TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
-----------***------------
DƢƠNG HOÀI MY
MIỄN TRÁCH NHIỆM VÀ GIỚI HẠN TRÁCH NHIỆM CỦA
THƢƠNG NHÂN KINH DOANH DỊCH VỤ LOGISTICS
CHUYÊN NGÀNH LUẬT THƢƠNG MẠI
TP.HCM – NĂM 2020
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
⁕⁕⁕⁕⁕⁕⁕⁕
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
MIỄN TRÁCH NHIỆM VÀ GIỚI HẠN TRÁCH NHIỆM CỦA
THƢƠNG NHÂN KINH DOANH DỊCH VỤ LOGISTICS
SINH VIÊN THỰC HIỆN: DƢƠNG HỒI MY
Khóa: 41
MSSV: 1653801011171
GIẢNG VIÊN HƢỚNG DẪN: Ths. NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN
TP HỒ CHÍ MINH – NĂM 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan: Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi,
đƣợc thực hiện dƣới sự hƣớng dẫn khoa học của Thạc sĩ Nguyễn Thị Thanh Huyền,
đảm bảo tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu
tham khảo. Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
NỘI DUNG ĐƢỢC VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT
BLDS 2015
Bộ Luật Dân sự (Luật số 91/2015/QH13) ngày
24/11/2015
BLHH 2015
Bộ luật Hàng hải (Luật số 95/2015/QH13) ngày
25/11/2015
LTM 2005
Luật Thƣơng mại (Luật số 36/2005/QH11) ngày
14/6/2005
Luật GTĐB
Luật giao thông đƣờng bộ (Luật số: 23/2008/QH12)
ngày 13/11/2008
Luật GTĐTNĐ
Luật
giao
thông
đƣờng
thủy
nội
địa
số
23/2004/QH11 ngày 15/6/2004 đƣợc sửa đổi, bổ
sung bởi Luật số 61/2014/QH13 ngày 21/11/2014
Luật HKDD
Luật hàng không dân dụng Việt Nam số
66/2006/QH11 ngày 29 tháng 6 năm 2006 đƣợc sửa
đổi, bổ sung bởi Luật số 1/2014/QH13 ngày
21/11/2014
NĐ 163/2017/NĐ-CP
Nghị định 163/2017/NĐ-CP quy định về kinh doanh
dịch vụ logistics ngày 30/4/2017
NĐ 87/2009/NĐ-CP
Nghị định 87/2009/NĐ-CP về vận tải đa phƣơng
thức ngày 15/12/2009
NĐ 10/2020/NĐ-CP
Nghị định 10/2020/NĐ-CP quy định về kinh doanh
và điều kiện kinh doanh vận tải bằng ôtô ngày
17/01/2020
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. MIỄN TRÁCH NHIỆM CỦA THƢƠNG NHÂN KINH DOANH
DỊCH VỤ LOGISTICS ........................................................................................... 4
1.1 Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng của thƣơng nhân kinh doanh dịch vụ
logistics ..................................................................................................................... 4
1.2 Miễn trách nhiệm của thƣơng nhân kinh doanh dịch vụ logistics ........................ 5
1.3 Điều kiện áp dụng chế định miễn trách nhiệm đối với thƣơng nhân kinh doanh
dịch vụ logistics......................................................................................................... 9
1.4 Phạm vi miễn trách nhiệm ................................................................................. 14
1.5 Căn cứ miễn trách nhiệm đối với thƣơng nhân kinh doanh dịch vụ logistics .... 17
1.5.1 Miễn trách nhiệm theo quy định chung tại Điều 294 LTM ............................ 17
1.5.2 Miễn trách nhiệm áp dụng riêng đối với thƣơng nhân kinh doanh dịch vụ
logistics tại Điều 237 LTM...................................................................................... 26
1.6 Hậu quả của miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng đối với thƣơng nhân kinh
doanh dịch vụ logistics ............................................................................................ 38
1.6.1 Trƣờng hợp có căn cứ theo Điều 237 LTM .................................................... 38
1.6.2 Trƣờng hợp có căn cứ theo Điều 294 LTM 2005 ........................................... 38
1.7 Vai trò của chế định miễn trách nhiệm đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ
logistics ................................................................................................................... 38
KẾT LUẬN CHƢƠNG I ...................................................................................... 40
CHƢƠNG 2. GIỚI HẠN TRÁCH NHIỆM CỦA THƢƠNG NHÂN
KINH DOANH DỊCH VỤ LOGISTICS .............................................................. 41
1.1 Khái quát về giới hạn trách nhiệm ..................................................................... 41
1.2 Quy định về giới hạn mức trách nhiệm đối với thƣơng nhân kinh doanh dịch vụ
logistics ................................................................................................................... 41
1.2.1 Giới hạn trách nhiệm đối với thƣơng nhân kinh doanh dịch vụ logistics theo
pháp luật liên quan .................................................................................................. 42
1.2.2 Mức giới hạn trách nhiệm trong trƣờng hợp pháp luật liên quan khơng có quy
định và các bên khơng có thỏa thuận ....................................................................... 45
1.2.3 Mức giới hạn trách nhiệm trong trƣờng hợp các bên có thỏa thuận................ 46
1.2.4 Giới hạn trách nhiệm trong trƣờng hợp vận tải đa phƣơng thức ..................... 47
1.3 Trƣờng hợp không đƣợc hƣởng quyền giới hạn trách nhiệm............................. 48
KẾT LUẬN CHƢƠNG II ..................................................................................... 50
KẾT LUẬN CHUNG ............................................................................................ 51
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Logistics là một lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế, có tác động thúc đẩy
sản xuất hàng hóa và các dịch vụ khác phát triển, góp phần giảm chi phí và tăng
chất lƣợng sản phẩm. Việt Nam có nhiều thế mạnh về vị trí địa lý, địa hình cũng
nhƣ nguồn nhân lực để có thể trở thành một trung tâm logsitics trong khu vực và
toàn thế giới. Theo Báo cáo logistics Việt Nam 2019, tiềm năng và cơ hội để ngành
logistics ở Việt Nam phát triển là rất lớn, sự phát triển của ngành sẽ nhanh chóng
đƣa Việt Nam trở thành một trung tâm sản xuất mới trong khu vực.
Bên cạnh đó, hoạt động trong lĩnh vực này cũng đầy tính rủi ro, để đảm bảo
an toàn pháp lý cho thƣơng nhân kinh doanh dịch vụ logistics, pháp luật cần có
những quy định rõ ràng và chi tiết về miễn trách nhiệm và giới hạn trách nhiệm.
Tuy nhiên, dịch vụ logistics chỉ mới đƣợc pháp luật Việt Nam chính thức thừa nhận
từ Luật Thƣơng mại 2005 (LTM 2005). Với lịch sử hình thành còn non trẻ, pháp
luật về logistics chƣa thật sự đáp ứng đƣợc nhu cầu thực tiễn và vẫn còn tồn tại
nhiều điểm mâu thuẫn với quy định của pháp luật chuyên ngành. Nếu thƣơng nhân
kinh doanh dịch vụ logistics khơng có những hiểu biết nhất định sẽ dễ gây nhầm
lẫn, áp dụng sai dẫn đến phát sinh tranh chấp về sau, điều này làm mất đi tác dụng
của điều khoản miễn trách nhiệm và giới hạn trách nhiệm. Thay vì sử dụng điều
khoản này để giảm thiểu chi phí và hạn chế các tranh chấp, thƣơng nhân cung cấp
dịch vụ logistics phải tốn kém nhiều thời gian và chi phí để giải quyết kiện tụng
hoặc phải sử dụng một giải pháp khác ngồi tịa án để bảo vệ quyền lợi của mình.
Việc nghiên cứu, giải thích và hƣớng dẫn áp dụng chế định miễn trách nhiệm và
giới hạn trách nhiệm là hƣớng đi cần thiết, gắn kết sự phát triển của kinh tế với
pháp luật, phát huy đƣợc những tiềm năng và thế mạnh của logistics Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu
Những nghiên cứu về hoạt động logistics, đặc biệt là vấn đề “Miễn trách
nhiệm và giới hạn trách nhiệm của thƣơng nhân kinh doanh dịch vụ logistics” hiện
nay chƣa nhiều. Một số nghiên cứu tác giả tìm hiểu đƣợc bao gồm:
- Nguyễn Thị Hạ Vy (2007), Pháp luật về kinh doanh logistics tại Việt Nam,
Luận văn thạc sỹ, Trƣờng Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM).
- Đinh Thị Thùy Linh (2019), Miễn trách nhiệm và giới hạn trách nhiệm của
thƣơng nhân kinh doanh dịch vụ Logistics, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân, trƣờng
Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
1
- Nguyễn Đỗ Sơn Trà (2012), Những vấn đề pháp lý về miễn trách nhiệm và
giới hạn trách nhiệm cho thƣơng nhân kiinh doanh dịch vụ logistics, Luận văn cử
nhân, Trƣờng Đại học Luật TP.HCM.
- Nguyễn Thị Ngân (2013), Miễn trách nhiệm trong hoạt động thƣơng mại,
Luận văn cử nhân, Trƣờng Đại học Luật TP.HCM.
Những cơng trình nghiên cứu trên chủ yếu phân tích một cách khái quát các vấn
đề mang tích lý luận về hoạt động cung ứng dịch vụ logistics. Miễn trách nhiệm và giới
hạn trách nhiệm đƣợc đề cập rõ ràng hơn trong luận văn cử nhân của tác giả Đinh Thị
Thùy Linh và tác giả Nguyễn Đỗ Sơn Trà. Tuy nhiên, những nghiên cứu này chỉ dừng
lại ở góc độ phân tích các căn cứ để đƣợc hƣởng miễn trách nhiệm và giới hạn trách
nhiệm mà chƣa làm rõ đƣợc bản chất của chế định miễn trách nhiệm và giới hạn trách
nhiệm, cũng nhƣ tƣơng quan giữa căn cứ miễn và phạm vi trách nhiệm đƣợc miễn.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của khóa luận khi nghiên cứu các trách nhiệm pháp lý phát sinh do
hành vi vi phạm hợp đồng của thƣơng nhân kinh doanh dịch vụ logistics nhằm làm
rõ những trách nhiệm mà họ có thể đƣợc miễn.Tác giả muốn làm rõ đƣợc bản chất
của miễn trách nhiệm do vi phạm của thƣơng nhân kinh doanh dịch vụ logistics, từ
đó hiểu đƣợc sự khác biệt về phạm vi miễn trách nhiệm giữa các căn cứ chung và
căn cứ riêng theo quy định của pháp luật. Phân tích sự tƣơng quan giữa căn cứ miễn
trách nhiệm và phạm vi miễn trách nhiệm cũng nhƣ các điều kiện mà thƣơng nhân
kinh doanh dịch vụ logistics cần phải đáp ứng để đƣợc miễn trách nhiệm. Qua
những ví dụ, tình huống thực tiễn, tác giả muốn làm rõ một số điểm bất cập, thiếu
nhất quán giữa các quy định của pháp luật.
Về chế định giới hạn trách nhiệm, tác giả đề cập khái quát đến giới hạn trách
nhiệm của thƣơng nhân kinh doanh dịch vụ logistics và nguyên tắc áp dụng pháp
luật điều chỉnh vấn đề này. Phân tích các mức giới hạn trách nhiệm cụ thể để có thể
nắm bắt đƣợc các quy định của pháp luật liên quan. Qua đó, ngƣời đọc có thể nhìn
nhận đƣợc sự khác nhau về mức giới hạn trách nhiệm của thƣơng nhân kinh doanh
dịch vụ logistics theo những lĩnh vực khác nhau và có thể thấy đƣợc một số điểm
cịn hạn chế của các quy định pháp luật liên quan đến lĩnh vực này.
4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu những vấn đề liên quan đến trách nhiệm, miễn trách
nhiệm và giới hạn trách nhiệm của thƣơng nhân kinh doanh dịch vụ logistics trong
hệ thống pháp luật Việt Nam.
2
Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn trong các quy định của LTM 2005,
các văn bản hƣớng dẫn thi hành và quy định của pháp luật chuyên ngành có liên
quan.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu phân tích, giải thích, so
sánh, tổng hợp,… để làm sáng tỏ nội dung các vấn đề cần nghiên cứu.
6. Bố cục tổng quát
Khóa luận bao gồm các phần sau: Danh mục từ viết tắt, mục lục, phần mở
đầu, phần nội dung, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo.
Phần nội dung của khóa luận gồm 2 chƣơng:
Chƣơng 1: Miễn trách nhiệm của thƣơng nhân kinh doanh dịch vụ logistics
Chƣơng 2: Giới hạn trách nhiệm của thƣơng nhân kinh doanh dịch vụ
logistics
3
CHƢƠNG 1. MIỄN TRÁCH NHIỆM CỦA THƢƠNG NHÂN KINH DOANH
DỊCH VỤ LOGISTICS
1.1 Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng của thƣơng nhân kinh doanh
dịch vụ logistics
Cho đến nay vẫn còn nhiều cách hiểu về hoạt động logistics, đó là hoạt động
vận tải, hậu cần hay xuất nhập khẩu… Nhƣng xét về bản chất, logistics là các hoạt
động liên quan đến sự dịch chuyển hàng hóa từ nơi sản xuất cho đến nơi tiêu thụ
nhằm tối ƣu hóa chu trình sản xuất với mục tiêu đạt đƣợc hiệu quả kinh tế cao nhất
(giúp giảm thiểu thời gian và chi phí sản xuất)1. Là một hoạt động thƣơng mại, hoạt
động kinh doanh dịch vụ logistics chịu sự điều chỉnh của LTM 2005. Theo đó,
“dịch vụ logistics bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải
quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu,
giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hóa2”. Có thể thấy, dịch vụ
logistics chỉ gồm những hoạt động gắn liền với hàng hóa (đặc biệt là vận tải hàng
hóa). Nhƣ vậy, những dịch vụ mang đặc tính di chuyển nhƣng khơng liên quan đến
hàng hóa (nhƣ vận chuyển hành khách và hành lý) dù đƣợc quy định trong các luật
chuyên ngành nhƣng không phải là dịch vụ logistics. Hiểu đúng đƣợc khái niệm
logistics giúp lý giải về phạm vi áp dụng miễn trách nhiệm trong lĩnh vực này.
Thù lao thƣơng nhân kinh doanh dịch vụ logistics nhận đƣợc nhận dựa trên
việc hồn thành các cơng việc theo u cầu của khách hàng mà không phải do sản
xuất hay tác động trực tiếp vào hàng hóa. Hợp đồng cung ứng dịch vụ logistics
chính là cơ sở làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa thƣơng nhân kinh doanh dịch
vụ logistics và khách hàng. Một khi hợp đồng đƣợc giao kết và phát sinh hiệu lực,
các bên có nghĩa vụ phải tuân thủ những gì đã thỏa thuận theo nguyên tắc pacta sunt
servanda (nguyên tắc thiện chí, trung thực khi thực khi thực hiện hợp đồng). Trong
trƣờng hợp thƣơng nhân kinh doanh dịch vụ logistics khơng hồn thành nghĩa vụ
của mình (khơng thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ theo thoả thuận giữa các bên hoặc theo quy định)3 sẽ bị áp dụng các chế tài
theo quy định của pháp luật hoặc theo thỏa thuận giữa các bên.
Điều 351 Bộ luật dân sự 2005 (BLDS 2015) quy định: “Bên có nghĩa vụ mà
vi phạm nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền”. Nhƣ vậy,
1
Ngọc Hồi Nam (2009), Logistics trong hoạt động ngoại thương Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ, Đại học
Kinh tế Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.12.
2
Điều 233 LTM 2005.
3
Khoản 12 Điều 3 LTM 2005.
4
trách nhiệm của thƣơng nhân kinh doanh dịch vụ logistics khi có vi phạm là những
trách nhiệm phát sinh do khơng thực hiện cơng việc. Mặc dù khơng giải thích nhƣ
thế nào là trách nhiệm dân sự, nhƣng theo quy định của BLDS 2015, những trách
nhiệm phát sinh do vi phạm bao gồm nghĩa vụ tiếp tục thực hiện công việc hoặc
thanh tốn những chi phí hợp lý và bồi thƣờng thiệt hại cho bên bị vi phạm4. Khác
với quy định của BLDS 2015, LTM 2005 sử dụng thuật ngữ “chế tài” để chỉ các
trách nhiệm pháp lý phát sinh do hành vi vi phạm hợp đồng. Chế tài là các biện
pháp bảo đảm hiệu lực của hợp đồng, bảo vệ lợi ích chính của bên bị vi phạm, cơng
cụ để cơ quan tài phán giải quyết tranh chấp5. Vi phạm hợp đồng dẫn đến hậu quả
bên vi phạm bị áp dụng các chế tài theo quy định tại Điều 292 LTM 2005, gồm 06
hình thức chế tài chính: i) Buộc thực hiện đúng hợp đồng; ii) Phạt vi phạm; iii)
Buộc bồi thƣờng thiệt hại; iv) Tạm ngƣng thực hiện hợp đồng; v) Đình chỉ thực
hiện hợp đồng và vi) Hủy bỏ hợp đồng. Ngồi ra, các bên cịn có quyền thỏa thuận
về các biện pháp khác (các biện pháp không đƣợc trái với nguyên tắc cơ bản của
pháp luật Việt Nam)6.
Nhƣ vậy, trong bối cảnh hợp đồng cung ứng dịch vụ logistics, khi có hành vi
vi phạm hợp đồng thƣơng nhân kinh doanh dịch vụ logistics có thể bị áp dụng các
chế tài theo quy định tại Điều 292 LTM 2005. Tuy nhiên cần lƣu ý rằng, trách
nhiệm pháp lý phải đƣợc xem xét trong từng hoàn cảnh cụ thể của hành vi vi phạm.
Không phải bất kỳ hành vi vi phạm hợp đồng nào đều bị áp dụng chế tài và để đƣợc
áp dụng cần phải tuân thủ theo quy định của pháp luật cũng nhƣ thỏa mãn những
điều kiện nhất định.
1.2 Miễn trách nhiệm của thƣơng nhân kinh doanh dịch vụ logistics
Căn cứ miễn trách nhiệm đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ logistics
đƣợc quy định tại Điều 237 và Điều 294 LTM 2005. Ngoài ra, còn đƣợc quy định ở
các luật chuyên ngành vận tải nhƣ BLHH 2015, Luật HKDD, Luật GTĐB, Luật
Đƣờng sắt,… Dù đƣợc đề cập trong nhiều văn bản, nhƣng cho đến nay vẫn chƣa có
điều khoản nào giải thích về khái niệm “miễn trách nhiệm”, hay “miễn trách
nhiệm” do hành vi vi phạm của thƣơng nhân kinh doanh dịch vụ logistics. Để hiểu
đƣợc nội hàm khái niệm này cần xuất phát từ khái niệm “trách nhiệm” hay trách
4
Khoản 1 Điều 358 BLDS 2015
“Trường hợp bên có nghĩa vụ khơng thực hiện một cơng việc mà mình phải thực hiện thì bên có quyền có thể
yêu cầu bên có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện hoặc tự mình thực hiện hoặc giao người khác thực hiện cơng việc
đó và u cầu bên có nghĩa vụ thanh tốn chi phí hợp lý, bồi thường thiệt hại”.
5
Nguyễn Quốc Trƣởng, Trách nhiệm pháp lý khi vi phạm hợp đồng thƣơng mại truy cập ngày 12/4/2020.
6
Khoản 7 Điều 292 LTM 2005.
5
nhiệm do vi phạm hợp đồng của thƣơng nhân kinh doanh dịch vụ logistics. Theo đó,
“miễn trách nhiệm” là việc một bên không phải gánh chịu những hậu quả pháp lý
bất lợi do vi phạm hợp đồng trong những trƣờng hợp đƣợc pháp luật quy định hoặc
theo thỏa thuận của các bên. Đối chiếu theo quy định tại Điều 358 BLDS 2015,
miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng của thƣơng nhân kinh doanh dịch vụ
logistics là “miễn trách nhiệm tiếp tục thực hiện công việc và miễn trách nhiệm bồi
thƣờng thiệt hại”. Trong thƣơng mại, “trách nhiệm” do vi phạm tƣơng đƣơng với
“các biện pháp chế tài”, suy ra “miễn trách nhiệm” do vi phạm hợp đồng cũng có
nghĩa là miễn thực hiện các biện pháp chế tài hay không phải chịu các chế tài trong
trƣờng hợp đƣợc miễn trách nhiệm7. Chế tài trong thƣơng mại rất đa dạng, do đó,
miễn trách nhiệm trong LTM 2005 khơng chỉ dừng lại ở miễn trách nhiệm bồi
thƣờng thiệt hại. Nhƣng không phải trƣờng hợp vi phạm nào trách nhiệm phát sinh
cũng giống nhau, do đó xem xét các trách nhiệm đƣợc miễn cần dựa trên những
hoàn cảnh cụ thể. Để áp dụng chế định này, cần xác định đƣợc ba vấn đề cơ bản (i)
có hành vi vi phạm; (ii) làm phát sinh trách nhiệm và (iii) thuộc các trƣờng hợp
đƣợc áp dụng miễn trách nhiệm. Theo quy định của LTM 2005 có tất cả 07 hình
thức chế tài, vậy bên vi phạm có khả năng đƣợc miễn đối với tất cả các chế tài hay
không? Đầu tiên, cần phải xem xét đến vi phạm đó có làm phát sinh trách nhiệm?
Nếu có thì trách nhiệm đó là gì, những chế tài nào sẽ đƣợc áp dụng? Bởi lẽ, không
phải vi phạm nào cũng phải chịu chế tài, nếu hành vi vi phạm không làm phát sinh
trách nhiệm hay không đủ điều kiện để áp dụng chế tài thì cũng khơng đặt ra vấn đề
miễn trách nhiệm (hay trách nhiệm không tồn tại). Một số chế tài mang tính răn đe,
trừng phạt cao, điều kiện để đƣợc áp dụng khó khăn hơn. Ví dụ nhƣ đối với phạt vi
phạm, chế tài này chỉ đƣợc áp dụng nếu các bên có thỏa thuận trong hợp đồng về
trách nhiệm chịu phạt vi phạm và thỏa thuận này có hiệu lực. Hơn nữa, mặc dù
LTM 2005 cho phép kết hợp áp dụng một số biện pháp chế tài với nhau nhƣ phạt vi
phạm và bồi thƣờng thiệt hại hay bồi thƣờng thiệt hại và các biện pháp chế tài khác.
Tuy nhiên, việc áp dụng đồng thời phải đảm bảo hai chế tài không trái ngƣợc nhau
về tính chất. Do đó, hầu nhƣ khơng xảy ra trƣờng hợp một vi phạm đƣợc miễn tất cả
các chế tài). Ví dụ, trong trƣờng hợp áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng,
bên bị vi phạm không đƣợc áp dụng các chế tài khác ngoại trừ bồi thƣờng thiệt hại
và phạt vi phạm và ngƣợc lại8.
7
Khúc Thị Thùy Trang (2014), “Những vấn đề về miễn trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại do vi phạm hợp
đồng theo pháp luật Việt Nam”, Luận văn Thạc sỹ, Đại học Luật Hà Nội, tr. 19.
8
Điều 299 LTM 2005: “Quan hệ giữa chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng và các loại chế tài khác
1. Trừ trường hợp có thoả thuận khác, trong thời gian áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, bên bị
vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm nhưng không được áp dụng các chế tài khác.
6
Quy định về miễn trách nhiệm ở các chế tài phạt vi phạm, bồi thƣờng thiệt
hại, tạm ngƣng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng và hủy hợp đồng
đƣợc thể hiện khá rõ ràng trong LTM 2005. Điều khoản quy định về các chế tài
này đều có quy định loại trừ áp dụng khi xảy ra miễn trách nhiệm. Nói cách khác,
nếu có hành vi vi phạm nhƣng thuộc các căn cứ miễn trách nhiệm theo Điều 294
LTM 2005, bên vi phạm sẽ không bị áp dụng các chế tài. Tuy nhiên đối với quy
định về chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, bên vi phạm khơng đƣợc loại trừ
trách nhiệm này kể cả khi có căn cứ miễn trách nhiệm9. Theo đó, cho dù thuộc các
trƣờng hợp đƣợc miễn trách nhiệm thì bên vi phạm vẫn phải thực hiện đúng hợp
đồng hoặc áp dụng các biện pháp khắc phục để thực hiện hợp đồng. Quy định này
có vẻ mâu thuẫn và chƣa hợp lý, đặc biệt là đối với những vi phạm xảy ra do sự
kiện bất khả kháng hoặc do thực hiện quyết định của cơ quan nhà nƣớc có thẩm
quyền. Bởi lẽ, nếu nghĩa vụ có thể thực hiện đƣợc hoặc có thể đƣợc thay thế bằng
một biện pháp khác thì bản thân vi phạm đó khơng tạo thành bất khả kháng. Do đó
về logic, khơng thể ép buộc bên vi phạm phải thực hiện đúng hợp đồng hay tiếp
tục thực hiện hợp đồng trong mọi hồn cảnh. Luật khơng nên ràng buộc bên vi
phạm phải thực hiện đúng nghĩa vụ mà nên để các bên tự thỏa thuận, đó có thể là
tạm hoãn thực hiện hợp đồng hoặc chờ đợi khi sự kiện bất khả kháng qua đi để
tiếp tục thực hiện hợp đồng. Điều 296 LTM 2005 đƣợc xem là một giải pháp thay
thế, khi xảy ra sự kiện bất khả kháng các bên có thể kéo dài thời gian thực hiện
hợp đồng theo thỏa thuận hoặc theo khoảng thời gian cố định, nếu sau đó nghĩa vụ
vẫn khơng thực hiện đƣợc thì một bên có quyền từ chối thực hiện hợp đồng mà
không phải bồi thƣờng thiệt hại. Chẳng hạn nhƣ trong trƣờng hợp bất khả kháng
do sự bùng phát của dịch bệnh Covid-19, thƣơng nhân cung cứng dịch vụ logistics
có nghĩa vụ phải vận chuyển lơ hàng nơng sản qua cửa khẩu quốc tế theo thời hạn
hợp đồng. Tuy nhiên, việc xảy ra dịch bệnh khiến các thủ tục thơng quan hàng hóa
bị cản trở, hoặc u cầu phức tạp và tốn nhiều thời gian hơn. Do thời gian chờ đợi
quá lâu nên lô hàng nông sản đã bị hƣ hỏng dẫn đến khơng cịn giá trị sử dụng.
Trong trƣờng hợp này, hành vi vi phạm xảy ra do sự kiện bất khả kháng, do đó
thƣơng nhân kinh doanh dịch vụ logistics đƣợc miễn các trách nhiệm bồi thƣờng
thiệt hại cũng nhƣ trách nhiệm thực hiện đúng hợp đồng. Vì đối tƣợng vận chuyển
khơng cịn tồn tại nên khơng thể nào yêu cầu bên vi phạm thực hiện nghĩa vụ vận
chuyển theo hợp đồng.
2. Trường hợp bên vi phạm không thực hiện chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trong thời hạn mà bên bị
vi phạm ấn định, bên bị vi phạm được áp dụng các chế tài khác để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.”
9
Điều 297 LTM 2005
7
Pháp luật thƣơng mại dƣờng nhƣ khá ƣu ái cho thƣơng nhân kinh doanh dịch
vụ logistics khi dành khá nhiều điều khoản để quy định về các trƣờng hợp miễn
trách nhiệm. Thứ nhất, là một hoạt động thƣơng mại nên dịch vụ logistics đƣơng
nhiên sẽ đƣợc miễn trách nhiệm khi đáp ứng các điều kiện tại Điều 294 LTM, quy
định chung về miễn trách nhiệm cho hoạt động thƣơng mại. Thứ hai, bởi vì dịch vụ
logistics là một hoạt động thƣơng mại với những đặc thù riêng biệt so với các hoạt
động thƣơng mại khác nên LTM đã dành một chƣơng riêng biệt để điều chỉnh hoạt
động đặc thù này. Điều 237 quy định một cách cụ thể về các căn cứ miễn trách
nhiệm của thƣơng nhân kinh doanh dịch vụ logistics, ngoài những trƣờng hợp miễn
trách nhiệm theo quy định chung mà Điều 294 LTM 2005 đã đề cập tới. Ngoài ra
phải kể đến các quy định về miễn trách nhiệm của pháp luật chuyên ngành vận tải
đƣợc ƣu tiên áp dụng đối với các hoạt động dịch vụ logistics vận tải. Cho dù áp
dụng miễn trách nhiệm theo điều khoản nào (Điều 294, Điều 237 LTM 2005 hay
quy định của pháp luật chuyên ngành) thì trách nhiệm đƣợc miễn đều là những trách
nhiệm phát sinh trên cơ sở hợp đồng, gây ra bởi hành vi phá vỡ cam kết giữa các
bên. Đây là điểm phân biệt với quy định miễn trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại
ngoài hợp đồng ở Khoản 2 Điều 584 BLDS 2015.
Quy định về miễn trách nhiệm xuất phát từ đặc thù của ngành dịch vụ
logistics phải đối diện với nhiều mối hiểm nguy không thể dự đoán đƣợc. Rủi ro
trong các hoạt động kinh doanh logistics rất đa dạng, đó có thể là sự khơng chắc
chắn trong thị trƣờng tài chính, các mối đe dọa từ thất bại của dự án, trách nhiệm
pháp lý, rủi ro tín dụng, tai nạn, nguyên nhân tự nhiên và thiên tai, tấn công từ đối
thủ, hoặc các sự kiện có ngun nhân gốc rễ khơng chắc chắn hoặc khơng thể đốn
đƣợc10. Hay theo cách tiếp cận của Walter (2011), rủi ro trong kinh doanh dịch vụ
logistics có thể chia thành rủi ro liên quan đến dịng tài chính, rủi ro dịng thơng tin
và rủi ro liên quan đến dịng vật chất11.
Về khía cạnh pháp lý, rủi ro đầu tiên đến từ nghĩa vụ phải thực hiện theo yêu
cầu của khách hàng để hƣởng thù lao. Bởi lẽ, thực tiễn cung cấp dịch vụ ln có thể
xảy ra những tình huống và sự kiện bất ngờ địi hỏi sự ứng biến linh hoạt của thƣơng
nhân. Tuy nhiên, sự ràng buộc phải thực hiện theo mệnh lệnh có sẵn lại khiến thƣơng
nhân kinh doanh dịch vụ logistics rơi vào thế bị động đối phó. Khơng ai đảm bảo
rằng những chỉ dẫn của khách hàng ln ln chính xác và là cách tốt nhất để ứng
phó với tình huống bất ngờ xảy ra. Cho dù pháp luật thƣơng mại đã cho phép bên
10
Dƣơng Hữu Tuyến-Đinh Hữu Thạnh, “Mối tƣơng quan giữa nhận diện rủi ro và giảm thiểu rủi ro tại các
doanh nghiệp logistics Việt Nam”, Tạp chí Khoa học Giao thông vận tải, số 67-12/2018.
11
Dƣơng Hữu Tuyến-Đinh Hữu Thạnh, tlđd.
8
cung ứng dịch vụ có thể thực hiện khác đi chỉ dẫn của khách hàng với điều kiện có lý
do chính đáng, vì lợi ích của khách hàng và phải thông báo ngay cho khách hàng12.
Tuy nhiên, không thể chắc chắn rằng giải pháp của thƣơng nhân kinh doanh dịch vụ
logistics sẽ giúp xoay chuyển tình thế. Dù đã thơng báo và nỗ lực hết sức khi thực
hiện nghĩa vụ nhƣng thiệt hại vẫn xảy ra thì ai sẽ là ngƣời chịu trách nhiệm? Chính
câu hỏi này đặt ra vấn đề miễn trách nhiệm để đảm bảo tính cơng bằng trong giao
dịch dân sự. Ở một khía cạnh khác, trong nhiều trƣờng hợp để bảo vệ sự an tồn của
mình thƣơng nhân kinh doanh dịch vụ logistics sẵn sàng bỏ qua lợi ích của khách
hàng. Thiết nghĩ, pháp luật cần có quy định chặt chẽ hơn để tránh đƣợc tổn thất cho
khách hàng, từ đó chất lƣợng dịch vụ logistics cũng sẽ đƣợc cải thiện. Một loại rủi ro
khác mà hoạt động dịch vụ logistics thƣờng xuyên phải đối diện đến từ thời tiết, thiên
tai, tai nạn, các hoạt động quản lý,… Đây là những rủi ro khách quan, khó kiểm sốt
và nằm ngồi khả năng dự đốn của các bên trong hợp đồng. Trong trƣờng hợp, hợp
đồng dịch vụ logistics đƣợc thực hiện vì lợi ích của một bên thứ ba (đối tác của khách
hàng), khả năng hợp đồng đƣợc thực hiện đúng hay không phụ thuộc vào sự hợp tác
của bên thứ ba đó. Ngay cả khách hàng hoặc ngƣời của khách hàng cũng đóng một
vai trị quan trọng đến việc nghĩa vụ hợp đồng có đƣợc thực hiện hay không. Để
nghĩa vụ đƣợc thực hiện đúng không chỉ cần nỗ lực của thƣơng nhân kinh doanh dịch
vụ logistics mà còn cần sự hợp tác của các bên khác có liên quan. Đây là một đặc thù
của ngành kinh doanh dịch vụ logistics nói riêng, cũng nhƣ các hoạt động cung ứng
dịch vụ nói chung13. Chính từ những nguyên nhân trên, pháp luật thƣơng mại đã đặt
ra các quy định về miễn trách nhiệm để hạn chế những rủi ro cho thƣơng nhân trong
hoạt động cung ứng dịch vụ logistics. Chế định miễn trách nhiệm là một công cụ bảo
vệ lợi ích, tạo niềm tin cho thƣơng nhân an tâm hoạt động. Ngồi ra, cịn khuyến
khích những thƣơng nhân khác đầu tƣ vào logistics, một lĩnh vực quan trọng và đầy
tiềm năng, thúc đẩy các hoạt động sản xuất khác phát triển. Việc quy định pháp luật
về miễn trách nhiệm rõ ràng, minh bạch, dễ áp dụng và thống nhất trong cách xử lý
của tòa án cũng là một giải pháp giúp giảm các chi phí quản lý rủi ro và tăng tính
cạnh tranh cho thƣơng nhân kinh doanh dịch vụ logistics.
1.3 Điều kiện áp dụng chế định miễn trách nhiệm đối với thƣơng nhân
kinh doanh dịch vụ logistics
Việc miễn trách nhiệm đối với thƣơng nhân kinh doanh dịch vụ logistics
đƣợc xem xét dựa trên các căn cứ sau:
12
Điểm c, Khoản 1, Điều 235 LTM 2005
“Khi xảy ra trường hợp có thể dẫn đến việc khơng thực hiện được một phần hoặc toàn bộ những chỉ dẫn của
khách hàng thì phải thơng báo ngay cho khách hàng để xin chỉ dẫn”.
13
Bùi Ngọc Cƣờng chủ biên (2008), Giáo trình Luật thƣơng mại tập 2, Nxb Giáo dục, tr. 36.
9
Thứ nhất, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có hành vi vi phạm
nghĩa vụ làm phát sinh trách nhiệm. Dù có sự khác nhau về phạm vi miễn trách
nhiệm, nhƣng Điều 294 và Điều 237 LTM 2005 đều quy định thƣơng nhân kinh
doanh dịch vụ logistics sẽ đƣợc miễn trách nhiệm nếu thuộc các căn cứ để miễn
trách nhiệm. Chính điều khoản này có thể hiểu rằng điều kiện cần để đƣợc hƣởng
miễn trách nhiệm là phải có trách nhiệm phát sinh do vi phạm. Điều này khác biệt
so với quy định của BLDS 2015, khi quy định “trường hợp bên có nghĩa vụ khơng
thực hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng thì khơng phải chịu trách nhiệm
dân sự”14. Quy định này của BLDS 2015 dẫn đến cách hiểu, trong trƣờng hợp xảy
ra sự kiện bất khả kháng hành vi vi phạm không làm phát sinh trách nhiệm. Nhƣng
để đƣợc miễn trách nhiệm thì vi phạm phải làm phát sinh trách nhiệm trƣớc tiên.
Việc quy định về các nghĩa vụ bên vi phạm phải thực hiện để đƣợc hƣởng miễn
trách nhiệm cũng là một minh chứng cho lập luận “vi phạm đã làm phát sinh nghĩa
vụ”. Cho dù có căn cứ để áp dụng miễn trách nhiệm nhƣng bên vi phạm không thực
hiện các nghĩa vụ cần thiết (chứng minh, thông báo) họ vẫn phải gánh chịu các trách
nhiệm phát sinh mà không đƣợc miễn trách nhiệm. Đối với những trƣờng hợp có
hành vi vi phạm, nhƣng tính chất của vi phạm khơng đủ để làm phát sinh trách
nhiệm hoặc không đủ căn cứ để áp dụng chế tài thì việc xem xét miễn trách nhiệm
là không cần thiết (trách nhiệm không tồn tại).
Thông thƣờng, bên bị vi phạm có quyền áp dụng các biện pháp chế tài phù
hợp với quy định của pháp luật và thỏa thuận của các bên nhƣ là một biện pháp để
khắc phục các hậu quả do hành vi vi phạm gây ra. Ví dụ, để đƣợc áp dụng phạt vi
phạm địi hỏi các bên phải có sự thỏa thuận về việc áp dụng chế tài này trong hợp
đồng và mức phạt vi phạm không đƣợc vƣợt quá giới hạn 8% giá trị phần nghĩa vụ
hợp đồng bị vi phạm, trừ trƣờng hợp thƣơng nhân kinh doanh dịch vụ giám định
đƣợc quy định tại Điều 266 LTM 200515. Phạt vi phạm sẽ khơng đƣợc áp dụng nếu
các bên khơng có điều khoản thỏa thuận về chế tài này hoặc có thỏa thuận nhƣng
mức phạt vƣợt quá 8% giá trị phần nghĩa vụ bị vi phạm (trừ trƣờng hợp phạt vi phạm
đối với hoạt động giám định quy định tại Khoản 1 Điều 266 LTM 2005). Đối với chế
tài hủy hợp đồng, bên bị vi phạm chỉ đƣợc áp dụng chế tài này trong trƣờng hợp xảy
ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện để hủy bỏ hợp đồng hoặc vi
phạm đó là vi phạm cơ bản nghĩa vụ của hợp đồng16 (gây thiệt hại cho bên kia đến
mức làm cho bên kia không đạt đƣợc mục đích của việc giao kết hợp đồng17).
14
Khoản 2 Điều 351 BLDS 2015
Điều 301 LTM 2005.
16
Khoản 4 Điều 312 LTM 2005.
17
Khoản 13 Điều 3 LTM 2005.
15
10
Thứ hai, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có căn cứ để được hưởng
miễn trách nhiệm. Hành vi vi phạm phải phát sinh từ các căn cứ đƣợc các bên thỏa
thuận hoặc theo quy định của pháp luật đƣợc áp dụng miễn trách nhiệm chính là
điều kiện cần để bên vi phạm khơng phải chịu trách nhiệm. Đó có thể là căn cứ ở
Điều 237 LTM 2005 hay Điều 294 LTM 2005, cũng có thể theo quy định của luật
chuyên ngành. Chỉ khi có căn cứ thuộc các trƣờng hợp này thì bên cung ứng dịch vụ
mới có thể đƣợc xem xét miễn trách nhiệm. Đây đƣợc xem là điều kiện quan trọng
nhất khi áp dụng chế định miễn trách nhiệm, cơ sở để xác định hành vi vi phạm
khơng xuất phát do lỗi từ phía thƣơng nhân kinh doanh dịch vụ logistics.
Thứ ba, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics đã thực hiện nghĩa vụ
thông báo và chứng minh được trường hợp miễn trách nhiệm của mình. Theo
Khoản 2, Điều 294 LTM 2005, điều kiện để bên vi phạm đƣợc miễn trách nhiệm là
phải thực hiện chứng minh. Bởi vì miễn trách nhiệm là quyền của thƣơng nhân kinh
doanh dịch vụ logistics, do đó để đƣợc hƣởng quyền họ phải chứng minh đƣợc có
cơ sở để đƣợc miễn trách nhiệm. Nếu không thực hiện nghĩa vụ chứng minh, họ mất
quyền đƣợc miễn trách nhiệm. Trên thực tế, trong nhiều trƣờng hợp bên cung ứng
dịch vụ đã không thực hiện nghĩa vụ mà tìm cách đùn đẩy trách nhiệm chứng minh
cho bên còn lại. Trong một tranh chấp giữa chủ hàng và bên vận chuyển liên quan
đến hƣ hỏng của 57 containers nho đông lạnh từ Chile đến Đông Âu. Nguyên nhân
gây hƣ hỏng đƣợc xác định là do “giai đoạn thực sự bị ngắt điện đều vượt quá thời
gian cần thiết, thời gian cho phép hoặc không biết thực tế thời gian này là bao lâu.
Những khoảng thời gian vượt quá và thời gian thực tế không xác định được là bao
lâu này đã cấu thành sự vi phạm nghĩa vụ chăm sóc hàng hóa của người vận
chuyển và người khiếu nại cho rằng đây chính là nguyên nhân hư hỏng hàng
hóa18”. Bị đơn-ngƣời vận chuyển cho rằng tổn thất xảy ra thuộc căn cứ đƣợc miễn
trách nhiệm-số nho bị hƣ hỏng là do “trong một số giai đoạn máy làm lạnh của
container bị “ngắt điện” theo những tình huống thơng thường”. Từ đó, bị đơn cho
rằng để đƣợc bồi thƣờng thì phía khách hàng-ngun đơn phải chứng minh ngƣợc
lại rằng bị đơn có lỗi trong việc gây ra những tổn thất trên. Tuy nhiên, theo tập quán
hàng hải, khi hàng hóa bốc lên tàu trong tình trạng tốt, ngƣời vận chuyển phải có
nghĩa vụ đảm bảo nguyên trạng của hàng hóa. Khi dỡ hàng, nếu có bất kỳ tổn thất
nào đối với hàng hóa, ngƣời vận chuyển chỉ đƣợc miễn trách nhiệm khi chứng minh
đƣợc tổn thất là do một nguyên nhân mà họ không phải chịu trách nhiệm. Thẩm
phán không đồng ý với lập luận của bên vận chuyển và khẳng định rằng khi ngƣời
18
truy cập
ngày 05/05/2020.
11
khiếu nại đƣa ra bằng chứng suy đoán về sự vi phạm thì “người vận chuyển có
trách nhiệm chứng minh tồn bộ hoặc một phần cụ thể của hàng hóa bị tổn thất là
do một hoặc nhiều nguyên nhân mà người vận chuyển không phải chịu trách nhiệm
bồi thường”. Ngƣợc lại, nếu khơng chứng minh đƣợc thì bị đơn phải chịu tồn bộ
trách nhiệm bồi thƣờng tổn thất.
Trách nhiệm thơng báo cho khách hàng về trƣờng hợp miễn trách nhiệm và
hậu quả có thể xảy ra cũng là một điều kiện để đƣợc miễn trách nhiệm. Theo quy
định tại Khoản 1 Điều 295 LTM 2005, hình thức của thơng báo phải bằng văn bản.
Thời điểm bên vi phạm phải thực hiện gửi thông báo là ngay lập tức, cùng lúc với
thời điểm có vi phạm xảy ra. Thƣơng nhân kinh doanh dịch vụ logistics cũng phải có
trách nhiệm thơng báo với khách hàng ngay khi căn cứ miễn trách nhiệm chấm dứt.
Không thông báo hoặc thông báo không kịp thời dẫn đến hậu quả chính họ sẽ phải
bồi thƣờng thiệt hại cho khách hàng mà không đƣợc miễn trách nhiệm. Quy định về
nghĩa vụ thông báo cho khách hàng là hợp lý, bởi lẽ khách hàng có quyền đƣợc biết
thơng tin về tình trạng của hàng hóa hoặc những yếu tố có khả năng gây tổn thất đối
với hàng hóa để họ có thể đƣa ra những giải pháp hay biện pháp để khắc phục hay
hạn chế những thiệt hại xảy ra. Không chỉ riêng đối với trƣờng hợp miễn trách nhiệm
mà tất cả những trƣờng hợp có nguy cơ dẫn đến việc khơng thực hiện đƣợc một phần
hoặc tồn bộ chỉ dẫn của khách hàng, thƣơng nhân kinh doanh dịch vụ logistics đều
có nghĩa vụ phải thơng báo19. Tuy nhiên, việc quy định về hình thức và thời điểm
thơng báo theo LTM 2005 là cứng nhắc và chƣa phù hợp. Bởi lẽ, hoạt động dịch vụ
logistics mang tính linh động cao, thƣờng xuyên di chuyển giữa các địa điểm nên
khơng phải lúc nào cũng có đủ điều kiện để soạn thảo văn bản. Trong những trƣờng
hợp khẩn cấp, việc thơng báo cần đảm bảo tính nhanh gọn, kịp thời có thể thực hiện
bằng cách gọi điện, tín hiệu đàm mà khơng nên q câu nệ về hình thức. Ngồi ra,
cịn phải tính đến một số trƣờng hợp khách quan không thể thực hiện thông báo ngay
lập tức nhƣ gặp bão, giơng, lốc,… trong hồn cảnh này, khắc phục sự cố luôn là
nhiệm vụ hàng đầu so với việc thông báo cho khách hàng. Nên chăng quy định về
thông báo là cần thiết nhƣng cần xem xét một cách linh hoạt, phù hợp với thực tiễn
hoạt động logistics để đạt đƣợc mục đích của miễn trách nhiệm.
Pháp luật quy định về nghĩa vụ thông báo và chứng minh cho thấy miễn
trách nhiệm sẽ không đƣơng nhiên đƣợc áp dụng cho dù đáp ứng các điều kiện cịn
lại. Ngồi nghĩa vụ thơng báo, thƣơng nhân kinh doanh dịch vụ logistics cịn phải
chứng minh họ có đủ căn cứ để đƣợc hƣởng miễn trách nhiệm. Phân tích vấn đề này
19
Điểm c, Khoản 1, Điều 235, LTM 2005.
12
có thể dựa trên nguyên tắc về quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh
trong pháp luật tố tụng dân sự20. Đây là quyền lợi do đó thƣơng nhân kinh doanh
dịch vụ logistics phải có trách nhiệm đối với việc thực hiện quyền của mình. Nếu
khơng thực hiện, coi nhƣ họ đã từ bỏ quyền của mình. Tịa án khơng có nghĩa vụ
phải chứng minh hay thực hiện thay việc chứng minh cho thƣơng nhân kinh doanh
dịch vụ logistics.
Tóm lại, miễn trách nhiệm chỉ đƣợc áp dụng khi thƣơng nhân kinh doanh
dịch vụ có hành vi vi phạm làm phát sinh trách nhiệm, thuộc các trƣờng hợp miễn
trách nhiệm theo quy định pháp luật hoặc thỏa thuận và đáp ứng điều kiện thông
báo, chứng minh. Hệ quả của việc thƣơng nhân kinh doanh dịch vụ logistics đƣợc
miễn trách nhiệm không cố định mà thay đổi tùy thuộc vào từng hồn cảnh cụ thể.
Các trách nhiệm đƣợc miễn có thể là trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại, miễn chịu
phạt vi phạm, phép chấm dứt hợp đồng trong những trƣờng hợp bất khả kháng hoặc
miễn cùng lúc nhiều trách nhiệm.
Ngoài việc áp dụng miễn trách nhiệm, nếu trường hợp của thương nhân kinh
doanh dịch vụ logistics không thỏa mãn điều kiện bất khả kháng, cần cân nhắc xem
mình có đủ điều kiện áp dụng Điều 420 BLDS để yêu cầu đàm phán lại hợp đồng
hoặc chấm dứt hợp đồng21. Nghĩa vụ hợp đồng vẫn có thể thực hiện đƣợc trong
trƣờng hợp thay đổi hoàn cảnh cơ bản, tuy nhiên việc thực hiện sẽ tốn kém, khó
khăn hơn so với dự tính ban đầu. Do đó, pháp luật cho phép các bên có thể tiến
hành đàm phán lại để giảm thiểu những tổn thất gây ra do sự thay đổi hoàn cảnh của
hợp đồng. Hợp đồng dịch vụ logistics giữa bên vận chuyển (Bên A) và bên bán
(Bên B) quy định A phải thực hiện các thủ tục thông quan trƣớc ngày 26/3/2020 để
kịp vận chuyển lô hàng 10MT gạo giao cho một công ty ở Trung Quốc vào ngày
02/4/2020. Mặc dù hoạt động vận tải hàng hóa vẫn có thể đƣợc tiến hành, tuy nhiên
do ảnh hƣởng của dịch bệnh Covid-19 nên hàng hóa bị ách tắc tại cửa khẩu cũng
nhƣ các thủ tục thông quan mất nhiều thời gian hơn. Nếu không thay đổi thời hạn
giao hàng, nguy cơ giao hàng trễ hạn là chắc chắn xảy ra. Để giảm đi các chi phí mà
bên vận chuyển phải gánh chịu, cũng nhƣ tránh đƣợc khoản bồi thƣờng do giao
hàng trễ, các bên có thể đàm phán để lùi thời hạn thực hiện hợp đồng thêm một
khoảng thời gian hợp lý. Có thể thấy, đây là những quy định linh hoạt khi áp dụng
các biện pháp khắc phục hậu quả của vi phạm hợp đồng, giúp các bên trong hợp
đồng vƣợt qua những giai đoạn kinh tế khó khăn.
20
Nguyên tắc quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh của đƣơng sự trong tố tụng dân sự đƣợc
quy định tại Điều 6 Bộ luật tố tụng Dân sự 2015.
21
truy cập ngày 05/05/2020.
13
1.4 Phạm vi miễn trách nhiệm
Xác định đúng phạm vi miễn trách nhiệm giúp bên vi phạm biết đƣợc mình
sẽ không phải gánh chịu những hậu quả bất lợi nào, miễn toàn bộ các trách nhiệm
hay chỉ đƣợc miễn một phần hoặc một số trách nhiệm. Về phía bị vi phạm họ cũng
có cách ứng xử phù hợp để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình trong quan hệ hợp
đồng.
Hành vi vi phạm là căn cứ làm phát sinh trách nhiệm nhƣng phạm vi của
miễn trách nhiệm không giống nhau trong mọi hoàn cảnh mà phụ thuộc vào bản
chất của vi phạm cũng nhƣ thái độ và cách hành xử của các bên. Căn cứ để thƣơng
nhân kinh doanh dịch vụ logistics đƣợc hƣởng miễn trách nhiệm đƣợc quy định ở
hai điều khoản, Điều 294 và Điều 237 LTM 2005.
Căn cứ miễn trách nhiệm ở Điều 294 LTM 2005 đƣợc áp dụng chung cho tất
cả các hoạt động thƣơng mại. Hoạt động logistics là một hoạt động thƣơng mại dịch
vụ, nên đƣơng nhiên đƣợc hƣởng những căn cứ miễn trách nhiệm theo điều khoản
này. Trách nhiệm đƣợc miễn theo Điều 294 là những trách nhiệm phát sinh do hành
vi vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên, LTM 2005 lại không có quy định nào làm rõ
những trách nhiệm nào mà bên vi phạm đƣợc miễn, do đó vẫn cịn nhiều tranh luận
liên quan đến phạm vi trách nhiệm đƣợc miễn. Nhƣ đã phân tích, trách nhiệm do có
hành vi vi phạm hợp đồng trong thƣơng mại là chế tài. Nhƣng miễn trách nhiệm do
có hành vi vi phạm có đƣợc miễn đối với tất cả các chế tài hay không? Dù không
nêu rõ trách nhiệm nào sẽ đƣợc miễn, nhƣng có thể căn cứ vào quy định về chế tài
liên quan tại các Điều 300, 303, 308, 310 và 312 LTM 2005 để suy ra các trách
nhiệm đƣợc miễn bao gồm: bồi thƣờng thiệt hại, phạt vi phạm, tạm ngƣng thực hiện
nghĩa vụ, đình chỉ việc thực hiện nghĩa vụ và hủy hợp đồng. Nhƣ vậy, việc không
thực hiện, thực hiện không đúng nghĩa vụ hợp đồng trong các trƣờng hợp bất khả
kháng, do lỗi của bên kia hoặc quyết định của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền
đƣợc miễn gần nhƣ toàn bộ các trách nhiệm phát sinh. Tuy nhiên đối với trách
nhiệm thực hiện đúng hợp đồng, vấn đề miễn trách nhiệm chƣa thực sự rõ ràng. Cụ
thể, Điều 297 LTM 2005 quy định về chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng nhƣng
khơng có căn cứ nào loại trừ trƣờng hợp miễn trách nhiệm. Trƣớc đó, Điều 296
LTM 2005 quy định, các bên có quyền từ chối hợp đồng mà bên kia không đƣợc
yêu cầu bồi thƣờng thiệt hại nếu vƣợt quá thời hạn kéo dài việc thực hiện nghĩa vụ
trong trƣờng hợp bất khả kháng. Nhƣ vậy, miễn trách nhiệm thực hiện đúng hợp
đồng chỉ đƣợc áp dụng sau khi các bên đã thực đàm phán kéo dài thời gian thực
hiện hợp đồng. Cũng cần lƣu ý thêm, đối với miễn trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại
14
theo căn cứ tại Điều 294 LTM 2005, thiệt hại đƣợc miễn là tồn bộ mà khơng giới
hạn chỉ đối với tổn thất hàng hóa phát sinh.
Bản chất miễn trách nhiệm ở Điều 237 tƣơng tự nhƣ Điều 294 LTM 2005,
đƣợc áp dụng riêng đối với thƣơng nhân kinh doanh dịch vụ logistics trong những
trƣờng hợp điều khoản chung chƣa điều chỉnh. Cần lƣu ý điểm khác biệt về phạm vi
miễn trách nhiệm giữa hai điều khoản này. Theo Điều 237 LTM 2005, trách nhiệm
đƣợc miễn chỉ là trách nhiệm liên quan đến tổn thất đối với hàng hóa phát sinh22.
Thứ nhất, trách nhiệm đối về những tổn thất đối với hàng hóa ở đây là một
loại trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại. Khi thuộc một trong những căn cứ theo Điều
237, thƣơng nhân cung cấp dịch vụ sẽ đƣợc miễn trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại.
Nhƣ vậy, phạm vi miễn trách nhiệm ở đây chỉ bao gồm bồi thƣờng thiệt hại mà
khơng phải là tồn bộ các trách nhiệm phát sinh. Nếu song song với hành vi gây
thiệt hại thƣơng nhân kinh doanh dịch vụ logistics cịn có các hành vi vi phạm khác
thì vẫn phải chịu chế tài nhƣ thƣờng lệ. Nói cách khác, theo Điều 237 LTM 2005
ngoại trừ trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại đối với tổn thất hàng hóa, thƣơng nhân
kinh doanh dịch vụ logistics không đƣợc miễn trách nhiệm phát sinh do những hành
vi vi phạm hợp đồng khác. Ví dụ, nếu phát sinh trách nhiệm về phạt vi phạm thì
thƣơng nhân vẫn phải chịu phạt theo thỏa thuận trong hợp đồng.
Thứ hai, thƣơng nhân kinh doanh dịch vụ logistics không đƣợc miễn trách
nhiệm đối với toàn bộ tổn thất phát sinh. Theo quy định của pháp luật dân sự, trách
nhiệm bồi thƣờng thiệt hại là trách nhiệm đối với toàn bộ các tổn thất, hay thiệt hại
bao nhiêu bồi thƣờng bấy nhiêu23. Theo đó, thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ bao gồm
thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần24, có thể là các khoản thiệt hại vật chất
do tài sản, sức khỏe, tính mạng bị xâm phạm hay các khoản thiệt hại về tinh thần do
danh dự, nhân phẩm và uy tín bị xâm phạm25. Thiệt hại về tài sản ngoài thiệt hại do
tài sản bị mất, bị hủy hoại hoặc hƣ hỏng còn bao gồm các khoản lợi ích bị mất,
giảm sút; các chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại26. Tuy
nhiên, ở đây thƣơng nhân kinh doanh dịch vụ logistics chỉ đƣợc miễn trách nhiệm
đối với tổn thất hàng hóa phát sinh trong quá trình thực hiện dịch vụ. Phạm vi trách
nhiệm bồi thƣờng thiệt hại đƣợc miễn chỉ là tổn thất đối với hàng hóa mà khơng
22
Khoản 1 Điều 237 LTM 2005
“Ngoài những trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này, thương nhân kinh doanh
dịch vụ logistics không phải chịu trách nhiệm về những tổn thất đối với hàng hoá phát sinh…”
23
Nguyễn Văn Cừ-Trần Thị Huệ (2016), Bình luận Khoa học BLDS 2015, Nxb Cơng an Nhân dân, tr.556.
24
Khoản 1 Điều 361 BLDS 2015.
25
Các quy định ở Điều 589, 590, 591 và 592 BLDS 2015.
26
Điều 589 BLDS 2015.
15
phải là toàn bộ các thiệt hại phát sinh trên thực tế. Khoản 2 của điều này quy định
“thương nhân không phải chịu trách nhiệm về việc mất khoản lợi đáng lẽ được
hưởng của khách hàng, về sự chậm trễ hoặc thực hiện dịch vụ logistics sai địa điểm
không do lỗi của mình”27. Nhƣ vậy, thƣơng nhân vẫn phải chịu trách nhiệm đối với
các khoản lợi ích của khách hàng bị mất trên thực tế nếu đủ căn cứ. Họ chỉ đƣợc
miễn trách nhiệm này nếu chứng minh đƣợc là mình khơng có lỗi trong việc gây ra
thiệt hại.
Về vấn đề này, một số tác giả cho rằng “thƣơng nhân kinh doanh dịch vụ
logistics chỉ phải chịu trách nhiệm đối với tồn bộ tổn thất hàng hóa” mà khơng
phát sinh trách nhiệm bồi thƣờng đối với khoản lợi ích trực tiếp đáng đƣợc hƣởng
hay trách nhiệm đối với những tổn thất khác (chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế,
khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc giảm sút, tổn thất về tinh thần và
các chi phí phát sinh khác)28. Tuy nhiên nhận xét này chƣa thực sự thuyết phục. Thứ
nhất, việc LTM 2005 chỉ quy định về miễn trách nhiệm hay giới hạn trách nhiệm
của thƣơng nhân kinh doanh dịch vụ logistics đối với tổn thất hàng hóa phát sinh
khơng có nghĩa là họ khơng phải chịu trách nhiệm đối với các thiệt hại khác hay
không phải chịu các chế tài theo thỏa thuận hay quy định của pháp luật. Bởi lẽ, mặc
dù không đƣợc quy định cụ thể, nhƣng nếu thƣơng nhân có hành vi vi phạm nghĩa
vụ thì vi phạm đó vẫn làm phát sinh trách nhiệm nhƣ các hoạt động thƣơng mại
khác. Thứ hai, nhƣ đã phân tích, thƣơng nhân chỉ phải chịu trách nhiệm đối với
“khoản lợi đáng lẽ được hưởng của khách hàng, về sự chậm trễ hoặc thực hiện dịch
vụ sai địa điểm” nếu nhƣ họ có lỗi gây ra thiệt hại đó. Trong trƣờng hợp lỗi đến từ
một chủ thể khác (có thể là khách hàng, đại diện của khách hàng hoặc một bên thứ
ba) thì họ khơng phải chịu trách nhiệm. Theo hƣớng quy định này, thì khách hàng
chỉ đƣợc yêu cầu thƣơng nhân bồi thƣờng đối với khoản thiệt hại này nếu cung cấp
đƣợc các chứng cứ chứng minh lỗi của thƣơng nhân. Nhƣ vậy, quy định về căn cứ
miễn trách nhiệm tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều 237 LTM 2005 là độc lập nhƣng
không loại trừ lẫn nhau. Hành vi vi phạm của thƣơng nhân kinh doanh dịch vụ
logistics có thể đƣợc miễn trách nhiệm đối với “tổn thất hàng hóa” và kể cả “những
khoản lợi mà khách hàng đáng ra được hưởng”.
Vấn đề đặt ra là thƣơng nhân kinh doanh dịch vụ logistics có đƣợc miễn các
trách nhiệm khác ngồi trách nhiệm tại Khoản 1 (bồi thƣờng đối với tổn thất hàng
hóa) và Khoản 2 (khoản lợi đáng ra đƣợc hƣởng) Điều 237 LTM 2005. Bởi lẽ, việc
27
Khoản 2 Điều 237 LTM 2005.
Đinh Thị Thùy Linh (2019), “Miễn trách nhiệm và giới hạn trách nhiệm của thƣơng nhân kinh doanh dịch
vụ logistics”, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Trƣờng ĐH Luật TP.HCM, tr.13-14.
28
16
quy định chỉ miễn trách nhiệm đối với những tổn thất này khơng có nghĩa là những
trách nhiệm khác khơng phát sinh. Giả sử, vi phạm của bên cung cấp dịch vụ
logistics đáp ứng đƣợc điều kiện để đƣợc miễn trách nhiệm theo Điều 237 LTM
2005, đồng thời cũng thỏa mãn điều kiện để bên vi phạm có thể hủy hợp đồng cung
ứng dịch vụ (theo thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng). Trong trƣờng hợp này,
bên bị vi phạm vẫn có thể hủy hợp đồng nhƣng khơng đƣợc yêu cầu thƣơng nhân
cung cấp dịch vụ logistics bồi thƣờng thiệt hại. Đây chính là điểm khác biệt giữa
quy định về miễn trách nhiệm ở Điều 237 so với Điều 294 LTM 2005. Thƣơng
nhân kinh doanh dịch vụ logistics vẫn phải chịu những trách nhiệm khác phát sinh
do vi phạm hợp đồng (ngoài trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại). Đồng nghĩa với việc,
bên sử dụng dịch vụ có quyền yêu cầu thƣơng nhân kinh doanh dịch vụ logistics
thực hiện các chế tài khác theo quy định của pháp luật hoặc thỏa thuận giữa các bên.
Phạm vi miễn trách nhiệm theo Điều 294 LTM 2005 là miễn áp dụng các chế
tài (có thể là một hoặc nhiều chế tài theo thỏa thuận của các bên hoặc quy định pháp
luật), mà không phải chỉ miễn một phần của trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại nhƣ
Điều 237 LTM 2005. Về cơ bản, trách nhiệm của thƣơng nhân kinh doanh dịch vụ
logistics khơng có gì khác biệt với các hoạt động thƣơng mại khác tuy nhiên, họ có
nhiều cơ hội hơn để đƣợc miễn trách nhiệm mà đáng lẽ ra phải chịu so với các
thƣơng nhân khác.
1.5 Căn cứ miễn trách nhiệm đối với thƣơng nhân kinh doanh dịch vụ
logistics
1.5.1 Miễn trách nhiệm theo quy định chung tại Điều 294 LTM
1.5.1.1 Theo thỏa thuận giữa các bên
Pháp luật thƣơng mại cho phép thƣơng nhân kinh doanh dịch vụ logistics và
khách hàng đƣợc thỏa thuận điều khoản miễn trách nhiệm cũng nhƣ tôn trọng sự
thỏa thuận của các bên. Bởi lẽ, chủ thể của hợp đồng bao giờ cũng có có điều kiện
để hiểu rõ đƣợc những nguy cơ và rủi ro tiềm ẩn trong khi thực hiện hợp đồng hơn
so với các bên khác. Nhờ đó, điều khoản miễn trách nhiệm theo thỏa thuận sẽ rõ
ràng, hợp lý và dễ hiểu hơn so với sự giải thích của bên khác. Điều khoản miễn
trách nhiệm giúp thƣơng nhân kinh doanh dịch vụ logistics giảm thiểu hoặc thốt
khỏi trách nhiệm phát sinh trong q trình hoạt động, giúp cắt giảm các chi phí ngăn
ngừa và kiểm soát rủi ro29. Việc cho phép các bên thỏa thuận miễn trách nhiệm còn
29
Nguyễn Lan Anh, “Một số vấn đề pháp lý về điều khoản miễn trách nhiệm”, Tạp chí kinh tế đối ngoại, số
86/2016, tr. 04.
17
có tác dụng khuyến khích nhà đầu tƣ phát triển dịch vụ logistics, một lĩnh vực có
nhiều rủi ro nhƣng mang lại lợi ích kinh tế lớn cho chính doanh nghiệp và xã hội.
Khách hàng cũng đạt đƣợc một số lợi ích nhất định khi có thỏa thuận này, chẳng
hạn đƣợc giảm giá dịch vụ hay khuyến mãi, đồng thời chính điều khoản miễn trách
nhiệm cũng nhằm nâng cao chất lƣợng dịch vụ. Bởi lẽ, thƣơng nhân kinh doanh
dịch vụ logistics sẽ có nhiều điều kiện hơn để bảo trì, bảo dƣỡng các phƣơng tiện
vận chuyển hay đầu tƣ, nâng cấp các thiết bị kỹ thuật tối ƣu, hiện đại hơn.
Bên vi phạm chỉ đƣợc miễn trách nhiệm nếu xảy ra trƣờng hợp miễn trách
nhiệm mà các bên “đã thỏa thuận”. Dù không nêu rõ về thời điểm các bên đạt đƣợc
thỏa thuận (trƣớc, trong hay sau thời điểm giao kết hợp đồng) nhƣng để đƣợc công
nhận, thỏa thuận phải tồn tại trƣớc thời điểm xảy ra hành vi vi phạm và làm phát
sinh trách nhiệm. Vậy đối với các thỏa thuận miễn trách nhiệm đạt đƣợc sau khi xảy
ra vi phạm, liệu có đƣợc pháp luật cơng nhận là căn cứ để miễn trách nhiệm? Nếu
thỏa thuận giữa các bên không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt
Nam, theo tác giả thời điểm đạt đƣợc thỏa thuận không quan trọng. Bởi lẽ, việc
chấp nhận thỏa thuận đã thể hiện sự đồng ý giữa các bên để miễn các trách nhiệm
phát sinh do hành vi vi phạm. Tuy nhiên, vấn đề thực sự cần đƣợc đề cập khi thỏa
thuận này ẩn chứa nguy cơ tƣ lợi, làm ảnh hƣởng đến quyền của bên sử dụng dịch
vụ. Để đảm bảo tính pháp lý và đúng mục đích phân bổ rủi ro, địi hỏi thỏa thuận
này khơng đƣợc trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Đặc biệt là
trong hợp đồng cung ứng dịch vụ logistics có chủ thể sử dụng dịch vụ là các Cơ
quan Nhà nƣớc. Sẽ dễ dàng xác định đƣợc chủ thể có thẩm quyền thỏa thuận miễn
trách nhiệm trong hợp đồng cung ứng dịch vụ đối với khách hàng tƣ nhân. Nhƣng
đối với hợp đồng cung ứng dịch vụ cho cơ quan nhà nƣớc thì ai sẽ là ngƣời có thẩm
quyền thỏa thuận miễn trách nhiệm, phạm vi đƣợc thỏa thuận miễn trách nhiệm nhƣ
thế nào, có giới hạn nào hay không? Quy định chặt chẽ về vấn đề này nhằm hạn chế
những hành lợi dụng thỏa thuận để trục lợi, gây thất thoát tài sản của nhân dân mà
trên thực tế đã từng xảy ra ở nhiều tập đồn kinh tế nhà nƣớc. Ví dụ, Điểm r Khoản
2 Điều 151 BLHH 2015 quy định, đối với trƣờng hợp đƣợc hƣởng quyền miễn hoàn
toàn trách nhiệm của ngƣời vận chuyển theo sự thỏa thuận ghi trong hợp đồng thì
ngƣời đó phải chứng minh rằng “người vận chuyển đã khơng có lỗi, khơng cố ý
hoặc những người làm cơng, đại lý của người vận chuyển cũng khơng có lỗi hoặc
khơng cố ý gây ra sự mất mát, hư hỏng của hàng hóa”. Những tổn thất gây ra bởi
hành vi có lỗi, lỗi cố ý hay thiếu trách nhiệm của bên vi phạm sẽ không đƣợc hƣởng
miễn trách nhiệm theo điều khoản đã thỏa thuận.
18
Quy định tại Điều 294 LTM 2005 không nêu rõ về hình thức của thỏa thuận
là văn bản, lời nói hay hành vi cụ thể. Trong một số trƣờng hợp rất khó xác định về
hình thức của thỏa thuận nhƣ các loại vé tàu, vé xe, vé máy bay, ký gửi hàng hóa,...
Điều khoản miễn trách nhiệm thƣờng đƣợc thƣơng nhân kinh doanh dịch vụ
logistics quy định riêng bằng một văn bản khác mà không thể hiện trên các loại vé
này, ngồi ra cịn thể hiện ở quy định miễn trách nhiệm trong các hợp đồng mẫu.
Khách hàng mua vé xe, tức đồng ý sử dụng dịch vụ có đồng nghĩa với việc chấp
nhận thỏa thuận này hay không? Thực tế, không nhiều khách hàng biết về điều
khoản này, họ cũng khơng đƣợc thể hiện ý chí của mình trong việc chấp nhận hay
không chấp nhận thỏa thuận miễn trách nhiệm. Họ chỉ đƣợc biết về sự tồn tại của
thỏa thuận khi bên cung ứng dịch vụ có hành vi vi phạm, xảy ra thiệt hại xâm phạm
đến quyền và lợi ích của mình. Đối với những hợp đồng cung ứng dịch vụ đƣợc thể
hiện bằng hình thức văn bản hoặc tƣơng đƣơng30, thỏa thuận này cần đƣợc thể hiện
bằng một hình thức tƣơng đƣơng với hợp đồng để đảm bảo tính hợp lệ. Thỏa thuận
miễn trách nhiệm phải là một phần không thể tách rời của hợp đồng, do đó hình
thức của thỏa thuận sẽ phụ thuộc vào hình thức của hợp đồng. Thực tiễn giải quyết
tranh chấp, thỏa thuận trong hợp đồng đƣợc giao kết bằng lời nói vẫn đƣợc Tịa án
cơng nhận. Tuy nhiên, để đảm bảo tính xác thực của thỏa thuận, các bên nên lựa
chọn hình thức của thỏa thuận bằng văn bản.
Thứ ba, liệu có giới hạn nào về phạm vi thỏa thuận miễn trách nhiệm của các
bên trong hợp đồng? Bởi lẽ, theo nguyên tắc pacta sunt servanda, hợp đồng phải
đƣợc thực hiện một cách tự nguyện, thiện chí, trung thực với những cố gắng và nỗ
lực một cách tối đa để thực hiện. Nhƣ vậy, nếu để các bên tự do quá mức để thỏa
thuận bất cứ hành vi vi phạm nào cũng có thể đƣợc miễn trách nhiệm là đi ngƣợc lại
nguyên tắc của việc thực hiện và chịu trách nhiệm đối với việc thực hiện của mình.
Sự tự do thỏa thuận của các bên trong hợp đồng chỉ hợp lý khi nằm trong một giới
hạn cho phép-đảm bảo sự bình đẳng về quyền lợi cho dù bên đó là bên yếu thế trong
hợp đồng. Bởi lẽ, nếu dễ dàng chấp nhận sẽ dẫn đến tình trạng bên vi phạm lợi dụng
điều khoản này để lẩn tránh trách nhiệm và họ sẽ sẵn sàng bỏ qua những tiêu chuẩn
tối thiểu để ngăn ngừa rủi ro cho khách hàng. “Pháp luật không nên thừa nhận thỏa
thuận miễn trách nhiệm đối với hành vi thiếu trách nhiệm hoặc không tuân thủ đầy
đủ các tiêu chuẩn tối thiểu mà pháp luật hoặc quy tắc nghề nghiệp quy định”31.
30
Khoản 15, Điều 3, LTM 2005
“Các hình thức có giá trị tương đương văn bản bao gồm điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu và các hình
thức khác theo quy định của pháp luật”.
31
Nguyễn Lan Anh, tlđd, tr.15.
19