Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Tranh tụng của bị hại nghiên cứu so sánh luật tố tụng hình sự liên bang nga và việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.69 MB, 110 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

TRẦN TUẤN VŨ

TRANH TỤNG CỦA BỊ HẠI:
NGHIÊN CỨU SO SÁNH LUẬT TỐ TỤNG HÌNH
SỰ LIÊN BANG NGA VÀ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
ĐỊNH HƢỚNG NGHIÊN CỨU

TP. HỒ CHÍ MINH- 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRANH TỤNG CỦA BỊ HẠI:
NGHIÊN CỨU SO SÁNH LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ LIÊN BANG NGA VÀ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Định hƣớng nghiên cứu
Mã số: 8380104

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Phƣơng Hoa
Học viên: Trần Tuấn Vũ
Lớp: Cao học Luật, khóa 27


THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Tranh tụng của bị hại: Nghiên cứu so sánh Luật tố
tụng hình sự Liên bang Nga và Việt Nam” là cơng trình nghiên cứu do bản thân tác giả
thực hiện dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Thị Phương Hoa. Những kết luận
khoa học của luận văn là tổng hợp những kiến thức của tác giả và không sao chép trong
bất kỳ cơng trình hay tài liệu nào khác. Nội dung, ý tưởng của các tác giả trong tài liệu
chuyên khảo nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến luận văn được tác giả trích dẫn
nguồn đầy đủ. Tác giả chịu trách nhiệm về tính trung thực của luận văn.
Do nghiên cứu trong thời gian có hạn, tác giả khơng tránh khỏi nhiều thiếu sót.
Kính mong q Thầy, Cơ, độc giả góp ý chân thành cho tác giả. Xin gửi lời tri ân sâu
sắc đến quý Thầy, Cô và các độc giả đã quan tâm.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Trần Tuấn Vũ


DANH MỤC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT

BLHS

Bộ luật Hình sự

BLTTHS
CQĐT

Bộ luật Tố tụng hình sự
Cơ quan điều tra


CSĐT
CQCTQTHTT
ĐTV

Cảnh sát điều tra
Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
Điều tra viên

KSV
TAND

Kiểm sát viên
Tòa án nhân dân

TANDTC
THTT

Tòa án nhân dân tối cao
Tiến hành tố tụng

TTHS
VAHS
VKS
VKSNDTC

Tố tụng hình sự
Vụ án hình sự
Viện kiểm sát
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƢƠNG I. NGHIÊN CỨU SO SÁNH VỀ KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM
CỦA BỊ HẠI VÀ TRANH TỤNG CỦA BỊ HẠI TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ LIÊN BANG NGA VÀ VIỆT NAM...................................................... 7
1.1. Khái niệm và đặc điểm của bị hại trong tố tụng hình sự Liên bang
Nga và Việt Nam.................................................................................................... 7
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của bị hại trong tố tụng hình sự Liên bang
Nga ....................................................................................................................... 7
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam ........ 10
1.1.3. So sánh khái niệm và đặc điểm của bị hại trong tố tụng hình sự
Liên bang Nga với Việt Nam và kiến nghị ......................................................... 17
1.2. Khái niệm và đặc điểm của tranh tụng của bị hại .................................... 20
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của tranh tụng của bị hại trong TTHS Liên
bang Nga ............................................................................................................ 20
1.2.2. Khái niệm và đặc điểm tranh tụng của bị hại trong TTHS Việt
Nam .................................................................................................................... 24
1.2.3. So sánh về tranh tụng của bị hại trong tố tụng hình sự Liên bang
Nga với Việt Nam và kiến nghị .......................................................................... 34
TIỂU KẾT CHƢƠNG I ......................................................................................... 39
CHƢƠNG II. NGHIÊN CỨU SO SÁNH QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ LIÊN BANG NGA VÀ BỘ LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ QUYỀN CỦA BỊ HẠI TRONG QUÁ TRÌNH
TRANH TỤNG ....................................................................................................... 40
2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang Nga về quyền của
bị hại trong quá trình tranh tụng ...................................................................... 40
2.1.1. Các quyền liên quan đến việc xác định tư cách bị hại trong quá
trình tranh tụng .................................................................................................. 40

2.1.2. Các quyền đảm bảo cho hoạt động tranh tụng của bị hại....................... 42
2.1.3. Các quyền thuộc nội dung tranh tụng của bị hại .................................... 46
2.1.4. Các quyền khác có liên quan đến tranh tụng của bị hại ......................... 50
2.1.5. Quyền tranh tụng của bị hại thông qua thủ tục hịa giải, tư tố và
cơng – tư tố ........................................................................................................ 52
2.2. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về quyền của bị
hại trong quá trình tranh tụng........................................................................... 56


2.2.1. Các quyền liên quan đến việc xác định tư cách bị hại trong quá
trình tranh tụng .................................................................................................. 57
2.2.2. Các quyền đảm bảo cho hoạt động tranh tụng của bị hại....................... 62
2.2.3. Các quyền thuộc nội dung tranh tụng của bị hại .................................... 66
2.2.4. Các quyền khác có liên quan đến tranh tụng của bị hại ......................... 70
2.3. Nhận xét, đánh giá và kinh nghiệm cho Việt Nam.................................... 72
TIỂU KẾT CHƢƠNG II ....................................................................................... 81
CHƢƠNG III. NGHIÊN CỨU SO SÁNH QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ LIÊN BANG NGA VÀ BỘ LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ NGHĨA VỤ CỦA BỊ HẠI TRONG QUÁ
TRÌNH TRANH TỤNG ......................................................................................... 82
3.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang Nga về nghĩa vụ
của bị hại trong quá trình tranh tụng ............................................................... 82
3.2. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về nghĩa vụ của bị
hại trong quá trình tranh tụng........................................................................... 85
3.3. Nhận xét, đánh giá và kinh nghiệm cho Việt Nam.................................... 86
TIỂU KẾT CHƢƠNG III ...................................................................................... 89
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 92



1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân là một trong những nhiệm vụ
và chính sách nhất quán của tố tụng hình sự Việt Nam. Đây cũng là một trong những tiêu
chí đánh giá hiệu quả của q trình tố tụng hình sự. Thời gian vừa qua tố tụng hình sự
Việt Nam góp phần quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức,
cá nhân. Tuy nhiên, tố tụng hình sự là quá trình trực tiếp tác động đến những quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, do đó ln cần phải được quan tâm đúng mức.
Bị hại là chủ thể tham gia tố tụng với nhiều mục đích khác nhau, trong đó chủ yếu
là bảo vệ và khơi phục lại quyền và lợi ích hợp pháp đã bị hành vi phạm tội xâm hại
hoặc đe dọa xâm hại. Tuy nhiên hiện nay Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam vẫn tồn tại
một số bất cập liên quan đến quyền tranh tụng của bị hại trong các hoạt động tố tụng dẫn
đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại chưa được bảo đảm một cách đầy đủ. Chẳng
hạn như vai trò thụ động của bị hại được thể hiện trong quá trình tranh tụng; bị hại chưa
được xem là một bên trong quá trình tranh tụng, một số quyền của bị hại chưa thật sự
bình đẳng với các chủ thể khác trong đó có bên bào chữa, quyền được thông báo của bị
hại chưa được ghi nhận đầy đủ, sự tham gia tranh tụng một cách thụ động của bị hại kể
cả trong các vụ án khởi tố theo yêu cầu của bị hại; trình tự tranh tụng tại phiên tịa... Bên
cạnh đó, vấn đề tranh tụng trong tố tụng hình sự mới chỉ được quan tâm và nghiên cứu
trong thời gian gần đây, lý luận về tranh tụng trong TTHS tại Việt Nam vẫn còn tồn tại
sự chưa nhất quán. Từ đó, thiếu những nền tảng lý luận, pháp lý và cơ sở thực tiễn về
việc tham gia tranh tụng của bị hại; làm cho việc vận dụng các quy định của BLTTHS
năm 2015 nhằm đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của bị hại trong quá trình tranh
tụng chưa thật sự hiệu quả. Những hạn chế nêu trên làm ảnh hưởng tới hiệu quả của q
trình tranh tụng của bị hại nói riêng và của tố tụng hình sự nói chung.
Các văn kiện của Đảng như Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị
quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của
Bộ Chính trị đã xác định bảo đảm tranh tụng trong TTHS là một trong những nội dung

quan trọng của công cuộc cải cách tư pháp. Cụ thể hóa chủ trương đó, Hiến pháp năm
2013, BLTTHS năm 2015 đã xác định và cụ thể hóa nguyên tắc “Tranh tụng trong xét
xử được bảo đảm” đồng thời bổ sung những quy định nhằm đảm bảo hiệu quả của
nguyên tắc này trong thực tế. Nhưng để đảm bảo TTHS có tranh tụng đúng nghĩa, ngồi
việc bảo đảm sự vơ tư, khách quan của các chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng,
việc bảo đảm vị trí pháp lý bình đẳng và đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các bên, trong
đó có bị hại, là rất quan trọng. Chính vì thế, việc nghiên cứu về mặt lý luận, thực tiễn


2

cũng như tham khảo các mơ hình tố tụng hình sự của các quốc gia trên thế giới về tranh
tụng của bị hại trong tố tụng hình sự là rất cần thiết. Trong các quốc gia trên thế giới,
Liên bang Nga là quốc gia có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam cả về lịch sử lập
pháp và mơ hình tố tụng hình sự. Do đó tác giả chọn đề tài: ―Tranh tụng của bị hại:
Nghiên cứu so sánh Luật tố tụng hình sự Liên bang Nga và Việt Nam” với hy vọng góp
phần tham khảo một số kinh nghiệm của tố tụng hình sự Liên bang Nga để hồn thiện
hơn nữa Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam nhằm bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp
pháp của bị hại thơng qua q trình tranh tụng trong tố tụng hình sự.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có một số cơng trình nghiên cứu, bài viết về vấn đề tranh tụng trong tố tụng
hình sự, tuy nhiên chỉ có một số ít tác phẩm nghiên cứu đến vấn đề tranh tụng của bị
hại trong tố tụng hình sự Việt Nam. Liên quan tới vị trí của bị hại có một số cơng trình
nghiên cứu như sau:
Thứ nhất, sách chuyên khảo Quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự Việt
Nam của tác giả Đinh Thị Mai được nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản năm 2014.
Đây là cơng trình nghiên cứu chun sâu về lý luận và thực tiễn thực hiện quyền của
người bị hại trong BLTTHS năm 2003. Tác giả đã phân tích và làm rõ những vấn đề lý
luận cơ bản về người bị hại, trong đó bao gồm cả lịch sử hình thành và phát triển của
chế định người bị hại trong hệ thống tư pháp hình sự thế giới và Việt Nam, đánh giá

thực trạng của các quy định pháp luật về quyền của người bị hại ở Việt Nam từ năm
2003 đến năm 2012; nghiên cứu cơ chế bảo đảm quyền của người bị hại ở Việt Nam có
sự so sánh kinh nghiệm một số nước trên thế giới như: Mỹ, Úc, Canada, Liên minh
Châu Âu, Nhật Bản... trong đó có Liên bang Nga. Cơng trình đề cập một cách chi tiết
đến quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự, trong đó có các quyền của người bị hại
như một bên tham gia tranh tụng tại phiên tòa. Tuy nhiên, do giới hạn của phạm vi
nghiên cứu nên cơng trình này chưa đi sâu vào phân tích vấn đề tranh tụng của bị hại
trong TTHS.
Thứ hai, Luận án tiến sĩ: Người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong tố tụng hình
sự Việt Nam của tác giả Lê Nguyên Thanh, trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh
năm 2012. Luận án nghiên cứu chi tiết về người bị thiệt hại trong tố tụng hình sự bao
gồm bị hại và nguyên đơn dân sự ở những khía cạnh: những vấn đề lý luận và pháp lý
về người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong tố tụng hình sự, quyền và nghĩa vụ của các
chủ thể này và thực tiễn áp dụng Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về việc bảo đảm thực
hiện quyền, nghĩa vụ của các chủ thể này. Luận án cũng có sự khái quát về vấn đề người
bị thiệt hại trong pháp luật tố tụng hình sự của các quốc gia trên thế giới trong đó có Bộ


3

luật tố tụng hình sự Liên bang Nga nhằm có một sự đánh giá khách quan về các chủ thể
này. Mặc dù chưa đề cập đến vấn đề tranh tụng của người bị thiệt hại do tội phạm gây ra
trong tố tụng hình sự nhưng những vấn đề được làm rõ trong luận văn như: vị trí, vai trị,
quyền buộc tội của người bị thiệt hại do tội phạm gây ra cùng các quyền và nghĩa vụ
khác cung cấp cơ sở lý luận để tác giả tiến hành nghiên cứu so sánh trong luận văn của
mình.
Thứ ba, bài viết Một số vấn đề về sự tham gia tranh tụng của người bị hại và
nguyên đơn dân sự tại phiên tòa hình sự sơ thẩm theo yêu cầu của cải cách tư pháp
của tác giả Nguyễn Trương Tín đăng trong Tạp chí Luật học số 03/2010. Bài viết này
nghiên cứu khái quát trực tiếp về vấn đề của luận văn. Tuy nhiên, với phạm vi của một

bài viết khoa học, bài viết mới chỉ phân tích địa vị của người bị hại trong quá trình
tranh tụng của tố tụng hình sự Việt Nam cũng như hạn chế của Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003 trong việc bảo đảm quyền tranh tụng của người bị hại. Luận văn sẽ kế thừa
kết quả nghiên cứu của bài viết này và tiếp tục phát triển, mở rộng trên cơ sở so sánh
với Bộ luật tố tụng hình sự của Liên bang Nga để nghiên cứu một cách toàn diện và
chuyên sâu về vấn đề này.
Thứ tư, Luận văn Thạc sĩ, đề tài: ―Quyền của bị hại: Nghiên cứu so sánh pháp
luật tố tụng hình sự Liên bang Nga và kinh nghiệm cho Việt Nam‖ của tác giả Đỗ Cao
Ngọc Hân, trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, năm 2019. Luận văn là kết
quả nghiên cứu so sánh và lý giải những điểm tương đồng và khác biệt về quyền của bị
hại trong BLTTHS của Liên bang Nga so với Việt Nam, đề xuẩt những kinh nghiệm
có thể được áp dụng để hoàn thiện các quy định của BLTTHS Việt Nam về quyền của
bị hại. Đề tài này cũng đã lý giải được một phần sự khác nhau giữa quy định của hai
BLTTHS, nguồn gốc, bản chất của sự khác nhau đó, cũng như nghiên cứu một cách
tổng thể về hệ thống quyền của bị hại. Tuy nhiên đề tài này mới chỉ đề cập về các
quyền của bị hại chứ chưa phân tích sâu vào q trình tranh tụng của bị hại trong
TTHS. Do vậy, luận văn của tác giả cũng sẽ tham khảo kết quả nghiên cứu của đề tài
này và tiếp tục mở rộng nghiên cứu so sánh về quá trình tranh tụng của bị hại.
Nghiên cứu về tranh tụng của bị hại trong TTHS Liên bang Nga, tác giả khơng
tiếp cận được cơng trình nào nghiên cứu trực tiếp về vấn đề này. Liên quan đến vai trò,
vị trí của bị hại trong TTHS Liên bang Nga, có một số cơng trình khoa học nghiên cứu
chi tiết như: Luận án Tiến sĩ: Tình trạng pháp lý của người bị hại trong quá trình tố
tụng hình sự Nga (năm 2005) của tác giả Vasilenko Nikolay Nikolaevich tại Học viện
tư pháp Liên bang Nga; Sách chuyên khảo Một số vấn đề về việc thực hiện quyền của
người bị hại trong quá trình tố tụng hình sự (năm 2015) của tác giả Bayanov Artyom


4

Ernestovich - Học viện Quản lý Bộ Nội vụ Nga, Nhà xuất bản Yur-Vak, Mat-xcơva;… Các cơng trình nói trên nghiên cứu tổng quát và chuyên sâu về chế định bị hại

trong TTHS Liên bang Nga, là nguồn tư liệu để tác giả nghiên cứu, so sánh, làm rõ các
nội dung của luận văn. Về vấn đề tranh tụng trong TTHS Liên bang Nga, có một số
cơng trình khoa học như: Luận án tiến sĩ: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự
Nga và cơ chế thực hiện (năm 2001) của tác giả Darovskikh Svetlana Mikhailovna,
Đại học bang Nam Ural; Luận án tiến sĩ: Tranh tụng và bình đẳng của các bên trong
tố tụng hình sự (năm 2003) của Lukichev Nikolay Alekseevich, Học viện pháp lý
Saratov, … Các tài liệu trên đã khái quát các góc độ tiếp cận khái niệm tranh tụng và
đặc điểm của tranh tụng trong TTHS Liên bang Nga.
Như vậy, mặc dù đã có một số nghiên cứu về bị hại trong tố tụng hình sự Việt
Nam nhưng chưa có cơng trình nghiên cứu nào mang tính tồn diện và chun biệt so
sánh về tranh tụng của bị hại giữa Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam và Bộ luật tố tụng
hình sự Liên Bang Nga để qua đó đề xuất một số giải pháp về hồn thiện pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả tranh tụng của bị hại. Do đó, tranh
tụng của bị hại trong tố tụng hình sự, đặc biệt so sánh luật học giữa Bộ luật tố tụng
hình sự Việt Nam và Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang Nga là một vấn đề hồn tồn
mới. Việc nghiên cứu vấn đề này để có được góc nhìn tồn diện cũng như tham khảo
những kinh nghiệm nhằm hồn thiện Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam là cần thiết.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu trên khía cạnh lập pháp về tranh tụng của bị hại trong tố
tụng hình sự Việt Nam hiện nay trên cơ sở phân tích, so sánh quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự Liên bang Nga và quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về vấn
đề này để làm rõ những điểm bất cập cịn tồn tại, trên cơ sở đó bước đầu đề xuất một
số giải pháp góp phần hồn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về bị hại
trong tố tụng hình sự.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhằm đạt được mục đích nêu trên, luận văn cần hồn thành các nhiệm vụ nghiên
cứu sau. Thứ nhất, so sánh, phân tích và làm rõ lý luận chung về tranh tụng của bị hại
trong TTHS của Liên bang Nga và Việt Nam. Thứ hai, so sánh, phân tích và làm rõ
các quy định về tranh tụng của bị hại trong BLTTHS của hai nước, từ đó làm rõ điểm

tương đồng và khác biệt. Thứ ba, trên cơ sở các điểm tương đồng và khác biệt giữa
BLTTHS hai nước, luận văn cần làm rõ các ưu điểm và nhược điểm của các quy định
này, từ đó đối chiếu với thực tiễn áp dụng các quy định của BLTTHS Việt Nam về bảo


5

đảm tranh tụng của bị hại để kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện BLTTHS
năm 2015 về tranh tụng của bị hại.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về những quy định của BLTTHS Liên bang Nga và
BLTTHS Việt Nam liên quan đến tranh tụng của bị hại trong TTHS. Bên cạnh đó, luận
văn cũng nghiên cứu các vấn đề lý luận liên quan đến tranh tụng của bị hại được công
bố trong các quan điểm và học thuyết trong khoa học pháp lý mỗi nước.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Luận văn nghiên cứu so sánh việc bị hại tham gia quá trình
tranh tụng trong Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang Nga và Bộ luật tố tụng hình sự Việt
Nam. Những vấn đề pháp lý và thực tiễn được nghiên cứu nằm trong tổng thể các giai
đoạn của quá trình tố tụng: điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự, chủ yếu tập trung
trong phạm vi của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
- Về thời gian: Luận văn đánh giá sơ bộ thực trạng và vướng mắc trong quá trình
tranh tụng của bị hại từ khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có hiệu lực cho đến nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử. Ngồi ra, trong q trình nghiên cứu, tác giả sử dụng một số
phương pháp đặc thù của Luật tố tụng hình sự như:
- Phương pháp so sánh được dùng để tìm ra sự tương đồng và khác biệt giữa luật
Hình sự Việt Nam với luật Hình sự của Liên bang Nga, kể cả những điểm tương đồng
và khác biệt về truyền thống pháp luật cũng như về pháp luật thực định của hai quốc

gia. Từ đó rút ra những ưu điểm và hạn chế của BLTTHS và đưa ra kết quả đề xuất cụ
thể cho vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu của các công trình đã được cơng bố trước đó
trong và ngồi nước dùng để tiếp thu, chọn lọc và tham khảo các kiến thức về vấn đề
nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp nhằm làm rõ các quy định liên quan đến sự
tham gia tranh tụng của bị hại trong tố tụng hình sự. Trên cơ sở đó tổng hợp đưa ra ý
kiến đề xuất hoàn thiện Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam.
Những đóng góp về mặt khoa học
Luận văn nghiên cứu một cách tổng quát và hệ thống về bị hại, về quá trình tranh
tụng và việc tham gia quá trình tranh tụng của bị hại trong BLTTHS của Việt Nam và
BLTTHS của Liên bang Nga. Luận văn cũng so sánh và phân tích để làm rõ các điểm
6.


6

tương đồng và khác biệt, các ưu điểm và hạn chế trong TTHS mỗi nước. Trên cơ sở đó
luận văn đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng BLTTHS trong việc
bảo đảm tranh tụng của bị hại. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm cơ sở cho
việc nghiên cứu hoàn thiện quy định pháp luật về tranh tụng của bị hại, đồng thời có thể
làm tư liệu tham khảo cho sinh viên, học viên, cán bộ tư pháp và những người làm công
tác thực tiễn… muốn nghiên cứu về vấn đề tranh tụng của bị hại.
7.

Các vấn đề dự kiến giải quyết
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục chữ viết tắt, Danh mục tài liệu tham

khảo, luận văn gồm những nội dung sau:
Chương 1. Nghiên cứu so sánh khái niệm, đặc điểm của bị hại và tranh tụng của bị

hại trong tố tụng hình sự Liên bang Nga và Việt Nam
Chương 2. Nghiên cứu so sánh quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang
Nga và Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về quyền của bị hại trong quá trình tranh tụng
Chương 3. Nghiên cứu so sánh quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang
Nga và Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về nghĩa vụ của bị hại trong quá trình tranh
tụng.


7

CHƢƠNG I
NGHIÊN CỨU SO SÁNH VỀ KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA BỊ HẠI VÀ
TRANH TỤNG CỦA BỊ HẠI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ LIÊN BANG NGA
VÀ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm và đặc điểm của bị hại trong tố tụng hình sự Liên bang Nga
và Việt Nam
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của bị hại trong tố tụng hình sự Liên bang Nga
BLTTHS Liên bang Nga được Đu-ma Quốc gia Nga thông qua ngày 22 tháng 11
năm 2001 và được Quốc hội Nga chính thức phê chuẩn ngày 05 tháng 12 năm 2001. Từ
đó đến nay, các quy định trong BLTTHS Liên Bang Nga liên tục được sửa đổi, bổ sung,
trong đó có sửa đổi về khái niệm bị hại1 và lần sửa đổi gần đây nhất vào ngày 17 tháng 4
năm 2019. Theo Điều 6 BLTTHS Liên bang Nga, một trong ba mục tiêu chính của
TTHS Liên bang Nga là: “bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân và tổ chức,
của người bị thiệt hại do tội phạm gây ra”. Để thực hiện mục tiêu của TTHS, chế định
bị hại trong BLTTHS Liên bang Nga quy định cụ thể về định nghĩa bị hại cũng như các
quyền và nghĩa vụ của bị hại trong quá trình tranh tụng. Khoản 1 Điều 42 BLTTHS Liên
bang Nga quy định về khái niệm bị hại như sau: “Bị hại2 là một cá nhân đã chịu thiệt
hại về thể chất, tài sản, tinh thần do tội phạm gây ra, hoặc một pháp nhân trong trường
hợp bị thiệt hại về tài sản và uy tín do tội phạm gây ra”.
Dựa vào quy định của luật thực định, khái niệm bị hại trong BLTTHS Liên bang

Nga có một số đặc điểm như sau:
Thứ nhất, khái niệm bị hại của BLTTHS Liên bang Nga bao gồm cá nhân hoặc
pháp nhân. Như vậy chỉ những tổ chức có tư cách pháp nhân mới có thể trở thành bị hại
trong VAHS. Việc quy định tổ chức khơng có tư cách pháp nhân khơng thể được cơng
nhận là bị hại liên quan đến tư cách chủ thể của bị hại trong quá trình tố tụng. Quyền và
nghĩa vụ của bị hại là pháp nhân được thực hiện bởi người đại diện theo khoản 9 Điều
42 BLTTHS Liên bang Nga. Người đại diện đó có thể là người đứng đầu pháp nhân,
người đại diện theo pháp luật hoặc theo điều lệ pháp nhân, hoặc người đại diện theo ủy
quyền. Trong khi đó, nếu quy định bị hại có thể là cơ quan, tổ chức mà không phân biệt
là có tư cách pháp nhân hay khơng, rất khó để có thể xác định ai sẽ là người thực hiện

1

Định nghĩa về người bị hại trong Khoản 1 Điều 42 BLTTHS Liên bang Nga được sửa đổi bổ sung bởi Luật số
87-FZ ngày 05 tháng 6 năm 2007, và Luật số 432-FZ ngày 28.12.2013 của Liên bang Nga)
2
Thuật ngữ “bị hại” nguyên văn trong tiếng Nga là “Потерпевший”, trước đây thường được chuyển ngữ sang
tiếng Việt là “người bị hại” theo khái niệm đã được sử dụng trong BLTTHS năm 2003. Tuy nhiên, tác giả cho
rằng thuật ngữ này phải được chuyển ngữ là “bị hại” cho phù hợp với nội dung quy định tại Điều 42 BLTTHS
Liên bang Nga. Do đó, trong luận văn này, tác giả dịch là “bị hại”.


8

quyền và nghĩa vụ của tổ chức đó trong quá trình tố tụng, khi mà tổ chức đó khơng có tư
cách pháp nhân. Ngoài ra, theo BLTTHS Liên bang Nga, cơ quan nhà nước không thể
trở thành bị hại. Bởi lẽ khi tội phạm xâm hại đến lợi ích của nhà nước Liên bang Nga
nghĩa là xâm hại đến lợi ích của tồn xã hội. Do đó, một pháp nhân công, được coi là
một phần của Nhà nước Liên bang Nga khơng được tham gia tố tụng hình sự với tư cách
bị hại khi bị tội phạm xâm hại.“Trong trường hợp tội phạm gây thiệt hại cho một bang,

một thành phố, thì thiệt hại đó được gây ra cho các lợi ích cơng cộng, do vậy, Nhà nước
Liên bang Nga không phải là đối tượng của tội phạm, cũng không thể được công nhận
là bị hại, kể cả thông qua Bộ tài chính Liên bang Nga hoặc cơ quan trực thuộc với vai
trị là một pháp nhân. Chỉ có Kiểm sát viên mới được quyền khởi kiện dân sự để bảo vệ
lợi ích của Nhà nước (Khoản 3 Điều 44 BLTTHS Liên bang Nga)”3. Quy định về bị hại
không phải là tổ chức có tư cách pháp nhân cũng có điểm hạn chế là “ảnh hưởng đáng
kể đến quyền và lợi ích của các tổ chức trong các tội phạm xâm phạm lợi ích của cơng
dân, tổ chức trong các tội tại khoản 2 Điều 142, Điều 145.1, Điều 148, Điều 176, Điều
185 của Bộ luật Hình sự Liên bang Nga”4. Theo đó, đối với các tội phạm xâm phạm lợi
ích của các tổ chức khơng có tư cách pháp nhân như đã liệt kê, thì tổ chức khơng được
cơng nhận là bị hại mà người đứng đầu tổ chức mới là bị hại.
Thứ hai, về loại thiệt hại mà tội phạm gây ra cho bị hại cũng bao gồm thể chất, tài
sản, tinh thần đối với cá nhân và thiệt hại về tài sản hoặc uy tín đối với pháp nhân.
Trong những trường hợp chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt, nạn nhân mà tội
phạm nhắm đến cũng có thể được cơng nhận là bị hại. “Dường như trong những tình
huống như vậy, ln phải xem xét rằng nạn nhân của tội phạm đã bị thiệt hại về mặt
tinh thần bởi hành vi của tội phạm đã đe dọa xâm hại đến họ. Đặc biệt, kết luận này
được khẳng định từ thực tế là trong trường hợp tội phạm chưa hồn thành vẫn có thể
dẫn đến khả năng khởi tố vụ án hình sự đối với các vụ án tư tố, công - tư tố (chỉ được
tiến hành theo yêu cầu của bị hại)”5.
Thứ ba, mặc dù BLTTHS Liên bang Nga không đề cập trực tiếp đến việc thiệt hại
gây ra cho bị hại có phải là thiệt hại trực tiếp hay không, nhưng “thực tiễn tư pháp trước
khi đưa ra BLTTHS hiện nay của Liên bang Nga được dựa trên giả định rằng bị hại

3

Письмо Министерства финансов РФ от 09.08.2006 № 08-04-14/4048, Xem:А.В.Смирнов К.Б.
Калиновский (2008), Уголовный Процесс, дом печати — вятка, Москва, trang 119
4
Синенко Сергей Андреевич (2014), Обеспечение sправ изаконных интересов потерпевшего в уголовном

судопроизводстве: Теоретические, законодательные и правоприменительные проблемы, доктора
юридических наук, ФГКОУ ВПО Московский университет Министерства внутренних дел МВД России,
Москва, trang 82
5
А.В.Смирнов К.Б. Калиновский (2008), tlđd (3), trang 119


9

phải chịu thiệt hại trực tiếp từ tội phạm”6. Tư pháp hình sự của Nga coi việc quy tất cả
những người bị thiệt hại, thậm chí là gián tiếp từ hành vi phạm tội đều có tư cách bị hại
là ―khơng thỏa đáng”. Do đó, bị hại vẫn chỉ nên được coi là những người bị thiệt hại
trực tiếp bởi tội phạm.
Thứ tư, một người bị thiệt hại bởi tội phạm tham gia vào quá trình tố tụng hình sự
với tư cách bị hại khi được công nhận bởi các cơ quan có thẩm quyền trong q trình tố
tụng. Khoản 1 Điều 42 BLTTHS Liên bang Nga quy định rõ: “Việc công nhận bị hại
phải được đưa ra ngay từ khi bắt đầu vụ án hình sự và phải được quyết định bởi Điều
tra viên, Dự thẩm viên hoặc Toà án. Nếu tại thời điểm khởi tố vụ án hình sự khơng có
thơng tin về người bị thiệt hại bởi tội phạm, quyết định công nhận bị hại phải được đưa
ra ngay sau khi nhận được thông tin về người đó”. Như vậy, để một cá nhân hoặc pháp
nhân có tư cách là bị hại trong TTHS Liên bang Nga, cần có một quyết định pháp lý
cơng nhận tư cách bị hại. Đây là quy định mang tính chặt chẽ về mặt thủ tục pháp lý.
Việc có quyết định cơng nhận bị hại sẽ thuận tiện hơn cho bị hại khi tham gia vào quá
trình tố tụng, đồng thời tạo sự thống nhất và nhất quán trong việc xác định bị hại giữa
các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị hại sẽ nhận thức rõ từ thời điểm nào họ được tham gia
tố tụng và được thực hiện những quyền và nghĩa vụ trong quá trình tố tụng một cách phù
hợp với quy định của pháp luật, từ đó chủ động hơn trong việc tranh tụng của mình. Vai
trị của quyết định công nhận bị hại trong TTHS Liên bang Nga rất quan trọng đối với
người bị thiệt hại bởi hành vi phạm tội, vì “chỉ sau khi được cơng nhận là bị hại, anh ta
và người đại diện của mình mới được trao quyền để họ tham gia nhằm bảo vệ lợi ích

hợp pháp của mình trong tố tụng hình sự”7. Người bị thiệt hại bởi tội phạm chỉ trở thành
chủ thể của quá trình tố tụng hình sự khi có quyết định được đưa ra bởi điều tra viên, dự
thẩm viên, thẩm phán (phán quyết của tòa án) tuyên bố người đó là bị hại. Quyết định
này có thể dựa trên cơ sở là sự tồn tại của thiệt hại mà tội phạm đã gây ra cho bị hại về
tinh thần, vật chất, tài sản hoặc uy tín. Mặc dù nguyên tắc chung là một người có phạm
tội hay khơng thì được quyết định bởi Tịa án và hành vi gây thiệt hại cho bị hại cũng
được xác định bởi Tòa án. Tuy nhiên với tư cách là bị hại, họ phải có quyền được cơng
nhận bởi cơ quan có thẩm quyền và tham gia vào q trình tố tụng để bảo vệ quyền của
mình ngay từ khi vụ án được khởi tố. Đặc biệt, bị hại có quyền tham gia vào quá trình
tranh tụng trong giai đoạn đầu của cuộc điều tra, trong giai đoạn điều tra dự thẩm và
điều tra chính thức. “Thời điểm được cơng nhận là bị hại là một điểm mới đã được sửa
6

А.В.Смирнов К.Б. Калиновский (2008), tlđd (3), trang 118
Василенко Николай Николаевич (2005), Правовое положение потерпевшего в уголовном процессе
России, канд юрид. наук : 12.00.09 Москва, 2005, trang 20.
7


10

đổi vào năm 2013 của BLTTHS Liên bang Nga. Điều khoản này được đánh giá là sự
bảo đảm tốt hơn quyền của bị hại trong tố tụng hình sự, tránh sự lạm quyền của nhà
nước và đảm bảo quyền tiếp cận công lý của bị hại”8. Do vậy khi điều tra viên và Kiểm
sát viên có thơng tin về hoạt động phạm tội, một trong các vấn đề phải làm rõ đó là xác
định xem ai là bị hại. Trước khi tiến hành buộc tội, điều tra viên phải thu thập các chứng
cứ tối thiểu để có thể kết luận rằng đã có hành vi phạm tội xảy ra và ai là người bị xâm
hại bởi hành vi phạm tội đó. Đây là bước đầu tiên trong q trình điều tra tội phạm và
xác định người phạm tội, đó là xác định thiệt hại và xem xét có đủ điều kiện để kết luận
một người là bị hại hay không. ―Trên thực tế tất cả những vấn đề này được thực hiện ở

cuối giai đoạn điều tra dự thẩm. Và điều này đã phần nào hạn chế quyền của bị hại
trong việc trình bày bằng chứng kịp thời, nộp đơn kiến nghị, được có người đại diện và
được trợ giúp pháp lý”9. Do đó, phần nào ảnh hưởng đến quyền tranh tụng của bị hại.
Hai điểm quan trọng phải có để công nhận một chủ thể là bị hại để tham gia vào quá
trình TTHS: thứ nhất là giả định (khơng cần phải có bằng chứng) là chủ thể đó đã bị
xâm hại bởi tội phạm, thứ hai là mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và thiệt
hại xảy ra. ―Tuy nhiên trái ngược với các thủ tục để xác định bị can, bị cáo, BLTTHS
Liên bang Nga chưa quy định cụ thể các điều khoản để xác định tư cách bị hại. Điều
này làm hạn chế quyền của bị hại”10.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam
Khái niệm người bị hại trong pháp luật Việt Nam đã xuất hiện từ rất sớm, kể từ khi
xuất hiện thủ tục TTHS. Trong khoa học pháp lý về TTHS Việt Nam, người bị hại là
một khái niệm quen thuộc và từ khi BLTTHS năm 2015 có hiệu lực, khái niệm “bị hại”
đã được sử dụng thay cho “người bị hại”.
Tiếp cận theo góc độ ngơn ngữ học có thể hiểu bị hại là một chủ thể trong xã hội,
bị một hành vi tiêu cực hoặc bất kỳ một sự kiện nào gây ra một thiệt hại. Thiệt hại đó có
thể là những thiệt hại về vật chất hoặc phi vật chất, chẳng hạn như những tổn thất về tài
sản, tổn thương về thể chất hoặc tinh thần. Xét theo văn cảnh ý nghĩa của thuật ngữ “bị
hại”, thì chủ thể đó chịu những thiệt hại từ bên ngoài đưa đến một cách thụ động và trái
với mong muốn của chủ thể này. Theo cách tiếp cận này thì khái niệm bị hại dường như
tương đồng với khái niệm “nạn nhân‖. Theo từ điển tiếng Việt, “nạn nhân” được định

8

Ширяева Т.И (2014), Правовое положение потерпевшего в уголовном судопроизводстве россии на
современном этапе, Фундаментальные исследования– 2014. – № 9-8. – trang 1896-1900;
9
Василенко Николай Николаевич (2005), tlđd (7), trang 21
10
Баянов Артѐм Эрнестович (2015), Некоторые проблемы реализации прав потерпевшего в ходе

уголовного преследования, Академия Управления Мвд России, Издательство: Издательский Дом "ЮрВак", Москва, trang 215


11

nghĩa là: “người bị tai nạn” hoặc “người, tổ chức gánh chịu hậu quả từ bên ngoài đưa
đến”11. Tuy nhiên, xét theo khía cạnh này thì khơng phải mọi “nạn nhân” đều là ―bị
hại‖. Trong các loại nạn nhân như nạn nhân của chiến tranh, nạn nhân của thiên tai, nạn
nhân bị tai nạn lao động, tai nạn giao thông, nạn nhân tự tử, nạn nhân của tội phạm… thì
nội hàm ngữ nghĩa của bị hại được xác định nằm trong khái niệm nạn nhân của tội
phạm.
Tiếp cận theo góc độ pháp lý, thuật ngữ “bị hại” được phát triển từ thuật ngữ
―người bị hại”. Đây là hai thuật ngữ khác nhau. Khái niệm ―người bị hại” được hiểu là
―người bị thiệt hại về thể chất, về tinh thần hoặc về tài sản do tội phạm gây ra. Người bị
hại chỉ có thể là thể nhân bị người phạm tội làm thiệt hại về thể chất, tinh thần hoặc tài
sản chứ không thể là pháp nhân”12. Đây là quan điểm đã từng được coi là chính thống
trong khoa học pháp lý Việt Nam. Tuy nhiên, có nhiều nghiên cứu chỉ ra cần bổ sung
một số đặc điểm vào khái niệm người bị hại. Một số quan điểm cho rằng phạm vi của
người bị hại không chỉ bao gồm cá nhân mà cịn có cả cơ quan, tổ chức. Cụ thể,“khơng
nên hiểu máy móc từ “người” trong nghĩa tiếng Việt mà làm hẹp phạm vi chủ thể được
coi là người bị hại chỉ là cá nhân”13. Bởi lẽ hành vi phạm tội trên thực tế không chỉ giới
hạn ở việc gây thiệt hại cho cá nhân mà còn hướng tới việc xâm hại đến các quyền và lợi
ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức. Những thiệt hại đó khơng chỉ là những tổn thất về tài
sản mà trong nhiều trường hợp còn bao gồm những thiệt hại phi tài sản như uy tín kinh
doanh, thương hiệu của doanh nghiệp... Nếu cho rằng người bị hại chỉ là cá nhân còn cơ
quan, tổ chức bị thiệt hại bởi tội phạm tham gia quan hệ TTHS với tư cách nguyên đơn
dân sự khi có yêu cầu là chưa thật sự hợp lý và là một sự bất bình đẳng giữa cá nhân với
cơ quan, tổ chức cùng bị thiệt hại do tội phạm gây ra. Đồng thời, việc xác định người bị
hại theo nghĩa rộng bao gồm cả cá nhân lẫn pháp nhân, kể cả tổ chức khơng có tư cách
pháp nhân “sẽ đáp ứng được yêu cầu phòng ngừa tội phạm và đem lại nhiều khả năng

hơn trong việc bảo vệ tài sản của các cơ quan, tổ chức, đặc biệt là tài sản của nhà
nước‖14. Do đó việc xác định người bị hại chỉ bao gồm cá nhân hay bao gồm cả pháp
nhân, cơ quan, tổ chức là cơ sở để xác định tư cách tham gia quan hệ tố tụng của họ, từ
đó thực hiện những quyền và nghĩa vụ trong quá trình tranh tụng.

11

Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1998), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hóa thơng tin, Hà Nội, trang 1165
Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên) (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ luật học: luật hình sự, luật tố tụng hình sự,
Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, trang 198
13
Lê Nguyên Thanh (2012), Bàn về khái niệm người bị hại trong Tố tụng hình sự, Tạp chí Khoa học pháp lý, Số
05(72)/2012 Trang 18-26
14
Lê Nguyên Thanh (2012), tlđd (13)
12


12

Về vấn đề thiệt hại mà người bị hại phải chịu, cả về phương diện khoa học lẫn thực
tiễn, đã có bình luận rằng thiệt hại này phải do tội phạm trực tiếp gây ra hoặc đe dọa gây
ra chứ không phải thiệt hại gián tiếp15. Các nhà lý luận và thực tiễn đều căn cứ vào đặc
điểm này để phân biệt giữa người bị hại và các chủ thể khác cũng bị thiệt hại do hành vi
phạm tội gây ra như nguyên đơn dân sự, người có quyền và lợi ích liên quan. “Đối với
loại tội phạm có cấu thành vật chất bắt buộc phải có hậu quả xảy ra và hậu quả đó
thường là thiệt hại về thể chất hoặc vật chất. Trong trường hợp này, thiệt hại gây ra cho
người bị hại phải là những thiệt hại cụ thể, có tính hiện tại và xác định. Sự thiệt hại
không thể không cụ thể, chưa xác định hoặc có tính chất mơ hồ, chưa hoặc sắp xảy ra.
Sự thiệt hại đó phải là thiệt hại trực tiếp, do chính tội phạm gây ra”16. Cịn đối với loại

tội phạm có cấu thành hình thức, “người có nguy cơ bị xâm hại cũng được gọi là người
bị hại, người bị hại phải được coi là bất kỳ người nào khi mà quyền và lợi ích hợp pháp
của họ là khách thể của tội phạm cho dù tội phạm đó chưa hoàn thành do những nguyên
nhân khách quan, ngoài ý muốn của họ”17. Quan điểm này đã trở thành một quan điểm
chính thống trong khoa học pháp lý TTHS của Việt Nam.
Những nghiên cứu này đã đặt ra nền tảng để xây dựng thuật ngữ ―bị hại‖, theo đó,
phạm vi của khái niệm này mở rộng hơn khái niệm bị hại ở chỗ bị hại ngồi cá nhân cịn
bao gồm cả pháp nhân và cơ quan tổ chức, đồng thời bổ sung thêm điều kiện về thiệt hại
trực tiếp đối với bị hại. Nội dung này đã được đưa vào quy định của BLTTHS năm 2015
của Việt Nam.
Theo pháp luật thực định, khái niệm người bị hại lần đầu tiên xuất hiện trong pháp
luật thực định nước ta trong Thông tư số 16/TATC ngày 27/9/1974 của Tòa án nhân dân
tối cao. Theo thông tư này, người bị hại là “công dân đã bị kẻ phạm pháp trực tiếp xâm
hại đến thể chất, tài sản, hoặc xâm phạm về tinh thần (như bị lăng nhục, đánh, giết,
trộm cắp, lừa đảo…)”. Không những thế, pháp luật thời kỳ này còn ghi nhận khái niệm
người bị hại với phạm vi rộng hơn: “Người đã can thiệp để ngăn cản bị cáo đánh, giết
người khác nhưng bản thân cũng bị kẻ phạm pháp gây thương tích hoặc người có nhà
cửa bị cháy vì bị kéo đốt nhà của người khác nhưng đám cháy lan sang nhà của họ,
cũng là người bị xâm hại trực tiếp đến thể chất, tài sản.‖18. Như vậy mặc dù ghi nhận
chủ thể khá hẹp, chỉ là ―công dân‖ nhưng quan niệm về phạm vi người bị hại trong thời
gian này lại khá rộng và chưa được xác định rõ ràng để phân biệt với các chủ thể khác
15

Võ Khánh Vinh (2004), Bình luận khoa học BLTTHS, Nhà xuất bản CAND, Hà Nội, trang 115
Lê Tiến Châu (2007), Người bị hại trong tố tụng hình sự, Tạp chí Khoa học pháp lý, Số 1(38)/2007, Trang 38
- 46
17
Lê Tiến Châu (2007), tlđd (16).
18
Tòa án nhân dân tối cao (1976), Tập hệ thống hóa luật lệ về tố tụng hình sự, Hà Nội, trang 46

16


13

cũng bị thiệt hại bởi hành vi phạm tội. Mặc dù vậy, khái niệm này là nền tảng cơ sở để
xây dựng các quy định sau này về địa vị pháp lý của người bị hại.
Tiếp đó, BLTTHS năm 1988 và sau này là BLTTHS năm 2003 đã ghi nhận về
khái niệm người bị hại theo hướng: “người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh
thần, tài sản do tội phạm gây ra”. Theo đó, người bị hại được hiểu chỉ bao gồm cá nhân
là một con người cụ thể bao gồm cả công dân Việt Nam, người nước ngồi, người
khơng quốc tịch chứ khơng phải là cơ quan, tổ chức. Cá nhân đó đang tồn tại vào thời
điểm bị thiệt hại hoặc bị đe dọa gây thiệt hại. Các loại thiệt hại mà người bị hại phải chịu
bao gồm thiệt hại về thể chất, thiệt hại về tinh thần và thiệt hại về tài sản. Nguyên nhân
của thiệt hại là do tội phạm gây ra. Mặc dù đã bỏ dấu hiệu ―bị thiệt hại trực tiếp‖, quy
định này của BLTTHS năm 2003 đã làm cho khái niệm người bị hại trở nên nhất quán
hơn so với trước khi có BLTTHS năm 1988. Những quy định về người bị hại của cả hai
BLTTHS đã xác lập địa vị pháp lý cho người bị hại với tư cách là chủ thể có quyền và
nghĩa vụ trong q trình tố tụng, tham gia tranh tụng để bảo vệ quyền và lợi ích của
mình chứ khơng chỉ đơn giản là một chủ thể tham gia tố tụng với vai trò cung cấp thông
tin như trước.
BLTTHS năm 2015 được ban hành với nhiều quy định tiến bộ với nhiều quy định
là kết quả của việc tiếp thu, học tập kinh nghiệm lập pháp của pháp luật các quốc gia
trên thế giới, trong đó có BLTTHS Liên bang Nga. Khoản 1 Điều 62 BLTTHS năm
2015 của Việt Nam quy định: “Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh
thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra
hoặc đe dọa gây ra”. Theo đó, quy định này đã sử dụng khái niệm ―bị hại‖ thay thế cho
―người bị hại‖, mở rộng chủ thể của bị hại bao gồm cá nhân, cơ quan, tổ chức, đồng thời
quy định việc xác định bị hại thông qua các loại thiệt hại mà tội phạm trực tiếp gây ra
hoặc đe dọa gây ra đối với từng loại chủ thể.

Khái niệm bị hại do BLTTHS năm 2015 đã bao hàm những đặc điểm sau:
- Thứ nhất, về chủ thể, bị hại có thể là cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức. Đối với bị
hại là cá nhân, khơng có sự phân biệt cá nhân đó ở bất kỳ lứa tuổi nào, có hay khơng có
năng lực hành vi dân sự, khơng phân biệt về giới tính, trình độ hay địa vị, chỉ cần cá
nhân đó đang sống và tồn tại trong xã hội thì có thể trở thành bị hại nếu bị tội phạm xâm
hại hoặc đe dọa xâm hại một cách trực tiếp. Nếu như cá nhân đó đã chết thì khơng thể
tham gia tố tụng với tư cách bị hại mà chỉ được xem là nạn nhân. Bởi lẽ: “Điều luật quy
định Bị hại là “cá nhân” và được hiểu là: con người cụ thể từ khi sinh ra đến khi chết
và tồn tại trong một tập thể hoặc một cộng đồng xã hội; do đó người chết do hành vi


14

phạm tội không thuộc khái niệm “bị hại” mà được coi là nạn nhân” 19. Như vậy, đối với
bị hại là cá nhân, để tham gia tranh tụng trong TTHS, ngoài điều kiện là đang sống và
tồn tại trong xã hội thì khơng cịn có sự phân biệt hay có điều kiện ràng buộc nào.
Ngồi ra, BLTTHS năm 2015 cịn quy định bị hại có thể là cơ quan, tổ chức. Theo
đó, cơ quan, tổ chức nếu bị tội phạm trực tiếp gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại về
tài sản, uy tín thì cũng được coi là bị hại. Với quy định mới của BLTTHS năm 2015 của
Việt Nam, cơ quan, tổ chức cũng là một phần trong khái niệm bị hại. Điều này đã khắc
phục được sự bất bình đẳng giữa cá nhân và tổ chức cùng bị thiệt hại do tội phạm gây ra
như đã đề cập ở trên, đồng thời góp phần bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của
cơ quan, tổ chức trong trường hợp bị tội phạm xâm hại đến tài sản và uy tín.
- Thứ hai, thiệt hại mà tội phạm gây ra cho bị hại là thiệt hại trực tiếp. Hay nói
cách khác, thiệt hại xảy ra phải là đối tượng tác động của tội phạm, nghĩa là giữa hành vi
phạm tội và thiệt hại xảy ra phải có mối quan hệ nhân quả, trong đó thiệt hại phải là hậu
quả trực tiếp phát sinh từ hành vi phạm tội. Những thiệt hại của bị hại là những thiệt hại
thực tế đã xảy ra, và được xác định một cách cụ thể, đồng thời phải có nguồn gốc trực
tiếp từ hành vi phạm tội. ―Thiệt hại gây ra cho người bị hại phải là những thiệt hại cụ
thể, thiệt hại đó phải có tính cụ thể và xác định; sự thiệt hại không thể không cụ thể,

chưa xác định, hoặc có tính chất mơ hồ, chưa hoặc sắp xảy ra”20. Đối với những chủ
thể chịu thiệt hại gián tiếp hoặc khơng có mối liên hệ gì với hành vi phạm tội thì khơng
phải là bị hại. Do đó đây là đặc điểm quan trọng để xác định tư cách bị hại và tư cách
của những người tham gia tố tụng khác như nguyên đơn dân sự hay các chủ thể khác có
quyền và nghĩa vụ trong vụ án hình sự. Đối với những trường hợp phạm tội chưa đạt,
khi hành vi phạm tội chưa gây thiệt hại do những nguyên nhân khách quan ngoài ý
muốn của người phạm tội thì chủ thể có những lợi ích bị đe dọa xâm hại cũng được coi
là bị hại.
- Thứ ba, về nguồn gốc thiệt hại, thiệt hại mà tội phạm gây ra cho cá nhân có thể là
thiệt hại về thể chất, tinh thần hoặc tài sản. Tội phạm gây thiệt hại cho cá nhân bằng
cách tác động trực tiếp tới những đối tượng thuộc về cá nhân, xâm hại hoặc đe dọa xâm
hại trực tiếp đến những quan hệ xã hội mà Luật hình sự bảo vệ. Thiệt hại về thể chất bao
gồm tổn thất về sức khỏe, tổn thất về tính mạng (trong trường hợp đe dọa xâm hại đến
tính mạng của bị hại). Thiệt hại trực tiếp về tinh thần do các tội phạm xâm phạm về
danh dự, nhân phẩm, uy tín. Thiệt hại về tài sản xảy ra do các tội phạm xâm phạm về sở
19

Trần Thu Hạnh (2017), Bị hại trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và một số kiến nghị hồn thiện pháp
luật, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, số 2 (2017), trang 55-60;
20
Trần Thu Hạnh (2017), tlđd (19)


15

hữu. Như vậy mỗi loại thiệt hại trên thể hiện các khách thể khác nhau của tội phạm, thể
hiện tính chất xâm hại đến loại quan hệ xã hội tương ứng được luật hình sự bảo vệ. Đối
với cơ quan, tổ chức, tội phạm có thể gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại về tài sản, uy
tín. Đây là đặc điểm mới được BLTTHS năm 2015 ghi nhận. Tuy nhiên, “hậu quả của
sự thiệt hại không phải là điều kiện bắt buộc trong tất cả các trường hợp”21. Đối với

những trường hợp phạm tội chưa đạt, tội phạm trực tiếp đe dọa xâm hại tới các quan hệ
nói trên, thì cá nhân, cơ quan, tổ chức bị đe dọa xâm hại cũng được coi là bị hại.
- Thứ tư, cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại chỉ tham gia tố tụng với tư cách là
bị hại khi được CQCTQTHTT xác định tư cách bị hại. Việc xác định tư cách bị hại được
thực hiện bởi CQCTQTHTT như Cơ quan điều tra, các cơ quan được giao một số hoạt
động điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án trong các giai đoạn tố tụng tương ứng với chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này. Việc được công nhận tư cách bị hại của
bởi các CQCTQTHTT là điều kiện để các chủ thể bị thiệt hại bởi tội phạm tham gia quá
trình tố tụng và thực hiện tranh tụng với tư cách bị hại. Nếu không được cơng nhận, họ
có thể tham gia tố tụng với tư cách nguyên đơn dân sự hoặc người có quyền và nghĩa vụ
liên quan tới vụ án. Trên cơ sở xác định của CQCTQTHTT, chủ thể bị thiệt hại bởi tội
phạm mới có tư cách bị hại và được thực hiện những quyền và nghĩa vụ của mình trong
quá trình tranh tụng. Tuy nhiên, về mặt pháp lý, pháp luật TTHS Việt Nam chỉ mới có
quy định về việc xác định các chủ thể nào là bị hại mà chưa có quy định cụ thể về thẩm
quyền, thủ tục tố tụng và hình thức của quyết định cơng nhận bị hại trong TTHS. Trên
thực tế, tư cách bị hại của một chủ thể trong quá trình tố tụng thường được xác định
trong hồ sơ vụ án, chứ không phải bằng một quyết định cụ thể, trực tiếp. “Thông thường
người bị hại chủ động tố giác bằng lời nói hoặc đơn tố cáo với cơ quan THTT hoặc cơ
quan, tổ chức khác về tình trạng bị thiệt hại. Sau khi xác minh dấu hiệu tội phạm cơ
quan điều tra khởi tố vụ án, triệu tập người bị hại lấy lời khai. Thời điểm lấy lời khai họ
mặc nhiên được công nhận người bị hại. Cũng có trường hợp người bị hại không chủ
động tố giác tội phạm nhưng sau khi vụ án xảy ra cơ quan THTT xác định sơ bộ có
người bị hại cùng với dấu hiệu bị thiệt hại đồng thời triệu tập họ lấy lời khai. Từ thời
điểm này, người bị hại mặc nhiên được công nhận là người bị hại”22 . Do vậy, trong
TTHS Việt Nam, tư cách bị hại chưa được công nhận và xác định tư cách pháp lý một
cách trực tiếp bằng một quyết định độc lập. Đối với các vụ án khởi tố theo yêu cầu của
bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ thì ―việc xác định tư cách tham gia tố tụng
của người bị hại trong trường hợp này phải dựa vào hai văn bản: “Yêu cầu khởi tố” và
21
22


Lê Tiến Châu (2007), tlđd (16).
Lê Nguyên Thanh (2012), tlđd(13)


16

“Quyết định khởi tố vụ án””23. Đối với các vụ án được khởi tố mà khơng cần thiết phải
có u cầu khởi tố của bị hại, việc xác định tư cách bị hại thường dựa vào các văn bản tố
tụng như: ““biên bản lấy lời khai người bị hại”, hoặc “giấy triệu tập” của cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát hoặc Tịa án, trong đó ghi rõ triệu tập họ đến cơ quan tiến hành tố
tụng với tư cách là người bị hại”24. Ngồi ra trong q trình thực hiện chức năng tố tụng
của mình trong vụ án, các CQCTQTHTT cũng ra một số văn bản ghi nhận tư cách của
bị hại một cách gián tiếp. Trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án, các văn bản như: quyết
định khởi tố vụ án, biên bản ghi lời khai, biên bản đối chất, biên bản khám nghiệm hiện
trường, kết luận điều tra và một số văn bản có liên quan đều có ghi nhận các thơng tin
trong việc xác định ai là bị hại. Tại giai đoạn truy tố, Viện kiểm sát cũng ghi nhận tư
cách bị hại trong các văn bản như: cáo trạng, quyết định truy tố và các văn bản khác có
liên quan khi thực hành chức năng công tố và kiểm sát trong giai đoạn truy tố. Trong
giai đoạn xét xử, tư cách của bị hại được thể hiện chủ yếu trong các quyết định, văn bản
tố tụng có liên quan của tịa án. Trong đó, tư cách bị hại thể hiện rõ nhất trong Quyết
định đưa vụ án ra xét xử, giấy triệu tập, và đặc biệt là bản án. Cũng vì chưa có sự thống
nhất của BLTTHS trong việc công nhận tư cách bị hại nên có quan điểm cho rằng: “việc
tham gia tố tụng của người bị hại khơng hồn tồn phụ thuộc vào ý chí của cơ quan tiến
hành tố tụng mà phụ thuộc vào điều kiện đáp ứng được những đặc điểm pháp lý của
người bị hại… thì lúc đó có người bị hại tham gia tố tụng”25. Tuy nhiên,“việc không có
thủ tục cơng nhận tư cách người bị hại hoặc trì hỗn cơng nhận người bị hại có thể làm
hạn chế quyền của họ trong TTHS”26. Bên cạnh đó, tác giả cho rằng việc chưa xác định
được thời điểm công nhận một cá nhân, cơ quan, tổ chức được công nhận là bị hại cũng
gây khó khăn cho bị hại khi thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ trong TTHS, nhất là

trong quá trình tranh tụng khi họ chưa biết kể từ thời điểm nào mình được thực hiện
quyền đó.
Như vậy, BLTTHS năm 2015 đã ghi nhận đầy đủ khái niệm cũng như những đặc
trưng pháp lý của bị hại. Theo quy định này, bị hại là cá nhân hoặc cơ quan tổ chức chịu
thiệt hại do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra. Nếu bị hại là cá nhân, thiệt hại đó phải
là thiệt hại trực tiếp về thể chất, tinh thần hoặc tài sản. Nếu bị hại là cơ quan, tổ chức,
thiệt hại đó là thiệt hại về tài sản, uy tín. Một chủ thể được coi là bị hại khi được

23

Đinh Thị Mai (2014), Xác định tư cách tham gia tố tụng của người bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam, Tạp
chí Nhà nước và Pháp luật, 2014, Số 2(310), trang 68- 76
24
Đinh Thị Mai (2014), tlđd (23)
25
Nguyễn Thị Út (2011), Sự có mặt của người bị hại tại phiên tịa hình sự sơ thẩm - Những vấn đề lý luận và
thực tiễn, Luận văn thạc sĩ luật học, trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh,
26
Lê Nguyên Thanh (2012), tlđd(13)


17

CQCTQTHTT cơng nhận. Đây chính là cơ sở để xác định tư cách bị hại, là bước đầu
tiên để đảm bảo quyền tham gia tranh tụng của bị hại trong TTHS.
1.1.3. So sánh khái niệm và đặc điểm của bị hại trong tố tụng hình sự Liên bang
Nga với Việt Nam và kiến nghị
Từ việc nghiên cứu các quy định về bị hại trong TTHS Liên bang Nga và Việt
Nam, có thể thấy sự tương đồng về nền tảng lý luận của chế định này trong TTHS hai
nước. Bên cạnh đó, khi xây dựng BLTTHS Việt Nam, các nhà làm luật đã có sự tham

khảo các quy định của BLTTHS Liên bang Nga. Do vậy, BLTTHS Việt Nam và
BLTTHS Liên bang Nga có sự thống nhất với nhau về khái niệm và đặc điểm của bị hại.
Về khái niệm, cả hai BLTTHS đều quy định bị hại không chỉ là cá nhân mà cịn có thể
là tổ chức (BLTTHS Liên bang Nga thì xác định rõ là pháp nhân) chịu thiệt hại trực tiếp
về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra. Về đặc điểm của bị hại, cả hai
BLTTHS đều ghi nhận: thiệt hại mà bị hại phải chịu phải là thiệt hại trực tiếp; thiệt hại
mà tội phạm gây ra cho bị hại có thể là thiệt hại về thể chất, tài sản, tinh thần đối với cá
nhân và thiệt hại về tài sản hoặc uy tín đối với pháp nhân; tư cách bị hại phải do
CQCTQTHTT công nhận. Sự tương đồng nói trên phản ánh sự gần gũi về nền tảng lý
luận giữa hai nền khoa học pháp lý. Tuy nhiên, quy định về bị hại trong BLTTHS Liên
bang Nga có một số điểm khác biệt so với các quy định về bị hại trong BLTTHS Việt
Nam.
Thứ nhất, về chủ thể, BLTTHS Liên bang Nga quy định chỉ các tổ chức có tư cách
pháp nhân mới có thể trở thành bị hại. Trong khi đó, BLTTHS năm 2015 của Việt Nam
có phạm vi bảo vệ rộng hơn khi quy định cả cơ quan, tổ chức khơng có tư cách pháp
nhân có thể được coi là bị hại. Bên cạnh đó, một điểm đặc biệt trong quy định về bị hại
của BLTTHS Liên bang Nga là các pháp nhân thuộc nhà nước Liên bang Nga không thể
trở thành bị hại trong vụ án hình sự. Khi tội phạm gây thiệt hại tới lợi ích của Nhà nước
thì Kiểm sát viên trở thành đại diện của Nhà nước để thay mặt cho nhà nước bảo vệ lợi
ích cơng cộng. Trong khi đó, BLTTHS năm 2015 của Việt Nam khơng có quy định hạn
chế vấn đề này, do đó các cơ quan nhà nước của Việt Nam vẫn có thể được xác định là
bị hại khi tội phạm xâm hại tới lợi ích của Nhà nước mà các cơ quan đó đang quản lý.
Thơng qua sự khác biệt này có thể thấy rõ tư duy biện chứng của các nhà làm luật Liên
bang Nga khi quy định này dựa trên cơ sở lý luận phù hợp với mơ hình tố tụng ―dựa trên
tố tụng tranh tụng‖ như Liên bang Nga. Cụ thể, trong trường hợp tội phạm gây thiệt hại
cho một cơ quan nhà nước, thì đối tượng tác động ở đây là lợi ích cơng cộng do cơ quan
nhà nước đó quản lý chứ không phải tác động tới một pháp nhân cụ thể nào. Việc nhân
danh nhà nước thực hiện chức năng buộc tội trong q trình TTHS chính là việc thực



18

hiện chức năng công tố và nên được giao cho Viện kiểm sát. Do đó, nhà nước cũng như
các cơ quan nhà nước trực thuộc không nên là bị hại với vai trị là một pháp nhân trong
q trình TTHS nhằm không những bảo đảm cân bằng về địa vị pháp lý trong quá trình
tranh tụng với các chủ thể khác mà còn xác định đúng bản chất của việc thực hiện chức
năng buộc tội trong quá trình tranh tụng. Trong khi đó, TTHS Việt Nam chưa có cơ sở
lý luận và hướng dẫn về vấn đề này. Vì vậy, dựa trên quy định của BLTTHS, các cơ
quan nhà nước với tư cách là một pháp nhân vẫn có thể được xác định là bị hại nếu bị tội
phạm xâm hại. Thực tế này xuất phát từ cơ sở lý luận: trước pháp luật, mọi cá nhân, tổ
chức (kể cả các cơ quan nhà nước) đều bình đẳng, do vậy trong mối quan hệ tố tụng
hình sự, các chủ thể tham gia tố tụng đều bình đẳng trước tịa án. Tuy nhiên, cách thức
quy định này lại đặt ra những vấn đề trong quá trình tranh tụng. Chẳng hạn, trong một
vụ án mà cơ quan nhà nước đóng vai trị bị hại, sẽ có hai chủ thể mang quyền lực nhà
nước tham gia tranh tụng và cả hai chủ thể đó đều thực hiện chức năng buộc tội: Viện
kiểm sát và cơ quan nhà nước tham gia tố tụng với tư cách bị hại. Như vậy quá trình
tranh tụng liệu có cơng bằng. Hoặc trong một số trường hợp có sự mâu thuẫn giữa lợi
ích cá nhân người đại diện của cơ quan nhà nước với lợi ích mà cơ quan nhà nước được
giao bảo vệ đã bị tội phạm xâm hại hoặc đe dọa xâm hại, dẫn đến người có trách nhiệm,
quyền hạn đại diện cơ quan nhà nước đó từ chối tư cách bị hại của cơ quan mà mình đại
diện khi tham gia tố tụng. Mặc dù vậy, theo quy định của BLTTHS Việt Nam, các
CQCTQTHTT vẫn phải xác định cơ quan này là bị hại. Vậy q trình tranh tụng trong
vụ án có thật sự khách quan. Để giải quyết vấn đề này, tác giả nhận thấy kinh nghiệm
của BLTTHS Liên bang Nga có cơ sở lý luận hợp lý và nên được nghiên cứu nghiêm
túc, là một định hướng trong q trình hồn thiện BLTTHS Việt Nam khi các yếu tố của
mơ hình tố tụng tranh tụng được ghi nhận nhiều hơn trong TTHS Việt Nam. Mặc dù
chưa hoàn toàn phù hợp ở thời điển hiện tại nhưng kinh nghiệm này có thể áp dụng để
hoàn thiện các quy định của BLTTHS trong tương lai.
Thứ hai, về tư cách của bị hại, TTHS Việt Nam và Liên bang Nga đều dựa trên cơ
sở lý luận là tư cách của bị hại phải được CQCTQTHTT công nhận. Tuy nhiên,

BLTTHS Liên bang Nga quy định rõ hơn thủ tục và trách nhiệm trong việc công nhận bị
hại. Những quy định này đảm bảo quyền của bị hại để tham gia vào quá trình tranh tụng
trong TTHS Liên bang Nga. Theo đó, việc cơng nhận là quyền để bị hại tham gia vào
quá trình tố tụng cũng như thực hiện các quyền tranh tụng. Do vậy, đây là trách nhiệm
của các cơ quan công quyền trong việc đảm bảo quyền tham gia tranh tụng của bị hại.
Điều tra viên, Dự thẩm viên hoặc Tòa án phải đưa ra một quyết định minh thị, trực tiếp,
độc lập để công nhận bị hại. Quyết định này sẽ là căn cứ để một người có tư cách bị hại


19

và thực hiện các quyền và nghĩa vụ của bị hại trong TTHS. Do vậy, việc công nhận bị
hại phải đặt ra ngay từ khi bắt đầu vụ án hình sự. Nếu chậm trễ trong việc tiến hành
công nhận bị hại sẽ ảnh hưởng đến quyền của họ trong TTHS. Chính vì thế, BLTTHS
Liên bang Nga đã xác định rõ thời điểm công nhận bị hại là thời điểm khởi tố vụ án hình
sự hoặc thời điểm ngay khi nhận được thông tin về chủ thể bị thiệt hại về tội phạm.
Trong khi như đã phân tích, BLTTHS Việt Nam khơng có quy định về vấn đề cơng
nhận bị hại bằng một quyết định hay hành vi tố tụng nào. Do đó, việc cơng nhận bị hại ở
Việt Nam do cả Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án tiến hành, nhưng lại khơng
có quy định rõ thuộc thẩm quyền, trách nhiệm chính của cơ quan nào và khơng được thể
hiện chính thức bằng một văn bản, quyết định tố tụng thống nhất mà lại thể hiện gián
tiếp trong nhiều văn bản khác nhau, vào nhiều thời điểm khác nhau trong quá trình tiến
hành tố tụng. Điều này gây cản trở cho bị hại khi không nắm được chính xác chính thức
từ thời điểm nào họ được tham gia vào q trình tố tụng hình sự nói chung và q trình
tranh tụng nói riêng. Sự chủ động trong vấn đề này hồn tồn thuộc về phía cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng, ảnh hưởng đến sự chuẩn bị cũng như chất lượng tranh
tụng của bị hại trong các giai đoạn TTHS. Cần xác định rõ cơ quan nào có thẩm quyền
cơng nhận tư cách bị hại, hình thức cơng nhận tư cách bị hại, thời điểm bị hại được cơng
nhận nhằm khắc phục tình trạng khơng thống nhất, chưa rõ ràng trong việc công nhận bị
hại như hiện nay; tạo điều kiện cho bị hại nắm rõ những quyền và nghĩa vụ của mình để

có thể chủ động tham gia tranh tụng ngay từ khi vụ án được khởi tố, kịp thời bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong quá trình tố tụng; tránh trường hợp chậm trễ
trong việc xác định tư cách bị hại. Việc ghi nhận cụ thể trách nhiệm trong việc xác định
bị hại cũng giúp việc xác định bị hại được tiến hành một cách chắc chắn hơn và kịp thời
sửa chữa những sai sót trong việc xác định tư cách chủ thể để bảo vệ lợi ích tốt nhất của
các bên tham gia tranh tụng.
Từ đó, tác giả cho rằng cần thiết tiếp thu kinh nghiệm của BLTTHS Liên bang
Nga về vấn đề này. Cụ thể, cần xác định rõ Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát và Tịa án
có thẩm quyền xác định bị hại trong các thời điểm khác nhau của quá trình tố tụng; việc
xác định bị hại phải được tiến hành bằng một văn bản hoặc quyết định tố tụng; thời điểm
xác định bị hại là thời điểm khởi tố vụ án hoặc thời điểm nhận được thông tin về người
bị tội phạm xâm hại hoặc đe dọa xâm hại.
Từ những căn cứ nêu trên tác giả đề xuất sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 62
BLTTHS năm 2015 như sau:
―Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ
quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra.


×