Tải bản đầy đủ (.docx) (63 trang)

Quy hoạch thác Bản Giốc động Ngườm Ngao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (300.29 KB, 63 trang )

Quy hoạch thác Bản Giốc-động Ngườm Ngao

1


Mơn Quy hoạch du lịch

MỤC LỤC
I.
II.

III.

Vị trí, mục tiêu và chiến lược phát triển du lịch
Kiểm kê, đánh giá tiềm năng phát triển du lịch tại
thác Bản Giốc – động Ngườm Ngao
Định hướng phát triển du lịch tại thác Bản Giốc –
động Ngườm Ngao giai đoạn 2013-2023

I. VỊ TRÍ, MỤC TIÊU VÀ CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN DU
LỊCH
2


1. Vị trí của phát triển du lịch trong chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội- chính trị, quân sự


Kinh tế:

Phát triển du lịch ngày càng có vai trị và vị thế quan trọng trong nền kinh tế


cũng như văn hóa xã hội của mỗi vùng miền nói riêng và Việt Nam nói chung,
ngồi phát triển nơng nghiệp, cơng nghiệp thì du lịch dịch vụ đang từng bước phát
triển và trở thành nền kinh tế trọng điểm bởi phát triển du lịch được coi như nền “
công nghiệp không khói” và “ con gà đẻ trứng vàng”.
Đưa du lịch vào phát triển ở tỉnh Cao Bằng nhằm mục đích phát triển kinh tế,
đem lại nguồn thu nhập cho người dân tộc thiểu số Tày, Nùng từ nơi họ đang sinh
sống.Phát triển kinh tế dựa trên cơ sở là tự nhiên, khí hậu, địa hình, phong cảnh
của địa phương, cũng như dựa trên cơ sở văn hóa, bản sắc của người dân tộc thiểu
số sinh sống nơi này. Du khách có thể thưởng thức các món ăn đặc trưng của người
dân ở Cao Bằng, tham quan thắng cảnh thiên nhiên, nghỉ dưỡng hay hịa mình với
cuộc sống của người dân.


Xã hội:

Phát triển du lịch đồng nghĩa với việc phát triển, gìn giữ bản sắc văn hóa của
người dân tộc thiểu số, coi đó là nguồn thu lợi nhuận của người dân địa phương, từ
đó khơi phục và tái tạo lại những nét văn hóa thất lạc hoặc khơng cịn được lưu giữ
lại.
Phát triển du lịch đồng nghĩa với việc nâng cao cơ sở vật chất kỹ thuật, như
điện, công nghệ thông tin, đường xá, cầu cống...giúp cho đời sống của người dân
được năng cao hơn cả về vật chất cũng như đời sống con người từng bước được cải
thiện.


Chính trị - quân sự.

Thác bản Giốc nằm trên sông Quây Sơn bắt nguồn từ Trung Quốc đổ ra biên
giới Việt Nam thuộc địa phận xã Đàm Thủy, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao
Bằng.Thác bản Giốc có 2 phần : thác chính và thác phụ. Thác phụ nằm hồn tồn

phía Việt Nam, cịn thác chính được chia 2 quốc gia.Chính vì thế, trong lịch sử có
nhiều cuộc tranh chấp biên giới xảy ra giữa 2 nước.Phát triển du lịch để đảm bảo
chủ quyên quốc gia cũng là một chiến lược chính trị của nước ta.
2. Các mục tiêu phát triển

3


+ Phát triển du lịch thác Bản Giốc trở thành điểm du lịch của tỉnh Cao Bằng,
xứng tầm với định hướng phát triển du lịch của khu vực và cả nước, góp phần phát
triển, thúc đẩy kinh tế của vùng cũng như của khu vực.
+ Phát triển khu du lịch thác bản Giốc phải gắn với việc bảo về chủ quyền
lãnh thổ của đất nước, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh tổ quốc, trật tự, an toàn xã hội.
+ Phát triển du lịch với quy mơ hợp lí, hoạch định rõ ràng và với mục tiêu
phát triển kinh tế cho người dân địa phương cũng như đảm bảo được lợi ích cho
người dân bản địa.Đón khơng chỉ khách du lịch trong nước mà cịn cả khách nước
ngồi.
+ Phát triển du lịch gắn với tự nhiên, thiên nhiên,phát triển gắn với bảo tồn
và gìn giữ mơi trường, cảnh quan, khơng phá vỡ nét đẹp tự nhiên cũng như khai
thác những nét đẹp hoang sơ, hùng vĩ của núi rừng biên giới.


Mục tiêu của dự án

+ Phát triển khu du lịch thác Bản Giốc - động Ngườm ngao thành một điểm
du lịch quan trọng của quốc gia.
+ Xây dựng hoàn chỉnh các hạng mục, tạo điều kiện để du khách vui chơi ,
giải trí, nhằm phát huy tối đa tiềm năng của khu du lịch góp phần phát triển kinh
tế- xã hội của tỉnh.
+ Số lượng khách du lịch quốc tế trong những năm qua đã tăng lên trung

bình hàng năm từ 20-30%, và số lượng khách du lịch nội địa hàng năm cũng tăng
từ 25-35% .
3. Một Số hạng mục chính cần đầu tư
- Trong những năm qua do khơng có vốn đầu tư, tỉnh cùng đã đầu tư một số
hạng mục nhưng so với yêu cầu phát triển du lịch thì chưa khai thác được tiềm
năng du lịch để khai thác được tiềm năng thiên nhiên của Thác Bản Giốc và động
Ngườm Ngao tỉnh Cao Bằng kêu gọi các nhà đầu tư đẩu tư vào các hạng mục sau:
- Xây dựng các nhánh đường nội bộ đến chân thác, đỉnh thác, cầu qua suối.
Xây dựng bãi đỗ xe ở chân thác
- Xây dựng hệ thống khách sạn, nhà nghỉ, khu vui chơi, giải trí. Xây dựng các
cơng trình cấp điện, cấp nước

4


Địa điểm xây dựng nằm cách thị xã Cao Bằng khoảng 90 km trên Tỉnh lộ 206
thuận lợi về đường giao thông, cấp nước, cấp điện. Đây là một trong những thác
nước đẹp nhất Việt Nam.
4. Các chiến lược phát triển du lịch thác bản Giốc
Chiến lược phát triển du lịch: Xây dựng và phát triển Khu du lịch thác Bản
Giốc đáp ứng nhu cầu của cả khách du lịch nội địa và khách du lịch quốc tế. Đầu
tư xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật du lịch đạt chất lượng để thu hút ngày càng
nhiều hơn khách du lịch quốc tế đến tham quan, du lịch, trước hết là khách du lịch
quốc tế đến từ Trung Quốc, từ thành phố Hà Nội và các tỉnh phía Bắc.
Phát triển các sản phẩm du lịch gắn với các loại hình: tham quan thắng cảnh,
bản văn hoá các dân tộc, nghỉ cuối tuần, vui chơi giải trí, thể thao mạo hiểm và các
loại hình du lịch khác, trong đó chú trọng phát triển sản phẩm du lịch thể thiện
được đặc trưng riêng của du lịch Bản Giốc.
Đào tạo đội ngũ nhân lực, cũng như từng bước nâng cao hiểu biết của người
dân để bắt kịp với sự phát triển cũng như các loại hình dịch vụ đưa vào khai thác

du lịch cho hợp lí và phù hợp với bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc.

II. KIỂM KÊ, ĐÁNH GIÁ TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN DU
LỊCH THÁC BẢN GIỐC
1. Điều kiện tự nhiên
Cao Bằng là tỉnh nằm ở phía Đơng Bắc Việt Nam. Hai mặt Bắc và Đông Bắc
giáp với tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc), với đường biên giới dài trên 332 km.

1.1. Địa hình
Cao Bằng có diện tích đất tự nhiên 6.724,62 km2 , là cao nguyên đá vôi xen
lẫn núi đất, có độ cao trung bình trên 200 m, vùng sát biên có độ cao từ 600 - 1.300
m so với mặt nước biển. Núi non trùng điệp. Rừng núi chiếm hơn 90% diện tích
tồn tỉnh. Từ đó hình thành nên 3 vùng rõ rệt: Miền đơng có nhiều núi đá, miền tây
núi đất xen núi đá, miền tây nam phần lớn là núi đất có nhiều rừng rậm.
5


Ở đây có địa hình phức tạp, với 3miền địa hình chủ yếu:
 Miền địa hình Karstơ:
Chiếm diện tích ở hầu hết các huyện miền đông của tỉnh: Trà Lĩnh, Trùng
Khánh, Quảng Hồ, Hà Quảng, Thơng Nơng... Địa hình miền này rất phức tạp,
gồm các hệ thống dãy núi đá vôi phân cách mãnh liệt với các đỉnh nhọn dạng tai
mèo, gồ ghề lởm chởm cao thấp khác nhau, hang hốc tự nhiên nhiều. Có phương
kéo dài chung theo hướng tây bắc - đông nam. Xen kẽ các dãy núi là thung lũng
hẹp với nhiều hình, nhiều vẻ khác nhau.
 Miền địa hình núi cao:

Chủ yếu phân bố ở các huyện miền tây tỉnh (Nguyên Bình, Bảo Lạc, Thạch
An)và một phần diện tích phía nam Hồ An. Đáng chú ý nhất là:
+ Hệ thống núi cao Bảo Lạc - Nguyên Bình:

Bao gồm nhiều dãy núi cao kéo dài từ phía tây nam huyện Bảo Lạc qua phần
diện tích phía tây nam huyện Nguyên Bình, Với các đỉnh cao tiêu biểu: Phja dạ
(Bảo Lạc) 1.980 m so với mặt nước biển; Phja đén (Nguyên Bình) 1.428 m; Phja
Oắc (Nguyên Bình) 1.931 m. Cấu tạo nên hệ thống núi cao này là trầm tích của
điệp sơng Hiến và các đá macma xâm nhập axit - Grannit.
+ Hệ thống núi cao Ngân Sơn - Thạch An:
Bao gồm các hệ thống núi xếp theo dãy, kéo dài tà phía bắc - tây bắc huyện
Ngân Sơn (Bắc Cạn) qua thị trấn Ngân Sơn, Bằng Khẩu, qua phần diện tích phía
tây - tây bắc huyện Thạch An rồi vượt sang phía tây - tây nam tỉnh Lạng Sơn.Với
các đỉnh cao tiêu biểu: Pù Tang Lam 1.639 m so với mặt nước biển; Khau Pàu:
1.188m. Cấu tạo định hình này chủ ú là các đá trầm tích điệp sông Hiến và một
phần không đáng kể của trần tích Paleozoi sớm giữa (Pt1 và Pt2). Nhìn chung cả
hai hệ thống này đều có phương phát triển theo hướng tây bắc - đông nam với hệ
thống đường phân thuỷ nhiều vẻ khác nhau, song vẫn mang sắc thái phát triển của
tồn vùng.
 Miền địa hình núi thấp thung lũng:

Xen kẽ các hệ thống núi cao là các thung lũng, núi thấp sơng suối với những
kích thước lớn, lớn nhỏ hình thái nhiều vẻ khác nhau. Các thung lũng lớn như: Hồ
An, Ngun Bình, Thạch An, thung lũng sơng Bắc Vọng... Trong đó, đáng chú ý
hơn là thung lũng Hồ An - vựa lúa của tỉnh, nằm trùng với phần phía bắc của lịng
6


máng Cao Lạng, dài gần 30 km. Điểm bắt đầu từ Mỏ Sắt (Dân Chủ - Hoà An) kéo
dài hết xã Chu Trinh (Hoà An), chạy dọc theo đường đứt gãy Cao Bằng - Lạng
Sơn, bao gồm những cánh đồng phì nhiêu, tương đối bằng phẳng, xen giữa các
cánh đồng là đồi núi thấp sắp xếp không liên tục theo kiểu bát úp. Trong phạm vi
thung lũng này xuất hiện các mỏ khoáng sản: Sắt, fosphorit tập trung với trữ lượng
và chất lượng rất cao dễ tìm kiếm và khai thác. Ngồi ra các thung lũng khác cịn

chứa nhiều khống sản q...

1.2. Khí hậu
Cao Bằng có khí hậu nhiệt đới gió mùa với lượng mưa tương đối thấp và phân
bố khơng đồng đều (lượng mưa có chiều hướng tăng theo độ cao, giảm ở các thung
lũng bị chắn gió).
Khí hậu Cao Bằng có hai mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa bắt đầu
từ tháng 4 và kết thúc vào tháng 9 hằng năm, khí hậu chịu ảnh hưởng của gió mùa
đơng nam, một phần nhỏ của gió mùa tây nam và gió mùa đơng bắc. Nhiệt độ
trung bình vào mùa mưa là 20 - 240C, nhiệt độ cao nhất lên đến 40 - 420C vào các
tháng 6, 7, 8. Trong mùa mưa, lượng mưa trung bình vào khoảng 200 - 250 mm,
cao nhất lên đến 800 - 850 mm.
Mùa khô bắt đầu từ tháng 10 năm trước đến tháng 3 năm sau. Mùa này khí hậu
chuyển từ mát mẻ (nửa đầu mùa khô) sang giá lạnh (nửa cuối mùa khơ), hay có
sương mù, có vùng cịn xuất hiện sương muối. Gió mùa đơng bắc thường xun
thổi đến gây khơ và rét. Nhiệt độ trung bình mùa khơ vào khoảng 8 - 150C, nhiệt
độ thấp nhất xuống đến 3 - 50C. Vào mùa khơ, lượng mưa trung bình chỉ khoảng
20 - 40 mm, thấp nhất là 10 - 20 mm.

1.3. Thủy văn
Với một đặc điểm tự nhiên đồi núi phong phú, đa dạng, chiếm hơn 90% diện
tích của tỉnh, nên mạng lưới sông, suối, hồ tự nhiên khá nhiều, song phân bố không
đều. Hệ thống các con sông chảy theo hướng chính là Tây Bắc – Đơng Nam và Bắc
– Nam. Lưu lượng dòng chảy thay đổi theo mùa, mùa mưa thì dịng chảy lớn, mùa
cạn thì dịng chảy thấp. Gồm 3 hệ thống sơng chính là: Bằng Giang, Quây Sơn,
Sông Gâm, Bắc Vọng.
7


Hệ thống các con sông của Tỉnh Cao Bằng đều nhỏ, nhiều thác ghềnh, khả

năng phát triển giao thông đường thủy hạn chế, song có khả năng phát triển thủy
điện, là nguồn tài nguyên cung cấp nước sinh hoạt, cho sản xuất nơng nghiệp rất
dồi dào.
Về hệ thống ngịi, hồ ở Cao Bằng có hai hồ tự nhiên là hồ Đồng Mu, xã Xuân
Trường, huyện Bảo Lạc; hồ Thang Hen ở huyện Trà Lĩnh. Ngồi ra cịn có một số
hồ nhân tạo như: Hồ Khuổi Lái, Nà Tấu, Phja Gào huyện Hòa An; hồ Trung Phúc,
hồ Bản Viết ở huyện Trùng Khánh; hồ Thơm Lng ở huyện Ngun Bình…
Hệ thống các con suối có hàng ngàn con, là phụ lưu của các hệ thống sông của
tỉnh, phân bố dày đặc, là tài nguyên quý giá trong đời sống sản xuất của đồng bào
các dân tộc ở các vùng thượng lưu, rẻo cao, biên giơi. Tuy nhiên dòng chảy nhỏ
thấp, mùa khơ có nhiều con suối bị cạn kiệt, mùa mưa lũ thì nước đổ về sối sả gây
tác hại cho sản xuất và đời sống nhân dân. Chế độ thủy văn thất thường này luôn là
sự quan tâm thường trực của các cấp, các ngành và nhân dân tỉnh Cao Bằng.

1.4. Thổ nhưỡng
Đất đai của Cao Bằng được chia làm 3 nhóm đất chính với 24 loại đất khác
nhau.
 Nhóm đất núi phân bố ở độ cao trên 900 m so với mực nước biển, phân bố
chủ yếu ở khu vực có địa hình dốc.
 Nhóm đất đồi với màu sắc đặc trưng là đỏ vàng phân bố trên vùng đồi, núi
thấp hoặc khu vực địa hình lượn sóng.
 Nhóm đất bằng - thung lũng hẹp phân bố xen kẽ giữa những vùng núi hoặc
trong lòng máng ven các con sơng.

1.5. Sinh vật.
Cao Bằng có núi, rừng, sơng, suối trải dài hùng vĩ, bao la, thiên nhiên còn
nhiều nét hoang sơ, nguyên sinh.
Cao Bằng là nơi có luồng sinh vật di cư, quan trọng nhất từ Hoa Nam xuống và
từ Hymalaia sang. Có nhiều rừng già nguyên sinh, hệ sinh thái rừng nhiệt đới, điển
hình các lồi động – thực vật . đáp ứng phát triển du lịch sinh thái , giáo dục bảo vệ

cảnh quan môi trường.

2. Tài nguyên du lịch
8


Cao Bằng là tỉnh có nhiều tài nguyên thuận lợi cho sự phát triển của du lịch. Là
tỉnh biên giới địa đầu tổ quốc, Cao Bằng sở hữu nhiều danh lam thắng cảnh đặc
sắc; lại là nơi cư trú đông đúc của các dân tộc thiểu số do đó có rất nhiều lễ hội độc
đáo có thể khai thác để xây dựng mơ hình du lịch bền vững.

2.1. Tài ngun du lịch tự nhiên
Với các điều kiện tự nhiên thuận lợi đã tạo điều kiện cho Cao Bằng có nhiều
địa điểm du lịch tự nhiên khá nổi tiếng và đã được đưa vào khai thác, đưa lại nhiều
tiềm năng lớn cho tỉnh và người dân ở nơi đây.
a. Thác Bản Giốc:
Thác Bản Giốc được xem là một trong những tặng vật vô giá mà thiên nhiên
ban tặng cho Cao Bằng. Đó là một thác nước cao, hùng vĩ và đẹp vào bậc nhất của
Việt Nam. Thác nằm trên biên giới Việt – Trung, thuôc xã Đàm Thủy, huyện Trùng
Khánh, cách thị xã Cao Bằng 89km theo tỉnh lộ 206 về phía bắc, cách thị trấn
Trùng Khánh 26km.
Sau dịng thác là dịng sơng Qy Sơn dịng nước trong xanh. Bờ sơng với cảnh
quan đẹp nên thơ, trong lành với thảm cỏ, rừng núi xanh ngắt, mây trắng bồng
bềnh. Bên kia sông là nước láng giềng Trung Quốc. Với độ cao 53cm, rộng 300m,
thác có 3 tầng gồm nhiều ngọn thác lớn nhỏ khác nhau. Những khối nước lớn đổ
xuống qua nhiều bậc đá vôi, tạo thành một màn bụi nước trắng xóa. Ngay từ xa, du
khách đã có thể nghe thấy tiếng ầm ào của thác vang động cả một vùng rộng lớn.
Giữa thác có một mơ đá rộng phủ đầy cây đã xẻ dịng sơng thành 3luồng nước như
3 dải lụa trắng. Vào những ngày hè nắng nóng, khơng khí ở đây vẫn mát lạnh, mỗi
buổi sáng khi ánh mặt trời chiếu qua làn hơi nước tạo thành dải cầu vồng lung linh

huyền ảo. Thác Bản Giốc với những vẻ đẹp, ưu thế riêng. Hiện tại thác cũng được
tỉnh đầu tư phục vụ khách đến với thác Bản Giốc, nơi đây ngày càng thu hút nhiều
khách tham quan.
b. Động Ngườm Ngao.
Động Ngườm Ngao là một động lớn được hình thành từ sự phong hố lâu đời
của đá vơi. Động nằm trong lịng núi đá vơi cách Thác Bản Giốc 3km, thuộc bản
Gun, xã Đàm Thuỷ, huyện Trùng Khánh. Theo số liệu khảo sát của đội khảo sát
Hoàng gia Anh năm 1995, động Ngườm Ngao có chiều dài 2.144m, gồm 3 cửa
chính, phong cảnh động rất đẹp với những dải thạch nhũ đá đa sắc trải khắp chiều
dài động.
9


Bước vào động ta như bước vào một thế giới kỳ ảo, chống ngợp trước những
dải thạch nhũ mn màu mn sắc từ trên các vịm đá cao rủ xuống. Thiên nhiên
đã khoé léo tạo nên những tượng đá quyến rũ với nhiều kiểu dáng khác nhau, có
tượng đá mang dáng dấp hình người, có tượng giống cây rừng, giống súc vật như
trong chuyện thần thoại, đặc biệt trong hang có rất nhiều nơi ví như một căn phịng
“trướng rủ màn che” với nàng tiên đang nghiênh mình chải tóc, và cả dáng vẻ của
một ông tiên hiền từ, rồi búp xen khổng lồ, cột chống trời… các nhũ đá như mọc từ
dưới lên, thả từ trên xuống, nhữ nằm ngang, nhũ thẳng đứng, nhũ to, nhũ nhỏ
chồng lên nhau, đan xen vào nhau tất cả tạo nên vẻ đẹp huyền ảo, cuốn hút lòng
người.
Động Ngườm Ngao với vẻ hoang sơ, quyến rũ mang đậm sắc thái Việt Bắc đã
được Bộ Văn hố - Thơng tin cơng nhận là danh thắng quốc gia đã và đang thu hút
rất nhiều du khách trong và ngoài tỉnh đến tham quan.
c. Hồ núi Thang Hen.
Hồ Thăng Hen thuộc địa phận huyện Trà Lĩnh, cách thị xã Cao Bằng 25km, hồ
hình thoi, chiều dài khoảng 3000m, chiều rộng hơn 1000m, gồm 36 hồ đẹp trên
đỉnh núi cao, cách mặt biển hàng nghìn mét.

Nơi đây phong cảnh sơn thuỷ hữu tình với những hàng cây xanh vươn mình
trên vách đá cheo leo, soi bóng xuống mặt nước xanh ngát, uốn vòng theo lòng
thung lũng mấp mô những mỏm đá ngầm, hàng ngày mực nước ở hồ luôn biến đổi
thường dâng lên hoặc giảm xuống. Hiện nay Hồ Thăng Hen đã có nhà nghỉ, và
đang được tỉnh quan tâm, đầu tư, xây dựng để trở thành điểm du lịch sinh thái,
nghỉ mát lý tưởng đối với du khách trong và ngoài nước.Năm 2002 Hồ Thăng Hen
đã được Bộ Văn hố thơng tin cơng nhận là khu du lịch sinh thái của tỉnh Cao
Bằng.
d. Phia Đén.
Vùng Phia Đén – Phia Oắc bao gồm các xã Thành Công, xã Phan Thanh, xã
Quang Thành và thị trấn Tĩnh Túc huyện Ngun Bình.
Đặc điểm:
+ Phia Đén nằm ở vị trí giao lưu của nhiều tuyến đường giao thông và là nơi
đầu nguồn của nhiều con sơng, có địa hình núi cao, nhiều hang động, và vẫn cịn
giữ được diện tích rừng nguyên sinh. Huyện Nguyên Bình là một huyện miền núi
vùng cao nằm ở phía tây của tỉnh Cao Bằng, cách Hà Nội 240km có nguồn tài
nguyên du lịch giá trị với tổng diện tích tự nhiên của tồn vùng là 24.631ha.
+ Là vùng sinh thái đặc thù với nhiều tiềm năng chưa được khai thác đã tạo cho
Phia Đén - Phia Oắc nhiều lợi thế để phát triển kinh tế, du lịch đặc biệt là du lịch
10


sinh thái. Hệ sinh thái đa dạng có tính sinh học rất cao với nhiều loại động thực vật
quý hiếm như hà thủ ô đỏ, tam thất, gà đen, các loại rau quả ôn đới, các loại côn
trùng dùng cho nghiên cứu khoa học và sưu tập...
Thiên nhiên đã ban tặng cho vùng Phia Đén-Phia Oắc một mơi trường khí hậu
mát mẻ trong lành, với độ cao từ 1500m -2500m so với mặt biển, nhiệt độ trung
bình từ 18-25ºC, thảm thực vật phong phú lại có rất nhiều sản vật quý hiếm đã tạo
tiền đề quan trọng cho phát triển nhiều loại hình du lịch khác nhau như: du lịch
sinh thái, du lịch văn hố...

Nơi đây vẫn cịn lưu giữ một số địa danh nghỉ mát của người Pháp được nhiều
người biết đến như: khu nhà nghỉ mát cuối tuần của người Pháp (Tài Soỏng), khu
nhà Đỏ (Tatsloom). Đồng bào dân tộc sinh sống nơi đây chủ yếu là dân tộc Dao có
nền văn hóa phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc, có cấu trúc nhà ở và ngành nghề
riêng biệt. Đến với Phia Đén-Phia Oắc chúng ta được tận mắt chứng kiến nét hùng
vĩ, được thưởng thức và thăm thú phong cảnh thiên nhiên, mang đậm nét hoang sơ
của vùng núi tươi đẹp này.

2.2. Tài nguyên du lịch nhân văn
Cao Bằng là mảnh đất anh hùng, nơi lưu giữ nhiều di tích cách mạng gắn liền
với cơng cuộc bảo vệ đất nước chống ngoại xâm. Đồng thời là địa danh có sự giao
thoa lớn về văn hóa giữa các tộc người.

2.2.1. Di tích cách mạng
Khu di tích anh hùng liệt sĩ Kim Đồng
Kim Đồng (tên thật là Nông Văn Dền) sinh tại làng Nà Mạ, xã Trường Hà,
huyện Hà Quảng. Ngày 15/5/1941, đồng chí Đức Thanh là cán bộ cách mạng quyết
định thành lập Đội nhi đồng cứu quốc tại làng Nà Mạ, gồm có 4 đội viên: Kim
đồng, Cao Sơn, Thanh Thuỷ, Thuỷ Tiên do Kim Đồng làm đội trưởng.
Tháng 8/1942, Kim đồng vinh dự được gặp Bác Hồ tại hang Nộc Én ở trên núi
sau làng Mà Mạ. Bác khen ngợi đội trưởng Kim Đồng mưu trí, nhanh nhẹn, dũng
cảm. Bác khuyên Kim Đồng cùng đội viên hãy giúp đỡ, tích cực bảo vệ cách
mạng, vừa hoạt động vừa học văn hố, chính trị để sau này nước nhà giành được
độc lập, góp phần xây dựng đất nước; 5 giờ sáng ngày 15/2/1943, trong lúc đang
làm nhiệm vụ canh gác cuộc họp của ban Việt Minh, khi phát hiện giặc lùng sục
đến gần, Kim Đồng đã nhanh trí đánh lạc hướng để bảo vệ cán bộ cách mạng, địch
nổ súng anh bị trúng đạn và đã hy sinh, khi đó Kim Đồng vừa trịn 14 tuổi (1929 1943).
a.

11



Kim Đồng đã được Đảng và nhà nước phong tặng anh Hùng liệt sỹ năm 1997.
Khu di tích Kim Đồng được xây dựng ngay trên quê hương anh tại Làng Nà Mạ,
xã Trường Hà, huyện Hà Quảng.
Khu di tích được xây dựng gồm có Mộ anh Kim Đồng và tượng đai Anh khang
trang tại chân Rặng núi đá cao đồ sộ, bên cạnh rừng cây nghíên xanh biếc, ln toả
bóng mát với những làn gió vi vu, như ru anh yên nghỉ.
Tượng đài anh Kim Đồng với bộ quần áo nùng và tay nâng cao con chim bồ
câu đưa thư, trước tượng đài có 14 bậc đá và 14 cây lát vươn cao xanh ngắt. Nơi
đây có một khoảng sân rộng, hàng năm thiếu niên và Nhi đồng của tỉnh Cao Bằng,
cả nước thường tụ hội tại đây cắm trại, vui chơi ca hát.
Khu di tích chủ tịch Hồ Chí Minh
Cách thị xã Cao Bằng 60 km, đi theo đường quốc lộ số 4, du khách sẽ đến khu
di tích, đây là một trong nhiều khu di tích trên đất Cao Bằng, gắn liền với sự
nghiệp hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, với chiến thắng Chiến
dịch Biên giới năm 1950, tại Nà Lạn, xã Đức Long huyện Thạch An do Bộ Tư lệnh
Quân Khu, Quân khu I, quân khu II và tỉnh Cao Bằng phối hợp xây dựng. Khu di
tích được đưa vào sử dụng ngày 19/05/2004, thể hiện đạo lý cao cả ”Uống nước
nhớ nguồn “ đối với vị lãnh tụ thiên tài, vị cha già kính u của dân tộc.
Khu gồm có hai phần: Nhà tưởng nịêm, được thiết kế với kiến trúc nhà sàn
hiện đại, trưng bày những hình ảnh, hiện vật liên quan tới hoạt động của Bác trong
chiến dịch và Cụm tượng đài Bác Hồ ngồi quan sát trận đánh trên núi Báo Đơng,
với hình ảnh mơ phỏng theo bức ảnh của nghệ sỹ Vũ Năng An chụp, làm bằng vật
liệu compozit giả đồng, cao 2.8 m, nặng 418 kg, cột bê tơng cốt thép, tồn bộ bức
tượng đặt trên bệ đá ốp gạch lát hoa, để được đặt chân đến tượng đài trên núi Báo
Đông bạn đi qua 845 bậc đá, được chia thành 79 cung bậc, tượng trưng cho 79 mùa
xuân của Bác. Tại đây du khách được ngắm nhìn tư thế ung dung, lạc quan của vị
Chủ tịch nước có một khơng hai trên thế giới trực tiếp ra mặt trận chỉ huy trận
đánh, đó là trận đánh đồn Đông Khê trên đường số 4 Cao Bằng – Lạng Sơn, ngày

16/09/1950 đã giành thắng lợi vẻ vang, mở màn cho chiến thắng Chiến dịch Biên
giới năm 1950, tạo tiền đề cho cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Tại đài quan
sát, Bác đã làm một bài thơ nổi tiếng về khí thế và miền tin tất thắng của dân tộc:
“Chống gậy lên non xem trận địa
Vạn trùng núi đỡ vạn trùng mây
Quân ta khí mạnh nuốt ngưu đẩu
Thề diệt xâm lăng lũ sói cầy.”
b.

12


Đến nơi đây bạn cịn được ngắm nhìn sắc phục áo chàm của những thiếu nữ
dân tộc Tày, nghe làn điệu dân ca, sil lượn, thưởng thức các món ăn đặc sản của
đồng bào các dân tộc mến khách, hoà quyện với núi rừng, thiên nhiên và những đổi
thay trên quê hương cách mạng, nơi đã in đậm dấu chân Bác Hồ trong những ngày
đầu kháng chiến của dân tộc.
Di tích Pắc Bó.
Di tích Pắc Bó thuộc xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng, cách Tx.
Cao Bằng 55km về phía bắc.
Pắc Bó có hang Cốc Bó được Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn làm nơi ở sau hơn
30 năm bơn ba ở nước ngồi trở về Tổ quốc (08/02/1941) để trực tiếp lãnh đạo
cách mạng Việt Nam.
Các di tích ở khu này gồm có:
+ Hang Bo Bam, bãi Cị Rạc, Hang Cốc Bó
+ Suối Lê-nin, núi Các Mác.
+ Suối Nậm: Nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp huấn luyện cán bộ và tổ chức
nhiều cuộc họp quan trọng của Trung ương.
c.


Ði trên những tảng đá nhám rêu phong dọc bờ suối là nơi Bác Hồ thường ngồi
làm việc và câu cá sẽ đến một chiếc cầu gỗ bắc ngang cửa khe Cốc Bó. Ðây là nơi
khởi nguồn của suối Lê-nin. Hang Pắc Bó hiện ra bên sườn núi đá lởm chởm.
Ðứng ngồi cửa hang nhìn xuống, trên vách đá tranh tối tranh sáng còn thấy được
dòng chữ của Người: "Ngày 8 tháng 2 năm 1941". Ðấy là ngày Bác đến ở hang
này, một cái hang nhỏ, ẩm và lạnh, nằm sâu trong khe núi, chẳng mấy ai để ý tới.
Phía trước cửa hang Pắc Bó khoảng 1.000m, có một lán nhỏ bên sườn núi Khuổi
Nậm. Nơi đây Bác Hồ triệu tập Hội nghị Trung ương lần thứ Tám, ra nghị quyết
chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa, thành lập Việt Minh và Chiến khu cách mạng. Cách
cái lán nhỏ này vài bước chân là đường biên giới Việt Trung - cột mốc 108. Nơi
đây, Bác Hồ đã cúi xuống ôm hôn mảnh đất Tổ quốc thân thương sau bao năm xa
cách. Khi đó Bác đã 50 tuổi, mái tóc đã pha sương.
Thăm khu di tích lịch sử này, du khách hiểu sâu sắc hơn về cuộc đời vĩ đại của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, để rồi trong ký ức họ sống mãi những vần thơ lạc quan
cách mạng của Người:
"Sáng ra bờ suối, tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
13


Bàn đá chông chênh dịch sử Ðảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang".

Khu di tích lịch sử rừng Trần Hưng Đạo – nơi thành lập đội Việt Nam tuyên
truyền giải phóng qn
Khu di tích lịch sử rừng Trần Hưng Đạo thuộc xã Tam Kim, huyện Nguyên
Bình, nằm ở hướng Tây Nam cách thị xã Cao Bằng 50km.
Khu rừng là khu di tích nơi đây đã ghi dấu ấn truyền thống trong lịch sử dân
tộc, đó là nơi thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân - tiền thân của
Quân đội Nhân dân Việt Nam (22/12/1944). Đội gồm 34 chiến sỹ được chọn lọc

trong hàng ngũ các đội du kích Cao - Bắc - Lạng, đó là những chiến sỹ kiên quyết,
hăng hái, đội do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy. Đây là một bước ngoặt quan
trọng trên con đường đấu tranh cách mạng của dân tộc và của Quân đội Nhân dân
Việt Nam.
Ngay khi mới thành lập, đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã dành
thắng lợi trận Phai Khắt ngày 25/12/1944 và trận Nà Ngần ngày 16/12/1944, mở
đầu truyền thống đánh thắng trận đầu, chỉ sau một tuần đội đã nhanh chóng phát
triển thành đại đội. Từ đó đến nay dưới sự lãnh đạo của Đảng và của Chủ tịch Hồ
Chí Minh vĩ đại, quân đội ta ngày càng lớn mạnh lập nên những chiến công hiển
hách, sát cánh cùng nhân dân chiến đấu giải phóng hồn tồn đất nước và bảo vệ
thành quả cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Từ Phai Khắt vào Khu di tích rừng Trần Hưng Đạo chỉ mất một quãng đường
ngắn. Ngay dưới chân núi đã dựng một nhà bia tưởng niệm. Một số cứ liệu lịch sử
về “Lễ thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân” và tên của 34 đội
viên được khắc lên tấm bia bốn mặt, đặt chính giữa nhà tưởng niệm... Từ chân núi,
có những bậc xi măng leo lên đỉnh Slam Cao - là đỉnh cao nhất trong dãy Khau
Giáng. Hai bên đường lá khô rụng dày thành thảm. Khu rừng này vẫn giữ được vẻ
hoang sơ. Lên đến đỉnh là vạt đất bằng phẳng, có dựng một cột cờ và tấm bia ghi
dấu nơi đã từng đặt đài quan sát đồn Phai Khắt của Đội Việt Nam tuyên truyền giải
phóng quân.
Rừng Trần Hưng Đạo là khu rừng nguyên sinh vẫn giữ được vẻ hoang sơ, khí
hậu mát mẻ quanh năm, nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 15-20 độ C. Khung
d.

14


cảnh thiên nhiên nơi đây rất lý tưởng cho các chương trình nghiên cứu, du lịch sinh
thái đối với du khách trong và ngồi nước.
Di tích Đơng Khê

Khu di tích Đông Khê thuộc huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng.
Tháng 8 năm 1950, Bác Hồ đã trực tiếp ra mặt trận chỉ huy trận đánh đồn Đông
Khê, mở màn cho chiến thắng chiến dịch Biên giới thu - đông năm 1950, tạo tiền
đề cho cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Chiến dịch đồn Đông Khê vang dội
cùng những tấm gương dũng cảm đã vào sử sách như Lý Viết Mưu, La Văn Cầu,
Trần Cừ… thể hiện sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân ta trong kháng
chiến.
Cụm di tích Đơng Khê, đường số 4 có một điểm di tích đặc biệt là núi Báo
Đơng, nơi đây Bác Hồ trực tiếp quan sát chỉ huy mặt trận biên giới. Đường lên núi
có 845 bậc đá chắc chắn được chia thành 79 cung bậc, tượng trưng cho 79 mùa
xuân của Bác. Trên đỉnh là tượng đài Bác ngồi quan sát trận đánh. Tượng Bác cao
2,8m, nặng 418 kg, toàn bộ bức tượng đặt trên bệ đá ốp gạch lát hoa. Đứng trên núi
Báo Đơng có thể nhìn thấy phong cảnh thị trấn Đông Khê.
f. Đền Vua Lê
Đền Vua Lê nằm ở phía Tây Bắc, cách trung tâm thị xã Cao Bằng 11km, thuộc
làng Đền, xã Hoàng Tung, huyện Hoà An.
Đền được xây dựng trên một gị đất cao phía bắc thành Nà Lữ. Đền thờ vua Lê
Thái Tổ (tức Lê Lợi Cao Hồng Đế).Trong thành Nà Lữ có bốn gị đất nổi lên được
các triều đại phong kiến đặt tên cho 4 gò là Long, Ly, Quy, Phượng. Giữa thành có
ao sen và ruộng bàn cờ. Dưới triều đại phong kiến đền vừa là cung điện, vừa là
trung tâm hoạt động kinh tế - văn hoá, quân sự của các vua quan.
Trước Cách mạng Tháng tám và trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, đền
vua Lê cũng là một di tích lịch sử gắn liền với những hoạt động của Đảng ta trong
thời kỳ vận động cách mạng dân tộc, dân chủ. Tại đây đồng chí Hồng Đình Giong
đã đứng ra thành lập “Đoàn thanh niên phản đế” (năm 1936).
Hiện nay, đền Vua Lê được xem là một di tích có giá trị đặc biệt về mặt kiến
trúc nghệ thuật và là nơi tập trung lễ hội, sinh hoạt văn hoá, văn nghệ của nhân dân
nơi đây. Lễ hội đền vua Lê được tổ chức vào ngày mùng 6 tháng Giêng âm lịch.
e.


2.2.2. Lễ hội
Hội mời Mẹ Trăng
Thời gian: Hội tổ chức vào đầu mùa xuân sau tết Nguyên Đán kéo dài từ 10
đến 15 ngày. Hội chỉ mở riêng trong từng bản, hoặc có mời thêm một số người
thân từ các bản lân cận cùng tham gia.
a.

15


Đối tượng suy tôn: Mẹ Trăng
Đặc điểm:
Đây là lễ hội của dân tộc Tày mang mục đích cầu Mẹ Trăng ban điều lành, điều
tốt cho dân bản, mùa màng bội thu, gia súc sinh sôi, không bị dịch bệnh... Mọi nhà
trong bản đều nô nức tham gia lễ hội bắt đầu bằng lễ dâng hoa rồi đến “lượn hai”
(ca hát) để tiễn hồn đoàn người trần gian lên cung trăng đón mời Mẹ Trăng xuống
đất. Khơng khí hội như trộn lẫn giữa thực tại và huyền ảo trong mối giao lưu tình
cảm giữa người trần tục và người cõi tiên của tiết trời xuân. Trong thời gian diễn ra
lễ hội có nhiều trị chơi dân gian như chọi gà, đánh quay, đánh yến... Kết thúc lễ
hội là lễ tiễn trăng về trời diễn ra ngoài đồng. Cuối cùng, mọi người cùng nhau
dùng bữa cơm vui hội của bản làng.
Hội Thanh Minh
Thời gian: Tháng 3 âm lịch
Địa điểm: Xã Phúc Sen, huyện Quảng Uyên
Đặc điểm: Hội Thanh Minh là lễ hội của dân tộc Nùng với ý nghĩa cầu mùa
cho bản và cầu phúc cho lứa đôi. Hội gắn liền với truyền thuyết về đôi trai gái yêu
nhau nhưng không lấy được nhau và cả hai đã tự vẫn dưới giếng. Cảm thương
trước mối tình ấy, dân bản đã lập miếu thờ và cứ mỗi dịp tiết thanh minh các đôi
trai gái lại tới miếu dâng hoa cúng lễ.
b.


Hội pháo hoa Quảng Uyên
Thời gian: 1-2/2 âm lịch.
Địa điểm: Miếu Bách Linh, thị trấn Quảng Yên.
Đối tượng suy tôn: Thần rồng, một trong tứ linh “Long, Ly, Quy, Phượng”.
Đặc điểm: Lễ tế, Lễ rước thần, múa rồng, múa kỳ lân, tung còn, hát lượn, chơi
đu, đặc biệt là trò chơi cướp đầu pháo.
c.

Hội chùa Đà Quận
Thời gian: Mùng 6 đến 15/1 âm lịch.
Địa điểm: Hội được tổ chức ở hầu hết các đền, chùa trong tỉnh, đặc biệt là ở
huyện Hòa An và thị xã Cao Bằng.
Đặc điểm: Đây là lễ hội cúng thần, cúng Phật, cầu phúc, cầu may, tưởng nhớ
các bậc vĩ nhân đã có cơng giúp đỡ, bảo vệ nhân dân trong vùng. Một số hội chính
như hội đền vua Lê (tổ chức vào ngày mùng 6 tháng giêng), hội chùa Đà Quận
(mùng 9 tháng giêng), hội đền Kỳ Sầm (mùng 10 tháng giêng) và hội chùa Sùng
Phúc (15 tháng giêng). Ngồi các trị chơi thi ném cịn, đánh đu, hội còn là dịp để
mọi người đi vãn cảnh đầu xuân, hái lộc năm mới.
d.

16


f. Lễ hội Lồng Tồng
Là lễ hội quan trọng nhất trong năm của đồng bào người Tày, Nùng, được tổ
chức từ ngày mồng 4 đến ngày mồng 10 tháng giêng. Sau những ngày vui xuân
chấm dứt, các bản làng người Tày lại nhộn nhịp chuẩn bị cho lễ hội Lồng Tồng.
Gắn liền với nền nông nghiệp trồng trọt, lễ hội Lồng tồng được tổ chức nhằm gửi
gắm những mong ước của con người, cầu cho mưa thuận gió hồ, mùa màng bội

thu, đời sống luôn no ấm.
Lồng Tồng theo tiếng Tày – Nùng hay Lồng Tộng theo tiếng Dao có nghĩa là
xuống đồng. Đây là một lễ hội mang đậm dấu ấn của nền sản xuất nông nghiệp từ
phần nghi lễ khi hội, các nghi thức, sản vật dân cúng đến các trò chơi trong lễ hội.
Sau khi thức dân hương kính cáo các vị thần, chủ lễ vạch một đường cày đầu
năm, bắt đầu cho cuộc sống nông tang, cày bừa, cấy hái. Dù được tổ chức với quy
mô lớn hay nhỏ, phần lễ vẫn giữ nguyên các nghi thức từ xa xưa. Mở đầu bằng lễ
cầu mùa: thày cúng đọc các bài khấn và thực hiện nghi thức tạ thiên địa, cầu thần
nông, thần núi, thần suối và Thành hoàng, những vị thần bảo hộ cho mùa màng và
sức khoẻ, sự bình yên của dân làng.
Trong lễ hội, mỗi sản vật được dâng cúng đều mang một ý nghĩa thể hiện sự
giao hoà của trời đất, thành quả của lao động. Lễ vật chung của dân bản gồm một
bát nước, một đĩa xôi đỏ, một đĩa xôi vàng, một con gà luộc, một xâu cá nướng,
một bát tiết luộc, một con dao nhọn, một bó vải mới dệt, hai con cá bằng giấy màu
vàng, hai con chim cú bằng giấy màu đỏ, hai chùm hoa bằng bỏng gạo cắm trên bẹ
chuối, hai chùm quả của cây bồ đao. Xôi đỏ tượng trưng cho mặt trời, xôi vàng
tượng trưng cho mặt trăng, chùm quà của cây bồ đao tượng trưng cho hạt gạo…

17


Đặc biệt, mâm cỗ cúng của các gia đình cịn có thêm đơi quả cịn với tua rua
nhiều màu sắc sặc sỡ rất đẹp. Tất cả đều là những biểu hiện của sự sinh sôi nảy nở
và gửi gắm những ước mơ khát khao về cuộc sống ấm no an lành. Một hồi chiêng
vang lên, thày mo thắp hương, đọc lời khấn và bắt đầu những nghi lễ. Thày mo tay
cầm nậm nước làm bằng vỏ bầu khô (do các thiếu nữ đẹp nhất, còn trinh trắng của
các bản mường lấy về từ đầu nguồn) ngửa mặt lên trời cầu khấn rồi vảy nước ra
khắp bốn phương. Đó cũng là thứ nước tượng trưng cho nước thiêng từ Mường trời
tưới xuống nhân gian cho cây cối tươi tốt, cho mùa màng sinh sôi, cho cuộc sống
ấm no.

Các hoạt động trong lễ hội là những sinh hoạt văn hoá dân gian hết sức cuốn
hút. Đó là hội tung cịn, thi hát Sli, hát Lượm, cùng nhiều trò chơi như đi cà kheo,
đánh quay, đánh yến, đá cầu, đẩy gậy, đánh đu, chọi gà… Trị ném cịn ln là tâm
điểm của ngày hội này. Để chuẩn bị cho hội tung còn ở giữa đám đông lớn, người
ta dựng một cây mai cao làm cột, trên đỉnh cột có uốn vịng trịn đường kính
khoảng 50 – 60 cm dán giấy mỏng màu hồng, hai mặt tượng trưng cho Âm –
Dương. Tung còn đòi hỏi cả sức khoẻ và sự khéo léo. Khi quả còn được tung lên,
ném trúng vòng tròn và xuyên thủng làm rơi giấy là âm – Dương giao hoà, cuộc
sống sẽ sinh sôi, mùa màng sẽ bội thu. Người con gái nào bắt được quả cịn thì
năm đó sẽ gặp may mắn trong đường nhân duyên. Việc tung còn trúng vịng trịn,
xun thủng và rơi giấy âm dương có ý nghĩa rất quan trọng, coi như lời cầu
nguyện linh ứng, coi như lễ hội đã thành cơng. Vì thế, nếu ném cịn mà khơng
thủng, khơng rơi thì phải dùng tên bắn để giấy Âm – Dương rơi xuống.
Những nghi lễ độc đáo, những trò chơi hấp dẫn đầy ý nghĩa trong lễ hội Lồng tồng
luôn là những yếu tố thu hút khách du lịch gần xa. Vì thế vào dịp năm mới khắp
vùng núi phía Bắc nói chung và Cao Bằng nói riêng ln tấp nập du khách gần xa.
Lễ hội Lồng tồng luôn để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng những ai đã từng tham dự,
18


khiến họ khi trở về luôn mang theo nỗi nhớ khó quên hoặc sự tiếc nuối để hẹn lại
mùa xuân năm sau.
 Các lễ hội dân gian truyền thống ở Cao Bằng tổ chức chủ yếu ở quy mô
làng xã và mang đậm nét văn hoá của các dân tộc. Các lễ hội này được tổ chức
theo nghi lễ truyền thống, các trị chơi dân gian được khơi phục, kết hợp với các
hoạt động văn hố thể thao như bóng đá, bóng chuyền, văn nghệ quần chúng,… đã
tạo thêm nét tưng bừng cho ngày hội. Mỗi địa phương tuy cùng một chủ đề lễ hội,
nhưng do điều kiện tự nhiên, xã hội, văn hoá khác nhau nên cách thức tổ chức các
lễ hội cũng khác nhau. Điều đó càng làm tăng thêm sự đa dạng, phong phú cho
các loại hình lễ hội ở Cao Bằng. Đồng thời lễ hội cũng là nơi bảo tồn, giữ gìn

những giá trị của văn hoá, nghệ thuật truyền thống. Những câu hát Then, điệu hát
Sli, Lượn, Phongslư, Dá Hai, Hà Lều… với những giai điệu ngọt ngào, da diết
cùng những trò chơi dân gian thực sự hấp dẫn là những tiềm năng du lịch văn hố
rất lớn của vùng đất Cao Bằng.
Do đó, ngành du lịch Cao Bằng cần có những giải pháp cụ thể và một kế
hoạch đầu tư dài hạn nhằm khai thác những tiềm năng du lịch trở thành những
sản phẩm du lịch, điểm hẹn du lịch hấp dẫn.

2.2.3. Làng nghề.
Làng rèn Phúc Sen.
Làng rèn Phúc Sen thuộc xã Phúc Sen, huyện Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng
Làng rèn Phúc Sen là một làng nghề truyền thống nổi tiếng của tỉnh Cao Bằng, đã
hình thành và phát triển cách đây khoảng hơn 1.000 năm.
Phúc Sen là một vùng sơn cước, vùng núi đá. Bước chân vào làng, ở đâu cũng
thấy lò rèn. Những lị rèn đã góp phần đáng kể trong đời sống hàng ngày không
những cho người dân nơi đây mà còn phục vụ cho cư dân ở nhiều vùng lân cận.
Sản phẩm nghề rèn của làng làm ra là các cơng cụ cầm tay có chất lượng cao phục
vụ cho cuộc sống hàng ngày. Điều đặc biệt, những công cụ bằng sắt thép được tạo
nên ở đây, không phải bằng những lò luyện kim cao tần mà chỉ sử dụng các lị rèn
thủ cơng, bằng mắt, bằng đơi bàn tay cùng kinh nghiệm lâu năm trong nghề.
a.

19


Người thợ rèn có thể xác định được độ chín của từng sản phẩm trong lò than để
kịp đem nhúng vào chậu nước bên cạnh bễ thụt hơi. Chỉ như vậy mà những con
dao quắm, cái rìu, cái kéo đều đạt độ cứng, dộ dẻo cần thiết phù hợp với cơng dụng
của nó. Những cơng cụ cầm tay của làng nghề Phúc Sen có mặt ở nhiều chợ trong
và ngồi tỉnh Cao Bằng, được bà con trong vùng rất tin dùng.

b. Làng nghề dệt thổ cẩm của người Tày
Không ai rõ nghề dệt thổ cẩm của người Tày Cao Bằng có từ bao giờ, mà chỉ
biết những tấm vải thổ cẩm họ dệt ra từ lâu đã nổi tiếng với hoa văn đẹp mắt, mang
đậm sắc thái dân tộc.
Nguyên liệu chính để dệt thổ cẩm là sợi bơng nhuộm chàm và tơ tằm nhuộm
màu. Tuy nhiên, do giá tơ tằm đắt nên ngày nay người dệt thổ cẩm dùng len có chi
phí thấp hơn để thay thế. Quy trình dệt thổ cẩm hồn tồn thủ cơng và chính đơi
tay khéo léo và sự nhẫn nại của người phụ nữ Tày mà những tấm thổ cẩm nên hình
nên dạng vơ cùng đặc sắc. Từ những tấm thổ cẩm tự tạo ấy người phụ nữ Tày may
thành mặt chăn, mặt địu, khăn trải giường và nhất là những bộ trang phục đặc sắc
của dân tộc. Ở Cao Bằng, nghề dệt thổ cẩm phát triển mạnh ở xã Đào Ngạn, Phù
Ngọc (huyện Hà Quảng) và khu vực thị trấn Nước Hai (huyện Hoà An). Các sản
phẩm thổ cẩm hiện nay cũng khá phong phú, đường nét, màu sắc đẹp hơn và là
món quà lưu niệm ý nghĩa mà các du khách thường chọn mua để tặng người thân
và bạn bè khi có dịp đến với Cao Bằng.

c. Làng nghề đan chiếu cói
Làng nghề đan chiếu cói ở xã Quang Trọng, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng
đã có từ lâu đời.
Làng nghề đan chiếu cói ở xã Quang Trọng, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng
đã có từ lâu đời. Người dân địa phương ở đây bằng đôi tay khéo léo tự đan lát tạo
ra sản phẩm để phục vụ nhu cầu sinh hoạt của họ. Sản phầm được đan bằng cây
Mạy Tháng với đặc tính nhẹ, bền đẹp, có thể gấp nhỏ, khơng bị gẫy, dập và rất
thuận tiện trong vận chuyển. Chiếu cói Quang Trọng luôn được cải tiến mẫu mã,
phù hợp với nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng và được đem bán tại Lạng Sơn, Thái
Nguyên, Hà Nội, các tỉnh miền Nam…

20



2.2.4. Các yếu tố dân tộc học
Dân số toàn tỉnh Cao Bằng là 507.183 người (theo điều tra dân số ngày
01/10/2009). Dân số trung bình năm 2009 là 510.884 người
Các dân tộc ở Cao Bằng gồm Tày (chiếm 41,0% dân số), Nùng (31,1 %),
H'Mông (10,1 %), Dao (10,1 %), Việt (5,8 %), Sán Chay (1,4 %)... Có 11 dân tộc
có dân số trên 50 người. Như vậy tỉnh Cao Bằng là địa bàn cư trú của rất nhiều dân
tộc thiểu số. Đây chính là điều kiện tiên quyết tạo nên nền văn hóa độc đáo và
phong phú của tỉnh, là điểm thuận lợi để thu hút du khách đến với nơi đây để khám
phá và cảm nhận vẻ đẹp không chỉ của tự nhiên mà cả nét riêng biệt về phong tục,
ẩm thực, lễ hội của các dân tộc thiểu số.

3. Điều kiện dân cư, kinh tế - xã hội
3.1. Dân cư
Thác Bản Giốc thuộc xã Đàm Thủy, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng.
Trong đó, xã Đàm Thủy có diện tích khoảng 46,6 km2, dân số năm 1999 là 4824
người, mật độ dân cư đạt 103,52 người/ km2.
Huyện Trùng Khánh có 7 dân tộc anh em cùng chung sống là: Tày, Nùng,
Kinh, Hoa, Mơng, Dao…Thuộc các nhóm ngữ hệ khác nhau như: Tày- Thái,
Mông- Dao, Việt- Mường, Hán….
Theo số liệu mới nhất, huyện Trùng Khánh hiện nay có 46.348 nhân khẩu,
được phân bố theo các dân tộc như sau:

STT

Dân tộc

Số người

21


Tỷ lệ %


1

Tày

31415

67

2

Nùng

14640

31,59

3

Kinh

293

0.63

4

Các dân tộc khác


300

0,8

46.348

100

Cộng

3.2. Tình hình kình tế- xã hội huyện Cao Bằng
Cao Bằng là môt tỉnh miền núi gồm nhiều cửa khẩu chính và cửa khẩu phụ,
có các chợ biên, có nguồn tài ngun khống sản thủy điện phong phú, tiềm năng
du lịch dồi dào cùng khả năng các vùng chuyên canh nông- lâm nghiệp rộng lớn.
Hiện nay các lãnh đạo tỉnh Cao Bằng đã tập trung chỉ đạo quyết liệt, phát huy cao
nhất các lợi thế trong xây dựng và phát triển kinh tế tỉnh Cao Bằng.
Trong những năm qua thì tỉnh Cao Bằng cũng đã đạt được nhiều thành tựu
quan trọng trong phát triển kinh tế và chăm lo an sinh xã hội cho người dân.
Theo số liệu thống kê, trong giai đoạn 2006- 2010, GDP tăng bình quân gần
11% / năm,. Tỷ lệ huy động GDP vào ngân sách nhà nước tăng bình quân 9,7%/
năm. Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh, cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng
tăng tỷ trọng cơng nghiệp và dịch vụ. SẢn xuất công nghiệp- dịch vụ chuyển từ
quy mô nhỏ, manh mún sang quy mô lớn. NĂm 2009, cơng nghiệp đóng góp trên
22% và dịch vụ trên 40% GDP của tỉnh. Nông- lâm- nghiệp tiếp tục phát triển, Giá
trị sản xuất nông nghiệp tăng và đang ngày càng có sự chuyển dịch theo hướng
nâng cao chất lượng và hiệu quả ..
Từ chỗ chỉ làm một vụ lúa mùa, bà con trong xã đã trồng cấy thêm vụ đông
xuân, đưa tổng diện tích gieo trồng lúa, hoa màu... của tồn xã lên gần 500ha/vụ và
phát triển chăn ni, với tổng đàn trâu, bò gần 1.800 con... Tỷ lệ hộ nghèo của xã

giảm mạnh, từ 23% năm 2007, xuống 9,8% hiện nay; năm 2009., Nhưng vẫn là
một tỉnh nghèo và trình độ dân trí cịn thấp
22


Đặc biệt Ở Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng còn là khu vực trồng hạt dẻ ngon
nhất cả nước Việt Nam, chỉ ở đây mới có giống hạt này (Trung Quốc khơng có loại
này), được bà con trồng lâu năm trên núi, đến mùa thu hoạch vào khoảng tháng 910 âm lịch. Một phần bán trong vùng và phần lớn được sấy khơ đóng hộp xuất
khẩu sang Nhật Bản.. Góp thêm mặt hàng xuất khẩu để nâng cao GDP cho nền
kinh tế.
Ở xã Đàm Thủy, ngồi một vụ lúa mùa, nơng dân đã trồng thêm vụ đơng
xn, đưa tổng diện tích gieo trồng lúa, ngô, đậu tương, lạc... lên gần 500ha/vụ, tỷ
lệ hộ nghèo theo chuẩn của chính quyền Việt Nam vào năm 2011 là 9,8%. Trên địa
bàn xã Đàm Thủy có mỏ mangan Lũng Phiắc, quặng măng gan lộ thiên ngay trong
những hốc đá nên thuận lợi trong việc khai thác. Do nằm trên biên giới Việt Trung
nên tại xã Đàm Thủy từng xảy ra tình trạng xuất lậu khống sản sang Trung Quốc
Hiện nay, Cao Bằng phát triển kinh tế với mục tiêu :
• Phấn đấu tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao và bền vững, đồng thời tạo sự
chuyển biến mạnh về chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của từng ngành, từng
sản phẩm, đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
• Kết hợp hài hịa giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội với bảo vệ mơi
trường.
• Khai thác và phát huy lợi thế của tỉnh, nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, tập trung mọi nguồn lực đẩy mạnh phát triển công nghiệp và dịch vụ để thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH, chú trọng phát triển công
nghiệp chế biến các sản phẩm nông, lâm nghiệp.

* Một số khu công nghiệp :

Cao Bằng hiện có Khu cơng nghiệp Đề Thám và Cụm công nghiệp Miền

Đông 01 (thị trấn Tà Lùng). Các khu, cụm cơng nghiệp này đang trong q trình
kêu gọi đầu tư và giải phóng mặt bằng với định hướng phát triển thành khu, cụm
cơng nghiệp đa ngành, đóng vai trò trọng yếu trong việc phát triển kinh tế của tỉnh.

23


Hiện nay Khu công nghiệp Đề Thám đang trong giai đoạn giải phóng mặt bằng và
thực hiện đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, được thực hiện bởi Công ty Phát triển hạ
tầng Khu công nghiệp Đề Thám do UBND tỉnh thành lập.
1. Khu công nghiệp Đề Thám

Khu công nghiệp này được xác định là khu trọng điểm phát triển kinh tế của
tỉnh, trong đó bao gồm các loại hình cơng nghiệp tập trung sau:
• Cơng nghiệp chế tạo cơ khí chính xác; cơng nghiệp điện tử, cơng nghệ
thơng tin; công nghiệp hàng tiêu dùng (dệt may, giầy dép, gốm sứ…)
• Cơng nghiệp khác như: sản xuất vật liệu xây dựng cao cấp, bao bì, lắp ráp
chế tạo phụ tùng ơ tơ xe máy…
• Cơng nghiệp chế biến nơng lâm sản

Quy mơ đất đai, diện tích: 92.2 ha
Tổng số lao động dự kiến cho KCN Đề Thám: 3.700 lao động

2. Cụm công nghiệp Miền Đông 01

Cụm công nghiệp Miền Đơng 01 thuộc thị trấn Tà Lùng, huyện Phục Hịa.
Cụm công nghiệp được xác định là cụm công nghiệp đa ngành bao gồm:

• Cơng nghiệp chế tạo cơ khí chính xác; công nghiệp điện tử, công nghệ
thông tin; công nghiệp hàng tiêu dùng như: dệt may, giầy dép, gốm sứ…

• Công nghiệp khác như: sản xuất vật liệu xây dựng cao cấp, bao bì, lắp ráp
chế tạo phụ tùng ơ tô xe máy…
24


• Công nghiệp chế biến nông lâm sản

Quy mô đất đai, diện tích: 86 ha

Về lao động:
Cao Bằng là một tỉnh vùng cao có đơng đồng bào dân tộc, dân số trên 520
ngàn người, trong đó độ tuổi lao động chiếm trên 62%, tập trung chủ yếu ở lĩnh
vực nông nghiệp. Phần lớn lao động chỉ có nghề giản đơn, trong khi tỷ lệ lao động
có trình độ học vấn và chun mơn kỹ thuật cịn khá hạn chế.
Cao Bằng hiện có 15 cơ sở dạy nghề, gồm một trường trung cấp nghề, 8
trung tâm dạy nghề, 2 trường trung cấp chuyên nghiệp có dạy nghề và 4 cơ sở có
tham gia dạy nghề.
Một số cơ sở dạy nghề tại Cao Bằng:

ST
T

Tên trung tâm

Địa chỉ

Điện thoại

1


Trung tâm hướng nghiệp dạy
nghề huyện Trùng Khánh

Huyện Trùng Khánh, Cao
Bằng

026 3826 100

2

Trường nông lâm huyện Hịa
An

Khu A thị trấn Nước Hai,
huyện Hồ An, Cao Bằng

026 3860 127

3

Trường trung học y tế

Phường Tân Giang , thị xã
Cao Bằng

026 3852 278

4

Trường trung học y tế Cao

Bằng

phường Tân Giang, thị xã
Cao Bằng

026 3855 462

5

Trường trung cấp nghề

Tổ 3, phường Sông Hiến, thị
026 3758 346
xã Cao Bằng

25


×