Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

những đề bài cần lưu ý về các tác phẩm văn xuôi 12, học kì 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (234.62 KB, 46 trang )

VỢ CHỒNG A PHỦ
Đề ra: Phân tích tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài.
(Hay sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xn)
Tơ Hồi là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại.
Ơng có vốn hiểu biết sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng văn hố
khác nhau trên đất nước ta. Thành cơng nhất của Tơ Hồi là những tác phẩm
viết về hiện thực cuộc sống, con người vùng Tây Bắc. Tiêu biểu là truyện ngắn
“Vợ chồng A Phủ”. Tác phẩm vừa là một bức tranh chân thực về số phận bi
thảm của người dân nghèo miền núi dưới ách áp bức phong kiến và thực dân,
vừa là một bài ca về sức sống và khát vọng tự do, hạnh phúc của con người. Vẻ
đẹp ấy đã ngời lên thật trọn vẹn qua diễn biến tâm trạng Mị và sức sống tiềm
tàng mãnh liệt của nhân vật này qua đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài.
Truyện “Vợ chồng A Phủ” được nhà văn Tơ Hồi sáng tác năm 1952, in trong
tập “Truyện Tây Bắc”. Tác phẩm gồm hai phần: phần đầu kể về cuộc sống tủi
nhục của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài; phần sau kể về Mị và A Phủ ở Phiềng Sa, họ
thành vợ chồng. Được cán bộ A Châu giác ngộ cách mạng, A Phủ trở thành tiểu
đội trưởng du kích cùng Mị đánh Pháp bảo vệ dân làng. Đoạn trích trong sách
giáo khoa là phần thứ nhất của tác phẩm. Trong tác phẩm này, diễn biến tâm
trạng nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân được xem là ấn tượng nhất – thể
hiện tài năng nghệ thuật bậc thầy của Tơ Hồi trong việc miêu tả tâm lý nhân
vật.
Trước khi vào nhà thống lý Pá Tra, Mị là một cô gái trẻ đẹp: Trong tác phẩm này,
nhà văn không hề dùng mỹ từ nào để tả cái đẹp của Mị, nhưng vẻ đẹp ấy vẫn
hiện lên qua chi tiết: “trai đến đứng nhẵn vách đầu buồng Mị”. Mị chính là bơng
hoa ngát hương của núi rừng Tây Bắc. Cơ có một cuộc sống tự do, hạnh phúc,
vơ tư giữa tháng ngày tuổi trẻ.
Cô gái vùng cao ấy, mỗi khi tết đến xuân về thường làm bao kẻ si tình chết
mê, chết mệt bởi tiếng sáo. Mị thổi sáo giỏi “thổi lá cũng hay như thổi sáo, có
biết bao người mê ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”.
Không chỉ đẹp người, cơ gái ấy cịn đẹp nết. Mị giàu lịng hiếu thảo, có tình
u lao động, u tự do, giàu lịng tự trọng. Tơ Hồi đã đặt vào miệng Mị tất cả


những phẩm chất cao quý ấy qua lời nói đầy tha thiết với cha già: “con nay đã
biết cuốc nương làm ngơ” (tình u lao động); “con phải làm nương ngơ giả nợ
thay cho bố” (lịng hiếu thảo); “bố đừng bán con cho nhà giàu” (giàu lòng tự
trọng).
Khi bị bắt làm dâu nhà Pá Tra: Mị có cuộc sống thống khổ, là nạn nhân của
chế độ cho vay nặng lãi, bị tước đoạt tự do, hạnh phúc cá nhân: mở đầu tác
phẩm, nhà văn đã giới thiệu nhân vật một cách ấn tượng: “Ai ở xa về có việc
vào nhà thống lí Pá Tra thường trơng thấy có một cơ con gái ngồi quay sợi gai
bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”. Lúc nào cô ấy cũng “cúi mặt, mặt buồn
rười rượi”. Dáng vẻ ấy của Mị gợi ra hình ảnh một con người có số phận đau
khổ.


Tìm hiểu vào truyện, ta thấy Mị là nạn nhân của chế độ cho vay nặng lãi, bị
tước đoạt tự do, hạnh phúc cá nhân, cuộc sống tủi nhục hơn trâu ngựa: “Bây giờ
thì Mị cũng tưởng mình là con trâu, mình cũng là con ngựa…”. Tâm lý cam chịu,
bng xuôi, cách sống âm thầm, lặng lẽ đã in dấu sâu đậm lên dáng vẻ bên
ngoài của Mị: “Mỗi ngày Mị càng khơng nói, cứ lùi lũi như con rùa ni trong xó
cửa”. Cơ gái trẻ ấy chỉ biết “ngồi trong cái lỗ vuông ấy trông ra đến bao giờ chết
thì thơi”. Dù cuộc sống thống khổ, trong Mị vẫn mãnh liệt một sức sống tiềm
tàng và khát vọng tự do, hạnh phúc. Khát vọng ấy đã bùng cháy lên khi mùa
xuân đến trên đất Hồng Ngài. Đúng như Tô Hoài nhận định “Kỳ lạ thay, dẫu
trong mọi cùng cực đến thế, mọi thế lực của tội ác cũng không tiêu diệt được
sức sống con người. Đói khổ, lay lắt, nhục nhã, Mị vẫn sống, âm thầm, tiềm
tàng mãnh liệt”.
Sức sống tiềm tàng của Mị cũng như diễn biến tâm trạng của nhân vật này
bắt đầu đến từ những tín hiệu mùa xn, tín hiệu đêm tình. Thiên nhiên mùa
xn tác động đến Mị: đó là một mùa xuân rộn rã âm thanh, sắc màu của “váy
hoa xoè như con bướm sặc sỡ” hồ trong “gió rét thổi vào cỏ gianh vàng ửng”;
tiếng trẻ đợi tết chơi quay cười ầm trên sân trước nhà. Chính cái náo nức của

đất trời cũng là cái náo nức của lòng người. Khi nghe tiếng sáo gọi bạn “lấp ló
ngồi đầu núi”: Mị thấy trái tim mình “thiết tha, bổi hổi”, Mị ngồi “nhẩm thầm”
lời bài hát của người đang thổi sáo. Tiếng sáo ấy đã lâu rồi không thổi, bài hát
ấy từ lâu cũng đã quên. Nhưng hôm nay Mị vẫn nhớ, vẫn thuộc, vẫn nhẩm
thầm. Vậy là Mị chưa có nghĩa đã hồn tồn vơ cảm. Hay nói đúng hơn, chính
tiếng sáo là tác nhân đã lay động sâu xa tâm hồn Mị và đánh thức quá khứ cùng
hiện tại của Mị. Tiếng sáo là một ẩn dụ cho tự do, cho tuổi trẻ và ký ức đẹp tươi
của cô gái trẻ người Mèo. Tiếng sáo cũng chính là men tình đã đánh thức tâm
hồn và lý trí của Mị.
Sau khi nghe tiếng sáo: “Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát”. Đây thực
chất là một “cuộc nổi loạn nhân tính” của Mị. Cách uống ấy là sự dồn nén của
những ẩn ức, phẫn uất nên uống rượu mà cứ như nuốt cay nuốt hận vào lòng.
Rượu làm Mị say “ngồi trơ một mình giữa nhà”. Nhưng “lịng Mị thì đang sống về
ngày trước”. Mị đi đi về về giữa hai thế giới: quá khứ và hiện tại; tỉnh và say….
Mị nhớ về thời con gái của mình “ngày trước Mị thổi sáo giỏi, thổi lá cũng hay
như thổi sáo, có biết bao người mê ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Nhưng đối
lập với ký ức tươi đẹp ấy là hiện tại đầy tủi nhục của Mị “A Sử chẳng bao giờ cho
Mị đi chơi tết”.
Khát vọng tự do, hạnh phúc còn được thể hiện qua tâm trạng của Mị khi ở
trong buồng. Căn buồng là địa ngục, ngoài kia là thiên đường. Thiên đường và
địa ngục chỉ cách nhau có một ơ cửa bằng bàn tay. Nhưng sự tủi nhục khơng
ngăn được lịng u tự do của Mị. Bởi: “đã từ nãy Mị thấy phơi phới trở lại, trong
lòng đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước”. Những từ ngữ như
“phơi phới”, “đột nhiên vui sướng”… như diễn tả tận sâu thẳm niềm khao khát
của Mị. Mị nhận ra “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Câu văn sử
dụng phép điệp: trẻ lắm, còn trẻ,…kết hợp kiểu câu đơn ngắn làm nhịp điệu câu
văn dồn dập, góp phần cho thấy tình yêu tự do và ý thức về bản thân chưa bao
giờ bị dập tắt trong Mị. Nó giống như hịn than âm ỉ cháy trong lớp tàn tro giờ có
dịp bùng cháy. Mị lại tủi thân khi nghĩ về A Sử: “Nếu có nắm lá ngón trong tay
lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại chỉ thấy



nước mắt ứa ra”. Như vậy, khi linh hồn đã trở về, Mị không chỉ ý thức được giá
trị của tinh thần mà cịn ý thức được hồn cảnh sống nghiệt ngã. Muốn chết
cũng là sự thể hiện rất mãnh liệt sức sống tiềm tàng ẩn chứa trong tâm hồn cô
gái Mèo. Nhưng trong cảm xúc đầy bi kịch và sự tuyệt vọng ấy, tiếng sáo lại
đến: “tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường”. Tiếng sáo đầy mê
hoặc, quyến rũ, như lôi kéo Mị, đưa Mị từ vực sâu của tuyệt vọng thăng hoa trở
lại cùng khát vọng tự do. Có thể nói: chính tiếng sáo làm Mị ý thức sâu sắc hơn
bi kịch của mình, từ đó tự đánh thức mình bằng khát vọng tự do.
Khát vọng tự do không chỉ tồn tại trong suy nghĩ mà cịn thể hiện trong hành
động: “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào dĩa đèn cho
sáng… Mị muốn đi chơi, Mị cũng sắp đi chơi…Mị cuốn lại tóc, Mị với tay lấy cái
váy hoa vắt ở phía trong vách… Mị rút thêm cái áo”. Đây chính là sự “nổi loạn”
trong Mị với khát vọng tự do trào sôi, mãnh liệt. Câu văn được ngắt bởi nhiều
dấu phẩy, nhịp gấp, nhiều động từ được huy động: lấy, xắn, bỏ, đi chơi, cuốn lại
tóc, lấy váy hoa, rút thêm cái áo… làm cho những hành động của nhân vật trở
nên mạnh mẽ, cương quyết, táo bạo. Đó là lúc ngọn lửa khao khát tự do đang
cháy lên trong Mị, bất chấp sự hiện diện của A Sử. Giờ đây, bóng đêm của
cường quyền bạo ngược và thần quyền đã không thể nào vùi dập được Mị. Bởi
khát vọng tự do trong Mị đang lớn hơn tất cả mọi nỗi sợ hãi.
Kể cả lúc bị trói. Mị cũng khơng biết mình đang bị trói. Dù bị vùi dập phũ
phàng, khát vọng tự do trong Mị không hề mất đi. Thể xác Mị nằm đây giữa bốn
bức tường lạnh lẽo, nhưng tâm hồn Mị đã đi theo tiếng sáo mênh mang gọi bạn
tình, Mị vẫn “đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”. Bởi vậy khi tiếng sáo
nhập vào hồn Mị – “vùng bước đi”. Là lúc dây trói siết lại đau nhức. Cơn đau thể
xác đã đánh thức Mị, rồi Mị tỉnh. Tiếng sáo vụt biến mất, chỉ cịn “tiếng chân
ngựa đạp vào vách”. Tơ Hồi đã khéo léo lồng vào chi tiết này âm thanh của
tiếng chân ngựa. Tiếng sáo là âm thanh của giấc mơ; tiếng chân ngựa là âm
thanh đau buồn của thực tại. Thực tại đập vỡ giấc mộng làm tiêu tan tiếng sáo.

Âm thanh tiếng chân ngựa đánh thức Mị, đập vỡ cả giấc mơ của Mị, kéo Mị từ
thiên đường trở về địa ngục. Nỗi đau thể xác ngay lập tức chuyển hố thành nỗi
đau tinh thần vì Mị chợt nhận ra: “Mình khơng bằng con ngựa”.
Như vậy, cuộc trỗi dậy thứ nhất của Mị khơng thành, Mị khơng thốt khỏi
cảnh ngục tù trần gian nhưng ít ra Mị cũng đã sống lại những thời khắc tươi đẹp
của tuổi trẻ. Sức sống của Mị, sự hồi sinh của Mị được đặt trong một thử thách
khắc nghiệt, một hiện thực phũ phàng nhưng qua đó lại càng khẳng định một
chân lí rằng: sức sống của con người dù bị dẫm đạp, bị trói chặt nhưng nó
khơng chết mà ln âm ỉ cháy, chỉ gặp dịp là bùng lên mạnh mẽ. Đúng như Lỗ
Tấn đã từng nói: “Một tia lửa nhỏ hơm nay báo hiệu đám cháy ngày mai”. Hành
động của Mị tuy bột phát nhưng sẽ hứa hẹn một tương lai bừng cháy ở phía
trước. Đây cũng chính là giá trị nhân đạo sâu sắc của nhà văn Tơ Hồi.
Nhà văn Tơ Hồi xây dựng nhân vật Mị với nhiều điểm nghệ thuật đặc sắc.
Giới thiệu nhân vật tự nhiên mà ấn tượng, kể chuyện ngắn gọn, dẫn dắt tình tiết
khéo léo. Đặc biệt tâm trạng và hành động khá phức tạp của Mị được diễn tả, lí
giải một cách cụ thể, hợp lí. Biệt tài miêu tả thiên nhiên và phong tục, tập quán
của người dân miền núi. Ngôn ngữ kể chuyện sinh động, chọn lọc, sáng tạo, câu
văn giàu tính tạo hình, đậm chất thơ.


Vợ chồng A Phủ là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Tơ Hồi, cũng
như nền văn học Việt Nam khi viết về các đồng bào dân tộc miền núi phía Bắc.
Với tấm lịng u thương, trân trọng tha thiết, Tơ Hồi đã khai thác một cách
triệt để cuộc đời, số phận của những con người phải chịu sự thống trị tàn ác của
thần quyền và cường quyền dưới chế độ thực dân phong kiến, thông qua biệt
tài miêu tả nội tâm nhân vật một cách tỉ mỉ và tinh tế. Đồng thời ông cũng bộc
lộ được những vẻ đẹp đáng quý trong tâm hồn của nhân vật ấy là sức sống tiềm
tàng mãnh liệt, khao khát tự do cháy bỏng, sức phản kháng, sự vùng dậy mạnh
mẽ trong những con người nhỏ bé, tưởng như cam chịu số phận.


Tâm trạng và Hành động của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ, mẫu số
1 (Chuẩn):
Tơ Hồi là một nhà văn lớn, một tác giả lớn của nền văn học Việt Nam với gia tài
các tác phẩm đồ sộ bao gồm nhiều thể loại khác nhau từ truyện ngắn, tiểu
thuyết, truyện dài, hồi ký, tiểu luận, kịch bản phim,… Trong hơn 60 năm cầm
bút và miệt mài lao động, chiến đấu Tơ Hồi xứng đáng được vinh danh là một
trong số những tác giả tiêu biểu có đóng góp to lớn trong sự đột phá, phát triển
của nền văn học hiện đại. Đối với Tơ Hồi “Viết văn là một q trình đấu tranh
để nói lên sự thật. Đã là sự thật thì khơng tầm thường, cho dù phải đập vỡ
những thần tượng trong lòng người đọc”, thế nên ơng là một người kính nghiệp
lắm viết cái gì cũng ưng tìm tịi, khám phá, thích viết những cái có thật trong
thực tế, những gì ơng đã từng trải nghiệm, biết đến. Chính bởi cái phong cách
sáng tác tỉ mỉ, chuyên cần ấy mà việc thích nghi với điều kiện của từng vùng
đất khác nhau cũng trở nên dễ dàng hơn với Tơ Hồi, đồng thời cũng hình thành
nên trong tâm hồn tác giả những xu hướng sáng tác mới. Tiêu biểu như đề tài
về Tây Bắc và những con người nơi đây, phải nói rằng thật khơng dễ dàng gì để
một tác giả miền xi có thể viết ra những câu chữ mang đậm phong vị miền
núi như vậy. Nhưng với Tơ Hồi thì khác, ngồi Hà Nội mảnh đất thân thương đã
đi sâu vào máu thịt thì có lẽ vùng Tây Bắc là mảnh đất mà ơng tha thiết hơn cả,
nói như Chế Lan Viên là “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”.
Chúng ta có thể thấy rõ điều ấy trong tập Truyện Tây Bắc của Tơ Hồi, đặc biệt
là trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ, phải nói Tơ Hồi đã dành một tình cảm rất
đặc biệt cho các dân tộc miền núi phía Bắc, trân trọng, yêu thương và cảm
thơng sâu sắc. Có lẽ vì những tình cảm ấm nồng ấy mà cái cách Tơ Hồi miêu tả


nội tâm của nhân vật Mị trong đêm giải cứu A Phủ và giải cứu cuộc đời mình
cũng trở nên sâu sắc và ấn tượng vô cùng.
Nền văn học Việt Nam trước cách mạng và sau cách mạng của Việt Nam ta từ
trước tới nay, có thể nói một trong những đề tài phổ biến nhất chính là đề tài

người nông dân cùng khổ dưới chế độ thực dân phong kiến. Ví như Nam Cao với
Lão Hạc, Chí Phèo, Nguyễn Công Hoan với Tinh thần thể dục 1, 2, Kim Lân với
Làng, Vợ nhặt, Ngô Tất Tố với Tắt đèn,... Thế nhưng đến với Tơ Hồi người ta lại
nhìn ra một màu sắc khác ở đề tài vốn xưa cũ này, ấy là số phận của những con
người trên rẻo cao Tây Bắc dưới sự thống trị của thần quyền và cường quyền,
mà cụ thể đó là hình tượng người phụ nữ. Mị là một cô gái con nhà nông dân có
món nợ truyền kiếp với nhà thống lý Pá Tra từ đời cha mẹ Mị, rồi cuối cùng cô
phải chịu làm vợ lẽ cho con trai của nhà đó là A Sử. Mang tiếng làm vợ cho nhà
giàu có nhất vùng thế nhưng cuộc đời của cô lại là một chuỗi ngày bi kịch và
khổ đau. Mị khơng có hạnh phúc, Mị phải sống những tháng ngày như địa ngục,
Mị muốn ăn lá ngón rồi chết quách đi, thế nhưng Mị lại khơng thể chết, bởi cơ
chết rồi món nợ của cha ai sẽ trả. Đến khi cha Mị đã mất thì Mị lại khơng cịn
thiết tha đến việc chết nữa bởi “ở lâu trong cái khổ, Mị cũng quen khổ rồi. Bây
giờ Mỵ tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa. Con ngựa chỉ biết
ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”. Mị sống dưới danh phận con dâu gán nợ nhưng thực
tế là làm nô lệ suốt kiếp cho nhà thống lý Pá Tra, phải làm lụng quanh năm suốt
tháng quần quật không ngày nghỉ ngơi. Đến độ Mị cảm thấy mình khơng cịn là
con người nữa bởi “Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân,
nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày”, đắng cay đến
cùng cực. Cuộc đời của Mị lầm lũi giống như con rùa trong xó cửa, im lặng và tù
túng, trơ lì trong lớp mai dày vơ tri vơ giác, khơng thiết tha đếm xỉa gì cuộc đời
này nữa.
Cứ ngỡ rằng cái tâm hồn vốn chai sạn vì cái khổ ấy đã chết hẳn, thế nhưng
cuộc đời của Mị lại lần nữa được sống lại, sống lại những cảm xúc của một người
con gái đang độ xuân sắc, xinh đẹp và có tài thổi sáo. Đêm tình mùa xn ấy,
Mị nghe thấy tiếng sáo thổi của ai đang gọi bạn, đã làm sống dậy trong lòng Mị
những ký ức xa xăm thuở Mị còn là con gái, với tiếng sáo say lịng người “có
biết bao nhiêu người mê, cứ ngày đêm thổi sáo đi theo Mỵ hết núi này sang núi
khác”. Tiếng sáo lảnh lót mùi mẫn văng vẳng trong đêm tối, khiến Mị thấy thổn
thức, rồi Mị khóc, nước mắt Mị ứa ra từng hàng, chẳng biết đã từ bao lâu rồi Mị

khơng khóc như vậy. Mị xót xa, Mị ấm ức, tức tưởi cho cái cuộc đời đầy rẫy bất


hạnh của mình, Mị thấy đắng cay, thấy tức giận, Mị muốn vùng lên phản kháng,
Mị không muốn sống cái kiếp người như cỗ máy làm lụng biết nói này thêm
ngày nào nữa. Mị muốn được sống như một con người, biết đớn đau, biết mệt
mỏi, cũng được yêu thương, được có niềm vui như bao con người ngồi kia.
Điều ấy chứng tỏ điều gì? Chứng tỏ rằng tâm hồn tưởng đã chết của Mị đã sống
lại, nồng nàn, mãnh liệt bởi tiếng sáo - âm thanh sự sống, đã thức tỉnh tâm hồn
và trái tim vốn còn tươi đẹp và khao khát cuộc đời của Mị sau những tháng năm
bị chôn vùi, chai sạn bởi cái khổ, cái đắng cay. Mị bắt đầu vùng lên, Mị làm việc
mà từ khi về làm dâu Mị không dám làm, không được làm, Mị uống rượu “ừng
ực từng bát”, uống như chưa từng được uống bao giờ, uống đến say khướt, rồi
lấy lá làm kèn để thổi, để quay về những tháng ngày xa xăm, những ngày
tháng hạnh phúc nhất cuộc đời Mị. Thế rồi, vài chum rượu, với tiếng kèn lá làm
sao có thể bù đắp được cái thiếu hụt trong lòng Mị bao năm qua, cái nỗi khao
khát sự sống mãnh liệt trong lòng của Mị. Mị muốn đi chơi, Mị muốn mặc quần
áo đẹp, muốn thổi sáo, nhảy múa, bởi Mị nhận thức được một cách rất rõ ràng
rằng “Mị vẫn cịn trẻ”, Mị khơng muốn chơn vùi thanh xn của Mình trong căn
buồng chỉ có một ơ cửa sổ bé bằng bàn tay như nhà tù ấy. Mị muốn sống như
một con người đàng hoàng, thế nhưng thật xót xa, thật đắng cay tủi nhục, giữa
lúc niềm khao khát sống mãnh liệt, lòng yêu cuộc đời của Mị đang phơi phới. Thì
A Sử như một kẻ sát nhân, hắn muốn giết chết tâm hồn Mị một lần nữa, nó
khơng muốn Mị được làm người, được vui sống, nó trói Mị vào cột nhà bằng cả
rổ dây gai, rồi bỏ đi chơi, để lại Mị với nỗi tủi hờn, đớn đau cùng cực. Rồi Mị nhớ
đến việc nhà này đã từng có một người đàn bà bị trói đến chết, Mị bàng hoàng,
sợ hãi, chưa lúc nào Mị lại khao khát sự sống như lúc này “Mị sợ quá, Mị cựa
quậy. Xem mình cịn sống hay chết. Cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói siết lại,
đau đứt từng mảnh thịt”. Cái nỗi sợ, cái đau đớn xác thịt ấy chứng minh rằng Mị
vẫn còn sống, cả tâm hồn lẫn thể xác, cái ý chí sống cịn trong lịng Mị đã mạnh

mẽ trở lại, khơng cịn chai lì, lầm lũi nữa. Nó đã đánh dấu một bước ngoặt lớn
trong cuộc đời Mị, từ việc muốn ăn lá ngón để chết quách đi cho đến việc sợ hãi
cái chết và khao khát được sống sót một cách mãnh liệt. Là tiền đề để Mị giải
cứu A Phủ và chính cuộc đời mình ra khỏi đống bế tắc và áp bức của cường
quyền và thần quyền.
Khi đối diện với A Phủ một chàng trai bị đánh, bị trói đứng giữa sân ngay gần
đống lửa Mị vẫn thường hay sưởi ấm, nhưng Mị “vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay.
nếu A Phủ là cái xác chết đứng chết đấy, cũng thế thôi”. Nhưng có lẽ ít ai biết


được bên ngoài cái vẻ thờ ơ, mặc kệ sống chết ấy, trong lịng Mị đã có những
thay đổi lớn, Mị đã khơng cịn là người đàn bà lầm lũi, trơ lì với cái khổ, cái đớn
đau thể xác tinh thần bắt đầu từ đêm tình mùa xuân ấy, từ khi Mị nghe thấy
tiếng sáo cất lên, khi Mị thấy đau đớn, thấy sợ cái chết. Mị đồng cảm và xót
thương cho số phận của A Phủ như chính cuộc đời mình, những con người khơng
có quyền quyết định số phận cuộc đời, để biết mặc cho người ta chà đạp áp
bức, rồi chết đi trong tay của bè lũ thống trị tàn ác. Đặc biệt khi mị trông thấy
giọt nước mắt của người đàn ơng ấy “dịng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm
má đã xám đen”, Mị lại nhớ đến cuộc đời đầy vết sẹo của mình, Mị phẫn nộ, Mị
căm tức nhà thống lý Pá Tra, những kẻ độc ác, chúng nó bắt “người ta chết, chết
đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Mị thấy xót xa, Mị thấy thương cảm cho A
Phủ, bởi Mị đã là dâu con, chết ở đây cũng dành, còn A Phủ có tội gì mà phải
chịu cảnh như Mị. Mị càng nghĩ lại càng thấy khơng cam lịng, thấy đau đớn
thay cho một kiếp người. Và có lẽ rằng giọt nước mắt của A Phủ, giọt nước mắt
của một con người vô tội, một con người khao khát sự sống, tựa như giọt nước
tràn ly đã thôi thúc sự phản kháng, lòng trắc ẩn trong tâm hồn Mị. Mị đâu phải
lũ người độc ác kia, Mị khơng chai lì và tàn nhẫn như thế, Mị phải cứu người đàn
ông này, A Phủ xứng đáng được sống một cuộc đời tốt đẹp chứ khơng phải là
chết ở đây vì làm mất một con bị. Lúc này đây Mị khơng cịn sợ nữa, khơng sợ
cường quyền, thần quyền gì nữa, Mị trở nên mạnh mẽ, như một người hùng cắt

dây trói cho A Phủ, Mị bất chấp tính mạng mình để anh được sống, bởi Mị nhìn
thấy ở chàng trai ấy chính là cuộc đời bất hạnh của Mị. Cứu A Phủ cũng là cứu
chính tâm hồn, cứu cuộc đời của Mị. Cảnh cuối có lẽ Mị đã thơng suốt, Mị đã
thật sự phản kháng, Mị vùng dậy chống lại số phận, Mị muốn làm chủ số phận
của mình, Mị quyết định bỏ trốn theo A Phủ, bởi Mị biết rằng ở lại nếu khơng
chết về thể xác, thì cũng là cái chết về tâm hồn, đều đớn đau và tủi nhục vơ
cùng. Chỉ có cách thốt khỏi nơi quỷ qi ấy thì Mị mới có thể được sống sống
thật sự, được làm một con người thật sự. Đây chính là biểu hiện rõ nét nhất về
khao khát được sống, niềm ham sống, khao khát tự do mãnh liệt của Mị, một
con người vốn tưởng tâm hồn đã trơ lì như gỗ đá. Đồng thời khẳng định sức
sống tiềm tàng mạnh mẽ, dẫu có bị cái khổ, cái tuyệt vọng, sự tàn ác của tầng
lớp thống trị chà đạp đến gần như chỉ cịn một tàn than đỏ, thì chỉ cịn một
ngọn gió xuân, một tiếng sáo, một niềm thương cảm cho kiếp người đồng cảnh
ngộ nó cũng có thể bùng lên mãnh liệt hơn bao giờ hết.


Vợ chồng A Phủ là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Tơ Hồi, cũng
như nền văn học Việt Nam khi viết về các đồng bào dân tộc miền núi phía Bắc.
Với tấm lịng u thương, trân trọng tha thiết, Tơ Hồi đã khai thác một cách
triệt để cuộc đời, số phận của những con người phải chịu sự thống trị tàn ác của
thần quyền và cường quyền dưới chế độ thực dân phong kiến, thông qua biệt
tài miêu tả nội tâm nhân vật một cách tỉ mỉ và tinh tế. Đồng thời ông cũng bộc
lộ được những vẻ đẹp đáng quý trong tâm hồn của nhân vật ấy là sức sống tiềm
tàng mãnh liệt, khao khát tự do cháy bỏng, sức phản kháng, sự vùng dậy mạnh
mẽ trong những con người nhỏ bé, tưởng như cam chịu số phận.

VỢ NHẶT
Cảm nhận chi tiết bữa cơm ngày đói
“Vợ Nhặt” một trong những tác phẩm thành công của nhà văn Kim Lân. Những
trang văn của ông thấm đượm được tính hiện thực những năm nạn đói 1945.

Đặc biệt việc xây dựng chi tiết rất thành công của Kim lân giúp tác phẩm càng
trở nên thu hút và gây ấn tượng với người đọc. Trong đó, bữa ăn đầu tiên đón
nàng dâu mới ở phần cuối tác phẩm gây nên nhiều suy nghĩ trong lòng độc giả.
Mặc dù chi tiết bữa cơm đón nàng dâu ngày đói ở cuối tác phẩm là một chi tiết
nhỏ nhưng lại có sức ám ảnh và lay động người đọc. Thơng thường, bữa cơm
đón nàng dâu mới là một bữa ăn có vai trị quan trọng thể hiện sự gắn kết, đầm
ấm giữa gia đình nhà chồng với thành viên mới trong gia đình. Thế nhưng, trong
truyện ngắn “Vợ nhặt” bữa ăn này lại hết sức đơn giản nếu khơng muốn nói là
tuềnh tồng và thảm hại. “Giữa cái mẹt rách… muối ăn với cháo”. Ở đây, Kim
Lân đã thể hiện tài năng ngôn ngữ của mình với đầy sức gợi hình và gợi tả. Bữa
ăn chỉ được chuẩn bị qua loa, sơ sài. Nó nói lên sự nghèo đói của một gia đình ở
tầng lớp dưới cùng của xã hội. Đồng thời, chính bữa cơm này cũng tái hiện lại
chân thực cái đói cái nghèo những năm 1945. Họ đang cố gắng giành giật lại
từng chút sự sống từ bàn tay của tử thần. Và điều cần nhất lúc này khơng địi
hỏi đến ăn ngon, đủ ăn mà chỉ cần có ăn để được sống. Do đó, xét trong tình
cảnh hiện thực năm 1945 mặc dù bữa cơm có đơn sơ, tuềnh tồng và sơ sài bao
nhiêu thì bữa cơm do bà cụ Tứ là một sự cố gắng trong hoàn cảnh giữa ranh giới
của sự sống và cái chết. Đặc biệt, liêu cháo lỗng nhanh chóng hết nên mẹ con
cụ Tứ phải ăn cám. Đồ ăn vốn dĩ dành cho động vật, không phải cho con người.


Nhưng trái ngược với những thứ đơn sơ, với cái đói cái nghèo là khơng khí đầm
ấm trong bữa ăn. “Cả nhà đều ăn rất ngon lành”. Nhưng đến lúc phải ăn cám thì
“một nỗi tủi hờn len vào tâm trí của mọi người”. Tuy nhiên, họ vẫn chấp nhận,
cam chịu, nén những tủi nhục vào bên trong chứ không một lời ca thán. Cả cô
con dâu kia, dường như cũng hiểu được tình cảnh trớ trêu để chấp nhận lấy
chồng trong cái nghèo, cái đói bủa vây như vậy. Bao trùm khơng khí bữa ăn vẫn
dào dạt tình người. Bà cụ Tứ chắt chiu từng chút niềm vui, cố gắng tạo ra khơng
khí hịa hợp, vui vẻ. “Bà cụ vừa ăn vừa kể chuyện… toàn chuyện sung sướng về
sau này”. Bà vừa là người thắp lửa và cũng là người truyền lửa. Thắp lên những

niềm vui, lạc quan vào cuộc sống và truyền cho con cái những lạc quan ấy để
các con hướng về tương lai. Đặc biệt là câu nói bơng đùa của bà cụ Tứ “Chè
khốn đây, ngon đáo để cơ”. Câu nói tốt lên khí chất của một bà mẹ vừa hóm
hỉnh, nhân hậu nhưng cũng đầy đắng cay trong câu nói để mong các con vui
vẻ, xua tan đi khơng khí u ám chiếm lĩnh khơng gian ngơi nhà bà.
Có thể thấy rằng, chi tiết bữa ăn ngày cưới ở phần cuối tác phẩm vừa tơ đậm
giá trị hiện thực nạn đói năm 1945. Để qua đấy, người đọc có thể hình dung ra
được những thảm cảnh của người lao động. Nạn đói đe dọa đến sự sống và bao
trùm mọi ngóc ngách, ngơi nhà của những người lao động nghèo, cướp đi sinh
mạng của biết bao con người khốn khó. Đồng thời chi tiết này cũng có tác dụng
tơ đậm thêm giá trị nhân đạo của tác giả. Kim Lân thể hiện một nỗi cảm thương
sâu sắc cho người nông dân lao động đồng thời cũng ca ngợi sức mạnh cũng
như khí chất của con người lao động thời kỳ bấy giờ. Dù hoàn cảnh có khó khăn
đến đâu, họ vẫn sống và đối xử với nhau bằng hơi ấm của tình người. Và bằng
việc sử dụng ngôn ngữ mộc mạc, giản dị nhưng tác giả đã gây ấn tượng mạnh
vào tâm trí của người đọc.
Cảm nhận chi tiết bữa cơm ngày đói - Mẫu 3
Đọc truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân, tôi đặc biệt chú ý tới đoạn văn
miêu tả bữa cơm ngày đói.
Chi tiết nằm ở phần cuối của truyện ngắn Vợ nhặt. “Giữa cái mẹt rách có độc
một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn
rất ngon lành. Bà cụ vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu. Bà lão
nói tồn chuyện vui, tồn chuyện sung sướng về sau này:


- Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua mua lấy đơi gà. Tao tính rằng cái chỗ đầu bếp
kia làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy chốc mà
có ngay đàn gà cho mà xem…
Tràng chỉ vâng. Tràng vâng rất ngoan ngoãn. Chưa bao giờ trong nhà này mẹ
con lại đầm ấm, hòa hợp như thế. Câu chuyện trong bữa ăn đang đà vui bỗng

ngừng lại. Niêu cháo lõng bõng, mỗi người được có hai lưng bát đã hết nhẵn.
Bà lão đặt đũa bát xuống, nhìn hai con vui vẻ:
- Chúng mày đợi u nhá. Tao có cái này hay lắm cơ.
Bà lão lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi
ngút. Bà lão đặt cái nồi xuống bên cạnh mẹt cơm, cầm cái môi vừa khuấy
khuấy vừa cười:
- Chè đây. - Bà lão múc ra một bát - Chè khoán đây, ngon đáo để cơ.
Người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại. Thị
điềm nhiên và vào miệng. Tràng cầm cái bát thứ hai mẹ đưa cho, người mẹ vẫn
tươi cười, đon đả:
- Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta cịn khối nhà chả
có cám mà ăn đấy…".
Đó là bữa cơm của gia đình Tràng với lần đầu tiên có sự hiện diện của người phụ
nữ “vợ nhặt”. Hình ảnh bữa cơm là một tín hiệu nghệ thuật quan trọng, gợi mở
nhiều điều về hiện thực. Trước hết, đó là sự thảm hại của cuộc sống người nông
dân nơi xóm ngụ cư vào những ngày nạn đói hồnh hành. Bình thường, cuộc
sống của người dân xóm ngụ cư vốn đã đầy ắp những nỗi khó khăn. Giờ giữa
nạn đói, mọi chuyện càng trở nên tồi tệ hơn.
Không phải ngẫu nhiên mà Kim Lân lại chú ý đặc tả hình ảnh bữa ăn nhà Tràng.
Quan sát bữa ăn của gia đình họ, người đọc khơng thể khơng trỗi lên một niềm
thương cảm. Bữa ăn chỉ có một ít cháo và rau chuối, không đủ cho ba miệng ăn.
Bởi vậy, ngay sau đó bà cụ Tứ đã bổ sung thêm món “chè khốn”. Gọi là “chè
khốn” chứ thực chất đó là món cháo cám, một thứ người ta vẫn thường dùng
làm thức ăn cho gia súc. Vì khơng phải là thức ăn của con người nên chỉ mới
đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, “hai con mắt thị tối lại”. Còn Tràng, “gợt một
miếng bỏ vội vào miệng. Mặt hắn chun lại ngay, miếng cám đắng chát và
nghẹn bứ trong cổ”.


Khơng khí bữa ăn chùng xuống, bởi “khơng ai nói câu gì”, “tránh nhìn mặt

nhau” và đeo đuổi theo “nỗi tủi hờn” của riêng mình. Bữa ăn nhà Tràng quả là
thê thảm nhưng dù sao vẫn còn khá hơn nhiều nhà khác. Câu nói của bà cụ Tứ
đã mách bảo cho ta thực tế đó. "Xóm ta khối nhà cịn chả có cám mà ăn đấy".
Một đoạn văn ngắn mà đã nói được một cách thấm thía nỗi cơ cực của con
người. Qua đây, người đọc có thể nhận ra thái độ cảm thông và cách tố cáo
hiện thực của nhà văn Kim Lân.
Khi được hỏi về quan điểm viết truyện ngắn Vợ nhặt, nhà văn Kim Lân nói rằng:
“Khi tôi viết, ý tưởng thường trực trong tôi là những người đói dù thế nào đi nữa
vẫn ln khao khát cuộc sống tốt hơn, vẫn tin tưởng một cách mơ hồ vào cuộc
sống tương lai”. Quan điểm đó đã chi phối sâu sắc tới quá trình triển khai, xử lý
các tình huống nghệ thuật của nhà văn. Đoạn văn miêu tả bữa cơm ngày đói
vẫn khơng ngồi tinh thần chung đó.
Như đã nói ở trên, hình ảnh bữa cơm gia đình Tràng là một biểu hiện sinh động
của tình trạng thảm hại những ngày đói năm 1945. Cái đói đã đẩy con người về
hàng súc vật. Nhưng con người vẫn là con người, vẫn tìm cách nương tựa vào
nhau mà sống, vẫn khát khao, hi vọng. Bởi vậy, có một khơng khí khác trong
đoạn văn miêu tả bữa cơm ngày đói của Kim Lân. Đó là khơng khí đầm ấm, đầy
ắp tình người của gia đình Tràng. "Chưa bao giờ trong gia đình này mẹ con lại
đầm ấm, hịa hợp như thế". Nhân vật tạo nên khơng khí đầm ấm đó khơng ai
khác hơn là bà cụ Tứ. Trong bữa ăn "bà lão nói tồn chuyện vui", lúc nào cũng
"tươi cười, đon đả". Có thể cái "tươi cười, đon đả" của cụ là để nhằm khỏa lấp
tình trạng đen tối của hiện thực nhưng căn bản đó là nụ cười hạnh phúc của
người mẹ nghèo trước cuộc sống mới của Tràng. Bà hiểu, mọi cuộc hôn nhân
đều hàm chứa một khát vọng xây đắp cuộc sống của con người. Cho nên, câu
chuyện trong bữa ăn với các con của bà là những "hoạch định" về tương lai. Đó
là việc sử dụng chỗ đầu bếp làm cái chuồng gà. Bà hi vọng khi có tiền sẽ mua
lấy đơi gà, "ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem…".
Chợt nhớ tới triết lý “Cịn da lơng mọc, còn chồi nảy cây” trong bài ca dao Mười
cái trứng nổi tiếng của nền văn học dân gian Việt Nam. Bản chất con người Việt
Nam là vậy, luôn biết tin tưởng và lạc quan.

Bữa cơm ngày đói do vậy, tuy có "thảm hại" xong vẫn đầm ấm tình người, vẫn
ánh lên những tia hi vọng vào cuộc sống sẽ đổi thay. Ngòi bút của Kim Lân đã
chạm vào được tầng sâu của hiện thực.


Dàn ý Phân tích nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm Vợ nhặt
I. Mở bài
- Giới thiệu tác giả Kim Lân: là cây bút chuyên viết Truyện ngắn, ông am hiểu
sâu sắc đời sống của người nông dân và thường tập trung viết về họ.
- Vợ nhặt là một trong số những truyện ngắn đặc sắc viết về người nơng dân
của ơng. Nhân vật đóng vai trị quan trọng trong tác phẩm này chính là người
vợ nhặt.
II. Thân bài
1. Lai lịch
- Khơng có q hương gia đình: có thể thấy nạn đói năm 1945 đã khiến biết
bao con người bị dứt khỏi quê hương, gia đình.
- Tên tuổi cũng khơng có và qua tên gọi “vợ nhặt”: thấy được sự rẻ rúng của
con người trong cảnh đói.
2. Chân dung
- Ngoại hình: quần áo tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp, khn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ
cịn hai con mắt.
- Lần thứ nhất: khi nghe câu hò vui của Tràng, thị đã vui vẻ giúp đỡ, đây chính
là sự hồn nhiên vô tư của người lao động nghèo.
- Lần thứ hai:
+ Thị sưng sỉa mắng Tràng, từ chối ăn trầu để được ăn một thứ có giá trị
hơn, khi được mời ăn tức thì ngồi sà xuống, mắt sáng lên, “ăn một chặp bốn
bát bánh đúc”.
+ Khi nghe ràng nói đùa “đằng ấy có về với tớ ... cùng về”, thị đã theo về
thật bởi trong cái đói khổ, đó là cơ hội để thị bấu víu lấy sự sống.
- Nhận xét: cái đói khổ khơng chỉ làm biến dạng ngoại hình mà cả nhân cách

con người. Người đọc vẫn cảm thơng sâu sắc với thị vì đó khơng phải là bản
chất mà do cái đói xơ đẩy.
3. Phẩm chất
- Có khát vọng sống mãnh liệt:


+ Quyết định theo Tràng về làm vợ dù không biết về Tràng, chấp nhận theo
khơng về khơng cần sính lễ vì thị sẽ khơng phải sống cảnh lang thang đầu
đường xó chợ.
+ Khi đến nhà thấy hồn cảnh nghèo khổ, trái ngược lời tuyên bố “rích bố
cu”, thị “nén một tiếng thở dài”, dù ngao ngán nhưng vẫn chịu đựng để có cơ
hội sống.
- Thị là người ý tứ và nết na:
+ Trên đường về, thị cũng rón rén e thẹn đi sau Tràng, đầu hơi cúi xuống, thị
ngại ngùng cho thân phận vợ nhặt của mình.
+ Khi vừa về đến nhà, Tràng đon đả mời ngồi, chị ta cũng chỉ dám ngồi mớm
ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, thể hiện sự ý tứ khi chưa xác lập
được vị trí trong giá đình.
+ Khi gặp mẹ chồng, ngoài câu chào thị chỉ cúi đầu, “hai tay vân vê tà áo đã
rách bợt”, thể hiện sự lúng túng ngượng nghịu.
+ Sáng hôm sau, thị dậy sớm qt tước nhà cửa, khơng cịn cái vẻ “chao
chát, chỏng lỏn” mà hiền hậu, đúng mực.
+ Lúc ăn cháo cám, mới nhìn “mắt thị tối lại”, nhưng vẫn điềm nhiên và vào
miệng thể hiện sự nể nang, ý tứ trước người mẹ chồng, không buồn làm bà
buồn.
- Nhận xét: cái đói có thể cướp đi nhân phẩm trong khoảnh khắc nào đó chứ
khơng vĩnh viễn cướp đi được tâm hồn con người.
- Thị cịn là người có niềm tin vào tương lai: kể chuyện phá kho thóc trên Thái
Nguyên, Bắc Giang để thắp lên hi vọng cho cả gia đình, đặc biệt là cho Tràng.
- Nêu cả nhận chung về hình tượng người vợ nhặt sau khi phân tích.

III. Kết bài
- Khái quát giá trị nghệ thuật: xây dựng tình huống truyện độc đáo, xây dựng
hình tượng nhân vật thành công, ngôn ngữ giản dị, tự nhiên, ...
- Tác phẩm chứa đựng giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc: người đọc hiểu và
cảm thông với cảnh ngộ thương tâm, rẻ rúng của người lao động trong nạn đói,
tố cáo thực dân, phát xít, ngợi ca khát vọng sống trong cảnh cơ cực.
Phân tích nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm Vợ nhặt - mẫu 1


Kim Lân là một hiện tượng trong làng văn học Việt Nam thế kỉ XX. Ơng viết
khơng nhiều nhưng tác phẩm nào cũng xuất sắc. Người đọc nhận thấy trong
trang văn của ông một tinh thần lạc quan của con người, cốt lõi khát vọng cháy
bỏng về cuộc sống tốt đẹp của con người trong bất cứ hoàn cảnh nào ngay cả
khi cận kề với cái chết, cái đói. Những trang viết của Kim Lân về đề tài nông
thôn trước cách mạng hấp dẫn người đọc bởi tính nhân bản. Ngay cả khi con
người phải sống trong cảnh khốn cùng, bi đát nhất của trận đói, cuộc sống mấp
mé giữa sự sống và cái chết, này văn vẫn nhận thấy ở họ lòng yêu đời, ham
sống. Sức sống ấy thể hiện đậm nét qua nhân vật người “vợ nhặt” trong tác
phẩm Vợ nhặt của ơng.
Dưới ngịi bút của Kim Lân, người vợ nhặt là người phụ nữ vô danh, không tên
không tuổi, không quê hương, không quá khứ. Không phải là nhà văn nghèo
ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho thị một cái tên mà bởi vì thị là cánh bèo
nổi trơi trong nạn đói, là người đàn bà vô danh. Từ đầu đến cuối tác phẩm,
nhân vật này chỉ được gọi là “cô ả”, “thị”, “người đàn bà”, “nàng dâu mới”,
“nhà tôi”. Nhưng nhân vật này để lại cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc.
Lần đầu thị xuất hiện là hình ảnh: ngồi lẫn trong đám con gái chờ nhặt hạt rơi
hạt vãi trước cổng chợ tỉnh. Khi nghe Tràng hò một câu chơi cho đỡ nhọc “Muốn
ăn cơm trắng mấy giò/ Lại đây mà đẩy xe bò với anh”, Thị “ton ton chạy lại đẩy
xe cho Tràng…cười tít mắt”. Thị đẩy xe với hi vọng được ăn nên cũng rất nhiệt
tình và chẳng cần ý tứ.

Lần thứ hai, thị xuất hiện với ngoại hình kém hấp dẫn: Đó là người phụ nữ
gầy vêu vao, “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt” nổi bật
với “hai con mắt trũng hốy”. Có thể nói, cái đói đã khiến thị càng nhếch nhác,
tội nghiệp lại càng nhếch nhác, tội nghiệp hơn nữa. Cái đói khơng chỉ tàn hại
dung nhan của thị mà cịn tàn hại cả tính cách, nhân phẩm.
Vì đói mà thị trở nên “chao chát”, “chỏng lỏn”, “chua ngoa, đanh đá”. Thị
“cong cớn”, “sưng sỉa” khi giao tiếp, nói chuyện.
Cái đói khiến thị quên cả việc phải giữ ý tứ, lòng tự trọng của người con gái.
Thị cứ thế mà đòi ăn. Được cho ăn, thị sẵn sàng “sà xuống cắm đầu ăn một
chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”. Thị đã đặt sự tồn tại của
mình, đặt miếng ăn lên trên nhân cách.
Khi anh cu Tràng hay đùa, lại đùa “có muốn theo tớ về nhà thì ra khuân đồ
lên xe rồi ta cùng về”. Thì người đàn bà kia lại im lặng (mà thường tâm lý im
lặng là đồng ý). Thị đồng ý, đồng ý mà không hề do dự, phân vân. Trong khi đó,
Tràng là ai, tốt xấu như thế nào? gốc tích ra sao? Thị nào hay nào biết. Chỉ mấy
bát bánh đúc là thị có thể theo ngay Tràng. Phải chăng thị theo Tràng chỉ vì


miếng ăn ? Thị dễ dàng, hời hợt thế ư? Thực ra hành động theo Tràng của thị
xuất phát từ nhu cầu bám lấy sự sống, từ lòng khao khát được sống. Thị bất
chấp tất cả để được ăn, ăn để được tồn tại. Thị chấp nhận theo khơng Tràng.
Đó là ý thức bám lấy sự sống.
Cận kề bên cái chết, người đàn bà không hề buông xuôi sự sống. Trái lại, thị
vẫn vượt lên trên cái thảm đạm để dựng xây mái ấm gia đình. Niềm lạc quan
yêu sống của thị chính là một phẩm chất rất đáng quý. Nói như Kim Lân: ”
Trong hồn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy
không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở
tương lai”.
Trên đường về nhà chồng tâm trạng của thị có sự thay đổi rõ nét. Nếu như
anh cu Tràng sung sướng, tự mãn, cái mặt vênh lên tự đắc với mình thì người

đàn bà lại cảm thấy xấu hổ. Trước cái nhìn “săm soi”, trước những lời bơng
đùa, chịng ghẹo của người dân ngụ cư. Thị ngượng nghịu, thiếu tự tin “chân nọ
bước díu cả vào chân kia… cái nón rách tàng che nửa khn mặt”.
Về đến nhà chồng, nhìn thấy“ngơi nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn
mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”, thị “nén một tiếng thở dài”. Đây là tiếng thở
dài ngao ngán, thất vọng nhưng cũng là sự chấp nhận. Ai ngờ cái phao mà thị
vừa bám vào lại là một chiếc phao rách. Trong tiếng thở dài đó vừa có sự lo
lắng cho tương lai ngày mai, vừa có cả những lo toan và trách nhiệm của thị về
gia cảnh nhà chồng. Đó phải chăng là thị đã ý thức được trách của mình đối với
việc cùng chồng chung tay gây dựng gia đình. Tấm lịng của thị thật đáng quý
biết bao.
Vào trong nhà, thị e thẹn, dè dặt “ngồi mớm” vào mép giường (“Ngồi mớm”
thế ngồi bấp bênh, không ổn định nhưng cũng rất ý tứ). Thị ý tứ, cung kính, lễ
phép chào bà cụ Tứ (chào đến hai lần). Đây là hình ảnh đẹp của người con dâu
rất mực thước trong quan hệ với mẹ chồng. Khi Tràng thưa chuyện với mẹ, thị
chỉ biết “đứng vân vê tà áo đã rách bợt”.
Sau đêm tân hôn, người phụ nữ ấy có sự thay đổi hồn tồn về tâm trạng và
tính cách. Thị dậy rất sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp, thu vén nhà cửa. Sự thay
đổi ấy người đọc cũng dễ nhận ra: nếu hôm qua Thị chua ngoa, đanh đá, chỏng
lỏn bao nhiêu thì hơm nay thị lại hiền lành bấy nhiêu. Hơn ai hết, Tràng cảm
nhận đầy đủ sự thay đổi tuyệt vời ấy: “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ
ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực khơng cịn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn
như những lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”. Câu văn này đã ghi lại cảm xúc chân
thật của Tràng trước sự đổi thay tích cực của vợ. Phải chăng tình u đích thực
với sức nhiệm màu diệu kì đã có sức cảm hóa với thị.


Trong bữa cơm đầu tiên tại gia đình chồng, dù bữa ăn chỉ có “niêu cháo lõng
bõng, mỗi người được lưng hai bát đã hết nhẵn”, lại phải ăn cháo cám nhưng
Thị vẫn vui vẻ, bằng lòng. Thị đã đem sinh khí, thơng tin mới mẻ về thời cuộc

cho mẹ con Tràng. Nghe tiếng trống thúc thuế, thị nói với mẹ chồng: “Trên mạn
Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta cịn
phá cả kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa đấy”. Sự hiểu biết này của thị
như đã giúp Tràng giác ngộ về con đường phía trước mà anh sẽ lựa chọn “trong
óc Tràng vẫn thấy đám người đói ầm ầm đi trên đê Sộp, phía trước có lá cờ đỏ
to lắm”. Qua đó, ta thấy nhân vật vợ Tràng, “nàng dâu mới” cũng là Người
truyền tin cách mạng.
Viết về sự đổi thay trong tâm lý của thị, Kim Lân bày tỏ tình cảm trân trọng,
ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người dân lao động nghèo. Tình cảm
nhân đạo của nhà văn thể hiện ở đây. Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Xây dựng
nhân vật người vợ nhặt, nhà văn đã đặt nhân vật vào tình huống truyện độc
đáo; diễn biến tâm lí được miêu tả chân thực, tinh tế; ngơn ngữ mộc mạc, giản
dị, phù hợp với tính cách nhân vật. Nghệ thuật trần thuật hấp dẫn, kịch tính…
Tóm lại, người “vợ nhặt” là một sáng tạo độc đáo của Kim Lân. Thông qua
nhân vật này, nhà văn đã thể hiện một ý nghĩa nhân văn cao đẹp. Con người
Việt Nam dù sống trong hoàn cảnh khốn cùng nào cũng sẽ luôn hướng về
tương lai với niềm tin mãnh liệt vào sự sống.
Dàn ý phân tích nhân vật bà cụ Tứ (3 Mẫu)
Dàn ý mẫu 1
I. Mở bài





Kim Lân là một cây bút có tài, các sáng tác của ông hướng vào chủ đề
chính là những người nông dân và cuộc sống ở nông thôn Việt Nam.
Tác phẩm Vợ nhặt: nằm trong tập truyện Con chó xấu xí, là bức tranh
chân thực về nạn đói năm 1945, là sự ngợi ca tình người, tình mẫu tử,
khát vọng sống.

Bà cụ Tứ là đại diện cho vẻ đẹp của những người nông dân, người mẹ
Việt Nam.

II. Thân bài
1. Giới thiệu nhân vật



Là một bà mẹ nghèo, già nua (lẩm nhẩm tính tốn theo thói quen
người già), là dân ngụ cư.
Ngoại hình: dáng đi lọng khọng, chậm chạp, run rẩy, vừa đi vừa ho
húng hắng, lẩm nhẩm tính tốn theo thói quen người già.


2. Diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ
- Trước sự đon đả của đứa con trai ngờ nghệch “bà lão phấp phỏng”.
- Bà không hề hay biết chuyện anh con trai đã nhặt một người vợ về, thấy người
đàn bà lạ trong nhà, bà rất ngạc nhiên: “quái, sao lại có một người đàn bà nào ở
trong ấy nhỉ?” “người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế
kia?”, “sao lại chào mình bằng u?”
- Sau tất cả sự ngạc nhiên, bà đã hiểu ra “biết bao nhiêu cơ sự”, “mắt bà nhoè
đi”:





Bà thương, buồn tủi cho con trai phải lấy vợ nhặt, mà trong cảnh đói
khát mới lấy được vợ “Chao ôi”, người ta dựng vợ gả chồng cho con là
lúc trong nhà ăn nên làm làm nồi ... cịn con mình thì ...”.

Bà cũng thấy hờn tủi cho chính mình, có lỗi với con trai bởi không thể
lo được chuyện dựng vợ gả chồng cho con chu đáo.
Bà cảm thương cho người đàn bà khốn khổ cùng đường mới phải lấy
con trai bà, thương cho cả sự ngờ nghệch của đứa con trai: “Người ta
có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình.
Mà con mình mới có vợ được ... ”

- Bà mừng vì con trai đã yên bề gia thất: “các con đã phải duyên ... u cũng
mừng lòng”, “cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên” chấp nhận đứa
con dâu vừa được nhặt về.
- Bà cụ Tứ dân lo lắng cho cuộc sống các con sau này: “chúng nó có ni nhau
sống qua được cơn đói khát này khơng”, “vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời
chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không”
- Bà đối xử tốt với nàng dâu mới bằng sự cảm thơng, trân trọng:




Ân cần quan tâm con: “Con ngồi đây ... đỡ mỏi chân”,
Nói về tương lai với niềm lạc quan “biết thế nào hở con, ai giàu ba họ,
ai khó ba đời”
Bảo ban các con làm ăn: “khi nào có tiền ta mua lấy đơi gà, ngoảnh
đi ngoảnh lại chả mấy mà có đàn gà cho xem”.

- Nhận xét: bà cụ Tứ là người mẹ nghèo hiền từ, chất phác, vị tha, nhân hậu, âm
thầm hi sinh vì hạnh phúc của con. Bà là nhân vật tiêu biểu cho những phẩm
chất tốt đẹp của người mẹ nghèo Việt Nam.
III. Kết bài



Cảm nhận riêng về hình tượng bà cụ Tứ.





Khái quát giá trị nghệ thuật: xây dựng tình huống truyện độc đáo,
miêu tả tâm lí nhân vật nhuần nhuyễn, ngôn ngữ giản dị, gần gũi.
Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc, phản ánh chân thực
tình cảnh người nơng dân trong nạn đói, mặt khác cũng phản ánh bản
chất tốt đẹp và sức sống mãnh liệt của họ.
Dàn ý chi tiết số 2

I. Mở bài
Vợ nhặt là tác phẩm xuất sắc của Kim Lân, viết về cuộc sống ngột ngạt của
nhân dân ta mà tiêu biểu là gia đình bà cụ Tứ trong nạn đói khủng khiếp năm
1945. Ngòi bút nhân đạo của Kim Lân vừa thể hiện ở sự phát hiện khẳng định
vẻ đẹp tinh thần ẩn giấu sau cái bề ngồi xác xơ vì đói khổ của nhân vật.
Trong ba nhân vật của truyện (bà cụ Tứ, Tràng và người đàn bà vợ Tràng), cụ Tứ,
mẹ Tràng, là nhân vật có tâm trạng phức tạp mà nhân hậu vô cùng di thể hiện
nổi bật nội dung nhân đạo sâu sắc, cảm động trong tác phẩm. Ngòi bút tài hoa
của Kim Lân đã diễn tả rất thành cơng trạng thái tâm lí đó
II. Thân bài
1. Sự ngạc nhiên đến sững sờ
Tình huống đặc biệt làm cho bà cụ Tứ ngạc nhiên, ấy là việc con trai mình lấy
vợ. Bà cụ ngạc nhiên vì con mình nghèo, xấu xí, dân ngụ cư lại đang thời buổi
đói khát, ni thân chẳng xong. Tràng cịn dám lấy vợ, rước thêm miệng ăn. Khi
bà cụ đi làm về muộn, thấy người đàn bà ngồi ở đầu giường con mình rất ngạc
nhiên, càng ngạc nhiên hơn khi được người đàn bà chào bằng u và được Tràng
giới thiệu: “Kìa nhà tơi nó chào u”..”Nhà tơi nó mới về làm bạn với tơi đấy u ạ”.

Bà ngạc nhiên đến mức khơng cịn tin được vào mắt và tai mình : “Bà lão hấp
háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhịe thì phải. Bà
lão nhìn kĩ người đàn bà lẫn nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà lão quay sang
nhìn con tỏ ý khơng hiểu”.
2. Vừa mừng vừa tủi
- Khi đã vỡ lẽ, đã hiểu ra con mình “nhặt” được vợ, bà “cúi đầu nín lặng”. Bà
liên tưởng đến bao cơ sự “ai ốn” “xót thương” cho số kiếp của đứa con mình.
Bà liên tưởng đến người chồng quá cố, đến đứa con gái đã qua đời, lịng bà trĩu
nặng tủi buồn, xót xa.


- Bà cụ Tứ mừng cho con từ nay yên bề gia thất, tủi thân làm mẹ không lo nổi
vợ cho con. Giờ đây giữa lúc người chết đói “như ngả rạ" lại có người theo con
trai bà về làm vợ. Cái tủi, cái buồn của người mẹ bị dồn vào cảnh nghèo cùng
quẫn. Biết lấy gì để cúng tổ tiên, đế trình làng khi con đã có vợ. Bà cụ Tứ khóc
vì mừng con có vợ, khóc vì thương con dâu khơng biết làm sao vượt qua nỗi khó
khăn này.
“Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rủ xuống hai dòng nước mắt”. “Chúng mày lấy
nhau lúc này, u thương q!...” “ừ thơi thì các con đã phải dun phải kiếp với
nhau, u cũng mừng lòng...”. “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi
chân”. Bao nhiêu tình yêu thương chân thành tha thiết của người mẹ thể hiện
trong những lời giản dị mộc mạc ấy.
- Bà cụ xót xa thương dâu, thương con, tủi phận mình: “bà cụ nghẹn lời khơng
nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”. Bao nhiêu lo lắng ngổn
ngang trong lòng.
3. Nỗi lo
Bà cụ Tứ lo lắng thực sự cho con trai, con dâu, lo cho cái gia đình nghèo túng
của bà giữa lúc đói kém này liệu có ni nổi nhau? Tương lai rồi sẽ ra sao. Bà
chấp nhận cái “hạnh phúc” éo le của gia đình. Ngẫm cái phận nghèo bà tự nhủ:
“Có gặp bước khó khăn, đói khổ này người ta mới lấy đến con mình. Mà con

mình mới có vợ được..”. Bà chỉ biết khuyên con, khuyên dâu thương yêu nhau,
ăn ở hòa thuận với nhau để cùng vượt qua cơn khốn khó. Đó là nỗi lo, nỗi
thương của người mẹ từng trải, hiểu đời có tấm lịng sâu thẳm đối với mình.
Trong sự lo lắng tủi hờn vẫn nhen nhóm một niềm tin.
4. Niềm tin
- Trong cái mừng, cái tủi, cái lo, người đọc vẫn thấy được niềm vui của cụ. Một
niềm vui tội nghiệp không sao cất cánh lên được, cứ bị cái buồn, cái lo níu kéo
xuống. Nhưng bà cụ Tứ cố vui và gắng làm cho con, cho dâu vui.
+ Vui trong ý nghĩ tốt đẹp về tương lai: “Rồi ra may mà ông giời cho khá…” ai
giàu ba họ ai khó ba đời. Có ra thì con cái chúng mày về sau. Bà cụ “nói tồn:
chuyện vui, tồn chuyện sung sướng sau này".
+ Vui trong công việc sửa sang vườn tược, nhà cửa. Bà cụ giẫy cỏ cho sạch
vườn. “Cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xăm thu dọn,
quét tước nhà cửa”.


+ Vui trong bữa cơm sáng, bữa cơm đầu liên có con dâu đó là một bữa “tiệc với
món cháo lỗng và món “chè khối” đắng chát - một bữa ăn ngày đói rất thảm
hại nhưng bà cụ cố tạo ra niềm vui để động viên an ủi con trai, con dâu.
- Mặc dù cuộc sống khắc nghiệt đến tàn bạo đã đầy đọa mẹ con bà. Bà vẫn cố
tạo khơng khí hịa thuận ấm cúng trong gia đình và kể chuyện làm ăn, nuôi gà
tươi cười đon đả múc cho con dâu những bát cháo cám.
Tuy nhiên cái vui ấy, dù là rất nhỏ bé mà vẫn mong manh, vẫn chìm đi trong cái
tăm tối hiện tại: Tiếng khóc, mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết đói.
Bà cụ nghĩ đến ơng lão, đến đứa con út, đến cuộc đời cực khổ dài dặc dặc của
mình, đến cái “đói to” trước mắt. Bà cụ phấp phỏng nghĩ về con trai, về con
dâu.
Nhân vật bà cụ Tứ mang nét đạo lí truyền thống:
Trong cái thân hình khẳng khiu, tàn tạ, với “cái mặt bủng beo, u tối” '"bà vẫn
nung nấu một ý chí sống mãnh liệt. Bà là hiện thân của những người mẹ nghèo

khổ mà từng trải, hiểu biết: hết lòng thương yêu con, yêu thương những cảnh
đời tội nghiệp, oái oăm. Bà nung nấu một khái vọng về cuộc sống gia đình hạnh
phúc.
III. Kết bài
Qua nhân vật bà cụ Tứ, với những diễn biến tâm trạng phức tạp - dưới ngòi bút
nhân đạo của Kim Lân - nội dung nhân đạo sâu sắc, cảm động của “Vợ nhặt” đã
động chạm đến nơi sâu thẳm nhất của lịng người, bắt độc giả phải khóc, phải
cười, phải sống cùng nhân vật của mình.
Dàn ý chi tiết số 3
Bài văn mẫu số 4
Trước và sau Cách mạng tháng Tám, dù viết không nhiều nhưng giai đoạn nào
Kim Lân cũng có tác phẩm hay. Là một cây bút truyện ngắn vững vàng, ông đã
viết về cuộc sống và con người ở nơng thơn bằng tình cảm, tâm hồn của một
nhà văn chân chất vốn là đứa con của đồng ruộng. Trong bối cảnh của nạn đói
năm 1945, Kim Lân viết truyện ngắn Vợ nhặt. Tác phẩm là một đóng góp xuất
sắc cho nền văn xuôi dân tộc. Với một cốt truyện đơn giản nhưng tình huống
truyện độc đáo và hấp dẫn. Vợ nhặt đề cập đến một vấn đề lớn có tính hiện
thực và nhân đạo sâu sắc; những con người Việt Nam lương thiện, trong tai họa


đói kém khủng khiếp do thực dân, phát xít gây ra, đã cưu mang đùm bọc nhau
và hi vọng, trông chờ vào sức mạnh giải phóng của cách mạng. Ấn tượng sâu
đậm của người đọc với tác phẩm có lẽ là tấm lòng đáng quý của mẹ con Tràng
và cũng là tâm lòng thật đáng quý của nhà văn đối với những người lao động
nghèo khổ.
Anh Tràng có vợ trong một hồn cảnh khơng bình thường. Khơng phải anh Tràng
cưới vợ, cũng không phải là lấy vợ theo nghĩa thông thường mà là "nhặt vợ", nói
như người miền Trung và miền Nam là "lượm vợ" ở ngoài đường. Nhưng việc làm
đó lại có ý nghĩa nhân ái của một tấm lịng nhân hậu. Thấy người đàn bà đói
q anh sẵn sàng cho ăn dù chẳng dư dật gì. Thấy người đàn bà quyết tâm theo

mình, dù cũng sợ cho tương lai, anh vẫn không nỡ nào từ chối. Tràng dắt vợ về
nhà trong một tâm trạng vừa lo lắng bâng quơ và sung sướng một cách mới mẻ,
lạ lẫm...
Nhân vật thứ hai của câu chuyện, bà cụ Tứ, mẹ Tràng khơng được tác giả nói
đến nhiều nhưng qua những nét đặc tả và tâm lý tính cách rất chân thật sinh
động, nhân vật đã tạo được một sự cảm thông sâu sắc với người đọc. Cũng như
Tràng, người mẹ khốn khổ, già yếu sống trong một xóm ngụ cư vất vưởng ấy
một người đàn bà nhân hậu.
Vừa về đến nhà, thấy một người đàn lạ, bà cụ Tứ "đứng sững lại" hết sức ngạc
nhiên, "thế là thế nào". Bà không thể tin rằng con mình lấy vợ trong hồn cảnh
này. Nhưng khi hiểu ra cớ sự, "bà lão cúi đầu nín lặng", bà hờn tủi xót thương
cho số kiếp của đứa con mình và cho thân phận của mình. "Chúng nó có ni
nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?". Rồi bà cảm thấy khổ tâm,
nghèo quá lấy gì để ra mắt bạn bè lối xóm. "Kể có ra làm được dăm ba mâm thì
phải đấy, nhưng nhà quá nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chi cái lúc này
chúng mày lấy nhau lúc này, u thương q". Và nỗi khổ tâm đau xót ấy cơ đọng
lại, biến thành những "dòng nước mắt chảy xuống ròng ròng" thật tội nghiệp.
Trong truyện ngắn Một đám cưới của Nam Cao cảnh đời đã khổ (phải rước dâu
vào ban đêm để mọi người khỏi thấy cô dâu rách rưới, nhờ có đám cưới con, cha
mẹ mới được một bữa ăn no), ở chuyện này, cái khổ nhiều hơn gấp bội. Bữa ăn
đầu tiên của gia đình thay cho đám cưới là một bữa "chè cám".
Đem một người đàn bà xa lạ về làm vợ trong một hoàn cảnh như vậy, mẹ nghĩ
thế nào? Tràng lo lắm chứ. Khi biết mẹ đồng ý trước một sự việc đã rồi "Tràng
thở phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi". Bởi người mẹ ấy có quyền khơng đồng tình,
có quyền trách mắng Tràng. Nhưng vì thương con bà cụ cũng thương dâu. Bà


hiểu ra rằng dù sao người ta chịu lấy con mình cũng là điều đáng quý. Với
những người già cả, trong môi trường xã hội phong kiến khắt khe, không phải ai
cũng dễ dàng nhận ra điều ấy. Bà "nghĩ đến cuộc đời cơ cực khổ dài dằng dặc

của mình" rồi nhìn đứa con dâu cũng cực khổ như mình "lịng đầy thương xót".
Trong khơng khí ngại ngùng, lúng túng của mọi người, bà đã có thái độ tế nhị,
quan tâm đầy nhân hậu.
Bà nói đỡ cho cơ dâu cịn xấu hổ: "Con ngồi xuống đáy, ngồi xuống đây cho đỡ
mỏi chân". Bà lưu tâm ý tứ đến tình cảm riêng tư của con: "Hôm nào nghỉ ở nhà
kiếm lấy ít nứa về đan cái phên mà ngăn ra mày ạ".
Tấm lịng của người mẹ ấy thật đáng q. Khơng lo nổi vợ cho con, nay nó có vợ
thì bà cũng mừng và thấy phải có trách nhiệm với nó. Bà cố nén nỗi buồn, nỗi
lo, động viên con tin ở sự sống và tương lai bằng việc làm chăm sóc của mình.
Bà cùng cơ dâu mới sửa sang dọn dẹp lại nhà cửa, động viên nhau bằng những
chuyện vui, chuyện tương lai sáng sủa: Khi nào có tiền mua lấy đôi gà này
ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem". Trước cái hạnh
phúc nhỏ bé của con, cuộc sống của bà mẹ dường như cũng được đổi khác, bà
"cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thương, cái mặt bủng beo u ám của bà
rạng rỡ hẳn lên". Từ thái độ bao dung ấy, hạnh phúc đơn sơ nhưng tấm lòng đã
đến với mọi người. Nhân vật bà cụ Tứ đã mang được một ý nghĩa khái quát lớn:
ở thời đại nào, hoàn cảnh nào tâm trạng của những bà mẹ nghèo cũng thật tội
nghiệp, họ hiểu con, thương con, lo lắng cho con nhưng vì nghèo khổ họ phải
chịu đắng cay, chua xót.
Với một cốt truyện đơn giản nhưng tính cách nhân vật được xây dựng tinh tế,
truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân đã nêu lên được những vấn đề có tính nhân
bản sâu sắc. Con người lao động dù ở tình huống bi thảm đến đâu vẫn khao
khát hạnh phúc và họ tìm thấy khi biết cưu mang giúp đỡ lẫn nhau. Cảm động
biết bao, dưới cái nhìn nhân ái của nhà văn, những con người khốn khổ ấy đã có
thể tìm thấy những hạnh phúc, dù nhỏ nhoi trong cuộc đời.
Vợ nhặt của Kim Lân như một sự tiếp nối tất yếu của những tác phẩm hiện thực
phê phán của Nam Cao, Tơ Hồi từ trước Cách mạng tháng Tám. Cảnh đời cũng
vẫn là tối tăm, ngột ngạt, nhưng nhân vật của Kim Lân đã có được niềm tin và
hi vọng vào cuộc sống. Và chắc chắn cuộc đời sẽ được đổi khác, hình ảnh cuối
cùng của tác phẩm "lá cờ đỏ bay phấp phới" thể hiện niềm tin đó.

Bài văn mẫu số 5


Kim Lân là cây bút truyện ngắn xuất sắc. Ông viết rất hay về thú "phong lưu
đồng ruộng". "Nên vợ nên chồng" và "Con chó xấu xí" là hai tập truyện ngắn nổi
tiếng của nhà văn. Vợ nhặt - một truyện ngắn độc đáo rút trong tập "Con chó
xấu xí" xuất bản năm 1962. Truyện thấm đẫm tinh thần nhân đạo đã phản ánh
cuộc đời nghèo khổ, cơ cực và khát vọng về hạnh phúc gia đình của người nơng
dân Việt Nam trong thời Pháp thuộc. Bối cảnh của truyện là trận đói kinh khủng
năm 1945. Nhà văn kể về chuyện anh cu Tràng "nhặt" được vợ khi cả xóm ngụ
cư người chết đói như rạ. Trong ba nhân vật của truyện, hình ảnh bà cụ Tứ - mẹ
anh cu Tràng để lại cho người đọc nhiều ấn tượng.
Cuộc đời bà cụ Tứ thật đáng thương: tuổi già, nhà nghèo, góa bụa, hiền lành và
thầm lặng ... Bà cụ lần đầu xuất hiện trong bóng hồng hơn tê tái, khi người con
trai làm nghề kéo xe dẫn người đàn bà xa lạ về gia đình bà. Một mái nhà tranh
"đứng rúm ró trên mảnh vườn cỏ mọc lổn nhổn những cái bụi cỏ dại". Sau tấm
phên rách nát là những "niêu bát, sống áo vứt bừa bãi cả trên giường dưới đất".
Người mẹ già nghèo khổ "hung hắng ho" chẳng khác nào một chiếc bóng "lọng
khọng đi vào ngõ". Bà cụ ngạc nhiên khi chợt thấy một người đàn bà xa lạ đứng
ngay đầu giường thằng con mình. Bà lão "đứng sững lại ", càng ngạc nhiên hơn.
Bà băn khoăn tự hỏi: "Sao lại chào mình bằng u? Khơng phải cái Đục mà. Ai thế
nhi?". Bà hấp háy mắt, thấy mắt mình "nhoèn ra", ... rồi "lập cập" bước vào nhà.
Lại nghe một tiếng chào nữa, bà lão "băn khoăn" ngồi xuống giường, lịng bà
phân vân khơng kể xiết! Sau khi nghe Tràng giới thiệu người khách lạ, bà cụ Tứ
vừa mừng vừa lo lại tủi thân. Lòng bà xáo trộn bao nỗi niềm. Một đời người trải
qua nhiều đau khổ, mất mát, cay đắng, bà lấy làm xót xa, thấy mình làm mẹ
mà khơng trịn bổn phận với con. Bà khóc. Tâm trạng cay đắng, chua xót: "Lịng
người mẹ già nghèo khổ ấy vừa ai ốn, vừa xót thương cho số kiếp đứa con
mình". Bà cụ Tứ nghĩ đến gia cảnh mà thêm buồn ủi. Tiếng than, tiếng thở dài
như tràn qua dòng nước mắt. Thương con, thương cho số phận mình, những

tháng năm dài dằng dặc với bao chuyện buồn. Bà thương mình trải qua một
cuộc đời đầy cay đắng: "Chao ôi! Người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc
trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái nở mặt sau này. Cịn
mình thì..."
Nạn đói đang đe dọa. Bà phấp phỏng lo âu: "Chúng nó có ni nổi nhau sống
qua được cơn đói khát này khơng!". Góa bụa, nghèo khổ, cơ đơn. Chồng chết rồi
mụn con gái chết theo. Bà sống với đứa con trai thơ kệch "mắt nhỏ tí, quai hàm
bạnh ra" lại có tật vừa đi vừa lẩm bẩm như người dở hơi. Bà mỗi ngày một già
mà Tràng vẫn sống độc thân. Tục ngữ có câu: "Trẻ cậy cha, già cậy con". Bà mẹ
già càng thấy buồn, lo vô hạn. Tuy mặc cảm cho số phận, bà chợt nghĩ ngay


đến cái may của gia đình mình: Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này,
người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có vợ được". Hạnh phúc đến
với tuổi già quá lớn lao và đột ngột! Niềm vui xơn xao dậy lên trong lịng người
mẹ già nghèo khổ. Bà vui sướng nhận nàng dâu mới. Cử chỉ bà rất dịu dàng, âu
yếm. Bà gọi người đàn bà xa lạ là "con" rồi xưng hô một cách thân tình, ruột
thịt: "Ừ! Thơi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng".
Bà nhìn nàng dâu mà lịng đầy thương cảm. Vượt qua mọi tục lệ, bà vui mừng
từ nay con trai bà đã có vợ. Bà sung sướng về hạnh phúc của con. Mừng mừng
tủi tủi, nước mắt chảy ra ròng ròng.
Mẫu tử tình thâm! Lịng mẹ già đối với con trai và nàng dâu thật là mênh mông.
Bà hạ thấp giọng xuống thân mật, vừa khuyên con vừa an ủi: "cốt làm sao cho
chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy
nhau lúc này, u thương quá...''.
Kim Lân rất tinh tế khi miêu tả những biến thái trong tâm hồn bà cụ Tứ. Cảnh
mẹ chồng đón nàng dâu mới, đơn sơ nghèo nàn mà cảm động. Tâm trạng người
mẹ già lúc thì ngạc nhiên lo lắng, lúc thì vui buồn lẫn lộn. Mặc cảm về phận
nghèo, nhưng lịng bà vẫn ít nhiều hi vọng về cuộc đời của con: "rồi ra may mà
ông trời cho khá... biết thế nào hả con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời. Có ra thì

con cái chúng mày về sau..."
Bữa cơm đón nàng dâu mới sau "tối tân hôn" của Tràng là một nét vẽ rất tài
tình, giàu tình nhân bản. Trên cái mẹt rách làm mâm là một đĩa muối, một lùm
rau chuối thái rồi và một nồi cháo cám. Mỗi người được hai bát cháo lõng bõng.
Thế mà bà cụ Tứ rất vui. Trong bữa bà nói tồn chuyện vui, tồn chuyện sung
sướng này. Bà gọi nồi cháo cám "đắng chát" là "chè khoán", rồi rít khen ngon
đáo để,ít nhiều tự hào, an ủi động viên con trai và nàng dâu: "Cám đấy mày ạ!
ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà cịn chả có cám mà ăn đấy!".
Mượn ngoại cảnh, sự việc để phô diễn tâm trạng nhân vật cũng là một thành
công của Kim Lân khi khắc họa tâm trạng bà cụ Tứ khi cuộc đời mới đang hé
mở. Cảnh tượng mới mẻ, đổi thay trong nhà ngoài sân: "hai cái ang đầy nước,
đống rác mùn tung hoành ngay lối đi đã được hốt sạch. Mấy chiếc áo quần rách
bươm như tổ đĩa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã được đem ra
phơi...". Nhà cửa, sân ngõ được quét dọn sạch sẽ, quang quẻ. Bà cụ Tứ cùng
con dâu "lúi húi" giẫy cỏ. Cuộc đời của bà, của con bà, gia đình bà bắt đầu đổi
thay. Tiếng hờ khóc tỉ tê của những nhà có người thân mới chết đói. Nước mắt
bà cụ Tứ lại chảy ra, nhưng hà "khơng dám để con dâu nhìn thấy bà khóc". Trên


cái nền đen tối ấy là hình ảnh lá cờ đỏ và đồn người đi phá kho thóc của Nhật.
Trong lo âu có niềm vui phấp phỏng, thống hiện mơ hồ. Nạn đói chưa thể vượt
qua, nhưng người mẹ già phúc hậu, từng trải là chỗ dựa cho hai vợ chồng Tràng
đi tới để khẳng định niềm tin: "Ai giàu ba họ, ai khó ba đời..."
Hạnh phúc cầm tay. Con trai đã có vợ. Bà cụ Tứ lo chết đói nhưng lịng vẫn vui
và hi vọng. Có một chi tiết đầy ý nghĩa. Có lẽ lần đầu tiên trong nhà người mẹ
nghèo khổ đã có hai hào dầu thắp đèn, bóng tối đang bị xua tan dần. Đó là ánh
sáng của hạnh phúc, ánh sáng của hi vọng.
Trong bài thơ "Ba mươi năm đời ta có Đảng", Tố Hữu viết:
"Đời ta gương vỡ lại lành
Cây khô cây lại đâm cành nở hoa"

Cuộc đời của mẹ con Tràng nhất định sẽ "đâm cành nở hoa". Có biết trận đói
năm Ất Dậu 1945, hơn hai triệu đồng bào ta chết đói mới thấy hết lòng mẹ được
miêu tả, mới cảm nhận được giá trị nhân đạo của truyện ngắn Vợ nhặt này

RỪNG XÀ NU
Hình tượng nhân vật Tnú - Mẫu 4
Mỗi nhà thơ, nhà văn đều có cho riêng mình một vùng đất gắn bó thiết tha. Đó
là Tơ Hồi u mến và trân trọng những vẻ đẹp của rừng núi và con người Tây
Bắc hay Nguyễn Quang Sáng sống trọn đời mình với vùng đất Nam Bộ bình dị
mà thân thương. Đến với Nguyễn Trung Thành, ta bắt gặp một tâm hồn gắn bó
máu thịt với vùng đất Tây Nguyên, nơi có những đồi xà nu đại ngàn và những
con người anh dũng, kiên trung. “Rừng xà nu” là truyện ngắn xuất sắc của
Nguyễn Trung Thành con người và mảnh đất anh hùng ấy. Bằng ngòi bút tài hoa
và thấm đẫm yêu thương của mình, tác giả đã xây dựng hệ thống nhân vật vô
cùng phong phú, đại điện cho lớp lớp những con người Tây Nguyên kiên cường,
bất khuất trong cuộc chiến chống giặc ngoại xâm, trong đó Tnú là hình tượng
tiêu biểu nhất.
Sinh ra trong thời buổi đất nước bị giặc ngoại xâm lăng, từ nhỏ Tnú sớm chịu
nhiều thiệt thịi khi mơ cơi cha mẹ, lớn lên trong sự yêu thương và chở che, đùm
bọc của dân làng Xơ Man. Có lẽ, cũng chính vì vậy mà tình u thương, gắn bó
với làng q ln thường trực trong tâm hồn Tnú. Những ngày được cụ Mết


×