát truy tố cũng như nghiên cứu hướng hoàn thiện quy định tại
khoản 3 Điều 298 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 để nâng cao hiệu quả áp dụng quy
định này vào thực tiễn xét xử.
Ngoài ra, cịn có một số bài viết về giới hạn xét xử sơ thẩm đăng trên các tạp
chí chuyên ngành như “Vấn đề Giới hạn xét xử của Toà án nhân dân” của tác giả
Nguyễn Văn Hiện (Tạp chí Tồ án nhân dân số 8/1999), “Bàn thêm về Giới hạn xét
4
xử sơ thẩm” của tác giả Đinh Văn Quế (Tạp chí Tồ án nhân dân số 11/1999), “Bàn
thêm về Giới hạn xét xử của Toà án” của tác giả Nguyễn Duy Hưng (Tạp chí Nhà
nước và pháp luật số 3/2000), “Giới hạn của việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự” của
tác giả Nguyễn Duy Hưng (Hội thảo một số vấn đề cần sửa đổi bổ sung Bộ luật Tố
tụng hình sự 2003/2009), “Về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 2015” của tác giả Vũ Gia Lâm (Tạp chí Kiểm sát số 22/2016),
“Bàn về Giới hạn xét xử trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015” của tác giả Lê
Thanh Phong (Tạp chí Kiểm sát số 12/2018).
Giới hạn xét xử sơ thẩm hiện nay vẫn là vấn đề có nhiều quan điểm, việc xây
dựng quy định giới hạn xét xử sơ thẩm khoa học, phù hợp với lý luận và thực tiễn
cũng như đảm bảo tính khả thi là điều cần thiết. Quy định giới hạn xét xử sơ thẩm
trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 đã tạo được nhiều đồng thuận của các nhà
nghiên cứu, cán bộ làm công tác xét xử, tuy nhiên, cách thức quy định của điều luật
cịn chưa logic, chưa tính tốn hài hồ giữa tính độc lập trong xét xử của Toà án và
bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội. Đồng thời, điều luật chỉ mới quy
định tinh thần đổi mới mà chưa có những thiết chế kèm theo để quy định giới hạn
xét xử sơ thẩm mới được áp dụng trên thực tế. Chính lý do này mà cần phải nghiên
cứu đầy đủ, khách quan và toàn diện giới hạn xét xử sơ thẩm trong Bộ luật Tố tụng
hình sự 2015 cả về mặt lý luận và thực tiễn để đưa ra hướng hoàn thiện phù hợp.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu: nhằm góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về
giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, từ đó kiến nghị các giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả áp dụng quy định giới hạn xét xử trong tố tụng hình sự.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích trên, tác giả đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ sau:
+ Nghiên cứu những vấn đề lý luận về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự;
+ Phân tích làm rõ quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 về giới hạn xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự;
+ Đánh giá thực trạng áp dụng quy định giới hạn xét xử sơ thẩm theo Bộ luật
Tố tụng hình sự 2015;
5
+ Kiến nghị một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định giới hạn
xét xử của Tòa án ở Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: đề tài nghiên cứu về giới hạn xét xử sơ thẩm trong
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu:
+ Về nội dung: đề tài nghiên cứu quy định giới hạn xét xử sơ thẩm được quy
định trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015;
+ Về khơng gian: luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng giới hạn xét xử sơ
thẩm trên phạm vi toàn quốc;
+ Về thời gian: luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng giới hạn xét xử sơ
thẩm từ năm 2015 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối chính sách của
Đảng, Nhà nước về cải cách tư pháp.
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: phương pháp
phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê, lịch sử, phương pháp nghiên cứu tình huống
pháp lý cụ thể qua việc giải quyết các vụ án điển hình. Cụ thể:
Phương pháp lịch sử được sử dụng để tìm hiểu bản chất, cơ sở hình thành và
phát triển của pháp luật về giới hạn xét xử sơ thẩm. Phương pháp này được sử dụng
ở Chương 1 của Luận văn.
Phương pháp so sánh được sử dụng để tìm hiểu những điểm tương đồng và
khác biệt giữa quy định giới hạn xét xử sơ thẩm qua các thời kỳ, giữa luật quốc gia
và luật nước ngoài và pháp luật quốc tế về giới hạn xét xử sơ thẩm, so sánh ưu
điểm, nhược điểm của quy định giới hạn xét xử sơ thẩm trong Bộ luật Tố tụng hình
sự 1988, Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, đặc biệt
phương pháp này được áp dụng để so sánh giữa thủ tục Trả hồ sơ điều tra bổ sung
6
và thủ tục Trả hồ sơ truy tố lại được đề cập trong Luận văn. Phương pháp này được
sử dụng ở Chương 1 và Chương 2 của Luận văn.
Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng để nghiên cứu những vấn đề
lý luận và quy định giới hạn xét xử sơ thẩm trong pháp luật tố tụng hình sự, nắm rõ
tình hình áp dụng quy định giới hạn xét xử sơ thẩm của ngành Tịa án, từ đó, đánh
giá, đề xuất những vấn đề cần nghiên cứu. Phương pháp này được sử dụng ở
Chương 1, Chương 2 và Chương 3 của Luận văn.
Phương pháp thống kê được sử dụng để thống kê các số liệu thu thập được
qua
các
Bản
án
được
công
bố
công
khai
trên
trang
điện
tử
congbobanan.toaan.gov.vn nhằm làm rõ tình hình áp dụng giới hạn xét xử sơ thẩm
của Tòa án nhân dân hai cấp. Phương pháp này được sử dụng ở Chương 3 của Luận
văn.
Phương pháp nghiên cứu tình huống pháp lý cụ thể qua việc giải quyết các
vụ án điển hình được sử dụng để phân tích những vấn đề pháp lý và thực tiễn tố
tụng, đưa ra cái nhìn khách quan, thực tế khi đánh giá vấn đề nghiên cứu. Phương
pháp này được sử dụng ở Chương 2 và Chương 3 của Luận văn.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Cơng trình này nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện về giới hạn xét xử
sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Cơng trình làm sáng tỏ những vấn
đề lý luận về giới hạn xét xử sơ thẩm, phân tích các quy định của pháp luật tố tụng
hình sự và đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về giới hạn xét xử sơ thẩm. Trên
cơ sở đó, đưa ra những kiến nghị hồn thiện chế định giới hạn xét xử sơ thẩm.
Ngoài ra, cơng trình có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho hoạt động
nghiên cứu và học tập với những người quan tâm đến giới hạn xét xử sơ thẩm trong
pháp luật tố tụng hình sự.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo thì nội
dung luận văn được bố cục thành ba chương:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
7
- Chương 2: Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 về giới hạn xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự
- Chương 3: Thực tiễn áp dụng giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và một
số kiến nghị
8
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM
VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, nội dung và ý nghĩa của giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự
1.1.1. Khái niệm giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Giới hạn xét xử vụ án hình sự là chế định pháp lý quan trọng trong hoạt động
xét xử của Toà án. Tuy nhiên, trong các BLTTHS đã ban hành và các văn bản
hướng dẫn đều chỉ quy định giới hạn xét xử của Toà án mà không đưa ra khái niệm
về giới hạn xét xử. Đồng thời, trong từng cấp xét xử, BLTTHS1 lại sử dụng các
thuật ngữ khác nhau như “Giới hạn của việc xét xử” ở chương xét xử sơ thẩm,
“Phạm vi xét xử phúc thẩm” ở chương xét xử phúc thẩm, “Phạm vi giám đốc thẩm”
ở thủ tục giám đốc thẩm. Vì vậy, việc nghiên cứu và đưa ra khái niệm giới hạn xét
xử cũng như nghiên cứu nội dung của chế định này có ý nghĩa rất quan trọng trong
hoạt động nghiên cứu lập pháp cũng như trong hoạt động thực tiễn. Trong luận văn
này, tác giả sẽ nghiên cứu bản chất của giới hạn xét xử, từ đó, đưa ra khái niệm giới
hạn xét xử, giới hạn xét xử sơ thẩm và phân biệt giới hạn xét xử sơ thẩm với phạm
vi xét xử phúc thẩm, phân biệt giới hạn xét xử sơ thẩm và thẩm quyền xét xử.
Xét xử là một hoạt động nhân danh quyền lực của Nhà nước do Toà án thực
hiện, nhằm giải quyết những vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính
theo quy định pháp luật. Theo từ điển Tiếng Việt thì “xét xử” là hoạt động xem xét,
đánh giá bản chất pháp lý nhằm đưa ra phán xét về tính chất, mức độ pháp lý của vụ
việc, từ đó nhân danh Nhà nước đưa ra một phán quyết tương ứng với bản chất mức
độ trái hay không trái pháp luật của vụ việc2. Còn “giới hạn” là phạm vi, mức độ
nhất định, không thể hoặc không được phép vượt qua3. Như vậy, hiểu theo nghĩa
chung nhất, giới hạn xét xử của Toà án là phạm vi của hoạt động xem xét, đánh giá
và đưa ra phán quyết của vụ việc mà Tồ án khơng thể vượt qua.
Các bản Hiến pháp Việt Nam đều ghi nhận chức năng xét xử được giao cho
cơ quan Toà án và chỉ duy nhất Toà án thực hiện. Tuy nhiên, không phải bất cứ khi
nào có đơn khởi kiện hay hành vi phạm tội xảy ra thì đều phát sinh nên việc xét xử
1
Bộ luật Tố tụng hình sự 1988, Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015
Bộ tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nhà xuất bản Từ điển bách khoa- Nhà xuất bản Tư pháp, tr.869
3
Viện ngôn ngữ học (2006), Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng-Trung tâm từ điển học, tr. 405
2
9
mà hoạt động này chỉ được tiến hành trên những cơ sở, thủ tục nhất định. Đồng
thời, tuỳ vào từng lĩnh vực mà ln có một cơ chế để khởi động chức năng xét xử
và định ra giới hạn hoạt động xét xử của Toà án trong một phạm vi nhất định. Trong
lĩnh vực tố tụng dân sự, nguyên tắc tôn trọng sự tự do thoả thuận và tự định đoạt
của đương sự là đặc trưng cơ bản, do đó, Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự
khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi
đơn khởi kiện, đơn u cầu đó. Ngược lại, TTHS lại mang tính cưỡng chế Nhà nước
và khơng có sự tự do thoả thuận. Quan hệ PLTTHS phát sinh từ khi cơ quan có
thẩm quyền phát hiện hoặc tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi
tố, kể từ lúc đó các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ tiến hành các hoạt động xác minh,
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử nhằm làm sáng tỏ vụ án, tìm ra người phạm tội và
quyết định hình phạt đối với họ. Trên cơ sở này, Toà án chỉ xét xử khi có truy tố của
Viện kiểm sát và chỉ xét xử trong phạm vi những người và hành vi mà Viện kiểm
sát đã truy tố, Tồ án khơng thể tự mình đưa những người và những hành vi khơng
bị truy tố để xét xử. Cơ chế giới hạn xét xử của Toà án bởi đơn khởi kiện hay quyết
định truy tố của Viện kiểm sát như trên giúp Toà án định hướng hoạt động xét xử,
loại bỏ việc xét xử những nội dung, những vấn đề nằm ngoài yêu cầu của đương sự
hay vượt quá phạm vi truy tố của Viện kiểm sát.
Trong TTHS luôn tồn tại ba chức năng cơ bản là chức năng buộc tội, chức
năng bào chữa và chức năng xét xử. Giới hạn xét xử trong TTHS là chế định pháp
lý điều chỉnh mối quan hệ giữa chức năng buộc tội của Viện kiểm sát và chức năng
xét xử của Toà án trong giai đoạn xét xử nhưng mối quan hệ này phải được xem xét
và giải quyết trên cơ sở bảo đảm chức năng bào chữa của người bị buộc tội. Cụ thể,
hoạt động truy tố của Viện kiểm sát đóng vai trị trung tâm, thu hút hoạt động xét xử
và hoạt động bào chữa, phạm vi truy tố của Viện kiểm sát sẽ quyết định đến giới
hạn xét xử của Toà án và phạm vi bào chữa của bị can, bị cáo. Do đó, giới hạn xét
xử của Tồ án trong TTHS là phạm vi mà hoạt động xét xử của Toà án bị phụ thuộc
vào hoạt động truy tố của Viện kiểm sát và sự phụ thuộc này tồn tại trong suốt q
trình xét xử. Có quan điểm cho rằng PLTTHS chỉ mới đề cập đến giới hạn của việc
xét xử mà khơng có giới hạn phán quyết của Tồ án, do đó, trong suốt q trình xét
xử Tồ án bị giới hạn bởi phạm vi truy tố của Viện kiểm sát nhưng có thể đưa ra
10
Bản án, quyết định vượt quá nội dung xét xử tại phiên toà4. Tác giả cho rằng việc
hiểu khái niệm giới hạn xét xử như ý kiến trên là chưa đúng với nội dung và nhiệm
vụ của chức năng xét xử vì chức năng xét xử của Tồ án bao gồm hai hoạt động
chính đó là hoạt động xem xét, đánh giá chứng cứ và hoạt động ban hành Bản án,
quyết định, hai hoạt động này có mối quan hệ thống nhất hữu cơ với nhau, vừa kế
thừa vừa bổ trợ lẫn nhau và cùng hợp thành hoạt động xét xử của Toà án. Nội dung
Bản án, quyết định của Toà án phải dựa trên kết quả xem xét, đánh giá tại phiên toà
và ngược lại, việc xem xét, đánh giá một vấn đề nào đó phải đưa đến một kết luận
thể hiện trong Bản án, quyết định. Vì vậy, giới hạn xét xử của Toà án phải được
hiểu là phạm vi những vấn đề mà Toà án được quyền xét xử và quyết định đến phán
quyết của Hội đồng xét xử.
Bên cạnh đó, có quan điểm cho rằng giới hạn xét xử của Tồ án có ở các cấp
và các thủ tục xét xử, từ cấp sơ thẩm, phúc thẩm đến thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm. Vì vậy sẽ có giới hạn xét xử sơ thẩm, giới hạn xét xử phúc thẩm, giới hạn
giám đốc thẩm..., đây là quan điểm của tác giả Đinh Văn Quế5, tác giả Phạm Hồng
Hải6, tác giả Nguyễn Văn Hiện7 và tác giả Nguyễn Thái Phúc8. Để làm rõ quan
điểm này, chúng ta cần nhắc lại bản chất của giới hạn xét xử. Theo đó, giới hạn xét
xử điều chỉnh mối quan hệ giữa ba chức năng cơ bản trong TTHS, trong đó nổi bật
là chức năng buộc tội và chức năng xét xử trong giai đoạn xét xử và một trong
những biểu hiện của mối quan hệ này là Cáo trạng của Viện kiểm sát là cơ sở khởi
động chức năng xét xử của Tồ án. Từ đó, đối chiếu với căn cứ phát sinh nên hoạt
động xét xử sơ thẩm, hoạt động xét xử phúc thẩm, thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm,
tác giả thấy rằng chỉ có ở cấp xét xử sơ thẩm mới có sự khởi động chức năng xét xử
bởi Cáo trạng của Viện kiểm sát, còn ở cấp xét xử phúc thẩm thì lại khởi động chức
năng xét xử bằng kháng cáo, kháng nghị đối với Bản án, quyết định của Toà án cấp
sơ thẩm. Riêng thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm thì khơng mang bản chất của việc
4
Đinh Văn Quế, “Một số vấn đề về giới hạn của việc xét xử”,
/>etails=1&item_id=11413446, truy cập ngày 27/6/2020
5
Đinh Văn Quế (2010), Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nhà xuất
bản Phương Đông, tr.247
6
Phạm Hồng Hải, “Vấn đề giới hạn xét xử trong tố tụng hình sự”, “ truy cập ngày
18/6/2020
7
Nguyễn Văn Hiện (1999), “Vấn đề giới hạn xét xử của Tồ án nhân dân”, Tạp chí Tồ án nhân dân, số 08,
tr.02
8
Nguyễn Thái Phúc (2020), “Một số ý kiến về hoàn thiện chế định giới hạn xét xử trong Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2015”, Tạp chí Kiểm sát, số 02, tr.34
11
xét xử mà là phiên họp để xét lại Bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm, phúc
thẩm đã có hiệu lực pháp luật, ở đó Tồ án không xét xử những bị cáo và hành vi
mà Viện kiểm sát truy tố để quyết định tội danh và hình phạt đối với họ mà chỉ xem
xét tính có căn cứ và hợp pháp của Bản án, quyết định bị kháng nghị. Do đó, có thể
khẳng định giới hạn xét xử của Toà án chỉ tồn tại ở cấp xét xử sơ thẩm, hay còn gọi
là giới hạn xét xử sơ thẩm. Tuy nhiên, nói như vậy, khơng có nghĩa là ở cấp xét xử
phúc thẩm hay thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm lại khơng có cơ chế ràng buộc hoạt
động xét xử hay xét lại của Toà án mà ở đó sẽ tồn tại một chế định khác liên quan
đến giới hạn xét xử sơ thẩm, đó là “Phạm vi xét xử”.
Theo Từ điển tiếng Việt thì “phạm vi” là “khoảng được giới hạn của một
hoạt động, một vấn đề”9, còn giới hạn là ranh giới bên ngồi, là cái bao bọc cái
phạm vi. Do đó, trong một chỉnh thể thì giới hạn là cái hình thức, cái bên ngồi, cịn
phạm vi là cái nội dung, cái bên trong. Khi nghiên cứu về quy định xét xử sơ thẩm
và xét xử phúc thẩm trong BLTTHS thì tác giả nhận thấy rằng trong tư duy của nhà
làm luật đã có sự phân định giữa giới hạn xét xử và phạm vi xét xử, Điều này được
chứng minh qua cách thức xây dựng quy phạm “Giới hạn của việc xét xử” ở chương
xét xử sơ thẩm và “Phạm vi xét xử phúc thẩm” ở chương xét xử phúc thẩm, “Phạm
vi giám đốc thẩm” ở thủ tục giám đốc thẩm. Tác giả thống nhất với cách thức quy
định này của BLTTHS bởi về hình thức, xét xử sơ thẩm được khởi động bằng hoạt
động truy tố của Viện kiểm sát và giới hạn xét xử của Toà án bị ràng buộc bởi phạm
vi truy tố được thể hiện trong Cáo trạng của Viện kiểm sát, còn xét xử phúc thẩm là
cấp xét xử phái sinh, được khởi động dựa trên hoạt động kháng cáo, kháng nghị Bản
án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền.
Về nội dung, phạm vi những vấn đề mà Tồ án cấp phúc thẩm có quyền xét xử luôn
bị phụ thuộc vào Bản án, quyết định sơ thẩm. Tồ án cấp phúc thẩm khơng thể xét
xử một người hay một hành vi chưa từng bị điều tra, truy tố, xét xử ở cấp sơ thẩm.
Do đó, phạm vi xét xử phúc thẩm có mối quan hệ phụ thuộc vào giới hạn xét xử sơ
thẩm như nhận định của tác giả Mai Thanh Hiếu “Một trong những đặc điểm của
việc thực hiện thẩm quyền của Toà án cấp phúc thẩm là Tồ án cấp phúc thẩm chỉ
9
Viện ngơn ngữ học (2006), tlđd (3), tr. 465
12
được xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm trong giới hạn xét xử sơ
thẩm”10.
Có quan điểm cho rằng nội hàm của chế định giới hạn xét xử sơ thẩm còn
bao hàm cả thẩm quyền xét xử của Toà án, đây là quan điểm của tác giả Đinh Văn
Quế11 và tác giả Nguyễn Văn Hiện12. Qua nghiên cứu chế định giới hạn xét xử và
thẩm quyền xét xử của Toà án, tác giả khẳng định giới hạn xét xử của Toà án và
thẩm quyền xét xử là hai chế định độc lập với nhau. Thẩm quyền xét xử trong
TTHS là quyền được xét xử vụ án hình sự do PLTTHS quy định dựa trên cơ sở dấu
hiệu về tính nghiêm trọng của tội phạm được thực hiện, tính phức tạp của vụ án, địa
điểm xảy ra tội phạm và đặc điểm nhân thân của người phạm tội. Các dấu hiệu trên
giúp phân định Toà án huyện A hay Toà án huyện B, Toà án cấp huyện hay Tồ án
cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án... Do đó, nói đến thẩm quyền xét xử là
nói đến thẩm quyền xét xử giữa các Tồ án trong hệ thống Tồ án. Cịn giới hạn xét
xử của Toà án là chế định pháp lý xác định phạm vi chức năng xét xử đối với một
vụ án hình sự cụ thể, dựa trên phạm vi truy tố của Viện kiểm sát. Giữa thẩm quyền
xét xử và giới hạn xét xử thì thẩm quyền xét xử là cái có trước, được xác định trước
ngay từ giai đoạn điều tra13, cịn giới hạn xét xử của Tồ án chỉ được xác định khi
Viện kiểm sát có Quyết định truy tố và chuyển hồ sơ sang Toà án. Tuy nhiên, đến
lượt mình, giới hạn xét xử lại tác động ngược lại đến thẩm quyền xét xử, khi có bất
kỳ sự thay đổi nào về việc định tội danh đối với bị can, bị cáo thì vấn đề đầu tiên
cần được xác định lại đó là thẩm quyền xét xử của Toà án đối với vụ án bởi thẩm
quyền xét xử theo cấp Toà án được xác định dựa trên tội danh mà bị cáo bị Viện
kiểm sát truy tố14.
Từ những phân tích và so sánh trên, tác giả xin đưa ra khái niệm giới hạn xét
xử như sau: giới hạn xét xử của Toà án là phạm vi những vấn đề Tồ án có quyền
xét xử và phán quyết tại phiên tồ mà khơng được phép vượt qua. Giới hạn xét xử
của Toà án được xác định bởi phạm vi truy tố của Viện kiểm sát và chỉ có trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
10
Mai Thanh Hiếu (2013), “Thẩm quyền của Toà án cấp phúc thẩm trong giới hạn xét xử sơ thẩm”, Tạp chí
Luật học, số 10, tr.13
11
Đinh Văn Quế, ltdđ (4), truy cập ngày 27/6/2020
12
Nguyễn Văn Hiện, ltdđ (7), tr.02
13
Theo khoản 5 Điều 165 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 thì việc phân cấp thẩm quyền điều tra được xác định
dựa trên thẩm quyền xét xử của Toà án.
14
Điều 268 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015
13
1.1.2. Nội dung của giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Giới hạn xét xử sơ thẩm được xác định bởi nhiệm vụ, mục đích và các
nguyên tắc cơ bản của PLTTHS trong từng thời kỳ phát triển của lịch sử. Qua làm
việc và nghiên cứu về giới hạn xét xử sơ thẩm, tác giả nhận thấy rằng có nhiều ý
kiến khác nhau về nội dung của giới hạn xét xử nhưng tập trung nhất ở những vấn
đề sau:
Thứ nhất, tồn tại hai quan điểm về phạm vi điều chỉnh của giới hạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự. Một là, giới hạn xét xử sơ thẩm bao gồm giới hạn về tố tụng và
giới hạn về nội dung, theo đó, giới hạn về tố tụng của hoạt động xét xử chính là
trình tự, thủ tục, các điều kiện (quy định chung) về xét xử, các nguyên tắc cơ bản do
BLTTHS quy định mà Tồ án có nghĩa vụ phải tuân thủ, còn giới hạn về nội dung
của hoạt động xét xử được xác định bởi phạm vi buộc tội thể hiện trong Quyết định
truy tố của Viện kiểm sát, đây là quan điểm của tác giả Nguyễn Thái Phúc15. Hai là,
giới hạn xét xử sơ thẩm ngoài những bị cáo và hành vi mà Toà án cần xét xử trong
vụ án hình sự thì cịn là giới hạn xét xử những vấn đề dân sự có liên quan trong vụ
án hình sự, đây là quan điểm của tác giả Mai Thanh Hiếu16.
Thứ hai, về các yếu tố của giới hạn xét xử sơ thẩm. Đây là vấn đề có nhiều
quan điểm khác nhau và tác động lớn đến việc hiểu và áp dụng giới hạn xét xử sơ
thẩm của Toà án. Quan điểm thứ nhất cho rằng giới hạn xét xử sơ thẩm chỉ bao gồm
những bị cáo và hành vi mà Viện kiểm sát truy tố, đây là quan điểm của tác giả Võ
Thị Kim Oanh17, tác giả Vũ Gia Lâm18, tác giả Mai Thanh Hiếu19. Quan điểm thứ
hai lại cho rằng giới hạn xét xử sơ thẩm bao gồm những bị cáo, hành vi phạm tội và
những tội danh mà Toà án được quyền xét xử tại phiên toà, đây là quan điểm của
tác giả Nguyễn Thái Phúc20, tác giả Nguyễn Duy Hưng21 và rộng nhất đó là quan
điểm của tác giả Lê Hữu Thể22, ơng cho rằng giới hạn xét xử của Tồ án bao gồm
15
Nguyễn Thái Phúc (2020), ltđd (8), tr.39
Mai Thanh Hiếu (2013), ltđd (10), tr.12
17
Võ Thị Kim Oanh (2013), Xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam, Nhà xuất bản Đại học quốc gia
thành phố Hồ Chí Minh, tr.119
18
Vũ Gia Lâm (2016), “Về giới hạn xét xử sơ thẩm trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015”, Tạp chí Kiểm
sát, số 22, tr. 42
19
Mai Thanh Hiếu (2013), ltđd (10), tr.11
20
Nguyễn Thái Phúc (2020), ltđd (8), tr.39
21
Nguyễn Duy Hưng (2000), “Bàn về giới hạn xét xử của tồ án”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 3, tr. 18
22
Lê Hữu Thể, Đỗ Văn Đương, Nguyễn Thị Thuỷ (2013), Những vấn đề lý luận và cấp bách của việc đổi
mới thủ tục TTHS đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, tr. 372
16
14
bốn yếu tố: bị cáo, hành vi phạm tội, tội danh và khoản của tội danh mà Viện kiểm
sát đã truy tố.
Thứ ba, tác giả Lê Hữu Thể23 và tác giả Mai Thanh Hiếu24 cho rằng trong nội
dung của giới hạn xét xử sơ thẩm thì có những yếu tố “cứng”, tức không được thay
đổi trong bất kỳ trường hợp nào và những yếu tố “mềm”, tức có thể thay đổi trong
một số trường hợp nhất định. Cụ thể, các tác giả cho rằng hai yếu tố “bị cáo” và
“hành vi” là yếu tố “cứng”, bị giới hạn tuyệt đối bởi Quyết định truy tố của Viện
kiểm sát còn “tội danh” và “khoản của tội danh” là yếu tố “mềm”, chỉ giới hạn ở
một mức độ nhất định, Toà án có thể xét xử bị cáo khoản khác với khoản mà Viện
kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc xét xử bị cáo về tội danh bằng
hoặc nhẹ hơn tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố.
Quan điểm của tác giả: trong suốt tiến trình lập pháp của nước ta, quy định
giới hạn xét xử sơ thẩm trong PLTTHS có sự thay đổi theo hướng bổ sung hay giảm
bớt một số yếu tố thuộc nội dung của giới hạn xét xử sơ thẩm. Tuy nhiên, theo quan
điểm của tác giả, những yếu tố thuộc nội dung của giới hạn xét xử sơ thẩm là những
yếu tố khách quan, là sản phẩm của mối quan hệ giữa chức năng buộc tội của Viện
kiểm sát và chức năng xét xử của Toà án trong giai đoạn xét xử. Do đó, khi nào
chức năng xét xử của Tồ án còn bị phụ thuộc vào chức năng buộc tội của Viện
kiểm sát thì khi đó những yếu tố thuộc nội dung của giới hạn xét xử sơ thẩm vẫn
không thay đổi, cụ thể:
- Nội dung của giới hạn xét xử sơ thẩm là phạm vi những vấn đề mà Toà án
có quyền xét xử tại phiên tồ sơ thẩm nên những quy định của pháp luật, những
nguyên tắc về TTHS mà Tồ án có nghĩa vụ phải tn thủ khi xét xử không thuộc
nội hàm của giới hạn xét xử mà đó là những thiết chế được xây dựng để vận hành
hoạt động xét xử và đảm bảo cho hoạt động xét xử được diễn ra theo đúng mục
đích, đúng trình tự, thủ tục mà bất kỳ vụ án nào cũng phải tuân thủ. Những thiết chế
đó bao gồm các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể tiến hành tố tụng,
quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, quy định trình tự, thủ tục chuẩn bị
xét xử, trình tự thủ tục xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, nghị án và tuyên án... Bên
cạnh đó, nội dung của giới hạn xét xử khơng bao gồm những vấn đề dân sự trong vụ
án hình sự, bởi lẽ, việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự là việc xem xét
23
24
Lê Hữu Thể (2013), ltdđ (22), tr.373
Mai Thanh Hiếu (2013), ltđd (10), tr.12
15
giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại do tội phạm gây ra nhằm khơi phục kịp thời,
nhanh chóng các thiệt hại của người thiệt hại và nguyên đơn dân sự trong vụ án25.
Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự chỉ phát sinh khi có yêu cầu từ
phía người bị hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ
án và tuân thủ các nguyên tắc tự do định đoạt, tự do thỏa thuận, tự do hòa giải, xác
định thiệt hại trong tố tụng dân sự. Tuy nhiên, những nguyên tắc này lại không được
áp dụng khi xét xử những vấn đề thuộc nội dung của giới hạn xét xử sơ thẩm. Tồ
án khơng thể tự do đưa những người bị tình nghi hay hành vi bị tình nghi để đưa ra
xét xử mà chưa bị các cơ quan tiến hành tố tụng điều tra, truy tố. Đồng thời,
PLTTHS nước ta cũng không cho phép việc thoả thuận nhận tội giữa cơ quan buộc
tội và bị can, bị cáo (mặc cả thú tội). Do đó, nội dung của giới hạn xét xử sơ thẩm
chỉ bao gồm sản phẩm của mối quan hệ giữa chức năng buộc tội của Viện kiểm sát
và chức năng xét xử của Toà án trong giai đoạn xét xử.
- Tác giả đồng ý với quan điểm của tác giả Lê Hữu Thể về bốn yếu tố thuộc
nội dung của giới hạn xét xử, đó là: bị cáo, hành vi, tội danh và khoản của tội danh
mà Viện kiểm sát truy tố. Đồng thời, khẳng định hai yếu tố “bị cáo” và “hành vi”
mà Viện kiểm sát truy tố là hai yếu tố “cứng” bởi vì Tồ án không thể xét xử những
người và những hành vi không bị khởi tố, điều tra, truy tố. Bất cứ trường hợp nào
Toà án xét xử vượt quá hai yếu tố trên là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, dẫn
đến Bản án, quyết định của Tồ án khơng có hiệu lực pháp luật. Đối với hai yếu tố
“tội danh” và “khoản của tội danh” là những yếu tố “mềm” bởi vì theo ngun tắc
cá thể hố trách nhiệm hình sự thì hành vi bị truy tố ln gắn liền với đánh giá pháp
lý đối với hành vi, tức trong Quyết định truy tố của mình, Viện kiểm sát phải thể
hiện rõ hành vi bị truy tố về tội danh nào, theo khung hình phạt (khoản) nào của tội
danh đó. Tuy nhiên, Tồ án có quyền xét xử bị cáo về tội danh khác, khoản khác
với tội danh, khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố nếu tương xứng với tính chất, mức
độ của hành vi mà bị cáo đã thực hiện và phù hợp với các tình tiết của vụ án.
Trường hợp, tội danh mà Toà án xác định khác biệt cơ bản với hành vi bị Viện kiểm
sát truy tố thì Tồ án phải trả hồ sơ để Viện kiểm sát điều tra bổ sung. Vì thế, “tội
danh” và “khoản của tội danh” mà Viện kiểm sát truy tố là hai yếu tố thuộc nội
dung của giới hạn xét xử nhưng có yếu tố “mở”, Tồ án có thể xét xử bị cáo theo tội
25
Phan Thành Bút (2009), Giải quyết vấn đề dân sự trong tố tụng hình sự, Luận văn thạc sỹ, Đại học Luật
Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 35
16
danh khác, theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một
điều luật nếu đáp ứng được các điều kiện về thủ tục tố tụng và quyền bào chữa cho
bị cáo.
Ngoài ra, tác giả cho rằng ngồi bốn yếu tố trên thì giới hạn xét xử của Tồ
án cịn là số lượng tội danh mà Viện kiểm sát đã viện dẫn để truy tố đối với mỗi bị
cáo. Điều này được chứng minh qua vụ án có nhiều bị cáo hoặc vụ án có bị cáo bị
truy tố về nhiều hành vi theo các tội danh độc lập.
Trường hợp vụ án có nhiều bị cáo, nếu Viện kiểm sát đã truy tố các bị cáo về
nhiều tội danh trong cùng một vụ án thì Tồ án chỉ được xét xử bị cáo theo số lượng
tội danh mà bị cáo bị truy tố, Tồ án khơng được dựa vào số lượng tội danh mà
Viện kiểm sát đã truy tố trong toàn bộ vụ án để xét xử đối với từng bị cáo.
Trường hợp bị cáo bị truy tố về nhiều tội danh, nếu Viện kiểm sát đã truy tố
các hành vi của bị cáo về nhiều tội danh nhưng Toà án xác định số tội danh mà bị
cáo đã thực hiện ít hơn số tội danh mà Viện kiểm sát truy tố thì Tồ án xét xử theo
đúng số tội danh mà Toà án xác định, tức được xét xử ít hơn số tội danh mà Viện
kiểm sát truy tố và trường hợp này có thể dẫn đến việc xét xử bị cáo theo khoản
khác với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật. Ví dụ: A có
ba lần thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Viện kiểm sát truy tố A về tội “Trộm
cắp tài sản” và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tại phiên toà, Toà án xác định
hành vi chiếm đoạt tài sản của A chỉ cấu thành một tội danh là tội “Trộm cắp tài
sản” thì Tồ án khơng được quyền tun A khơng phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài
sản” mà phải xét xử A về tội “Trộm cắp tài sản”. Trường hợp, nếu Viện kiểm sát
truy tố các hành vi của bị cáo về một tội danh nhưng Toà án xác định hành vi của bị
cáo cấu thành nhiều tội danh khác nhau thì khơng được xét xử vượt q số lượng tội
danh mà Viện kiểm sát đã truy tố mà phải trả hồ sơ để Viện kiểm sát điều tra bổ
sung do bỏ lọt tội phạm, đồng thời, việc Toà án xét xử bị cáo vượt quá số lượng tội
danh mà Viện kiểm sát truy tố là hoàn toàn gây bất lợi cho bị cáo. Ví dụ: A có ba
lần thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Viện kiểm sát truy tố A về tội “Trộm cắp
tài sản” và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tại phiên toà, Toà án xác định hành vi
của bị cáo bị Viện kiểm sát truy tố ngoài cấu thành hai tội danh mà Viện kiểm sát đã
truy tố là tội “Trộm cắp tài sản” và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” mà còn cấu
thành tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” thì Tịa án quyết định trả hồ sơ
để Viện kiểm sát điều tra, truy tố thêm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”
17
do có việc bỏ lọt tội phạm. Tịa án khơng được quyền xét xử vượt quá số tội danh
mà Viện kiểm sát đã truy tố.
Từ những phân tích trên, tác giả cho rằng: giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự là phạm vi những bị cáo, những hành vi, những tội danh, số lượng tội danh và
khoản của tội danh mà Toà án được quyền xét xử tại phiên tồ. Trong đó, bị cáo và
hành vi mà Viện kiểm sát truy tố là yếu tố “cứng”, phụ thuộc tuyệt đối vào phạm vi
truy tố của Viện kiểm sát còn tội danh, số lượng tội danh và khoản của tội danh mà
Viện kiểm sát truy tố là yếu tố “mềm”, Tồ án có thể xét xử khác với Cáo trạng của
Viện kiểm sát nếu thoả mãn các điều kiện kèm theo.
1.1.3. Ý nghĩa của giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Thứ nhất, giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tạo định hướng cho hoạt
động tố tụng của các chủ thể tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng ở giai đoạn
xét xử.
Thứ hai, giới hạn xét xử sơ thẩm là công cụ pháp lý quan trọng và hiệu quả
để phân định rõ chức năng của các cơ quan tiến hành tố tụng trong giai đoạn xét xử,
ngăn chặn sự tuỳ tiện cũng như sự lạm quyền trong hoạt động truy tố, xét xử của
Viện kiểm sát và Toà án.
Thứ ba, sự tồn tại của quy định giới hạn xét xử sơ thẩm giúp Hội đồng xét xử
đưa ra những Bản án, quyết định có căn cứ, đúng người, đúng tội, phản ánh đúng sự
thật khách quan và là sự đúc kết kết quả tranh tụng tại phiên toà như yêu cầu của
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020 “Đổi mới việc tổ chức phiên toà xét xử, xác định rõ hơn vị trí
quyền hạn, nhiệm vụ, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố
tụng theo hướng bảo đảm tính cơng khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất
lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư
pháp”.
Thứ tư, giới hạn xét xử sơ thẩm đảm bảo thực thi quyền bào chữa của bị cáo
một cách hữu hiệu nhất bởi vì một trong những cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn xây
dựng nên chế định giới hạn xét xử, đó là ln phải bảo đảm được quyền bào chữa
cho bị can, bị cáo. Khi có bất cứ sự thay đổi nào về việc truy cứu trách nhiệm hình
sự đối với người bị buộc tội dù là bất lợi hay có lợi thì đều phải được thông báo đến
18
cho bị can, bị cáo và người bào chữa của họ trong một thời gian hợp lý để họ có thể
chủ động chuẩn bị các tài liệu, chứng cứ và phương án bào chữa tối ưu nhất.
1.2. Cơ sở của giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
1.2.1. Cơ sở lý luận của giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Thứ nhất, có thể khẳng định chính bản chất và nhiệm vụ của TTHS là cơ sở
khách quan hình thành nên giới hạn xét xử sơ thẩm. TTHS là hệ thống các giai đoạn
tố tụng có tính tuần tự, logic và nối tiếp nhau tạo thành một chuỗi tố tụng thống nhất
do các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện. Với bản chất
như trên thì giữa các giai đoạn trong TTHS ln có mối quan hệ giao thoa, khăng
khít với nhau và được vận hành theo nguyên tắc: kết quả của giai đoạn tố tụng trước
tạo tiền đề khởi động cho giai đoạn sau, hoạt động của giai đoạn sau kiểm tra, đánh
giá kết quả của giai đoạn trước. Các chủ thể tiến hành tố tụng khi tham gia vào các
giai đoạn tố tụng vừa kế thừa kết quả của giai đoạn tố tụng trước vừa chế ước, phản
biện và khắc phục những vi phạm, thiếu sót của giai đoạn tố tụng trước. Tuy nhiên,
sự kế thừa hay chế ước chỉ được thực hiện ở một chừng mực nhất định, đặc biệt ở
những giai đoạn tố tụng có nhiều chủ thể, nhiều chức năng tố tụng cùng hoạt động.
Tác giả Đào Trí Úc nhận định: “Để vận hành tố tụng hình sự, các cơ quan tư pháp
hình sự, những cá nhân có liên quan được xác định một phạm vi và mức độ cho địa
vị pháp lý tố tụng. Sự vận hành các chức năng, thẩm quyền cũng như việc thực hiện
các quyền và nghĩa vụ tố tụng đó được diễn ra trong phạm vi những quan hệ tố tụng
nhằm bảo đảm để thực hiện các chức năng, thẩm quyền, các quyền và nghĩa vụ tố
tụng”26. Việc truy tố của Viện kiểm sát phụ thuộc vào Kết luận điều tra của Cơ quan
điều tra, việc xét xử của Toà án phụ thuộc vào Cáo trạng của Viện kiểm sát là biểu
hiện của tính liên tục, kế thừa giữa các giai đoạn trong TTHS. Từ đó, giới hạn xét
xử sơ thẩm là biểu hiện về nội dung của tính chất kế thừa và liên tục của giai đoạn
truy tố và giai đoạn xét xử trong chu trình TTHS. Tác giả Nguyễn Thái Phúc đã
khẳng định “Quy định giới hạn xét xử sơ thẩm trong pháp luật tố tụng hình sự xuất
phát từ chính cấu trúc khách quan của hoạt động tố tụng hình sự”27.
Bên cạnh đó, xuất phát từ nhiệm vụ của TTHS là phát hiện chính xác, nhanh
chóng, xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội, không để bỏ lọt tội phạm, khơng
26
Đào Trí Úc (2011), Hồn thiện mơ hình tố tụng hình sự Việt Nam đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp - kinh
nghiệm CHLB Đức, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Quỹ Hợp tác quốc tế về pháp luật CHLB Đức, tr.231
27
Nguyễn Thái Phúc (2020), tlđd (8), tr.40
19
làm oan người vơ tội nên địi hỏi phải có sự phân định chức năng, quyền hạn các cơ
quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, đặc biệt là ở cơ quan truy tố, cơ quan
xét xử để ngăn chặn việc truy cứu trách nhiệm hình sự và kết án khơng có căn cứ
đối với người bị buộc tội. Có thể nói, cũng chính nhiệm vụ của TTHS mà địi hỏi
phải có giới hạn xét xử sơ thẩm của Toà án.
Thứ hai, mối quan hệ giữa các chức năng cơ bản trong TTHS là yếu tố khách
quan hình thành nên giới hạn xét xử sơ thẩm.
Trong bất kỳ mô hình TTHS nào cũng ln tồn tại ba chức năng cơ bản, đó
là chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chức năng xét xử. Tác giả Nguyễn
Thái Phúc khẳng định cơ chế vận hành các chức năng tố tụng trong tố tụng hình sự
như sau: chức năng buộc tội có vai trị trục chính, sự xuất hiện của chức năng buộc
tội kéo theo sự xuất hiện của chức năng bào chữa và sau cùng là chức năng xét xử.
Đến lượt mình, chức năng xét xử có vị trí trung tâm, ghi nhận và đánh giá kết quả
hoạt động của chức năng buộc tội và chức năng bào chữa28. Cụ thể, có truy tố của
Viện kiểm sát thì Tồ án mới phát sinh việc xét xử, phạm vi truy tố của Viện kiểm
sát là đối tượng của hoạt động xét xử. Toà án chỉ xét xử những người và hành vi mà
Viện kiểm sát đã truy tố nhưng quyền quyết định người và hành vi mà Viện kiểm
sát truy tố có tội hay khơng, tội danh gì và hình phạt như thế nào là quyền hạn riêng
biệt của Toà án. Đồng thời, người bị buộc tội chỉ bào chữa khi có việc buộc tội và
chỉ phải bào chữa trong phạm vi buộc tội. Vì vậy, với tính chất đặc biệt của giai
đoạn xét xử - giai đoạn có nhiều chủ thể cùng tham gia để thực hiện chức năng tố
tụng riêng biệt của mình thì cần thiết có sự tồn tại của chế định giới hạn xét xử để
giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa chức năng buộc tội, chức năng xét xử và chức
năng bào chữa. Tác giả luận văn đồng ý với nhận định của tác giả Nguyễn Thái
Phúc “Giới hạn xét xử sơ thẩm thực chất là cách thức xử lý hài hoà mối quan hệ
giữa ba chức năng cơ bản của tố tụng hình sự tại phiên tồ sơ thẩm”29.
Một vấn đề cịn gây nhiều tranh cãi liên quan đến giới hạn xét xử sơ thẩm
của Tồ án, đó là tội danh trong Cáo trạng của Viện kiểm sát có tính quyết định đối
với phán quyết của Tồ án hay khơng? Việc Tồ án thay đổi tội danh tại phiên toà
vượt quá phạm vi truy tố của Viện kiểm sát có được cho phép hay khơng? Nếu có
28
Nguyễn Thái Phúc (1995), Một số vấn đề về quyền công tố của Viện kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, trang 22
29
Nguyễn Thái Phúc (2020), tlđd (8), tr. 40