Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.33 KB, 13 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
MỞ ĐẦU
Trong dòng chảy chung của văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Minh Châu
là một trong những nhà văn hàng đầu. Là cây bút văn xi có đóng góp xuất sắc
cho văn học thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, Nguyễn Minh Châu cũng lại thuộc
trong số những người mở đường tinh anh cho công cuộc đổi mới văn học Việt Nam
thời kỳ từ sau năm 1975. Ông là "người kế tục xuất sắc những bậc thầy của nền văn
xuôi Việt Nam và cũng là người mở đường rực rỡ cho những cây bút trẻ sau này”-
nhận xét ấy của nhà văn Nguyễn Khải đã ghi nhận những đóng góp của Nguyễn
Minh Châu cho văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Đọc những tác phẩm của ơng, thấy đậm chất của người lính. Hình tượng
người lính là sự kết tinh về phẩm chất con người Việt Nam, về lí tưởng, tâm hồn
cũng như đời sống tình cảm. Cũng thơng qua hình tượng này, người đọc có thể thấy
được cả lịch sử dân tộc Việt Nam trong những năm tháng hào hùng của hai cuộc
kháng chiến trường kì của dân tộc. Hình tượng người lính là một trong những hình
tượng đẹp nhất, rực rỡ nhất, có sức lay động nhất mà tác phẩm Nguyễn Minh Châu
đã xây dựng được. Là nhà văn mặc áo lính, Nguyễn Minh Châu ý thức hết sức sâu
sắc về sứ mệnh thiêng liêng của người cầm bút trong giai đoạn khốc liệt nhất của
cuộc chiến. Ông đã dành gần nửa cuộc đời để say sưa ngợi ca, mê mải khám phá vẻ
đẹp lung linh, kỳ ảo của cuộc sống và tâm hồn của họ.
NỘI DUNG
<b>I. Nguyễn Minh Châu - Cuộc đời và sự nghiệp văn học.</b>
Nguyễn Minh Châu sinh ngày 30-10-1930 trong một gia đình nơng dân ở
Quỳnh Lưu, Nghệ An. Trước cách mạng tháng tám ông đã học xong bằng Thành
chung. Năm 1950, ông gia nhập quân đội. Năm 1961, ơng theo học trường Văn hóa
Lạng Sơn. Năm 1962, Nguyễn Minh Châu về cơng tác tại phịng Văn nghệ quân
đội, sau chuyển sang tạp chí Văn nghệ quân đội. Nguyễn Minh Châu qua đời ngày
Là một nhà văn gắn bó máu thịt với vùng quê xứ Nghệ, Nguyễn Minh Châu
ao ước được viết về chính những con người của quê hương mình. Phải thế mà các
nhân vật trong tác phẩm của ơng một mặt đằm thắm như dịng nước sơng Lam, mặt
khác lại kiên cường như ngọn núi Hồng Lĩnh.
bộ những tác phẩm viết về chiến tranh trong thời gian 5 năm (1984-1989). Tập
<i>truyện Cỏ Lau được giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam (1988-1989)…</i>
Có thể nói với những đóng góp của mình, Nguyễn Minh Châu xứng đáng với
vị trí là người mở đường tài hoa và tinh anh. Ngày nay, nhắc đến Nguyễn Minh
Châu người đọc càng không thể quên được một nhà văn viết về đề tài chiến tranh
xuất sắc vào bậc nhất của văn xi Việt Nam.
<b>II. Hình tượng người lính trong truyện ngắn Mảnh trăng cuối rừng</b>
<b>(Nguyễn Minh Châu)- từ điểm nhìn hiện tại.</b>
<i>II.1. Vài nét về hình tượng người lính trong văn xuôi Việt Nam thời chống</i>
<i>Mỹ.</i>
Dân tộc Việt Nam - một dân tộc luôn phải đương đầu với các cuộc chiến
tranh xâm lược. Lịch sử 4000 năm của dân tộc, về cơ bản là lịch sử chiến tranh vệ
quốc. Vì vậy, hình tượng người lính ln là hình tượng trung tâm trong đời sống xã
hội cũng như trong văn học nghệ thuật. Hình tượng người lính đã từng xuất hiện
trong ca dao, cổ tích, trong văn học Trung đại, tuy số lượng khơng nhiều. Từ sau
CM Tháng Tám, hình tượng người lính đã trở thành hình tượng trung tâm của văn
<b>học cách mạng, đặc biệt là những năm tháng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, khi</b>
<i>cả dân tộc tưng bừng khí thế: “Đường ra trận mùa này đẹp lắm”, “Có những ngày</i>
<i>vui sao/Cả nước lên đường”. Lý tưởng, hành động của lớp lớp thanh niên ngày ấy</i>
<i>(Nguyễn Thi), Hòn đất (Anh Đức), Rừng động (Mạc Phi), Trên quê hương anh</i>
<i>hùng Điện Ngọc (Nguyễn Trung Thành), Bão biển (Chu Văn), Từ tuyến đầu tổ</i>
<i>quốc (Nguyễn Quang Sáng), Sống Như Anh (Trần Đình Vân)…Tập trung khai thác</i>
vẻ đẹp anh hùng của người lính thơng qua những trang viết của mình, các nhà văn
<i>đã làm sống dậy âm hưởng sử thi hào hùng của cả một thời đại “Xẻ dọc Trường</i>
<i>Sơn đi cứu nước / Mà lòng phơi phới dậy tương lai”. Nhìn chung, hình tượng</i>
người lính của văn học giai đoạn này được khắc họa trên những đặc điểm nổi bật
sau:
Đó là những con người được miêu tả rất cụ thể và phong phú về hoàn cảnh
gia đình và tầng lớp xuất thân. Trong kháng chiến chống Pháp, người lính chủ yếu
có nguồn gốc xuất thân từ người nông dân chân chất, mộc mạc. Họ xung phong ra
trận với một tấm lòng yêu nước tha thiết mà rất đỗi giản dị của người dân quê. Đến
kháng chiến chống Mỹ hình tượng người chiến sĩ được khai thác tồn diện trên mọi
phương diện, họ khơng chỉ xuất thân là những người nơng dân u nước, những
người trí thức, mà còn là những già bản, những người anh hùng dân tộc thiểu số,
còn là những thanh niên xung phong đầy dũng cảm.
Hình tượng người lính trong văn học giai đoạn này được xây dựng trên rất
nhiều bối cảnh khác nhau. Có khi vẻ đẹp con người họ được toát lên từ trong khung
cảnh chiến trận ác liệt, nhưng cũng có khi được khai thác từ những bối cảnh rất đỗi
<i>đời thường như đọc thư nhà ( Lượng trong Thư nhà của Hồ Phương), trong cảm </i>
<i>xúc nhớ thương về gia đình ( Chị Út Tịch trong Người Mẹ cầm súng của Nguyễn </i>
<i>Đình Thi, Người cha trong Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng…), những tình</i>
<i>cảm nam nữ, tình u đơi lứa như trong Mảnh trăng cuối rừng ( Nguyễn Minh </i>
khai thác vẻ đẹp người chiến sĩ thông qua tinh thần chiến đấu anh dũng, vượt qua
mọi khó khăn, gian khổ của họ.
Nói chung trong kháng chiến hình ảnh người lính được khắc hoạ khá rõ nét
với những cảm hứng sử thi anh hùng ca tráng lệ. Đây là một nét khác biệt rất lớn so
với nghệ thuật xây dựng nhân vật trung tâm trong các giai đoạn trước, nó góp phần
tạo nên những hơi thở riêng cho từng thời kì lịch sử với những cảm hứng bắt nguồn
từ hiện thực cách mạng cụ thể. Nó làm sống dậy vẻ đẹp hùng tráng của một thời kì
đầy gian khổ nhưng cũng vô cùng oanh liệt.
<i>II.2. Hình tượng người lính trong truyện ngắn Mảnh trăng cuối rừng</i>
<i>(Nguyễn Minh Châu) </i>
<i><b>Người lính từ góc nhìn lí tưởng hóa</b></i>
Thế hệ trẻ Việt Nam đi vào cuộc kháng chiến chống Mĩ khơng chỉ có nhiệt
huyết tràn đầy của tuổi trẻ mà còn với vẻ đẹp lãng mạn trong tâm hồn mình. Với ý
<i>tưởng đó, Nguyễn Minh Châu đã viết “ Mảnh trăng cuối rừng”, một truyện ngắn</i>
xuất sắc về chiến tranh. Nhân vật trong truyện được nhìn từ góc nhìn lí tưởng hóa.
Đó là những người lính trong sáng, lãng mạn, trẻ trung, trong suốt. Những con
người mang vẻ đẹp tâm hồn cao quý như “sợi chỉ xanh óng ánh”, đặc biệt nổi bật
qua hai nhân vật Lãm và Nguyệt.
công vừa tắm thế mà vẫn cười rất tươi. Chuyến ấy giao hàng xong, đã quá muộn,
Lãm lỡ hẹn. Chuyến xe sau, anh mới vào thăm chị gái.
Truyện chỉ có vậy, nhưng nổi bật trên bức phông màn giản dị ấy là những
tâm hồn trong sáng, một tình yêu thủy chung, là phẩm chất cao đẹp, dũng cảm
<i><b>Người lính với vẻ đẹp vừa lãng mạn vừa can trường</b></i>
thuật đặc biệt. Truyện được bao bọc trong một không gian riêng,
cái không gian trong vắt ánh trăng, bồng bềnh sương trắng cùng với hai con người
mà trái tim đang đầy ắp tình u cuộc sống, khơng gian ấy là một khơng gian hiếm
có. Cuộc sống chiến đấu được miêu tả đẹp và hấp dẫn. Nguyễn Minh Châu tuy có
ghi nhận sự dữ dội, những cảnh tàn phá và sự hy sinh, nhưng trên cái nền hùng
tráng ấy là mảnh trăng sáng trong như một mảnh bạc cùng với hình tượng Nguyệt
ngời lên đẹp lạ thường trong ánh lửa đạn. Trong cái ánh sáng trong trẻo và
huyền ảo, vẻ đẹp này càng mang tính lãng mạn khi nó hiện ra và
vượt lên khỏi mọi sự tàn phá hủy diệt của chiến tranh.
Điều chinh phục người đọc là ở những phẩm chất đáng q của một cơ gái cô
công nhân giao thông: từ người đi nhờ xe trở thành bạn đường rồi lúc đưa xe ra
ngầm lại trở thành đồng đội chiến đấu của Lãm. Giữa lúc máy bay địch tấn công,
Nguyệt dũng cảm, lanh lợi, quyết đốn “đẩy tơi ngã vào một vật gì rất cứng và sâu
(…) giữa một cái khe chỉ vừa một người, hai bên là hai gốc cây to” cịn mình đứng
chắn phía ngồi. Lúc thì lội qua ngầm buộc tời giúp Lãm kéo xe lên. Lúc chỉ đường
cho xe chạy trong bom đạn. Đến qng khó và tối thì cơ “nhảy xuống đi dị trước”
cho Lãm lái xe vượt lên thốt hiểm. Lời thét của Nguyệt giữa bom đạn mịt mù
mang một âm vang, một ý nghĩa kỳ diệu: “Anh bị thương thì xe cũng mất, anh cứ
nấp đó”. Trong lửa đạn, tâm hồn Nguyệt tỏa sáng một nét đẹp khác, đó là lịng hy
sinh, là chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
quốc. Tuy nhiên, trong một tình huống hồn tồn bất ngờ, những câu chuyện của
Nguyệt làm lương tâm anh bị cắn rứt, nếu cô Nguyệt hy sinh lại chính là cơ Nguyệt
đã “mang canh cánh trong trái tim tuổi trẻ mối tình đầu với tôi suốt mấy năm mà tôi
lại hững hờ”, “nếu Nguyệt đã hy sinh thực thì tơi sẽ mang mối hận mãi mãi". Giống
như Nguyệt, Lãm là một chiến sĩ nặng lịng tình nghĩa. Anh đang đi tìm những giá
trị quý giá của đời sống, không phải là những giá trị như người thường vẫn tìm
kiếm. Nhìn Nguyệt bị thương, anh thổ lộ: “lúc ấy trong lịng tơi dậy lên một tình
yêu Nguyệt gần như mê muội lẫn cảm phục”. Có thể đó là tiếng sét ái tình như
người ta vẫn nói. Nhưng ở đây, phải chăng Nguyệt là người hội đủ những giá trị
cao đẹp của một mẫu người trong tâm tưởng của Lãm, bỗng chốc gặp được, thì tình
cảm trong lịng anh cũng bùng phát. Nguyệt xinh đẹp, một cô công nhân đầy trách
nhiệm, một chiến sĩ, một đồng đội can trường giúp Lãm vượt qua lửa đạn, hoàn
thành được nhiệm vụ. Cũng như Lãm, Nguyệt khơng hề nghĩ gì đến thân mình. Hai
con người, một phẩm chất, một tính cách, một lý tưởng sống, một hồn cảnh sống
chết gắn bó.
Lãm và Nguyệt, hai con người tiêu biểu của lớp thanh niên thời chống Mỹ.
Họ được soi chiếu từ cái nhìn lí tưởng hóa của nhà văn, họ trong sáng, lãng mạn
<i>II.3. Hình tượng người lính trong truyện ngắn Mảnh trăng cuối rừng </i>
<i>(Nguyễn Minh Châu)- từ điểm nhìn hiện tại.</i>
thực khốc liệt của chiến tranh được phản ánh trong văn học thời kì bấy giờ mang
cảm hứng sử thi, hào sảng. Âm điệu hào hùng chi phối tư duy của người cầm bút,
viết về chiến tranh không được đề cập đến mất mát, bi thương, đi chệch ra khỏi quĩ
đạo ấy bị xem là lạc giọng. Văn học thời kì này vang ngân một giọng điệu hào sảng
ngợi ca.
Là nhà văn mặc áo lính, Nguyễn Minh Châu ln có một khát vọng phản ánh
<i>chân thực cuộc chiến tranh vĩ đại của dân tộc. Mảnh trăng cuối rừng có thể xem là </i>
một tác phẩm của ơng tiêu biểu cho văn học thời kì này. Thế hệ trẻ đánh Mỹ như
Lãm và Nguyệt sáng ngời lý tưởng phục vụ tổ quốc ở bất cứ nơi đâu, làm bất cứ
<i>việc gì khi tổ quốc cần. Nhân vật của Nguyễn Minh Châu trong Mảnh trăng cuối </i>
<i>rừng là hình ảnh trung thực của đất nước này, trung thực trong thực tại đang sống </i>
và trung thực trong những phẩm chất truyền thống.
Suốt đời văn của mình, Nguyễn Minh Châu mải mê đi tìm “cái hạt ngọc ẩn
dấu trong tâm hồn con người”. Và ông đã khám phá ra hạt ngọc ở nhân vật Nguyệt.
Nguyệt có những vẻ đẹp quý giá như ngọc, là hiện thân của vẻ đẹp con người Việt
Nam mà “tình yêu và niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống bao nhiêu bom đạn không
thể tàn phá nổi”. Nguyệt ra trường là tình nguyện đi cơng trường, còn Lãm đã trốn
nhà đi bộ đội. Hạnh phúc của họ là ở chính cơng việc phục vụ tổ quốc, lẽ sống của
hơn mình gấp bội. Nếu ngày xưa tiếng nói đầu tiên của Gióng là tiếng nói tình
nguyện đánh giặc cứu nước, hành động kiên quyết của Gióng là xơng thẳng vào kẻ
thù và đánh bại chúng, thì hơm nay Lãm trốn nhà đi bộ đội, Nguyệt ra trường là
tình nguyện phục vụ chiến đấu. Những phẩm chất truyền thống của dân tộc đều toả
sáng ở Nguyệt và Lãm. Đó là sự cần cù chịu thương chịu khó, chu tất trong cơng
việc; thấy người khác khó khăn thì sẵn lịng giúp đỡ; ln cầu tiến; tính thuỷ chung
trước sau như một; coi trọng nghĩa tình hơn quyền lợi vật chất; sống lạc quan tin
yêu vào con người, coi trọng những giá trị nhân bản; thông minh, tế nhị và khéo léo
trong ngôn ngữ và ứng xử; và trên hết là phẩm chất đánh giặc “giặc đến nhà đàn bà
cũng đánh”.
trong việc thi vị hóa nhân vật. Đây vừa là chỗ mạnh của anh vừa là chỗ yếu: niềm
tin vào chất bất khả chiến thắng của cái đẹp tinh thần, của cái thiện đã được khúc
xạ ở chỗ anh đã “tắm rửa sạch sẽ” các nhân vật của mình, họ giống như được bao
bọc trong một bầu khơng khí vơ trùng”.
Chất trữ tình và màu sắc lãng mạn cũng là đặc điểm nổi bật của truyện ngắn
này. Chất trữ tình bộc lộ trong những bức tranh thiên nhiên, đặc biệt là hình tượng
ánh trăng mang vẻ đẹp lãng mạn được trở đi trở lại như một nét chủ đạo tạo ra một
màu sắc riêng cho không gian của câu chuyện mang vẻ huyền ảo, trong đó các nhân
vật hiện ra với vẻ đẹp hồn thiện. Hình tượng ánh trăng như một mơ típ chủ đạo, có
quan hệ mật thiết với nhân vật chính và tên của nhân vật (Nguyệt) từ đó chúng ta
hiểu được ý nghĩa hàm ẩn của tên tác phẩm: Mảnh trăng cuối rừng. Đây cũng vừa
là điểm mạnh vừa bộc lộ những hạn chế của Nguyễn Minh Châu khi viết về chiến
tranh. Chiến tranh trong truyện của ơng chỉ được nhìn từ một phía, nhà văn chỉ đi
KẾT LUẬN
Viết về chiến tranh và người lính trên chiến trường, dù ngịi bút Nguyễn
<i>Minh Châu có lúc q đà, Mảnh trăng cuối rừng có lúc tưởng chừng chỉ là một câu</i>
chuyện tình lãng mạn, truyện giống như đang đi trên giáp ranh của hiện thực cách
mạng và lãng mạn, một đôi khi người đọc ngỡ như đang đọc văn xi của Tự lực
văn đồn, khó tìm ra một khiếm khuyết nào của Nguyệt. Đặt một ánh trăng chênh
chếch phía cuối rừng, đồng hành cùng chuyến xe chở hàng của Lãm, Nguyễn Minh
Châu đã để cho nhân vật của mình hoạt động, đi lại trong một không gian thật hiếm
thấy của chiến trường. Không gian ấy đẹp và vơ cùng thi vị, có vẻ khơng phù hợp
mấy với công việc như Lãm và Nguyệt…
Tuy nhiên, dù thế nào đi nữa chúng tôi vẫn “tâm phục” một ngòi bút tài năng
như Nguyễn Minh Châu. Ngòi bút ấy đã phát hiện ra được những hạt ngọc ẩn sâu
trong tâm hồn con người. Ông đã viết về những cái rất bình thường mà vẫn làm nổi
bật lên cái phi thường của người lính cách mạng. Đó là những con người ln có ý
thức sống và cống hiến cho Tổ quốc. Nhân vật được xây dựng trong bối cảnh chiến
đấu khốc liệt với bom đạn kẻ thù. Chính trong bối cảnh ác liệt đó của cuộc chiến
tranh, người lính Cụ Hồ đã thể hiện vẻ đẹp tồn diện của mình. Tình đồng chí, tình
đồng đội, tình u với đất nước với Đảng, với lí tưởng cách mạng đan xen, hoà
quyện với nhau tạo nên một mạch chảy xuyên suốt trong tâm hồn ngươì chiến sĩ.
Những người lính trẻ cùng gặp nhau tại chiến trường, ngồi tình cảm ruột thịt, tình
u đơi lứa cịn là tình cảm đồng đội, đồng chí. Họ cùng chung một lí tưởng cách
mạng, một chí hướng chiến đấu phục vụ cho cơng cuộc giải phóng đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Bá Hán (chủ biên) (2001), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học
2. N.Niculin (1988), Nguyễn Minh Châu và sáng tác của anh, Báo văn nghệ
số 21.
3. Nhiều tác giả: Trao đổi về truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Báo văn nghệ
số 26-27, 1985.
4. Nguyễn Đăng Mạnh (1992), Khái quát văn học Việt Nam từ Cách mạng
tháng Tám đến 1975, Sgk Văn 12, Nxb Giáo dục.
5. Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Trác, Trần Hữu Tá (1988), Văn học Việt
Nam 1945-1975, Nxb Giáo dục.