Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (55.95 KB, 2 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
Bình Khơi Thơng Tuệ Trinh Thục Cơng Chúa, Đại Vương. Là tước hiệu
mà triều Lê thượng phong cho bà Trưng Nhị, nguyên là phó tướng, phó
vương của bà Trưng Trắc (Trưng Vương) trong cuộc khởi nghĩa mang tên
Hai Bà.
Cũng như chị, bà Trưng Nhị là một nữ tướng thao lược, đã cùng khởi
nghĩa và lập nên nhiều chiến công hiển hách.
Ngồi trên bành voi, Hai Bà chỉ huy tướng sĩ, đốc thúc lực lượng tiêu
diệt thành Luy Lâu và nhiều huyện, thành khác.
Khi cuộc khởi nghĩa thắng lợi, bà Trưng Trắc xưng vương, đóng đơ ở
Mê Linh, cịn bà Trưng Nhị cũng được phong vương, đóng quân ở thành
Dền.
Thành Dền, tên chữ là Cự Triền, được xây dựng ở trang Cự Triền, đến
nay hãy còn dấu vết, cách thành Mê Linh khoảng 9 dặm.
Thành đắp hình bán nguyệt, có tường cao hào sâu, bốn bề có tháp canh,
lại có cổng thành chắc chắn, qn lính canh gác ngày đêm cẩn mật. Trong
thành có chỗ ăn chỗ nghỉ cho quân sĩ, có chỗ luyện tập, thi đấu võ nghệ, lại
có giếng nước, kho lương đầy đủ.
Khi trận chiến đấu ở Lãng Bạc thất thế, Hai Bà rút về thành Dền cố thủ.
Quân địch đánh mãi không được, Mã Viện phải dùng kế bao vây lâu dài.
Y sai đắp một thành khác, cách thành Dền 3 dặm, gọi tên là thành Vượn
(thuộc xã Tam Đồng, Yên Lãng). Từ thành Vượn và từ phía Mê Linh (nơi
quân giặc đã chiếm) chúng án ngữ các đường tiếp tế và tổ chức nhiều đợt
tấn công vào thành Dền. Bất đắc dĩ Hai Bà phải bỏ thành Dền, lui về đất
Lại có thuyết nói bà Trưng Nhị bị tử thương trên sơng Nguyệt Đức, lúc
ấy đang có bão, từng đợt sóng đang dâng lên cuồn cuộn. Quân ta thừa thế
xông vào trận địa cướp lấy thi thể của vị chủ tướng rồi vượt sóng đưa về an
táng trên núi Hy Sơn thuộc đất Phong Châu ngày nay.