Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

Học thuyết tiến hóa của charles darwin và ý nghĩa của nó đối với chủ nghĩa duy vật biện chứng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 128 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


TRẦN THỊ KHÁNH LINH

HỌC THUYẾT TIẾN HÓA
CỦA CHARLES DARWIN VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ
ĐỐI VỚI CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


TRẦN THỊ KHÁNH LINH

HỌC THUYẾT TIẾN HÓA
CỦA CHARLES DARWIN VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ
ĐỐI VỚI CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG

Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 8.22.90.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:


PGS.TS: VŨ VĂN GẦU

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2020


LỜI CAM ĐOAN

Luận văn này là cơng trình do chính tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn của PGS.
TS. Vũ Văn Gầu. Nội dung trong luận văn chưa từng được cơng bố dưới bất kì hình
thức nào, tài liệu tham khảo và trích dẫn trong luận văn là hồn tồn chính xác.
Nếu những lời cam đoan trên khơng đúng sự thật, tơi xin hồn tồn chịu
trách nhiệm.
TP. Hồ Chí Minh, ngày ... tháng ... năm 2020
Người cam đoan

TRẦN THỊ KHÁNH LINH


MỤC LỤC

Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG ................................................................................................10
Chƣơng 1. HỌC THUYẾT TIẾN HĨA CỦA CHARLES DARWIN .............10
1.1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH HỌC THUYẾT TIẾN HÓA CỦA CHARLES DARWIN .............. 10

1.1.1. Điều kiện kinh tế, xã hội nước Anh nửa đầu thế kỉ XIX đối với sự hình thành
học thuyết tiến hóa của Charles Darwin ..................................................................... 10
1.1.2. Tiền đề lý luận và tiền đề khoa học đối với sự hình thành học thuyết tiến hóa
của Charles Darwin ..................................................................................................... 21

1.1.3. Khái quát cuộc đời và sự nghiệp của Charles Darwin ..................................... 31
1.2. NỘI DUNG CƠ BẢN HỌC THUYẾT TIẾN HÓA CỦA CHARLES DARWIN VÀ SỰ
PHÁT TRIỂN HỌC THUYẾT TIẾN HÓA SAU CHARLES DARWIN .................................. 35

1.2.1. Nội dung cơ bản học thuyết tiến hóa của Charles Darwin .............................. 35
1.2.2. Sự phát triển học thuyết tiến hóa sau Charles Darwin ..................................... 53
Kết luận chƣơng 1 .................................................................................................61
Chƣơng 2. GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ HỌC THUYẾT TIẾN HÓA CỦA
CHARLES DARWIN VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI CHỦ NGHĨA DUY
VẬT BIỆN CHỨNG .......................................................................................64
2.1. GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ HỌC THUYẾT TIẾN HÓA CỦA CHARLES DARWIN .....64

2.1.1. Giá trị học thuyết tiến hóa của Charles Darwin ............................................64
2.1.2. Hạn chế học thuyết tiến hóa của Charles Darwin .........................................70
2.2. Ý NGHĨA HỌC THUYẾT TIẾN HÓA CỦA CHARLES DARWIN ĐỐI VỚI CHỦ
NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG ..............................................................................76

2.2.1. Chứng minh tính đúng đắn của thế giới quan duy vật biện chứng ...............76
2.2.2. Chứng minh tính đúng đắn của phương pháp luận biện chứng duy vật..... 90
2.2.3. Ý nghĩa của sự phát triển học thuyết tiến hóa sau Charles Darwin đối với
chủ nghĩa duy vật biện chứng ...............................................................................106
Kết luận chƣơng 2 ...............................................................................................114
PHẦN KẾT LUẬN CHUNG ..............................................................................117
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...........................................................121


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngay từ khi ra đời, triết học đã gắn kết chặt chẽ với sự phát triển của khoa

học tự nhiên. Nhiều nhà triết học đồng thời cũng là những nhà khoa học, chúng ta
có thể lấy ví dụ như Thales, Pythagoras, Descartes, Pascal, Bacon,... Sự liên minh
này mang ý nghĩa quan trọng đối với cả triết học lẫn khoa học tự nhiên, bởi các
nhà triết học thì sử dụng những thành quả của khoa học tự nhiên để luận chứng cho
quan điểm của mình, cịn các nhà khoa học tự nhiên lại vận dụng những nguyên lý,
quy luật của triết học để có thể hệ thống hóa, khái quát hóa các khoa học riêng
biệt. Sự ảnh hưởng lẫn nhau này có thể được minh họa rõ rệt vào thế kỉ XVII,
XVIII. Đây là giai đoạn cơ học đang đứng ở vị trí thống trị trong khoa học, mà ảnh
hưởng của nó để lại trong triết học chính là việc con người có quan điểm máy móc,
siêu hình về thế giới. Từ đó, với thế giới quan và phương pháp luận chưa được
chính xác, khiến các nhà khoa học cũng rơi vào sai lầm khi nghiên cứu và đưa ra
kết luận. Điều này tạo cơ sở cho mối quan hệ giữa triết học và khoa học với tôn
giáo vẫn chưa thể chấm dứt. Cho đến những năm 40 của thế kỉ XIX, với sự xuất
hiện của Marx và Engels, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã ra đời và tạo nên một
bước ngoặt trong triết học. Với thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện
chứng, Marx và Engels đã xây dựng nên một hệ tư tưởng mang tính khoa học và
cách mạng, dựa trên sự bám sát vào thực tiễn sinh động của con người. Trong đó
cả hai đều nhận thấy rõ sự tất yếu phải liên minh của triết học và khoa học tự
nhiên, do vậy hai ông luôn theo dõi những thành tựu của khoa học tự nhiên đương
thời để làm tài liệu cho những quan điểm triết học của mình.
Trong quá trình hình thành và phát triển, chủ nghĩa duy vật biện chứng tất
yếu phải đấu tranh với những quan điểm duy tâm, siêu hình về thế giới, trong đó
có những quan điểm về thế giới hữu cơ hay về giới sinh vật. Từ những năm đầu
thế kỉ XIX trở về trước, quan điểm tôn giáo đang là quan điểm thống trị khi con
người nói về sự sống hay về sự sáng tạo ra thế giới hữu cơ. Ở đó, tất cả sinh vật kể
cả con người đều do bàn tay của một quyền lực tối cao nào đó sáng tạo nên, và sự
sáng tạo này diễn ra một cách đồng thời và chỉ một lần. Đến ngay cả nhà khoa học


2

lỗi lạc nhất thời kì đó như I. Newton (1642-1727), cũng đã phải viện dẫn đến một
“cú hích đầu tiên của Thượng Đế” khi nhắc đến vấn đề này. Chủ nghĩa duy vật
biện chứng, tất yếu phải đấu tranh chống lại những quan điểm duy tâm tôn giáo
như trên. Sự đấu tranh này không thể chỉ dựa trên những quan điểm duy vật biện
chứng – cái nằm trong tư tưởng, mà còn phải được dựa trên những khám phá khoa
học để có thể lấy chúng làm cơ sở vững chắc cho những quan điểm của mình. Và
tại thời điểm đó, có ba phát minh khoa học vĩ đại được Engels nhắc đến như là cơ
sở khoa học mang tính bước ngoặt cho sự ra đời chủ nghĩa duy vật biện chứng,
chính là định luật bảo tồn và chuyển hóa năng lượng, thuyết tế bào và thuyết tiến
hóa của Darwin. Trong đó, thuyết tiến hóa của Darwin, được cơng bố lần đầu tiên
vào năm 1859, đã thực sự gây được một ảnh hưởng lớn đối với giới sinh học, đồng
thời cũng đã đánh một địn chí mạng vào những quan điểm duy tâm, tôn giáo về sự
sống, về giới tự nhiên. Thành tựu nghiên cứu này của Darwin đã chỉ ra rằng mọi
sinh vật kể cả con người đều có nguồn gốc chung; từ nguồn gốc chung ấy, trải qua
một quá trình tiến hóa – q trình được tiến hành thơng qua cơ chế chọn lọc tự
nhiên – mới tạo nên được sự đa dạng, phong phú của giới sinh vật như hiện nay.
Chính nhờ quan điểm này, mà thuyết tiến hóa của Darwin thực sự đã đem lại
những luận chứng xác đáng cho chủ nghĩa duy vật biện chứng trong phạm vi thế
giới hữu cơ, góp phần phát triển thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện
chứng. Điều này cũng được Marx khẳng định trong thư gửi Engels vào năm 1860,
chỉ một năm sau khi thuyết tiến hóa ra đời: “... cuốn sách này đem lại cơ sở lịch sử
- tự nhiên cho các quan điểm của chúng ta” (Marx & Engels,1997, t.30, tr.173). Do
vậy, việc tìm hiểu học thuyết tiến hóa của Darwin là một điều cần thiết để có thể
chứng minh cho tính khoa học và cách mạng của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
đặc biệt là trong giới hữu cơ.
Mặt khác, hiện nay khoa học tự nhiên nói chung và sinh học nói riêng đang
có những bước tiến vô cùng mạnh mẽ, nhất là khi chủ nghĩa tư bản vẫn đang ngày
càng phát triển và bành trướng. Các thành tựu khoa học chính là những giá đỡ
vững chắc cho sự phát triển ấy, và ngược lại chính chủ nghĩa tư bản cũng đã định
hướng cho những nghiên cứu khoa học theo hướng có lợi nhất cho mình. Có thể ví



3
dụ như sinh học hiện đại ngày nay dường như khơng cịn vây xung quanh về
những vấn đề nguồn gốc hay sự ra đời các lồi, mà nó đang nỗ lực nghiên cứu
ngày càng dựa trên nhu cầu trực tiếp của con người. Trong các phịng thí nghiệm,
những sinh vật mới với những đặc tính mới đã ra đời dưới sự tác động của con
người; ví dụ như các cơ thể hữu cơ gắn với công cụ phi hữu cơ như tay máy, mắt
nhân tạo,... hay là những trí tuệ nhân tạo AI có những hành vi, bộc lộ những cảm
xúc giống con người,... Những thành tựu khoa học như vậy khơng thể phủ nhận
rằng có những lợi ích to lớn trong việc giúp đỡ con người, tạo một môi trường
sống ngày càng tiện ích và thoải mái hơn. Nhưng thật trớ trêu, những gì giúp đỡ
con người cũng có thể hủy hoại con người, nếu chúng ta không nhận thức được
những quy luật tất yếu, nhất là những vấn đề liên quan đến xã hội. Bên cạnh đó,
mối quan hệ giữa con người với tự nhiên ngày càng là một vấn đề cấp thiết, bởi
chúng ta đang phải trả giá cho những sai lầm trong việc phát triển không bền vững
gây nên. Trong năm 2019, đã có nhiều cuộc cháy rừng lớn diễn ra ở khắp các châu
lục, như Amazon ở châu Mỹ, Indonesia ở châu Á, Australia ở châu Úc,... khi thời
tiết các nơi đều ngày càng trở nên khắc nghiệt hơn bao giờ hết. Tất cả những hệ
quả này đều do chính con người tạo ra thơng qua sự tàn phá tự nhiên để làm giàu
cho chính mình. Những hiện tượng mang tính chất tồn cầu như vậy đặt ra những
nan đề buộc con người phải đưa ra lựa chọn để hành động. Và những lựa chọn này
có thể giúp con người hàn gắn những sai lầm hay khơng lại hồn tồn phụ thuộc
vào sự hiểu biết của chúng ta đối với thế giới này. Với thực tế như vậy, việc xem
xét lại mối quan hệ giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng và khoa học là điều cần
thiết; trong đó, ngành sinh học dường như là một trong những ngành quan trọng
nhất bởi nó liên quan đến chính những sinh vật đang sống trên trái đất. Và học
thuyết tiến hóa, khơng nghi ngờ gì chính là một nền tảng cho lĩnh vực sinh học. Vì
thế việc tìm hiểu nó sẽ giúp chúng ta có được cái nhìn sâu sắc nhất về giới sinh vật
đã được tạo ra như thế nào, con người có nguồn gốc từ đâu. Thơng qua đó, chúng

ta có thể hiểu rõ hơn được những quan điểm về thế giới của chủ nghĩa duy vật biện
chứng đã được luận giải như thế nào, đồng thời khẳng định được sự liên minh
ngày càng vững chắc của khoa học và triết học nói chung, chủ nghĩa duy vật biện


4
chứng nói riêng. Đó cũng chính là lý do tác giả chọn đề tài “Học thuyết tiến hóa
của Charles Darwin và ý nghĩa của nó đối với chủ nghĩa duy vật biện chứng” làm
đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Học thuyết tiến hóa của Darwin ra đời như là một cuộc cách mạng trong
lĩnh vực sinh học hiện đại. Trải qua gần 160 năm kể từ khi xuất hiện, cho đến nay
nó vẫn cịn giữ ngun giá trị của mình, dù xung quanh học thuyết này vẫn còn
nhiều vấn đề gây tranh cãi. Chính vì vậy đã có nhiều cơng trình của các nhà nghiên
cứu về học thuyết tiến hóa ở nhiều góc độ khác nhau, trong đó có những cơng trình
liên quan đến mối liên hệ giữa học thuyết tiến hóa và chủ nghĩa duy vật biện
chứng. Chúng ta có thể khái qt các cơng trình nghiên cứu liên quan đến đề tài
luận văn “Học thuyết tiến hóa của Charles Darwin và ý nghĩa của nó đối với chủ
nghĩa duy vật biện chứng” theo ba hướng như sau:
Thứ nhất, đó là các cơng trình nghiên cứu về học thuyết tiến hóa của
Darwin. Liên quan đến chủ đề này, có các cơng trình cơ bản như Học thuyết tiến
hóa (Trần Bá Hồnh, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1988) và Giáo trình tiến hóa (Nguyễn
Xuân Viết, Nxb. Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2009). Cả hai cơng trình đều được
trình bày theo cách tương tự nhau, bao gồm hai phần: Lịch sử phát triển học thuyết
tiến hóa và Thuyết tiến hóa hiện đại. Trong phần một, tác giả nêu rõ được sự phát
triển học thuyết tiến hóa theo từng giai đoạn: trước Darwin, của Darwin và sau
Darwin; đồng thời đưa ra những bằng chứng cho thấy học thuyết tiến hóa của
Darwin là chính xác và khoa học. Phần hai của cơng trình nghiên cứu lại trình bày
về thuyết tiến hóa hiện đại, trong đó có một chương bàn đến vấn đề nguồn gốc con
người theo thuyết tiến hóa. Với tư cách là giáo trình thuộc lĩnh vực sinh học, hai

cơng trình thực sự đã đem lại những kiến thức đầy đủ và rõ nét nhất về học thuyết
tiến hóa, khơng những của Darwin mà còn của những nhà sinh học khác.
Bên cạnh đó cịn có cơng trình 150 năm thuyết tiến hóa và Charles Darwin
(Chu Hảo, Nguyễn Quang Riệu, Trịnh Xuân Thuận, Nguyễn Xuân Xanh, Phạm
Xuân Yêm, Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2010). Đây là một cuốn kỷ yếu được biên tập
nhân kỉ niệm 150 năm học thuyết tiến hóa ra đời. Do đó, tác phẩm bao gồm nhiều


5
bài nghiên cứu liên quan đến thuyết tiến hóa của nhiều tác giả, có những bài tiêu
biểu như: “Khởi đầu là sự ngẫu nhiên” của tác giả Hà Dương Tuấn, “Ảnh hưởng
của Darwin đến tư tưởng hiện đại” của tác giả Ernst Mayr, “Thuyết tiến hóa sau
Darwin” của tác giả Nguyễn Ngọc Hải,... Các bài viết trong cơng trình chủ yếu đi
vào phân tích một khía cạnh riêng biệt, có thể liên quan đến thuyết tiến hóa của
Darwin, có thể là về chính bản thân cuộc đời Darwin, và những ứng dụng khoa học
của học thuyết tiến hóa Darwin đối với sinh học và y học hiện đại. Do đó, đánh giá
sơ lược thì đây là một cơng trình mang hướng nghiên về sinh học và ứng dụng nó
trong giai đoạn hiện đại nhiều hơn.
Thứ hai, đó là các cơng trình nghiên cứu về chủ nghĩa duy vật biện
chứng. Liên quan đến chủ đề này có thể kể đến các tác phẩm nổi bật như: Lịch sử
chủ nghĩa Marx (bộ sách dịch gồm 4 tập, tập 1, Viện Nghiên cứu lịch sử phát triển
Chủ nghĩa Marx – Lenin Trường Đại học Nhân dân Trung Quốc, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2003); Vấn đề triết học trong tác phẩm của K.Marx – F.Engels –
V.I.Lenin (Dỗn Chính, Đinh Ngọc Thạch (đồng chủ biên), Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2008).
Về cơng trình Lịch sử chủ nghĩa Marx, đây có thể nói là cơng trình nghiên
cứu sâu sắc và đầy đủ nhất về quá trình ra đời và phát triển chủ nghĩa Marx của
các nhà nghiên cứu Trung Quốc. Chủ nghĩa duy vật biện chứng được Marx và
Engels hình thành, do Lenin phát triển, khơng phải là một cái gì đó xong xi ngay
từ đầu, mà nó được xây dựng từng bước, từng giai đoạn. Điều này được thể hiện

một cách rõ ràng ngay trong cơng trình này. Nếu như Marx là người đề xuất những
nguyên lý đầu tiên trong những giai đoạn đầu tiên của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, thì việc bổ sung những luận điểm, luận cứ cho những nguyên lý đó lại
thuộc về Engels và sau này là Lenin. Trong đó, đặc biệt là vấn đề liên hệ giữa triết
học và khoa học tự nhiên đều được Marx được Engels đề cập và nghiên cứu một
cách nghiêm túc, nhất là Engels thông qua hai tác phẩm tiêu biểu là Chống
Duhring và Biện chứng của tự nhiên - cũng đã được tác phẩm chỉ rõ và phân tích.
Bên cạnh đó, cơng trình Vấn đề triết học trong tác phẩm của K.Marx – F.Engels –
V.I.Lenin cũng được xem như một cơng trình tương tự, nhưng ở dạng phân tích các


6
tác phẩm của Marx, Engels và Lenin. Cơng trình cũng đã đem lại cái nhìn khái
quát về sự hình thành, phát triển chủ nghĩa duy vật biện chứng của Marx và Engels
như thế nào thơng qua sự phân tích các tác phẩm theo thời gian. Chính nhờ những
phân tích này, mối quan hệ giữa khoa học tự nhiên và triết học nói chung, chủ
nghĩa duy vật biện chứng nói riêng được thể hiện một cách đầy đủ; và cũng thông
qua đó, học thuyết tiến hóa với tư cách là một khám phá sinh học có tính chất cách
mạng, cũng được nêu lên như là một cơ sở về khoa học cho chủ nghĩa duy vật biện
chứng. Có thể thấy, cả hai cơng trình theo hướng này đều mang tính chất trình bày
và phân tích về chủ nghĩa duy vật biện chứng, thuyết tiến hóa chỉ được nêu lên như
một khám phá khoa học nổi bật trong giai đoạn đó được các nhà kinh điển nhắc
đến. Do vậy, ý nghĩa của thuyết tiến hóa Darwin đối với chủ nghĩa duy vật biện
chứng cũng khơng được chỉ ra và phân tích một cách rõ ràng.
Thứ ba, đó là các cơng trình nghiên cứu về ý nghĩa của thuyết tiến hóa
đối với sự phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng nói riêng hay triết học
nói chung. Như đã nhắc đến, học thuyết tiến hóa là một cơng trình có ý nghĩa
bước ngoặt trong lĩnh vực sinh học hiện đại. Mà thông qua đó, khoa học tự nhiên
hay cụ thể hơn là sinh học, đã trở thành một công cụ đắc lực cho việc phát triển
chủ nghĩa duy vật biện chứng. Vì lý do này mà cũng đã có những cơng trình

nghiên cứu về mối quan hệ giữa học thuyết tiến hóa hay sinh học hiện đại với chủ
nghĩa duy vật biện chứng. Liên quan đến vấn đề này có các cơng trình tiêu biểu
như là: Lý thuyết tiến hóa của C. Darwin và tính chất chống tơn giáo triệt để của
nó (Nguyễn Trọng Chuẩn, Phạm Thị Ngọc Trầm, Tạp chí Triết học, số 4, 1982);
hay hai cuốn sách của tác giả Bùi Huy Đáp: Chủ nghĩa duy vật trong lịch sử sinh
vật học (Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1960), Chủ nghĩa Mác và một số vấn đề sinh vật
học (Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1962).
Trong cơng trình Lý thuyết tiến hóa của C. Darwin và tính chất chống tơn
giáo triệt để của nó, như tên gọi, nó bao hàm nội dung về ý nghĩa của thuyết tiến
hóa đối với triết học. Trước khi học thuyết tiến hóa ra đời, bởi sự ảnh hưởng bao
trùm của tôn giáo, người ta quan niệm rằng thế giới tự nhiên và cả con người là do
một đấng tối cao sáng tạo nên, do đó mọi sinh vật xuất hiện chỉ trong một lần, trong


7
hình hài như thế nào là do ý muốn của đấng tối cao. Và với quan niệm như vậy,
đồng thời khoa học cũng bị ảnh hưởng, được thể hiện thông qua những quan điểm
phiếm thần luận hay tự nhiên thần luận. Nhưng với sự ra đời của học thuyết tiến hóa
của Darwin, quan niệm này dần dần bị lung lay từ gốc rễ bằng nguyên lý chọn lọc tự
nhiên – hạt nhân của thuyết tiến hóa. Theo đó, thế giới này không phải chỉ được
sáng tạo một lần theo phương án đã được định sẵn, mà nó là một quá trình dài và
đầy khốc liệt. Và cũng từ đó, bài viết khẳng định rằng thuyết tiến hoá đã mang lại
một cách nhìn hồn tồn duy vật khi giải thích các hiện tượng của tự nhiên. Tuy
nhiên, do giới hạn phạm vi nghiên cứu nên cơng trình chỉ mới dừng lại ở việc phân
tích khía cạnh ý nghĩa về mặt thế giới quan của thuyết tiến hóa Darwin, nhưng đây
cũng đã là một tài liệu tham khảo đáng tin cậy cho đề tài luận văn.
Ngồi ra cịn phải kể đến bộ hai tác phẩm của tác giả Bùi Huy Đáp. Vốn là
một nhà nghiên cứu nông học, tác giả rất quan tâm đến những vấn đề liên quan đến
bộ môn sinh vật. Nhưng khơng chỉ dừng lại ở đó, trong q trình nghiên cứu, tác
giả cịn nhận thấy được những vấn đề sinh học có mối liên hệ chặt chẽ với triết

học, mà cụ thể là chủ nghĩa duy vật của Marx, Engels và Lenin. Trong cơng trình
Chủ nghĩa duy vật trong lịch sử sinh vật học, tác giả khảo sát toàn bộ lịch sử sinh
vật học từ thời cổ đại cho đến thế kỉ XX và luận giải một số thành tựu sinh học đã
chứng minh cho quan điểm duy vật như thế nào. Thuyết tiến hóa của Darwin tất
yếu cũng xuất hiện trong toàn bộ lịch sử ấy và được tác giả phân tích trong
“Chương 5: Sinh vật học trong thời kì phồn thịnh của xã hội tư bản”. Trong đó,
thuyết tiến hóa của Darwin được nêu lên một cách sơ lược và được tác giả đánh
giá một cách tóm tắt là đã “đem lại những thắng lợi căn bản cho trận tuyến duy vật
trong sinh vật học” (Bùi Huy Đáp, 1960, tr.134). Còn trong tác phẩm Chủ nghĩa
Mác và một số vấn đề sinh vật học thì hướng phân tích lại có phần khác biệt. Nội
dung chính gồm ba phần: Sự sống là gì, Tiến hóa của sự sống, Bộ óc và tư duy.
Theo đó, những quan điểm của chủ nghĩa Marx về ba nội dung đó sẽ được trình
bày, và các thành tựu sinh học liên quan sẽ được đưa vào để chứng minh. Đặc biệt,
thuyết tiến hóa của Darwin được phân tích ở phần hai là “Tiến hóa của sự sống”.
Tác giả nêu lên những nét cơ bản của học thuyết tiến hóa Darwin, sau đó luận


8
chứng về giá trị của nó đối với chủ nghĩa duy vật biện chứng. Khơng chỉ dừng lại
ở đó, tác giả còn vạch ra những hạn chế mà thuyết tiến hóa của Darwin mắc phải,
và đã được các nhà kinh điển của chủ nghĩa duy vật biện chứng khắc phục, bổ
sung như thế nào. Từ đó, mối quan hệ chặt chẽ giữa triết học và khoa học tự nhiên,
mà cụ thể ở đây là giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng và sinh học cũng được nêu
lên. Cơng trình này của tác giả Bùi Huy Đáp đã đem lại nhiều đánh giá sâu sắc và
đầy đủ hơn, và có thể nói là sát với đề tài luận văn nhất. Tuy nhiên, với tư cách là
một cơng trình bàn đến mối liên hệ giữa chủ nghĩa Marx và vấn đề sinh học nói
chung, thì ý nghĩa về mặt thế giới quan và phương pháp luận của thuyết tiến hóa
Darwin đối với chủ nghĩa duy vật biện chứng vẫn chưa được phân tích một cách cụ
thể và rõ ràng. Và cách tiếp cận vấn đề của cơng trình cũng khác biệt so với đề tài,
bởi nó dựa chủ yếu vào các quan điểm sinh học nhiều hơn. Mặt khác, đây là cơng

trình đã nghiên cứu từ gần 60 năm trước, cho nên có nhiều nội dung cần phải bổ
sung, nhất là với tình hình hiện nay.
Như vậy có thể thấy, nhìn chung thì các cơng trình trên chủ yếu nghiên cứu
về học thuyết tiến hóa một cách riêng biệt, hay chủ nghĩa duy vật biện chứng một
cách riêng biệt; tuy có những cơng trình nghiên cứu về mối quan hệ của cả hai
nhưng cũng chỉ mới dừng lại ở sự khái quát chung, hay chỉ ở mặt thế giới quan.
Trong khi đó, ý nghĩa của thuyết tiến hóa Darwin đối với chủ nghĩa duy vật biện
chứng không chỉ là ở thế giới quan mà cịn nằm trong phương pháp luận, vì vậy việc
tìm hiểu một cách đầy đủ chúng mới có thể giúp chúng ta nhận thức chính xác được
mối quan hệ giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng với sinh học nói riêng và khoa học
tự nhiên nói chung. Do đó, luận văn dựa trên sự kế thừa từ những thành quả của các
nhà nghiên cứu trước đó, mong muốn đóng góp một phần vào chủ đề mối quan hệ
giữa sinh học và chủ nghĩa duy vật biện chứng, đã tìm hiểu đề tài “Học thuyết tiến
hóa của Charles Darwin và ý nghĩa của nó đối với chủ nghĩa duy vật biện chứng”.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: học thuyết tiến hóa của Darwin; giá trị,
hạn chế của học thuyết tiến hóa Darwin; và ý nghĩa của nó đối với chủ nghĩa duy
vật biện chứng.


9
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: nghiên cứu về học thuyết tiến hóa của
Darwin liên quan trực tiếp đến chủ nghĩa duy vật biện chứng.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích của đề tài: khái quát một cách căn bản học thuyết tiến hóa của
Darwin, từ đó chỉ ra được những giá trị và hạn chế cũng như ý nghĩa của nó đối với
sự phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Nhiệm vụ của đề tài:
- Một là, trình bày cơ sở hình thành học thuyết tiến hóa của Darwin vào thế
kỉ XIX.

- Hai là, khái quát nội dung cơ bản của học thuyết tiến hóa Darwin.
- Ba là, phân tích những giá trị, hạn chế của học thuyết tiến hóa Darwin.
- Bốn là, đánh giá ý nghĩa sự ra đời học thuyết tiến hóa của Darwin đối
với sự phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
Cơ sở lý luận: luận văn được thực hiện trên cơ sở thế giới quan và phương
pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Phương pháp nghiên cứu: luận văn được thực hiện bằng việc sử dụng kết
hợp các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp lịch sử và logic; phương pháp
so sánh, phân tích, tổng hợp.
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa lý luận: luận văn góp phần làm sáng tỏ những nội dung cơ bản của
học thuyết tiến hóa Darwin, từ đó đánh giá những ý nghĩa của học thuyết tiến hóa
Darwin đối với sự phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Ý nghĩa thực tiễn: luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy,
nghiên cứu và học tập về triết học nói chung và chủ nghĩa duy vật biện chứng nói
riêng cho các đối tượng quan tâm, nhất là lĩnh vực nghiên cứu triết học trong khoa
học tự nhiên.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được

kết

cấu

thành

2


chương,

4

tiết



10

tiểu

tiết.


10

PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
HỌC THUYẾT TIẾN HÓA CỦA CHARLES DARWIN
1.1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH HỌC THUYẾT TIẾN HĨA CỦA CHARLES DARWIN

1.1.1. Điều kiện kinh tế, xã hội nƣớc Anh nửa đầu thế kỉ XIX đối với sự
hình thành học thuyết tiến hóa của Charles Darwin
Bất kì một quan điểm khoa học nào đều phải chịu ảnh hưởng của điều kiện
lịch sử thời đại mình, hay nói cách khác nó là sản phẩm của lịch sử, bởi tồn tại xã
hội thì mang tính quyết định đối với ý thức xã hội - đây là một quy luật không thể
chối cãi. Charles Darwin (1809 – 1882) là một trong những người con của thế kỉ
XIX, do đó tất yếu nhà khoa học này khơng thể nằm ngồi những biến động của
lịch sử. Do vậy, việc tìm hiểu điều kiện kinh tế, xã hội Anh quốc vào giai đoạn này

là một điều cần thiết để có thể hiểu được sâu hơn về học thuyết tiến hóa – một học
thuyết mang tính chất thời đại – do Darwin đưa ra vào năm 1859.
Vào đầu thế kỉ XIX, Anh đã là một nước thuộc Vương quốc Liên hiệp
Anh và Ireland (United Kingdom of Great Britain and Ireland). Vương quốc Liên
hiệp Anh và Ireland là một quốc gia có chủ quyền tại ngồi khơi đại lục châu Âu,
được hợp nhất từ Vương quốc Anh (England), Vương quốc Scotland và Vương
quốc Ireland vào năm 1801. Thực ra vào những năm đầu trước cơng ngun, Anh
nói riêng và Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland chưa phải là đảo như bây giờ,
mà vẫn được nối với lục địa châu Âu bằng một dải đất nhỏ. Sau này do hoạt động
của vỏ trái đất khiến mực nước biển dâng lên, dải đất này bị chìm xuống và biến
mất làm nó trở thành một hịn đảo như hiện nay (Trần Giang Sơn, 2013, tr.201).
Với vị trí như vậy, có thể thấy Anh là một nước được bao bọc bởi biển, không
một phần đất nào trong nước Anh lại xa biển. Đây là một lợi thế tự nhiên, bởi nó
chính là hàng rào bảo vệ tốt nhất của Anh. Sự bảo vệ này không những mang ý
nghĩa chống được phần lớn ngoại xâm khi nó hồn tồn tách biệt với các nước
khác, mà nó cịn là lợi thế để Anh đạt được những thành tựu đỉnh cao của mình


11
trong những năm thế kỉ XVIII, XIX. Để tiến hành giao thương, người Anh khơng
thể làm gì hơn là nâng cấp những con tàu vận chuyển. Đó là lý do mà trong suốt
lịch sử của mình, Anh đã là một nước rất phát triển về hàng hải. Và đến cuối thế
kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX, cùng với sự ra đời và phổ biến của máy hơi nước và
sắt, những con tàu ở Anh đã có những bước tiến nổi bật. Năm 1833, một tờ nhật
báo của New York đã đưa tin về hai chiếc tàu Anh chạy bằng hơi nước (chiếc
Great Western và chiếc Sirius) đã nhổ neo từ Liverpool vượt Đại Tây Dương
sang New York chỉ mất có 13 và 17 ngày – rút ngắn thời gian rất nhiều so với
những con tàu của các nước khác (Phạm Gia Hải, Phan Ngọc Liên, Nguyễn Văn
Đức & Trần Văn Trị, 1978, tr.17). Những phương tiện đường biển được cải tiến
như vậy là tiền đề cho việc tăng lượng chuyên chở cũng như việc rút ngắn hành

trình từ Anh sang Mỹ, hay đến các vùng xa xôi khác. Điều này giúp cho những
thương gia Anh dễ dàng đến được những nơi rộng lớn hơn ở phía bên kia bờ biển
thơng qua những con tàu vận chuyển, đây chính là điều then chốt trong việc thiết
lập phạm vi thị trường trong thương mại, tạo nên một tiềm lực về kinh tế cho
Anh. Chính vì lẽ đó, Anh được ví như là một cường quốc hải quốc khơng có đối
thủ trong giai đoạn này. Và với sự cải tiến ngày càng mạnh mẽ của những con tàu
cũng chính là điều kiện thuận lợi giúp cho các nhà khoa học có điều kiện nghiên
cứu sâu rộng hơn về các lĩnh vực khi được thu thập tài liệu từ nhiều nơi trên thế
giới; trong đó có các nhà sinh học, tựa như Darwin.
Để nói về kinh tế nước Anh trong thế kỉ XIX thì cần nhắc đến nước Anh
vào những thế kỉ trước, bởi chúng là những giai đoạn cực kì quan trọng, tạo tiền đề
cho sự phát triển thành cường quốc của Anh sau này. Năm 1588, sau cuộc chiến
với Tây Ban Nha, Anh giành được thắng lợi và trở thành quốc gia nắm bá quyền
trên biển; sau đó là những cuộc chiến với Hà Lan và Pháp, chiến thắng cũng đã
giúp Anh chiếm được những món lợi béo bở từ những thuộc địa của hai nước này.
Đặc biệt, sau cuộc chiến Napoleon với Pháp kết thúc vào năm 1815 (1803 – 1815),
phần thắng lại thuộc về Anh. Tuy ban đầu Anh cũng gặp phải sự khủng hoảng về
kinh tế cũng như chính trị sau chiến tranh, nhưng với những lợi ích thu được từ
Pháp, Anh nhanh chóng khắc phục khó khăn và tạo nên những bước nhảy vọt. Sau


12
cuộc chiến ấy, Anh được giành quyền bá chủ trên mặt biển và độc quyền thương
mại trên thế giới, chiếm được những địa điểm chiến lược quan trọng trên con
đường biển từ Anh sang Ấn Độ và một số thuộc địa của Pháp (Phạm Gia Hải và
các tác giả khác, 1978, tr.14). Và cũng từ sau 1815, Anh khơng cịn thật sự bị đe
dọa bởi một nước nào trong một thời gian dài. Chính vì những thành tựu như vậy,
Anh quốc thế kỉ XVIII, XIX nhìn chung có được một nền hịa bình lâu dài, điều
này cho phép Anh có điều kiện và thời gian để tập trung phát triển kinh tế.
Anh từ lâu đời đã nổi tiếng với ngành dệt, đầu tiên là bằng vải bơng. Trước

đây, q trình sản xuất này được thực hiện bằng tay, tại nhà của công nhân hoặc
một cửa hàng quy mô nhỏ dưới sự dẫn dắt của một người; sau này quá trình sản
xuất đó được mở rộng ra, tập trung trong các công trường thủ công. Cùng với sự
gia tăng không ngừng của dân số cũng như thị trường nước ngoài của Anh, nhu
cầu nâng cao sản lượng là một hệ quả tất yếu. Do đó người ta thi nhau tìm mọi
cách để có thể cải tiến kỹ thuật, nhưng đều khơng thành công. Cho đến những năm
60 của thế kỉ XVIII, sự ra đời của máy kéo sợi Jenny (1764) của James Hargreaves
(1720 - 1778) đã giúp sản lượng ngành dệt của Anh tăng một cách đáng kể, bởi nó
tăng số lượng cọc lên đến tận 16 đến 18 cọc chỉ do một người điều khiển. Có thể
nói, máy kéo sợi Jenny là một phát minh cực kỳ quan trọng đối với kinh tế Anh
cũng như thế giới, bởi nó đánh dấu cho sự sản xuất mà không cần phụ thuộc vào
sức mạnh của con người hay tự nhiên. Cùng với sự ra đời của máy kéo sợi Jenny,
năng suất tăng địi hỏi phải có một động lực mới, mạnh hơn để ngày càng tăng
nhanh tốc độ sản xuất. Đến năm 1784 thì động lực ấy đã xuất hiện, đó là việc động
cơ hơi nước của James Watt (1736 – 1819) – phát minh đánh dấu cho một thời đại
mới, đó là thời đại của các động cơ trong lao động sản xuất – được đưa vào ngành
dệt. Từ đó máy móc đã dần có chỗ đứng trong việc sản xuất bơng thơ lẫn việc dệt
may. Tiến bộ nhanh chóng trong ngành dệt, tức ngành cơng nghiệp nhẹ khiến máy
móc được sử dụng ngày càng rộng rãi, q trình cơng nghiệp hóa ở Anh đã bắt đầu
như thế. Bởi nhu cầu dùng máy tăng lên, dẫn đến ngành chế tạo máy cũng ra đời
và phát triển, khiến việc khai thác kim loại, nhất là sắt cũng được chú trọng, làm
cho ngành công nghiệp nặng ra đời và phát triển. Điều này cũng là một điều kiện


13
thuận lợi cho Anh để tiến hành cơng nghiệp hóa, bởi Anh khơng có đồng bằng
rộng lớn nhưng lại có nhiều mỏ than và một ít mỏ sắt. Và hệ quả là cho đến cuối
thế kỉ XVIII, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất diễn ra một cách rầm rộ tại
Anh, đưa Anh lên thành một trong những nước tư bản hàng đầu.
Cuộc cách mạng công nghiệp xảy ra trước tiên ở Anh quốc, diễn ra từ

những năm cuối thế kỉ XVIII đến khoảng giữa thế kỉ XIX, thật sự đã giúp Anh tạo
dựng được một vị thế cho riêng mình trong kinh tế ở giai đoạn này. Sở dĩ cách
mạng công nghiệp được nổ ra đầu tiên ở Anh là vì Anh có đầy đủ các yếu tố tiên
quyết cho q trình cơng nghiệp hóa: trước hết là do cách mạng tư sản nổ ra sớm
nên đã tạo dựng được cơ sở hạ tầng cũng như kiến trúc thượng tầng căn bản cho
chủ nghĩa tư bản; thứ hai là trữ lượng nước, than đá, cũng như sắt – vốn là những
nguyên liệu nền tảng cho việc ra đời cơng nghiệp – rất dồi dào (Burns, 2008,
tr.616-617). Hàng hóa được sản xuất theo lối công nghiệp giúp Anh càng ngày
càng gia tăng sản lượng, không những đủ cho tiêu dùng trong nước mà còn dư để
xuất khẩu sang các nước khác thông qua hệ thống đường thủy phát triển của mình.
Thế là chủ nghĩa tư bản ở Anh có điều kiện để ngày càng khuếch trương sức mạnh.
Và như Engels đã nhận xét: “một khi thực tiễn đã chứng minh tác dụng lớn lao của
sức cơ giới trong công nghiệp, thì người ta tìm đủ mọi cách để sử dụng sức ấy về
mọi mặt và để bắt nó làm cho các nhà phát minh và các chủ xưởng riêng biệt”
(Marx & Engels, 1995, t.2, tr.343), các nhà tư bản ngày càng mở rộng các hình
thức sản xuất bằng máy móc, ngày càng tạo điều kiện để cải tạo máy móc theo
hướng hồn thiện hơn để tăng hơn nữa lượng sản phẩm được tạo ra. Và từ Anh,
các nước khác cũng dần dần kế thừa và phát triển, tạo nên một hệ thống các nước
tư bản lớn mạnh; sau đó là những cuộc cách mạng cơng nghiệp khác dưới những
hình thức khác được diễn ra theo tốc độ phát triển ngày càng cao của con người
cho đến tận ngày nay và cả trong tương lai.
Máy móc trở thành cơng cụ hỗ trợ đắc lực cho việc sản xuất hàng hóa, điều
này đồng nghĩa với việc năng suất lao động tăng. Như vậy có hai vấn đề được đặt
ra: nơi đâu sẽ là thị trường cho lượng hàng hóa ngày càng nhiều; và nơi đâu sẽ
cung cấp nguồn nguyên, nhiên liệu cho quá trình sản xuất ngày càng tăng này?


14
Câu trả lời nằm trong hệ thống thuộc địa của Anh. Thuộc địa đối với Anh có một ý
nghĩa quan trọng, bởi chính các thuộc địa là nguồn cung cấp lương thực, nguyên

liệu rẻ cần thiết cho công nghiệp ở chính quốc Anh và cũng là thị trường tiêu thụ
cho những sản phẩm cơng nghiệp của nó. Ngay từ những năm cuối thế kỉ XVI, đầu
thế kỉ XVII, Anh đã hình thành cho mình một hệ thống thuộc địa. Tính đến 1815,
thuộc địa của Anh bao gồm 5 nhóm: “ở châu Mỹ là Canada và một số đảo trong
biển Caribe (trong đó có Jamaica), ở phía nam châu Phi là xứ Cape, thuộc địa cũ
của Hà Lan, ở châu Á một phần bán đảo Ấn Độ, và đảo Ceylon, ở châu Đại Dương
là phần dun hải phía đơng của đảo Australia” (Bùi Đức Mãn, 2008, tr.340). Từ
đầu thế kỉ XIX trở đi, với sự bành trướng của thị trường tư bản, chính phủ Anh đã
cải tiến chính sách cai trị ở những lãnh thổ cũ và tích cực xâm chiếm những thuộc
địa mới. Ví dụ như ở châu Á, Anh tiến tới chinh phục hoàn toàn Ấn Độ và mở
rộng xâm lược sang các nước láng giềng của Ấn Độ như Miến Điện (Myanmar) và
Afghanistan, ngồi ra Anh cịn xâm lược những cứ điểm quan trọng trên con
đường từ Anh sang châu Á như Singapore (1819), Yemen (1839); hay ở châu Đại
Dương, Anh xâm lược Tân Tây Lan (New Zealand) và tiêu diệt phần lớn người
Maori; ở Tây Phi, Anh cũng tiến vào Ghana lập nên thuộc địa Bờ Biển Vàng (Gold
Coast) vào năm 1874 (Phạm Gia Hải và các tác giả khác, 1978, tr.32). Bên cạnh
việc xâm chiếm các vùng đất, Anh cịn tích cực mở rộng thị trường bằng các cuộc
chiến tranh, nổi tiếng là chiến tranh thuốc phiện vào năm 1839 ở Trung Quốc,
buộc nhà Thanh phải kí những điều ước bất bình đẳng để cho hàng hóa Anh tràn
vào thị trường béo bở đầy hứa hẹn ấy.
Với lợi ích có được từ những nước thuộc địa, Anh liên tục đẩy mạnh chính
sách xâm lược, nên đến giữa thế kỉ XIX khơng có nước nào lại có hệ thống thuộc
địa rộng lớn và giàu có như Anh, điều này tạo thành một cơ sở vững chắc cho sự
phát triển của chủ nghĩa tư bản Anh. Nhưng những cuộc xâm lược này muốn được
diễn ra, phải kể đến vai trò của những cuộc thám hiểm để vẽ các bản đồ. Thực
chất, việc thám hiểm đã có lịch sử từ lâu, như vào cuối thế kỉ XV, nhờ vào các
phát kiến địa lý, các thương thuyền châu Âu dần đi đến các châu lục khác như
châu Phi, châu Á, châu Úc, mà đi đầu là Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha; đến thế kỉ



15
XVII, người Hà Lan và Anh, Pháp cũng dần nối tiếp theo đó (Võ Mai Bạch Tuyết,
1998, tr.13). Với sự phát triển rực rỡ của mình về đường thủy, bắt đầu từ thế kỉ
XVII Anh cũng đã đưa những con tàu thám hiểm đi khắp nơi để vẽ bản đồ. Đó là
thời đại của những thuyền trưởng lừng lẫy, như là James Cook (1728 – 1779).
Những chuyến thám hiểm trong thời đại khám phá đó khiến người châu Âu mở
rộng tầm nhìn của mình ra khắp nơi, ở đó những loài cây lạ, những loài thú mới từ
châu Á, châu Phi, châu Đại Dương, châu Mỹ làm người châu Âu ngạc nhiên và
thích thú. Vậy là như một thơng lệ, tàu thám hiểm nào cũng đưa theo một nhà tự
nhiên học để thu thập các mẫu vật, mô tả các khám phá mới giúp đem lại những
hiểu biết ngày càng sâu rộng hơn về các vùng đất. Cho đến thế kỉ XIX, thơng lệ
này vẫn cịn tồn tại, và Darwin cũng đã có cơ hội tham gia một chuyến tàu như vậy
với tư cách là nhà tự nhiên học – chuyến tàu HMS Beagle của thuyền trưởng R.
FitzRoy (1805 – 1865).
Bên cạnh sự ra đời và lớn lên nhanh chóng của công nghiệp, chúng ta không
thể bỏ qua những thay đổi trong nơng nghiệp, bởi nó là ngành tạo ra cơ sở duy trì
cho hoạt động của con người. Cùng với sự gia tăng dân số liên tục và nhu cầu từ
các thị trường nước ngồi là việc địi hỏi phải có một sự gia tăng sản lượng nơng
nghiệp. Ở hầu hết các nơi, điều đó được thực hiện dựa trên nhiều sự cải cách, như
là luân canh cây trồng, đưa ra quyền sở hữu độc quyền đất đai, phát triển hệ thống
tưới tiêu, chọn giống,... Ngoài ra, với sự áp dụng máy móc rộng rãi khắp nơi của
cuộc cách mạng cơng nghiệp, nơng nghiệp cũng khơng thể thốt khỏi q trình
này. Và với sự giúp sức của máy móc, tất yếu sản lượng sẽ càng được tăng nhanh
hơn. Hệ quả của những cải cách này chính là một sự phát triển nông nghiệp ngày
càng vượt trội, các giống vật ni và cây trồng ngày càng được đa dạng hóa. Đây
là một nguồn nguyên liệu quan trọng đối với những quan sát của Darwin trong lĩnh
vực sinh học. Bởi nghiên cứu của ơng về nguồn gốc các lồi có điểm xuất phát từ
những quan sát trong lĩnh vực nuôi trồng, tức trong điều kiện thuần hóa. Do đó,
càng nhiều chủng loại, giống lồi thì sự quan sát sẽ càng được mở rộng và chính
xác hơn. Khơng kể đến Darwin, thì cũng có hàng loạt các cơng trình nghiên cứu



16
sinh học được dựa trên nền tảng này, như của các nhà điểu học, thực vật học,... mà
Darwin lấy làm ví dụ trong nghiên cứu của mình.
Như vậy là nước Anh ở thế kỉ XIX về kinh tế là một nước cực kì phát triển,
có thể nói là nước đứng đầu thế giới. Điều này được xây dựng dựa trên việc hai
nền tảng chính: một là cuộc cách mạng cơng nghiệp từ những năm 60 của thế kỉ
XVIII khiến Anh trở thành nơi được mệnh danh là “công xưởng của thế giới”; và
hai là nhờ vào hệ thống thuộc địa của Anh, chúng rộng lớn đến nỗi trong thế kỉ
XIX Anh là đế quốc mà “mặt trời không bao giờ lặn”. Trong đó, quan trọng hơn
vẫn là cuộc cách mạng cơng nghiệp với những phát minh mang tính đột phá, và
việc áp dụng chúng rộng rãi vào trong lĩnh vực sản xuất. Để nói đến tầm quan
trọng của cuộc cách mạng cơng nghiệp đối với Anh quốc trong thời kì này, có thể
kể đến nhận xét của Engels: “Cuộc cách mạng cơng nghiệp đối với Anh có ý nghĩa
quan trọng ngang với cuộc cách mạng chính trị đối với nước Pháp và cuộc cách
mạng triết học đối với nước Đức” (Marx & Engels, 1995, t.2, tr.348).
Với những biến động về kinh tế như thế, không thể nào khiến Anh quốc
không có những thay đổi về mặt xã hội. Anh trở thành một nước có nền kinh tế
tiên tiến phát triển bậc nhất đương thời, sự phát triển và địa vị kinh tế ấy của Anh
đã ảnh hưởng sâu sắc đến tình hình xã hội và chính trị. Sau cuộc cách mạng công
nghiệp, chủ nghĩa tư bản Anh ngày càng lớn mạnh và xây dựng nên hệ thống bảo
vệ lợi ích của mình. Đi cùng với sự phát triển này là một sự đối lập ngày càng gay
gắt giữa hai giai cấp phân chia thành hai lực lượng lớn, đối lập nhau về mặt quyền
lợi là giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Giai cấp tư sản bao gồm những chủ xưởng,
chủ nhà máy, chủ hãng buôn, chủ đồn điền,... tức những người sở hữu tư liệu sản
xuất. Còn đội ngũ vô sản bắt nguồn từ những nông dân bị mất đất, phải rời bỏ
nông thôn ra thành thị tìm đường sinh sống, làm th trong các cơng xưởng, nhà
máy; nhiều thợ thủ công ở thành thị bị phá sản cũng trở thành công nhân. Sự lớn
mạnh về kinh tế khơng có nghĩa là khơng có sự khốn cùng của nhân dân. Đặc biệt

ở nước Anh, vì cách mạng tư sản nổ ra sớm, cùng với đó Anh là nước đầu tiên diễn
ra cuộc cách mạng công nghiệp, khiến tình cảnh của họ càng mang tính chất điển
hình như Engels đã nhận định: “Song chỉ ở Đại Bri-ten và ở chính tại nước Anh,


17
những điều kiện sinh sống của giai cấp vô sản mới có được hình thức điển hình
tồn vẹn của nó; và đồng thời cũng chỉ có ở nước Anh, những tư liệu cần thiết mới
được thu thập khá đầy đủ và được các cuộc điều tra chính thức xác nhận theo yêu
cầu của sự trình bày vấn đề một cách khá tường tận” (Marx & Engels, 1995, t.2,
tr.325). Như một quy luật tất yếu, khơng có tư liệu sản xuất trong tay, giai cấp vô
sản tất phải bị giai cấp tư sản bóc lột sức lao động để ngày càng đem lại nhiều lợi
nhuận hơn cho chủ của mình. Đó là vấn đề sống cịn, bởi người cơng nhân khơng
lao động cật lực, anh ta sẽ khơng có tư liệu phục vụ cho việc sinh sống của mình
và gia đình mình. Nhưng điều đáng nói ở đây chính là lịng tham vô đáy của giai
cấp tư sản đã khiến cho tình cảnh của người cơng nhân đã khốn đốn nay lại càng
khốn đốn hơn. Họ phải làm việc từ 12 đến 18 tiếng một ngày, với một công việc
ngày nào cũng lặp lại y chang cùng với những cỗ máy vô tri, khiến họ mất hết tinh
thần sáng tạo trong sản xuất. Với sức lao động bị kéo căng hoàn tồn, họ cịn bị
chèn ép bởi tiền cơng, số tiền họ nhận được hoặc chỉ vừa đủ để ăn hoặc cịn khơng
thể đủ no trong tất cả các ngày mà chỉ có thể duy trì để khơng bị chết đói. Không
những vậy, giai cấp công nhân Anh phải chen chúc nhau sống trong những khu ổ
chuột tồi tàn với điều kiện vật chất kém đến mức “ở trong cái tình trạng không
xứng đáng với con người” (Marx & Engels, 1995, t.2, tr.368). Thêm nữa, với sự
thay thế của máy móc, cơng nhân hồn tồn có thể lâm vào tình trạng thất nghiệp
và chết đói do sự cạnh tranh gay gắt giữa các cơng nhân với nhau. Trong khi đó,
giai cấp tư sản vẫn dửng dưng, thờ ơ trước những tình cảnh khắc nghiệt như vậy
của người công nhân – những người trực tiếp làm giàu cho họ.
Kết quả là, “toàn bộ lịch sử sau đó của nền cơng nghiệp Anh chỉ là thuật lại
tình hình người lao động thủ cơng đã bị máy móc đánh bật khỏi hết vị trí này đến

vị trí khác như thế nào” (Marx & Engels, 1995, t.2, tr.338). Người ta nói đến việc
mỗi ngày máy móc được cải tiến như thế nào, đem lại hiệu quả sản xuất ra sao mà
khơng hề nói đến sự tha hóa của con người trong hồn cảnh đó. Trong một điều
kiện hợp lý thì việc cải tiến phải được hoan nghênh, nhưng trong điều kiện lúc đó
ở Anh thì nó là một sự “cướp mất tư liệu sinh hoạt của đại đa số” (Marx & Engels,
1995, t.2, tr.497), đem lại sự túng thiếu và bần cùng. “Sự cùng khốn dạy người ta


18
cầu nguyện và – điều quan trọng hơn nhiều – dạy người ta suy nghĩ và hành động”
(Marx & Engels, 1995, t.2, tr.470). Với hiện trạng như vậy, người công nhân đứng
trước hai lựa chọn: một là tiếp tục chịu đựng hồn cảnh sống đầy sự tàn bạo ấy,
trơng chờ vào một tương lai tương sáng hơn; hai là đứng lên lấy lại những gì thuộc
về chính mình bằng những cuộc đấu tranh. Do đó, bên cạnh những người chọn
cách thứ nhất, thì lịch sử nước Anh vẫn cịn in dấu hàng trăm cuộc bạo động phá
hoại máy móc, bãi công thể hiện sự phản kháng đối với giai cấp tư sản Anh, đến
nỗi vào năm 1812 Anh đã phải ban hành luật xử tử những người phá hoại máy móc
(Viện Nghiên cứu lịch sử phát triển Chủ nghĩa Marx – Lenin Trường Đại học
Nhân dân Trung Quốc, 2003, t.1, tr.107). Đặc biệt trong những năm 1830 và 1840,
có thể kể đến phong trào Hiến chương – phong trào thể hiện sự tập trung chống đối
của toàn bộ giai cấp vô sản đối với giai cấp tư sản Anh về mặt quyền lợi chính trị.
Phong trào đã u cầu thơng qua dự luật cải cách “sáu điểm”, trong đó đề cập đến
việc bầu cử bình đẳng; đồng thời cũng đã đưa ra những đạo luật như đạo luật năm
1833 về hạn chế lao động của thợ thuyền dưới 18 tuổi, đạo luật năm 1847 về giảm
giờ lao động của phụ nữ xuống còn 10 giờ,... (Bùi Đức Mãn, 2008, tr.328). Mặc dù
sau này phong trào cũng bị lụi tàn, nhưng khơng thể phủ nhận sức ảnh hưởng của
nó đối với giai cấp vơ sản Anh bởi nó có mục tiêu chính trị rõ ràng và được hưởng
ứng rộng rãi, thậm chí nó cũng đã tổ chức nên chính đảng độc lập cho công nhân là
Đảng Hiến chương (Viện Nghiên cứu lịch sử phát triển Chủ nghĩa Marx – Lenin
Trường Đại học Nhân dân Trung Quốc, 2003, t.1, tr.112).

Một đặc điểm nữa của xã hội Anh thế kỉ XIX đó là sự gia tăng dân số một
cách nhanh chóng. Sự gia tăng dân số này là do tiến bộ y học trong thế kỉ XVIII,
và là kết quả của sự cung cấp lương thực phong phú do mở rộng mậu dịch
(Burns, 2008, tr.615). Sự gia tăng dân số này nằm ở các thành phố, bởi sự phát
triển của nền công nghiệp khiến cho dân chúng di chuyển từ những vùng nông
thôn ở Đông và Nam đến những thành thị ở Tây và Bắc, khiến cư dân thành phố
tăng vượt bậc. Liverpool, Manchester, Glasgow và Birmingham phát triển nhanh
chóng, trở thành những thành phố khổng lồ; trong khi dân số Anh quốc tăng
100% trong 1801 – 1851 từ 8,5 triệu dân lên đến 17 triệu dân, thì dân số của các


19
thành phố Liverpool và Manchester tăng trên 1000% (Kishlansky, Geary &
O’Brien, 2005, tr.662). Dân số gia tăng đã gây ra nhiều áp lực lên các vấn đề xã
hội. Đặc biệt trong vấn đề việc làm, bởi nó tác động lên cuộc cạnh tranh giữa các
cơng nhân trong tìm kiếm cơng việc. Do đó, càng ngày càng nhiều người chịu
cảnh chết đói. Và nó cũng là hồn cảnh cho sự ra đời của thuyết nhân khẩu của T.
R. Malthus (1766 – 1834). Kết luận chủ yếu của thuyết nhân khẩu này là trên thế
giới ln có sự dư thừa con người, bởi vậy luôn tồn tại sự cạnh tranh giữa mọi
người với nhau tạo nên những giai cấp khác biệt, bên thì nghèo đói bên thì giàu
có, đó là một quy luật mà con người khơng thể thốt khỏi; do vậy chúng ta không
cần phải làm từ thiện hay trợ giúp người nghèo bởi nó khơng có nghĩa lý gì cả,
chúng ta cần phải thực hiện cắt bớt nhân khẩu thừa bằng cách để họ chết đói hoặc
bằng chiến tranh. Sự ra đời của thuyết nhân khẩu Malthus đã ảnh hưởng mạnh
mẽ đến giới tư sản bởi nó chính là cơng cụ biện minh cho sự tồn tại của họ. Đồng
thời, thuyết nhân khẩu cũng đã ảnh hưởng đến giới khoa học, trong đó có thuyết
tiến hóa của Darwin.
Thuộc về vấn đề xã hội của Anh cũng không thể không kể đến vấn đề tôn
giáo, đặc biệt là Kito giáo. Kito giáo được du nhập vào Anh từ rất sớm, đến
khoảng thế kỉ thứ VII hầu như toàn bộ dân chúng Anh đều mang đạo Cơ Đốc.

Nhưng đến thế kỉ XVI, dưới sự cai trị của vua Henry VIII (1491 – 1547), một cuộc
cải cách tôn giáo đã diễn ra. Trong cuộc cải cách này, vua Henry VIII tuyên bố cắt
đứt quan hệ với Giáo hội Công giáo La Mã, tự lập ra Giáo hội Anh quốc. Về mặt
giáo lý thì Anh giáo cơ bản giống với Công giáo, nhưng thay vì quyền lực tối cao
thuộc về Giáo hồng La Mã thì nay thuộc về vua của nước Anh. Cuộc ly khai này
ban đầu chỉ mang tính chất thể hiện quyền uy, nhưng sau này nó trở thành cơ hội
cho các giáo phái cải cách. Đến con gái của vua Henry VIII là Elizabeth I (1533 –
1603) lên ngôi, cuộc ly khai này mang tính dứt khốt hơn, bởi bà ban ra luật tất cả
mọi người phải từ bỏ hoàn toàn Giáo hội Công giáo để đi theo Giáo hội Anh giáo.
Cho đến sau này với những người kế vị mới, Công giáo mới được trở lại công khai
ở Anh. Điều này cho thấy, hình thức sinh hoạt tơn giáo ở Anh rất được ưa chuộng,
đến thế kỉ XIX hầu hết người dân đều đi theo đức tin Kito (Cook & Stevenson,


20
1996, tr.230-237). Chính vì lẽ đó, sự ảnh hưởng của các tín điều tơn giáo lên dân
chúng Anh quốc là một điều không cần phải bàn cãi. Do vậy, đến thế kỉ XIX người
ta vẫn lưu hành những quan điểm về sự sống được ghi chép theo Kinh Thánh. Ở
đó, thế giới và cả con người đều được Chúa sáng tạo một lần và không bị biến đổi
cho đến ngày nay. Những quan điểm duy tâm vô thần như vậy đè ép lên tất cả các
nhà khoa học, cho đến khi thuyết tiến hóa Darwin ra đời, đập tan những luận điệu
mang tính thần thánh ấy. Thuyết tiến hóa của Darwin đánh dấu cho một thời kì
mới đầy triển vọng về sự phát triển của khoa học thật sự, dựa trên nền tảng thế giới
quan duy vật tại Anh. Dù vậy, những sự đè ép của tôn giáo lên xã hội cũng đã đem
đến những sự bài xích cực kì lớn đối với thuyết tiến hóa, đặc biệt nó cũng đè ép lên
tư tưởng của chính Darwin, khi ơng chần chừ khơng dám cơng khai học thuyết tiến
hóa của mình vì sợ dư luận. Cho đến năm 1858, với sự thúc ép từ các đồng nghiệp,
đặc biệt là bài luận của A. R. Wallace (1823 – 1913), Darwin mới thật sự cơng
khai quan điểm của mình.
Vậy là với những thành tựu về kinh tế, xã hội nước Anh thế kỉ XIX cũng

đưa đến một bức tranh với nhiều gam màu phong phú. Ở đó, đối chọi với hình ảnh
một nước Anh sở hữu nhiều thành phố công xưởng khổng lồ, nền cơng nghiệp
cung cấp hàng hóa cho tồn thế giới và chế tạo hầu hết mọi thứ bằng máy móc; là
một mặt tối với tình cảnh người cơng nhân bần cùng và đầy tuyệt vọng bởi chính
cái nền đại cơng nghiệp mà anh ta là sản phẩm trực tiếp của nó. Tuy nhiên, giai
cấp cơng nhân ở đâu thì cũng vẫn ln tồn tại trong mình một ý thức về sự tự do,
do vậy họ luôn nỗ lực để giải thốt mình khỏi những hồn cảnh sống như một món
hàng hóa, hay cịn tệ hơn là tình trạng mà Engels mơ tả là như “súc vật”. Chính
những sự nỗ lực tiến bộ này, dưới sự giúp sức của những lực lượng tiến bộ chính là
giá đỡ cho những tư tưởng khoa học ngày càng mang tính chất duy vật hơn, không
bị thế giới quan duy tâm tôn giáo chi phối. Và những nhà khoa học, khi xuất hiện
tại Anh thì ln được chào đón bởi những tinh thần cầu thị nhất. Ngay từ năm
1734, có một cuốn sách được xuất bản tại Pháp với tên gọi Những lá thư triết học
liên quan đến Anh quốc của Voltaire (1694 – 1778) – người đã sống 2 năm tại Anh
và nghiên cứu những khác biệt giữa Anh và Pháp – đã nêu bật những sự vượt trội


21
tại Anh khi nước Anh xem trọng người dân của nó qua những cơng lao của họ chứ
khơng phải qua tước vị được hưởng khi chào đời, và người Anh tôn vinh các nhà
khoa học, nhà thơ và triết gia của họ như những anh hùng dân tộc (Kishlansky và
các tác giả khác, 2005, tr.594).
Tóm lại, Anh ở thế kỉ XIX là một đất nước cực kì phát triển. Cuộc cách
mạng công nghiệp diễn ra trước tiên ở Anh đã đem lại cho Anh nhiều thuận lợi để
khuếch trương thế lực của mình thơng qua hệ thống thuộc địa. Với những điểm
sáng về kinh tế, Anh quốc đã tạo ra được rất nhiều điều kiện cho các khám phá
khoa học mới hơn nữa được ra đời, bởi các khám phá đó cũng chính là một trong
những giá đỡ cho những thành tựu kinh tế của Anh. Chẳng hạn như việc các
chuyến tàu thám hiểm nhổ neo từ Anh đi khắp nơi trên thế giới đã giúp Anh thu
thập được nhiều những tư liệu về các vùng đất mới để thực hiện việc mở rộng lãnh

thổ, mở rộng thị trường của mình; hay như những sự cải tiến về máy móc thông
qua những phát minh mới đã giúp Anh ngày càng tăng cao năng suất của nền kinh
tế,... Đây là một mối quan hệ hai chiều, chính cách mạng cơng nghiệp là kết quả
của những phát minh khoa học; và đến phiên mình, cách mạng cơng nghiệp lại
thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của khoa học. Bên cạnh đó, xã hội Anh cũng gặp
phải nhiều biến chuyển, do sự lớn mạnh nhanh chóng của chủ nghĩa tư bản Anh đã
dẫn đến sự chệnh lệch ngày càng tăng giữa giai cấp tư sản và giai cấp vơ sản. Từ
đó, những lực lượng tiến bộ cũng đã xuất hiện để đấu tranh thốt khỏi sự bất cơng
ấy. Và họ chính là những người giúp sức cho những tư tưởng tiến bộ được ra đời
và đứng vững trên mảnh đất thần học đang ngự trị này. Chính từ tất cả các điều
kiện ấy, những nhà khoa học Anh ngày càng nở rộ, đóng góp rất nhiều tư tưởng
vào hệ thống kiến thức mới. Trong đó có Darwin, người đã vượt lên trên những
định kiến xã hội để đưa ra một học thuyết mới về sinh giới, đánh bại quan điểm
loài là bất biến của tôn giáo và những nhà khoa học duy tâm trước đó.
1.1.2. Tiền đề lý luận và tiền đề khoa học đối với sự hình thành học
thuyết tiến hóa của Charles Darwin
Với tư cách là một học thuyết khoa học, tất yếu học thuyết tiến hóa cũng
phải có những tiền đề về lý luận cũng như khoa học của mình. Thực chất quan


×