Tải bản đầy đủ (.pdf) (279 trang)

So sánh đối chiếu âm đọc hán hàn và hán việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.16 MB, 279 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA HÀN QUỐC HỌC

CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN CẤP
TRƯỜNG NĂM 2019
ĐỀ TÀI:

SO SÁNH ĐỐI CHIẾU ÂM ĐỌC HÁN HÀN VÀ HÁN
VIỆT

Nhóm sinh viên thực hiện:
Chủ nhiệm: Nguyễn Hoàng Kim Ánh

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 5 năm 2019


ĐHQG-HCM
Trường ĐHKHXH&NV

Ngày nhận hồ sơ
Do P.QLKH-DA ghi

Mẫu: SV 02

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN CẤP TRƯỜNG
NĂM HỌC 2018 - 2019

SO SÁNH ĐỐI CHIẾU
ÂM ĐỌC HÁN HÀN VÀ HÁN VIỆT


Thành phần tham gia thực hiện đề tài
TT

Họ và tên

1.

Nguyễn Hoàng Kim Ánh

Chịu
trách
nhiệm
Chủ
nhiệm

Điện thoại

Email

0399447274

kimanh2798@
gmail.com

TP.HCM, tháng 05 năm 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


Khoa Hàn Quốc học

SO SÁNH ĐỐI CHIẾU
ÂM ĐỌC HÁN HÀN VÀ HÁN VIỆT

Ngày 20 tháng 05 năm 2019
Người hướng dẫn
(Ký và ghi họ tên)

Ngày 20 tháng 05 năm 2019
Chủ nhiệm đề tài
(Ký và ghi họ tên)

Nguyễn Trung Hiệp

Nguyễn Hoàng Kim Ánh

Ngày ……tháng…… năm 2019
Chủ tịch Hội đồng
(Ký và ghi họ tên)

Ngày ……tháng…… năm 2019
Phịng QLKH-DA
(Ký và ghi họ tên)

TP. HỒ CHÍ MINH, 2019


MỤC LỤC
Trang


DANH MỤC BẢNG BIỂU .................................................................................1
TÓM TẮT NỘI DUNG ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU .............................................2
DẪN NHẬP ..........................................................................................................4
1. Lý do chọn đề tài ..........................................................................................4
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ................................................................ 5
2.1. Cơ sở lý luận ngôn ngữ học ...................................................................5
2.2. Lớp từ Hán Hàn và những vấn đề liên quan ........................................7
2.3. Lớp từ Hán Việt và những vấn đề liên quan ........................................8
2.4. So sánh đối chiếu lớp từ Hán Hàn và Hán Việt ...................................9
3. Mục tiêu nghiên cứu ..................................................................................12
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................ 13
5. Phương pháp nghiên cứu ..........................................................................13
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn ..................................................................15
7. Bố cục đề tài ............................................................................................... 16
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ........................................17
1.1. Sự tiếp xúc ngôn ngữ Hán với Hàn và Hán với Việt ........................... 17
1.1.1. Vấn đề tiếp xúc ngôn ngữ .................................................................17
1.1.1.1. Khái niệm về tiếp xúc ngơn ngữ ..................................................17
1.1.1.2. Phân loại.......................................................................................18
1.1.2. Q trình tiếp xúc ngơn ngữ Hán và ngôn ngữ Hàn ......................19
1.1.2.1. Thời kỳ Gojoseon (고조선 - Cổ Triều Tiên, ? ~ 108 tr.CN) .......19
1.1.2.2. Thời kỳ Tam Quốc (삼국시대, 57 tr.CN - 668) .......................... 20
1.1.2.3. Thời kỳ Silla thống nhất và Hậu Tam Quốc (통일신라 및 후삼국,
668 – 918) .................................................................................................21
1.1.2.4. Thời kỳ Goryeo (고려 – Cao Ly, 918 – 1392) ............................ 22
1.1.2.5. Thời kỳ Joseon (조선 – Triều Tiên, 1392 – 1910) ......................23
1.1.2.6. Thời kỳ Nhật Bản đô hộ (일제강점기, 1910 – 1945) .................24
1.1.2.7. Thời kỳ hiện đại (1945 – nay)......................................................24



1.1.3. Q trình tiếp xúc ngơn ngữ Hán và ngơn ngữ Việt.......................25
1.1.3.1. Thời kỳ từ trước Công Nguyên đến cuối thế kỷ IX .....................25
1.1.3.2. Thời kỳ từ đầu thế kỷ X đến nay .................................................27
1.1.4. So sánh quá trình tiếp xúc ngôn ngữ Hán và ngôn ngữ Hàn với ngôn
ngữ Hán và ngôn ngữ Việt .........................................................................28
1.2. Ngữ âm tiếng Hàn và ngữ âm tiếng Việt ..............................................30
1.2.1. Khái niệm âm tiết...............................................................................30
1.2.2. Mô hình cấu tạo âm tiết tiếng Hàn và tiếng Việt ............................. 30
1.2.3. Các thành phần cấu tạo âm tiết tiếng Hàn và tiếng Việt.................32
1.2.3.1. Âm đầu .........................................................................................32
1.2.3.2. Âm giữa........................................................................................33
1.2.3.3. Âm cuối ........................................................................................34
1.3. Nguyên tắc âm đầu và Bất nguyên tắc âm đầu ......................................35
Tiểu kết Chương 1 .........................................................................................37
CHƯƠNG 2. ĐỐI CHIẾU ÂM ĐỌC HÁN HÀN VỚI ÂM ĐỌC HÁN VIỆT
............................................................................................................................. 38
2.1. Trường hợp bất nguyên tắc âm đầu .....................................................38
2.1.1. Phụ âm đầu ........................................................................................38
2.1.2. Phần vần ............................................................................................ 44
2.2. Trường hợp nguyên tắc âm đầu ............................................................ 66
2.2.1. Phụ âm đầu ........................................................................................66
2.2.2. Phần vần ............................................................................................ 67
Tiểu kết Chương 2 .........................................................................................77
CHƯƠNG 3. ĐỐI CHIẾU ÂM ĐỌC HÁN VIỆT VỚI ÂM ĐỌC HÁN HÀN
............................................................................................................................. 79
3.1. Trường hợp bất nguyên tắc âm đầu .....................................................79
3.1.1. Phụ âm đầu ........................................................................................79
3.1.2. Phần vần ............................................................................................ 87
3.2. Trường hợp nguyên tắc âm đầu ..........................................................113

3.2.1. Phụ âm đầu ......................................................................................113
3.2.2. Phần vần ..........................................................................................115
Tiểu kết Chương 3 .......................................................................................127


KẾT LUẬN ......................................................................................................129
TƯ LIỆU NGHIÊN CỨU VÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................132
PHỤ LỤC .........................................................................................................137


1

DANH MỤC BẢNG BIỂU
Trang
Bảng 1. Bảng so sánh tổng hợp q trình tiếp xúc ngơn ngữ Hán – Hàn với Hán
– Việt ...................................................................................................................29
Bảng 2. Hệ thống phụ âm đầu trong tiếng Hàn..................................................32
Bảng 3. Hệ thống phụ âm đầu trong tiếng Việt ..................................................33
Bảng 4. Hệ thống nguyên âm đơn trong tiếng Hàn ............................................33
Bảng 5. Hệ thống nguyên âm đơn trong tiếng Việt ............................................33
Bảng 6. Hệ thống nguyên âm đôi trong tiếng Hàn .............................................34
Bảng 7. Hệ thống nguyên âm đôi trong tiếng Việt .............................................34
Bảng 8. Hệ thống phụ âm cuối trong tiếng Hàn .................................................34
Bảng 9. Hệ thống phụ âm cuối trong tiếng Việt .................................................34
Bảng 10. Bảng ví dụ các âm tiết bị chi phối bởi Nguyên tắc âm đầu ................36


2

TÓM TẮT NỘI DUNG ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

1. Âm đọc Hán Hàn và Hán Việt là kết quả của quá trình tiếp xúc ngơn
ngữ Hán với Hàn và Hán với Việt.
Tiếp xúc ngôn ngữ là hiện tượng các ngôn ngữ khác nhau sau khi tiếp xúc
với nhau sẽ trở nên phong phú hơn nhưng vẫn giữ được đặc trưng, bản sắc riêng
của mỗi ngôn ngữ. Nếu dựa vào mối tương quan địa lý – tự nhiên thì tiếp xúc
ngơn ngữ có hai loại là: tiếp xúc tự nhiên và tiếp xúc phi tự nhiên. Tiếp xúc tự
nhiên là sự tiếp xúc giữa những ngôn ngữ khác nhau xảy ra trong cùng một vùng
không gian. Tiếp xúc phi tự nhiên là sự tiếp xúc giữa các ngôn ngữ khác nhau
không cùng một vùng không gian. Tuy nhiên, Trung Hoa với bán đảo Hàn hay
Trung Hoa với Việt Nam đều có đường biên giới tiếp giáp nhau, tức đều cùng
thuộc một vùng không gian nên cách phân loại này không phù hợp. Do đó, chỉ có
thể dựa vào phương thức tiếp xúc giữa hai (hay nhiều) ngơn ngữ để phân loại,
theo đó cũng có hai loại là tiếp xúc cưỡng ép và tiếp xúc tự nguyện. Tiếp xúc
cưỡng ép là tiếp xúc ngơn ngữ mà trong đó có sự áp chế về mặt ngơn ngữ - văn
hóa của dân tộc này lên dân tộc khác thường thông qua con đường quân sự (chiến
tranh) nhằm áp đặt một chế độ chính trị hay nhằm đồng hóa nước bị áp đặt. Tiếp
xúc tự nguyện là tiếp xúc ngơn ngữ một cách tự giác, có ý thức, trong đó ngơn
ngữ của hai dân tộc tiếp xúc nhau một cách bình đẳng hoặc dân tộc này tiếp nhận
hay chấp nhận sự trao đổi giao lưu, sự tồn tại văn tự hay tiếng nói của dân tộc kia
[Lê Tuấn Sơn 1999: 6].
Q trình tiếp xúc ngơn ngữ Hán – Hàn và Hán – Việt đều bắt nguồn từ
việc cộng cư giữa hai dân tộc Hán với Hàn và Hán với Việt. Cả hai quá trình này
đều diễn ra lâu dài, liên tục và chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ từ các nhân tố chính
trị, tơn giáo,... Hai quá trình này đều bắt đầu từ xu hướng tiếp xúc tự nguyện và
kết thúc bằng xu hướng tiếp xúc tự nguyện có chọn lọc.
Tuy nhiên q trình tiếp xúc ngơn ngữ Hán – Việt có phần phức tạp hơn
q trình tiếp xúc ngơn ngữ Hán – Hàn. Nếu q trình tiếp xúc ngơn ngữ Hán và
Hàn đa phần là tiếp xúc tự nguyện, chỉ có một vài giai đoạn lịch sử là tiếp xúc
cưỡng ép thì quá trình tiếp xúc ngơn ngữ Hán và Việt có nhiều biến động hơn:



3

khi là tiếp xúc tự nguyện, có khi lại là tiếp xúc cưỡng ép, chúng luân phiên nhau
chạy dọc theo chiều dài lịch sử.
Sau khi chữ Hangeul và chữ Quốc ngữ ra đời, lớp từ Hán Hàn và Hán Việt
phát triển theo một hướng mới đó chính là việc cả hai dân tộc cùng dùng chữ ghi
âm (Hangeul, Quốc ngữ) để ghi lại âm Hán và tạo ra những từ Hán Hàn, Hán Việt
mới theo cách riêng của mỗi dân tộc, được gọi nôm na là từ Hán Hàn Hàn hóa và
từ Hán Việt Việt hóa.
2. Có hai mức độ để biểu thị cho sự khác biệt giữa âm Hán Hàn và Hàn
Việt, đó là: giống nhau và khác nhau. Giống nhau tức là giống về cách phát âm
(dựa theo ký hiệu ngữ âm quốc tế IPA). Khác nhau lại có: khác nhau có quy luật
và khác nhau khơng có quy luật. Khác nhau có quy luật là khi âm Hán sát nhập
vào tiếng Hàn hay tiếng Việt, do áp lực của quy luật cấu âm và âm vị học của
tiếng Hàn hay tiếng Việt dần dần theo thời gian chúng bị biến đổi theo cách phát
âm riêng của dân tộc Hàn hay dân tộc Việt (có thể ban đầu cả ba dân tộc Hán,
Hàn, Việt phát âm âm Hán là như nhau) [Lê Tuấn Sơn 1999: 46]. Khác nhau
không có quy luật là những trường hợp ngoại lệ, trường hợp này chiếm tỷ lệ rất
thấp, không đáng kể.
3. Như đã biết, Hangeul và Quốc ngữ đều thuộc loại chữ ghi âm, do đó âm
Hán (loại chữ ghi ý) được ghi lại bằng hai loại chữ này theo cách phát âm. Tuy
nhiên chữ Hangeul thuộc loại hình ngơn ngữ chắp dính, cịn chữ Hán và chữ Quốc
ngữ lại thuộc loại hình ngơn ngữ đơn lập. Vì vậy, so với các âm đọc trong tiếng
Hàn thì các âm đọc trong tiếng Việt dễ bị âm Hán đồng hóa hơn.
4. Cuối cùng, nếu nắm bắt được sự tương đồng, điểm khác biệt của âm đọc
Hán Hàn và Hán Việt sẽ giúp cho việc đoán biết, ghi nhớ từ vựng của người học
tiếng Hàn trở nên dễ dàng hơn. Ngoài ra, trong lĩnh vực giảng dạy, nếu giảng viên,
giáo viên có khối lượng kiến thức về từ Hán Hàn và Hán Việt vững chắc thì việc
giải thích từ vựng cũng trở nên dễ dàng và chuẩn xác hơn.



4

DẪN NHẬP
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, giao lưu và hội nhập quốc tế đang dần trở thành xu hướng trong
sự nghiệp phát triển đất nước của các quốc gia trên tồn thế giới. Do đó, Việt Nam
– đất nước đại diện cho khu vực Đông Nam Á và Hàn Quốc – đất nước đại diện
cho khu vực Đông Bắc Á cũng khơng thốt khỏi quy luật phát triển chung này.
Thực tế cho thấy, từ khi Việt Nam và Hàn Quốc xác lập quan hệ ngoại giao vào
năm 1992 thì quan hệ hợp tác hữu nghị giữa hai quốc gia trên mọi phương diện
như giáo dục, kinh tế, thương mại, văn hóa, du lịch,… đều cực kì phát triển. Chỉ
xét riêng phương diện giáo dục ở Việt Nam, tại khu vực thành phố Hồ Chí Minh
có khoa Hàn Quốc học của trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQG
TP.HCM chuyên tổ chức giảng dạy và nghiên cứu chuyên sâu về Hàn Quốc ở
nhiều lĩnh vực như Ngữ văn Hàn Quốc, Văn hóa – Xã hội Hàn Quốc, Kinh tế Chính trị - Ngoại giao Hàn Quốc,… Ngồi ra, ở miền Nam nói chung, cịn có
những trường như ĐH Sư Phạm TP.HCM, ĐH Ngoại ngữ - Tin học TP.HCM,
ĐH Quốc tế Hồng Bàng, ĐH Công nghệ TP.HCM, ĐH Văn Hiến, ĐH Nguyễn
Tất Thành, ĐH Bà Rịa - Vũng Tàu, ĐH Lạc Hồng,.. chuyên giảng dạy về tiếng
Hàn. Ở miền Bắc cũng có các trường đào tạo chuyên sâu về lĩnh vực ngôn ngữ
Hàn như ĐH Ngoại ngữ - ĐHQG Hà Nội, ĐH Hà Nội, ĐH Khoa học Xã hội và
Nhân văn - ĐHQG Hà Nội,… Nói rộng ra, trên toàn lãnh thổ Việt Nam các trường
đào tạo về tiếng Hàn được phân bố khá rộng rãi và phát triển ngày càng nhanh
chóng, điển hình như trường ĐH Đắk Lắk, ĐH Đà Nẵng, ĐH Đà Lạt,… Cùng với
đó là sự hình thành hàng loạt các trung tâm dạy tiếng Hàn như Viện Ngôn ngữ
Hàn Quốc, Trung tâm Sejong, Trung tâm Hàn ngữ Dong A, Trường Hàn ngữ
Kanata,… cho thấy nhu cầu học tiếng Hàn của người Việt ngày càng lớn.
Ngược lại, ở Hàn Quốc, tiếng Việt cũng đang dần trở thành một ngôn ngữ
phổ biến, minh chứng cụ thể đó chính là việc chính phủ Hàn Quốc đưa tiếng Việt

vào làm ngơn ngữ tự chọn cho kì thi xét tuyển đại học tại nước này. Khơng những
thế, có nhiều trường đại học danh tiếng tại Hàn Quốc đã thành lập khoa Việt Nam
học thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu chuyên sâu về đất nước cũng như con người


5

Việt Nam điển hình như ĐH Ngoại ngữ Hàn Quốc, ĐH Ngoại ngữ Busan, ĐH
Chosun,… Thêm nữa, những năm gần đây các doanh nghiệp Hàn Quốc ồ ạt đổ
vốn đầu tư vào Việt Nam vì vậy mà nhu cầu học tiếng Việt của người Hàn cũng
ngày càng tăng cao.
Từ thực tế trên, chúng tôi nhận thấy việc học tiếng Hàn của người Việt và
việc học tiếng Việt của người Hàn đang là nhu cầu rất cần thiết trong thời kì hội
nhập quốc tế hiện nay. Nhưng để học tốt, sử dụng ngơn ngữ thành thạo thì cần
phải có một khối lượng từ vựng vững chắc. Mà để học được từ vựng tốt, khơng
mất nhiều thời gian thì cần phải có một phương pháp tối ưu. Phương pháp ấy
chính là phương pháp học từ vựng thông qua âm Hán. Bởi trong ngôn ngữ Hàn,
lớp từ Hán Hàn chiếm tỷ lệ 50-70% [dẫn theo Lý Kính Hiền 2009: 198] và trong
ngơn ngữ Việt, lớp từ Hán Việt chiếm tỷ lệ 50-70% [Lê Đình Khẩn 2002: I]. Cả
hai lớp từ này (Hán Hàn và Hán Việt) có nhiều trường hợp mà cách phát âm và ý
nghĩa giống nhau hoặc gần giống nhau. Chính đặc điểm này giúp cho việc học từ
vựng của người Hàn lẫn người Việt trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết.
Xuất phát từ nhu cầu thiết yếu mà thực tế đã đặt ra cùng với đặc điểm độc
đáo của lớp từ Hán Hàn và Hán Việt, nên chúng tôi đã chọn “So sánh đối chiếu
âm đọc Hán Hàn và Hán Việt” làm đề tài nghiên cứu.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là âm đọc Hán Hàn và âm đọc Hán Việt.
Trên cơ sở các tài liệu tham khảo có liên quan đến đối tượng nghiên cứu này,
chúng tôi tổng quan thành bốn mảng nội dung là Cơ sở lý luận ngôn ngữ học, Lớp

từ Hán Hàn và những vấn đề liên quan, Lớp từ Hán Việt và những vấn đề liên
quan và So sánh đối chiếu lớp từ Hán Hàn và Hán Việt.
2.1. Cơ sở lý luận ngơn ngữ học
“Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt” (1995) của Nguyễn Tài Cẩn có
những đóng góp to lớn trong lĩnh vực ngữ âm lịch sử tiếng Việt. Cụ thể, giáo trình
đã hệ thống hóa những vấn đề lí luận về ngữ âm lịch sử tiếng Việt, tổng kết những
tư liệu liên quan đến ngữ âm lịch sử tiếng Việt. Ngồi ra, giáo trình đã gợi mở,
định hướng cho việc nghiên cứu về ngữ âm lịch sử tiếng Việt sau này.


6

Nói đến lĩnh vực ngữ âm tiếng Việt, khơng thể nào không nhắc đến cuốn
sách “Ngữ âm tiếng Việt” (2004) của Đoàn Thiện Thuật. Đây là cuốn sách nêu
rất tường tận từng góc cạnh nhỏ về ngữ âm trong tiếng Việt, cụ thể đa phần cuốn
sách này dùng cho việc miêu tả cấu trúc âm vị học của tiếng Việt như: âm tiết,
thanh điệu, âm đầu, âm đệm, âm chính và âm cuối. Đây sẽ là nguồn tài liệu tham
khảo cho chúng tôi ở chương cơ sở lý luận và thực tiễn, cũng từ đây giúp chúng
tôi nắm rõ hơn các thành phần của âm tiết để có thể ứng dụng vào phần so sánh
đối chiếu âm đọc một cách chính xác nhất.
Năm 2005, trong cơng trình“외국인을 위한 한국어 문법 1” (tạm dịch
“Ngữ pháp tiếng Hàn dành cho người nước ngoài 1”), Viện Quốc ngữ Quốc gia
(국립국어원) Hàn Quốc đã hệ thống một cách chi tiết những khía cạnh của tiếng
Hàn như: 1) Tiếng Hàn và giảng dạy ngữ pháp tiếng Hàn, 2) Câu, 3) Chức năng
và ý nghĩa của các yếu tố ngữ pháp, 4) Từ vựng, 5) Ngữ âm, 6) Đàm thoại. Trong
đó, chúng tơi đặc biệt chú trọng đến các kiến thức về ngữ âm tiếng Hàn mà cuốn
sách này đưa ra như: nguyên âm, phụ âm và âm tiết trong tiếng Hàn bởi nó liên
quan trực tiếp đến đề tài nghiên cứu của chúng tơi.
Ngồi ra, trong cuốn sách “Tiếng Việt mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ
nghĩa” (2007) của Cao Xuân Hạo nêu khá hệ thống về ba khía cạnh của tiếng

Việt đó là ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa. Đặc biệt, ở khía cạnh ngữ âm, tác giả
nhấn mạnh đến các vấn đề và tính chất của âm vị, so sánh ngơn ngữ học phương
Tây với ngôn ngữ học tiếng Việt và các vấn đề âm vị học qua một số phương ngữ
ở Việt Nam.
Trong “Giáo trình ngữ âm tiếng Việt hiện đại” (2009), Võ Xuân Hào đã
tổng hợp, phân tích rõ ràng và súc tích về những vấn đề ngữ âm trong tiếng Việt.
Cụ thể, tác giả đã nêu được các đơn vị ngữ âm, cơ cấu âm tiết, thanh điệu và ngữ
âm đoạn tính trong tiếng Việt. Ngồi ra, tác giả cịn chú trọng phân tích về vấn đề
chính âm, chữ viết và chính tả. Tài liệu này thiên về lĩnh vực ngữ âm là chính và
nó đúng với hướng nghiên cứu mà chúng tôi đã đề ra, vậy nên chúng tơi sẽ chọn
lọc có tiếp thu và đưa một số kiến thức về ngữ âm ở tài liệu này vào cơng trình
nghiên cứu của mình.
Tóm lại, các tài liệu về cơ sở lý luận ngôn ngữ học, cụ thể là ngữ âm học
vô cùng đa dạng, được viết bởi nhiều tác giả khác nhau. Chính vì vậy quan điểm


7

về các vấn đề thuộc ngữ âm học cũng trở nên có nhiều khác biệt. Do đó, chúng
tơi sẽ chọn lọc và đưa vào bài nghiên cứu của mình những quan điểm mà theo
chúng tôi là phù hợp nhất.
2.2. Lớp từ Hán Hàn và những vấn đề liên quan
Như đã đề cập, ngơn ngữ Hàn có lớp từ Hán Hàn chiếm tỷ lệ 50-70% [dẫn
theo Lý Kính Hiền 2009: 198] vì vậy “Hán Hàn” chính là “mảnh đất màu mỡ”
cho các nhà nghiên cứu, đặc biệt là các nhà nghiên cứu về ngơn ngữ có thể thoải
mái đào sâu, tìm hiểu. Vậy nên tài liệu nghiên cứu về lớp từ Hán Hàn và những
vấn đề liên quan hết sức phong phú, đặc sắc, được thể hiện trên nhiều khía cạnh
khác nhau.
Năm 2009, trong bài viết “Từ Hán Hàn nhìn từ góc độ cội nguồn” (đăng
trong sách Ngành Hàn Quốc học 15 năm xây dựng và phát triển [1994-2009] -


한국학과 15 주년 발자취), Lý Kính Hiền tập trung xốy sâu vào ba nguồn gốc
của lớp từ Hán Hàn: 1) Từ Hán Hàn có nguồn gốc Trung Quốc (từ Hán Hàn gốc
cổ văn, từ Hán Hàn gốc Phật giáo, từ Hán Hàn gốc Bạch thoại); 2) Từ Hán Hàn
có nguồn gốc Nhật Bản; 3) Từ Hán Hàn có nguồn gốc Hàn Quốc.
Trong luận văn thạc sĩ (ĐH Paichai, 2010) “비한자문화권 학습자를

위한 교육용 한자어 연구” (tạm dịch “Nghiên cứu giảng dạy từ Hán Hàn cho
người học khơng thuộc vùng văn hóa chữ Hán), Seol Hye Kyung (설혜경) đã nêu
ra tình hình giảng dạy Hán tự (Chinese characters), tiến hành lựa chọn những Hán
tự và từ Hán Hàn (Sino-Korean words) cần dạy cho người học, tiếp theo là nêu
lên đặc điểm hình thành từ Hán Hàn và cuối cùng đã đề ra phương pháp giảng
dạy từ Hán Hàn thơng qua dạy Hán tự.
Ngồi ra, luận văn thạc sĩ (ĐH Hanyang, 2014) “한·중의 고빈도 사용

한자어 비교 연구 - 2 음절 한자어를 중심으로” (tạm dịch “Nghiên cứu so
sánh các Hán tự có tần suất sử dụng cao ở Hàn Quốc và Trung Quốc – lấy trọng
tâm là từ có 2 âm tiết”) của Lee Yong Kyo (이용교) đã nêu ra các khái niệm về
từ đồng nghĩa và từ dị nghĩa, đã thống kê và phân tích các từ đồng hình Hàn –
Trung và các từ đồng nghĩa dị hình Hàn – Trung.
Yu Il Jin (유일진) trong luận văn thạc sĩ (ĐH Nữ Seoul, 2017) “중국어권

학습자를 위한 한국 한자어 위계화 연구 - 생각과 감정 어휘를 중심으로”


8

(tạm dịch “Nghiên cứu phân cấp của từ Hán Hàn dành cho người học ở những
khu vực nói tiếng Trung – lấy trọng tâm là các từ vựng về suy nghĩ và tình cảm”)
của mình, tác giả đã phân loại các từ vựng Hán Hàn thành hai loại là từ chỉ suy

nghĩ và từ chỉ tình cảm, sau đó tác giả đi sâu vào phân tích sự phân cấp của từ
Hán Hàn chỉ suy nghĩ và tình cảm, cuối cùng là đưa ra phương sách cải tiến các
giáo trình để phân cấp các từ Hán Hàn.
Nhìn chung, các tài liệu nghiên cứu trên đây sẽ giúp chúng tơi hình thành
thêm một số kiến thức nền tảng về Hán tự cũng như củng cố thêm kiến thức về từ
Hán Hàn. Do đó chúng tơi có thể nắm bắt được bản chất, quy luật hình thành âm
Hán Hàn từ chữ gốc Hán để trở nên dễ dàng hơn trong việc đối chiếu, so sánh với
âm Hán Việt.
2.3. Lớp từ Hán Việt và những vấn đề liên quan
Chính vì lý do trong ngơn ngữ Việt lớp từ Hán Việt chiếm tỷ lệ 50-70%
[Lê Đình Khẩn 2002: I] cho nên các tài liệu nghiên cứu về vấn đề này hết sức
phong phú và đa dạng.
Trong cuốn sách “Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt”
(2001), Nguyễn Tài Cẩn đã nêu tường tận và chi tiết về hoàn cảnh lịch sử của
cách đọc Hán Việt, mức độ ảnh hưởng của cách đọc Hán Việt, quá trình diễn biến
từ hệ thống ngữ âm tiếng Hán (gồm thanh mẫu, vận bộ, thanh điệu) đến hệ thống
ngữ âm tiếng Việt (gồm phụ âm đầu, nguyên âm, phụ âm cuối, thanh điệu) theo
từng giai đoạn lịch sử.
Nhắc đến các tài liệu nghiên cứu về Hán Việt thì khơng thể nào bỏ qua
quyển sách “Từ vựng gốc Hán trong tiếng Việt” (2002) của Lê Đình Khẩn. Trong
quyển sách này, tác giả đã nêu lên những vấn đề tiếp xúc ngôn ngữ Việt - Hán.
Đây sẽ là nguồn tài liệu quan trọng để chúng tôi bổ sung vào chương cở sở lý luận
và thực tiễn trong bài nghiên cứu của mình. Ngồi ra, tác giả cịn đề cập đến: 1)
Tiếng, đơn từ gốc Hán và những cách thức Việt hóa, 2) Từ ghép gốc Hán, 3) Ngữ
cố định gốc Hán và cách thức Việt hóa, 4) Hư từ gốc Hán và cách thức Việt hóa.
Ngồi ra, trong cuốn sách “Tiếng Việt – Văn Việt – Người Việt” (2003),
Cao Xuân Hạo đã đề cập không chỉ về tiếng Việt mà cịn cả về con người Việt
Nam, văn hóa Việt Nam. Đặc biệt, trong phần tiếng Việt, tác giả đã nêu khá rõ
những khía cạnh và vấn đề của từ Hán Việt, từ thuần Việt.



9

Năm 2008, Lê Thị Ngọc Điệp, tác giả bài báo khoa học “Về từ Hán Việt
trong sách giáo khoa tiếng Việt bậc tiểu học” (Tập san Khoa học Xã hội và Nhân
văn, ĐH KHXH&NV, ĐHQG TP.HCM, số 42) đã thống kê và đưa ra nhận xét
về số lượng và việc sử dụng từ Hán Việt trong sách giáo khoa tiếng Việt bậc tiểu
học. Tác giả đưa ra vai trò của từ Hán Việt và vấn đề giải nghĩa từ Hán Việt trong
sách giáo khoa tiếng Việt bậc tiểu học, để từ đó đóng góp ý kiến vào việc biên
soạn sách giáo khoa sao cho tốt hơn, phù hợp hơn với học sinh tiểu học lẫn giáo
viên dạy tiểu học.
Ở lĩnh vực nghiên cứu về tục ngữ, cụ thể là tục ngữ của dân tộc Việt, lớp
từ Hán Việt cũng đóng góp một phần hết sức quan trọng. Bài báo khoa học “Vài
nét về tục ngữ Hán Việt trong tục ngữ Việt” (Tạp chí Khoa học, ĐH Sư phạm
TP.HCM, phụ bản 2009) của Phạm Thanh Hằng là một minh chứng cụ thể. Ở bài
báo này, tác giả nêu ra các số liệu cụ thể về việc nhóm tục ngữ gốc Hán chiếm
bao nhiêu phần trong kho tàng tục ngữ Việt, bên cạnh đó tác giả cịn đề cập đến
nhóm tục ngữ Hán Việt do người Việt sáng tạo ra.
Các tài liệu nghiên cứu về lớp từ Hán Việt và những vấn đề có liên quan
thật sự rất phong phú. Điều này cho thấy tầm ảnh hưởng và mức độ quan trọng
của lớp từ Hán Việt không chỉ trong ngôn ngữ của người Việt mà còn ngay trong
cả lối sống sinh hoạt, văn hóa, giáo dục,… của dân tộc Việt. Quan trọng là thế,
nhưng khơng phải vì vậy mà chúng ta lạm dụng từ Hán Việt và không xem trọng
giá trị, ý nghĩa của từ thuần Việt. Mục đích của nghiên cứu những vấn đề về lớp
từ Hán Việt là để chúng ta đi tìm về cội nguồn hình thành, để hiểu hơn về bản
chất, từ đó sử dụng ngơn ngữ được chính xác hơn chứ khơng phải là để nâng cao
giá trị của từ Hán Việt mà hạ thấp đi giá trị của từ thuần Việt. Tóm lại, những tài
liệu nghiên cứu về từ Hán Việt như thế này giúp chúng tôi nắm rõ hơn về nguồn
gốc, bản chất của lớp từ Hán Việt, để từ đó có cái nhìn sâu hơn, rộng hơn, chính
xác hơn, khách quan hơn để đi vào nghiên cứu so sánh đối chiếu với âm Hán Hàn.

2.4. So sánh đối chiếu lớp từ Hán Hàn và Hán Việt
Đây là phần mà chúng tôi chú trọng hơn cả, bởi nó liên quan trực tiếp đến
đề tài nghiên cứu của chúng tơi.
Cho Myeong Sook (조명숙) có bài viết “Một số kết quả đối chiếu ngữ âm
giữa tiếng Hàn và tiếng Việt” (Tạp chí Khoa học ĐH Sư phạm TP.HCM, số


10

9/2006) đã nêu khá rõ về vấn đề đối chiếu giữa mặt ngữ âm tiếng Hàn và tiếng
Việt. Dựa vào nguồn tài liệu này, chúng tơi có thể nắm rõ vấn đề ngữ âm của cả
tiếng Hàn lẫn tiếng Việt. Từ đó chúng tơi có thể ứng dụng vào việc so sánh âm
đọc Hán Hàn và Hán Việt trong đề tài nghiên cứu của mình.
Tác giả Lưu Tuấn Anh trong tham luận “Bước đầu phân tích thống kê ý
nghĩa của lớp từ Hán – Hàn nhằm khắc phục lỗi và phát huy hiệu quả học tập từ
vựng tiếng Hàn của người Việt” (đăng Kỷ yếu Hội thảo khoa học Hàn Quốc và
Hàn Quốc học từ góc nhìn châu Á, 2009) chủ yếu xoáy sâu vào mặt ngữ nghĩa
của lớp từ Hán Hàn so sánh với Hán Việt. Vì vậy tài liệu này không giúp nhiều
cho chúng tôi vào việc nghiên cứu đề tài, bởi cúng tôi chỉ đi sâu vào mặt ngữ âm
mà thôi. Tuy nhiên, trong tham luận này của Lưu Tuấn Anh có một phần tuy ít
nhưng khá đầy đủ, ấy là “Hiện tượng giao thoa ngôn ngữ giữa tiếng Hàn và tiếng
Việt trong quá trình học tập tiếng Hàn ở lĩnh vực từ vựng vay mượn tiếng Hán”
[Lưu Tuấn Anh 2009: 81], đây là nguồn tài liệu q báu giúp chúng tơi có thể
hồn thành một cách đày đủ nhất về “Q trình tiếp xúc ngơn ngữ” ở chương cơ
sở lý luận và thực tiễn mà chúng tôi đã đề ra.
Ở luận văn thạc sĩ “韓國語와 베트남語의 同形 漢字語 比較硏究” (tạm
dịch “Nghiên cứu đối chiếu từ vựng Hán Hàn và Hán Việt đồng tự”) (ĐH Inha,
2009), Lý Kính Hiền chủ yếu so sánh đối chiếu về mặt ngữ nghĩa giữa từ Hán
Hàn và Hán Việt. Do đó chúng tôi chỉ sử dụng tài liệu này để tham khảo cách đối
chiếu ngôn ngữ mà thôi.

Năm 2009, trong luận án tiến sĩ “한국어와 베트남어 한자어의 대조

연구” (tạm dịch “Nghiên cứu đối chiếu từ vựng Hán Hàn và Hán Việt”) (ĐH
Youngnam), tác giả Lê Tuấn Sơn đã nghiên cứu cả ba lĩnh vực, đó là: đối chiếu
âm tiết của từ vựng Hán Hàn và Hán Việt, đối chiếu cấu tạo từ vựng Hán Hàn và
Hán Việt, đối chiếu ý nghĩa từ vựng Hán Hàn và Hán Việt. Theo chúng tôi, đây
là cơng trình nghiên cứu sâu rộng và đầy đủ. Tuy nhiên để phù hợp với đề tài mà
chúng tôi đã chọn, chúng tôi sẽ chỉ vận dụng mục “Đối chiếu âm tiết của từ vựng
Hán Hàn và Hán Việt” [Lê Tuấn Sơn 2009: 8-34] làm tài liệu tham khảo. Cụ thể,
ở mục “Đối chiếu âm tiết” này, Lê Tuấn Sơn đã nêu khá rõ về bảng đối chiếu âm
Hán Hàn sang âm Hán Việt nhưng chưa nêu ra chiều ngược lại là đối chiếu âm
Hán Việt sang âm Hán Hàn. Do đó chúng tơi sẽ bổ sung thêm phần đối chiếu âm


11

Hán Việt sang Hán Hàn và khảo sát khoảng hơn 3.000 âm tiết Hán Hàn – theo
chúng tôi đây là con số khá lớn, phù hợp để lấy mẫu vì nó sẽ khái qt được chính
xác hơn bản chất của tổng thể.
Cho Myeong Sook (조명숙) đã đưa ra các vấn đề như: khái niệm về từ gốc
Hán, quá trình du nhập của từ gốc Hán vào Hàn Quốc và Việt Nam, đặc điểm cấu
tạo âm tiết, quy tắc đối xứng âm vận Hán Hàn và Hán Việt , đối chiếu từ vựng
gốc Hán và ngữ tố gốc Hán,… qua tham luận “한·베어 대조 연구 – 한자어를

중심으로” (tạm dịch “Nghiên cứu đối chiếu tiếng Hàn và tiếng Việt – lấy trọng
tâm là từ gốc Hán”) (đăng Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quan hệ Việt Nam – Korea:
từ quá khứ, hiện tại đến tương lai, 2012). Theo bố cục, bài nghiên cứu của Cho
Myeong Sook khá đầy đủ và rõ ràng, tuy nhiên về mặt nội dung tác giả đối chiếu
mà khơng đưa ra bất kì một số liệu phần trăm cụ thể nào cả, do đó chúng tơi khơng
biết được tác giả đã lấy bao nhiêu từ vựng để chọn mẫu và chính vì thiếu sót này

mà tổng thể tác giả đúc kết về quy tắc đối chiếu qua lại giữa âm tố Hán Hàn và
Hán Việt là chưa thuyết phục. Vì vậy, ở đề tài của chúng tơi, điểm thiếu sót này
sẽ được bổ sung để tăng thêm tính thuyết phục.
Đặc biệt, không những so sánh đối chiếu giữa lớp từ Hán Hàn – Hán Việt
nói chung mà trong bài báo “남북한 및 베트남 한자어의 상관 관계” (tạm dịch
“Quan hệ tương quan giữa từ Hán Việt với từ Hán Hàn (Bắc Hàn và Nam Hàn)”
(đăng trên The Journal of Korean Studies, tập 22/2010) của An Myeong Cheol
(안명철), tác giả đi sâu vào so sánh đối chiếu Hán tự ở ba đối tượng: Hán tự Nam
Hàn, Hán tự Bắc Hàn và Hán Việt.
Ngoài ra, ở lĩnh vực so sánh đối chiếu lớp từ Hán Hàn và Hán Việt cũng
có rất nhiều bài nghiên cứu, luận án, luận văn,… điển hình là bài báo “Vài lưu ý
về lớp từ gốc Hán “Đồng tự dị nghĩa” (同字異義) trong tiếng Việt và tiếng Hàn
hiện đại” của Cao Thế Trình (đăng Tạp chí Nghiên cứu Việt Nam - 베트남연구,
2016). Đúng như tên gọi, bài viết chủ yếu nói về lớp từ gốc Hán “Đồng tự dị
nghĩa” trong tiếng Việt và tiếng Hàn hiện đại và đưa ra những lý giải cho sự khác
nghĩa (異義) trong lớp từ khác nghĩa “đồng tự” (同字) giữa tiếng Việt và tiếng
Hàn hiện đại.


12

Nhìn chung, nguồn tài liệu ở lĩnh vực so sánh đối chiếu ngôn ngữ, cụ thể
là so sánh đối chiếu lớp từ Hán Hàn với Hán Việt và ngược lại là hết sức phong
phú. Nhiều khía cạnh của hai lớp từ này như ngữ âm, ngữ nghĩa,… được các nhà
nghiên cứu đem ra phân tích sâu, đối chiếu kĩ để cuối cùng là đưa ra những nét
tương đồng và dị biệt giữa hai lớp từ này. Tuy nhiên vẫn chưa có nhà nghiên cứu
nào thực hiện so sánh đối chiếu hai chiều cùng một lúc, đó là: đối chiếu từ âm
Hán Hàn sang âm Hán Việt và ngược lại là âm Hán Việt sang âm Hán Hàn.
Ngoài ra, sau khi thực hiện đối chiếu, rất ít các nhà nghiên cứu nêu ra được số
liệu phần trăm cụ thể để làm minh chứng cho lập luận của mình thêm sáng tỏ. Vì

vậy, trên cơ sở kế thừa và bổ sung những thiếu sót của các thành tựu nghiên cứu
trước đó, chúng tôi sẽ đi sâu vào so sánh đối chiếu theo hai hướng, đó là: 1) So
sánh đối chiếu âm đọc Hán Hàn với âm đọc Hán Việt, 2) So sánh đối chiếu âm
đọc Hán Việt với âm đọc Hán Hàn. Bên cạnh đó, để tăng thêm sức thuyết phục
cho đề tài nghiên cứu của mình, chúng tơi sẽ khảo sát khoảng hơn 3.000 âm Hán
Hàn (một âm tiết) và đối chiếu ra khoảng hơn 3.000 âm Hán Việt (một âm tiết)
tương ứng. Có thống kê với số lượng lớn như vậy thì kết luận về tính đồng nhất
và dị biệt giữa hai loại âm đọc này sẽ lại càng chính xác.

3. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu mà chúng tôi hướng đến cho bài nghiên cứu khoa học này là:
Tìm hiểu khái quát về vấn đề tiếp xúc ngôn ngữ, tức là tìm hiểu về quá
trình du nhập của tiếng Hán cổ vào Hàn Quốc và Việt Nam khi xưa. Tiếp đến, để
phục vụ cho việc so sánh đối chiếu âm đọc, chúng tơi sẽ phân tích sơ lược về âm
tiết, âm tố Hán Hàn và âm tiết, âm tố Hán Việt.
Cuối cùng, chúng tôi sẽ trực tiếp so sánh từng âm tố Hán Hàn với âm tố
Hán Việt và ngược lại. Từ đó có thể rút ra quy luật tương đồng (tương cận) trong
cách đọc âm Hán Hàn và Hán Việt. Nói cách khác, nhờ có những quy luật này,
khi nghe người Hàn đọc một âm Hán Hàn nào đó thì ta có thể biết ngay được âm
Hán Việt tương ứng là gì và ngược lại. Chẳng hạn, khi nghe người Hàn đọc /kuk
ka/ (국가) thì ta có thể đốn đó là âm /kwuok za/ (quốc gia) trong âm Hán Việt.
Tóm lại, với phương pháp này người học có thể dễ dàng đoán biết được âm đọc


13

của từ vựng, cũng như có thể suy luận ra được nghĩa của từ, do đó việc ghi nhớ
từ vựng sẽ trở nên dễ dàng và lâu dài hơn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Âm đọc Hán Hàn và âm đọc Hán Việt. Cụ thể là

phụ âm đầu và vần của từ Hán Hàn và Hán Việt một âm tiết.
Phạm vi nghiên cứu: khảo sát khoảng hơn 3.000 âm tiết Hán Hàn (theo
Đại từ điển tiếng Hàn chuẩn - 표준국어 대사전 của Viện Quốc ngữ Quốc gia
Hàn Quốc) và khoảng hơn 3.000 âm tiết Hán Việt tương ứng (theo từ điển Hán
Việt Thiều Chửu và từ điển Hán Nôm).
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thống kê - so sánh đối chiếu:
Tiếng Hàn thuộc loại hình ngơn ngữ chắp dính, ngữ hệ Altai, cịn tiếng
Việt thuộc loại hình ngơn ngữ đơn lập, ngữ hệ Nam Á. Tóm lại, tiếng Hàn và
tiếng Việt khơng cùng chung loại hình cũng như ngữ hệ. Vì thế theo chúng tơi
đây là phương pháp tối ưu bởi trong tất cả các phương pháp so sánh thì chỉ có
phương pháp so sánh đối chiếu mới có thể áp dụng được cho mọi ngơn ngữ mà
khơng cần chúng phải chung loại hình hay ngữ hệ.
Về phần phụ lục, chúng tôi sẽ tiến hành thống kê trước nhất và theo trình
tự sau:
Thứ nhất, chúng tôi sẽ đếm tổng số tất cả âm tiết Hán Hàn trên Đại từ điển
tiếng Hàn chuẩn - 표준국어 대사전 của Viện Quốc ngữ Quốc gia Hàn Quốc
(국립국어원) là bao nhiêu rồi sau đó tiến hành lấy mẫu (mẫu bằng 10% tổng số
lượng trên thực tế).
Thứ hai, sau khi tiến hành lấy mẫu, chúng tơi nhận thấy có khoảng hơn
3.000 âm tiết Hán Hàn cần phải phân tích. Trong hơn 3.000 âm tiết Hán Hàn ấy,
chúng tôi tiến hành phân tích mỗi âm tiết thành hai phần là phụ âm đầu và vần,
chúng tôi cũng sẽ ghi chú âm tiết, phụ âm đầu và vần của âm tiết Hán Việt tương
ứng bên cạnh mỗi âm tiết Hán Hàn như vậy (các âm tiết Hán Việt chủ yếu dựa
theo từ điển Hán Việt Thiều Chửu và từ điển Hán Nôm). Đồng thời để tăng thêm
thuyết phục, chúng tôi cũng đưa cả Hán tự kèm theo những âm tiết ấy. Tuy nhiên,


14


trong q trình tiến hành, chúng tơi nhận thấy âm Hán Hàn bị chi phối bởi Nguyên
tắc âm đầu nên chúng tơi đã chia nhỏ thành q trình phân tích tổng hợp thành
hai phần: một là, âm Hán Hàn bị chi phối bởi Nguyên tắc âm đầu; hai là, âm Hán
Hàn không bị chi phối bởi Nguyên tắc âm đầu.
Thứ ba, chúng tôi sẽ tổng hợp và đưa ra số liệu về tần suất xuất hiện của
một phụ âm đầu Hán Việt có thể chiếm bao nhiêu phần trăm trong tổng số phụ
âm Hán Hàn tương đương với nó và ngược lại, ví dụ: phụ âm đầu Hán Hàn ㅍsẽ cho ra tương ứng bốn phụ âm đầu Hán Việt là b-, ph-, t-, th-, trong đó b- chiếm
57,47%, ph- chiếm 27,59%, t- chiếm 9,2% và th- chiếm 5,74% trong tổng số phụ
âm đầu Hán Hàn ㅍ-. Kèm theo mỗi phụ âm như vậy là ký hiệu ngữ âm quốc tế
IPA (viết tắt của International Phonetic Alphabet).
Thứ tư, tương tự như cách làm với phụ âm đầu, chúng tôi sẽ tiến hành
thống kê và phân tích phần vần Hán Hàn giống như vậy.
Cuối cùng, nhờ sự trợ giúp của Microsoft Excel, chúng tôi một lần nữa
tổng hợp, sắp xếp và tính tốn các âm tiết Hán Việt sang các âm tiết Hán Hàn
tương ứng là như thế nào1.
Tóm lại, phương pháp này sẽ là phương pháp chủ đạo cho toàn bài nghiên
cứu của chúng tơi.
Phương pháp so sánh giải thích bên trong:
Chúng tơi dùng phương pháp này để phân tích âm tiết thành những thành
phần nhỏ hơn, đó chính là âm tố. Từ đó phục vụ cho cơng việc so sánh đối chiếu
trở nên dễ dàng hơn.
Phương pháp nghiên cứu lịch sử - lơ gíc:
Phương pháp này giúp chúng tơi trình bày những đặc trưng trong vấn đề
tiếp xúc ngơn ngữ Hán với ngôn ngữ Hàn và ngôn ngữ Hán với ngơn ngữ Việt.
Phương pháp phân tích – tổng hợp:
Dựa trên những nguồn tư liệu như sách, báo, bài nghiên cứu khoa học, luận
án, luận văn, tư liệu trên internet,... chúng tơi sẽ phân tích và đưa vào những dữ
liệu cần thiết cho đề tài của mình chẳng hạn như vấn đề và xu hướng tiếp xúc

Âm Hán Việt không có Nguyên tắc âm đầu. Tuy nhiên, để tương ứng và dễ dàng so sánh với âm Hán

Hàn, chúng tôi cũng chia âm Hán Việt thành: trường hợp bị chi phối bởi Nguyên tắc âm đầu và trường
hợp không bị chi phối bởi Nguyên tắc âm đầu.
1


15

ngôn ngữ; đặc điểm ngữ âm tiếng Hàn và tiếng Việt; các vấn đề nảy sinh do
Nguyên tắc âm đầu, v.v...
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Ý nghĩa khoa học:
Với đề tài này, chúng tơi có thể góp phần khẳng định tầm quan trọng của
lớp từ Hán Hàn trong tiếng Hàn và lớp từ Hán Việt trong tiếng Việt.
Ngoài ra, nghiên cứu này cịn góp phần vào q trình nghiên cứu về so
sánh ngơn ngữ nói chung cũng như so sánh lớp từ Hán Hàn và Hán Việt nói riêng.
Ý nghĩa thực tiễn:
Trong thời kỳ hội nhập toàn cầu như ngày nay, đặc biệt là trong mối quan
hệ hợp tác hữu nghị đang cực kì phát triển giữa Hàn Quốc và Việt Nam thì việc
học tiếng của nhau là hết sức cần thiết. Do đó với cách so sánh đối chiếu mà chúng
tôi đưa ra sẽ giúp cho người học tiếng có thể đốn biết được một cách chính xác
nhất ý nghĩa từ vựng và có thể nhớ được từ vựng rất lâu, thậm chí là khó có thể
qn. Ngoài ra, hiểu được bản chất, ý nghĩa của từ vựng sẽ giúp cho các nhà
nghiên cứu chuyên sâu về lĩnh vực Hàn Quốc học cũng như Việt Nam học có thể
dễ dàng hơn trong việc diễn đạt cũng như nắm bắt ý nghĩa của các tài liệu nghiên
cứu. Đối với các giảng viên, giáo viên, nếu họ nắm bắt được bản chất, âm đọc và
ý nghĩa của từ Hán Hàn hoặc Hán Việt thì việc giải thích, cắt nghĩa từ vựng trong
bài giảng của mình sẽ trở nên dễ dàng hơn, tạo khơng khí sinh động hơn cho tiết
học, tạo hứng thú học tập tốt hơn cho sinh viên, học sinh. Đối với sinh viên và
cao hơn nữa là những nghiên cứu sinh, việc nắm được những quy luật đối chiếu
giữa từ Hán Hàn với Hán Việt và ngược lại thì việc học từ vựng cao cấp sẽ khơng

cịn là trở ngại. Thêm vào đó, việc sinh viên và nghiên cứu sinh sử dụng tốt từ
Hán Hàn hoặc Hán Việt sẽ giúp họ tạo được sự khác biệt trong mỗi cấp độ bởi ở
Hàn Quốc, từ Hán Hàn được sử dụng trang trọng hơn từ thuần Hàn. Còn trong
tiếng Việt, các từ Hán Việt thường được sử dụng trong các văn bản hội họp mang
tính trang nghiêm, quan trọng.
Bài nghiên cứu này cũng sẽ góp phần bổ sung những phần cịn thiếu về lớp
từ Hán Hàn, Hán Việt nói chung và âm đọc Hàn Hàn, âm đọc Hán Việt nói riêng
trong những cơng trình nghiên cứu, luận án, luận văn, tiểu luận, bài nghiên cứu,...


16

về lĩnh vực có cùng đề tài. Đồng thời, góp phần làm phong phú thêm nguồn tư
liệu về so sánh đối chiếu ngơn ngữ nói chung.
7. Bố cục đề tài
Ngồi phần Dẫn nhập, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, đề tài
nghiên cứu này cịn có ba chương nội dung chính như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn
Ở chương này, việc nắm rõ được bản chất, nguồn gốc của đối tượng nghiên
cứu là hết sức quan trọng. Bởi nó giúp bài nghiên cứu trở nên chặt chẽ, rõ ràng,
từ đó tăng thêm sức thuyết phục cho đề tài. Vậy nên chúng tôi quyết định chương
1 sẽ trình bày khái quát về vấn đề tiếp xúc ngôn ngữ mà cụ thể là sự tiếp xúc
ngôn ngữ Hán với Hàn và Hán với Việt. Bên cạnh đó, những vấn đề về ngữ âm
trong tiếng Hàn và tiếng Việt, vấn đề về Nguyên tắc âm đầu trong từ Hán Hàn
cũng được nêu rõ trong chương này.
Chương 2: Đối chiếu âm đọc Hán Hàn với âm đọc Hán Việt
Đây là chương chính, trình bày việc so sánh đối chiếu phụ âm đầu và vần
của âm tiết Hán Hàn sang phụ âm đầu và vần của âm tiết Hán Việt.
Chương 3: Đối chiếu âm đọc Hán Việt với âm đọc Hán Hàn
Đây cũng là chương chính, trình bày việc so sánh đối chiếu phụ âm đầu và

vần của âm tiết Hán Việt sang phụ âm đầu và vần của âm tiết Hán Hàn.


17

CHƯƠNG 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Sự tiếp xúc ngôn ngữ Hán với Hàn và Hán với Việt
Tiếp xúc ngôn ngữ được hiểu ngắn gọn là hiện tượng mà ở đó các ngơn
ngữ khác nhau sau khi tiếp xúc với nhau sẽ ngày càng trở nên phong phú hơn
nhưng vẫn giữ được đặc trưng, bản sắc riêng của mỗi ngôn ngữ. Hiện tượng này
diễn ra rất phổ biến đối với các ngôn ngữ trên thế giới. Theo Cho Dong Il, có bốn
ngơn ngữ chung trong những nền văn minh của thế giới: 1- chữ Hán ở Đông Á,
2- chữ Sanskrit ở Nam và Đông Nam Á, 3- chữ Arab cổ điển ở Tây Á và châu
Phi, 4- chữ Latin ở châu Âu [dẫn theo Phan Thị Thu Hiền 2017: 34]. Từ đây có
thể thấy được ngơn ngữ ở các nước có nền văn minh tiên tiến ảnh hưởng sâu rộng
sang cả những nước lân cận, trong cùng khu vực. Sự ảnh hưởng ấy chính là kết
quả của quá trình giao thoa, tiếp xúc ngơn ngữ.
1.1.1. Vấn đề tiếp xúc ngôn ngữ
1.1.1.1. Khái niệm về tiếp xúc ngôn ngữ
Theo O.S. Akhamanova (1966), tiếp xúc ngôn ngữ (language contact) là
“sự tiếp giao nhau giữa các ngơn ngữ do những hồn cảnh cận kề nhau về mặt
địa lý, tương nhiên về mặt lịch sử, xã hội dẫn đến nhu cầu của các cộng đồng
người vốn có những thứ tiếng khác nhau phải giao tiếp với nhau”. Tiếp xúc ngơn
ngữ cịn được V.N. Jarceva (1990) định nghĩa là “sự tác động qua lại giữa hai
hoặc nhiều ngôn ngữ tạo nên ảnh hưởng đối với cấu trúc và vốn từ của một hay
nhiều ngôn ngữ. Những điều kiện xã hội của sự tiếp xúc ngôn ngữ được quy định
bởi nhu cầu cần thiết phải giao tiếp lẫn nhau giữa những thành viên thuộc các
nhóm dân tộc và ngơn ngữ do những nhu cầu kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,
v.v... thúc đẩy” [dẫn theo Bùi Khánh Thế 2007: 3]. Ở Việt Nam, các nhà khoa

học của Viện Thông tin khoa học xã hội đã cho rằng tiếp xúc ngôn ngữ là “hiện
tượng song ngữ hay đa ngữ của hai hay đa dân tộc có chung biên giới, có q
trình giao lưu lâu dài trong hoạt động kinh tế, có sự đan xen do di trú của kiều
dân, có sự chiếm đóng lâu dài của lực lượng quân sự của nước này lên nước kia
tạo thành vùng giao thoa ngôn ngữ của những dân tộc ấy với nhau.” [Viện Thông
tin khoa học xã hội 1986: 287].


18

Cả ba nhận định đều nêu ra bản chất (sự giao thoa của hai hay nhiều ngôn
ngữ của hai hay nhiều dân tộc) và điều kiện diễn ra sự tiếp xúc ngôn ngữ (tương
quan địa lý – tự nhiên, giao lưu kinh tế, văn hóa, chính trị…). Tuy nhiên, căn cứ
vào thực tế, chúng tôi thấy rằng nhận định thứ nhất và thứ ba đều có phần hạn
chế: các nhà nghiên cứu cho rằng chỉ có các ngơn ngữ có chung biên giới hay cận
kề nhau về mặt địa lý mới có hiện tượng tiếp xúc nhau (thực tế thì giữa các ngôn
ngữ xa nhau về mặt địa lý vẫn có thể tiếp xúc với nhau, chẳng hạn tiếng Việt và
tiếng Pháp). Cách định nghĩa thứ hai loại bỏ được hạn chế vừa nêu. Tuy định
nghĩa của V.N. Jarceva còn chung chung nhưng chúng tôi đồng ý với quan điểm
này vì nó khái qt được bản chất của hiện tượng tiếp xúc ngôn ngữ.
1.1.1.2. Phân loại
Về sự phân loại của hiện tượng tiếp xúc ngôn ngữ, chúng tôi nhận thấy có
hai cách phân loại: thứ nhất, dựa vào mối tương quan địa lý – tự nhiên; thứ hai,
dựa vào phương thức tiếp xúc giữa hai (hay nhiều) ngôn ngữ.
Nếu dựa vào mối tương quan địa lý – tự nhiên thì có thể phân chia tiếp xúc
ngơn ngữ thành hai loại: tiếp xúc tự nhiên và tiếp xúc phi tự nhiên. “Tiếp xúc tự
nhiên là sự tiếp xúc giữa những ngôn ngữ khác nhau xảy ra trong cùng một vùng
không gian. Chẳng hạn, sự tiếp xúc ngôn ngữ của dân tộc Hán vùng Đông Bắc
Trung Quốc và dân tộc Hàn vùng Tây Bắc bán đảo Triều Tiên ở thế kỷ thứ V
tr.CN là sự tiếp xúc tự nhiên (do cùng một vùng khơng gian). Cịn tiếp xúc phi

tự nhiên là sự tiếp xúc giữa các ngôn ngữ khác nhau không cùng một vùng khơng
gian” [Lê Đình Khẩn 2002: 20]. Điển hình như trường hợp tiếp xúc ngơn ngữ “do
q trình truyền bá văn tự hoặc do việc phiên dịch thư tịch văn hiến” [Lê Đình
Khẩn 2002: 21] được xếp vào nhóm tiếp xúc phi tự nhiên bởi khơng có sự tương
cận về địa lý.
Mặt khác, có một số nhà nghiên cứu lại dựa vào phương thức tiếp xúc giữa
hai (hay nhiều) ngôn ngữ để phân tiếp xúc ngôn ngữ thành hai loại là tiếp xúc
cưỡng ép và tiếp xúc tự nguyện. Tiếp xúc cưỡng ép là tiếp xúc ngôn ngữ mà
trong đó có sự áp chế về mặt ngơn ngữ - văn hóa của dân tộc này lên dân tộc khác
thường thông qua con đường quân sự (chiến tranh) nhằm áp đặt một chế độ chính
trị hay nhằm đồng hóa nước bị áp đặt. Tiếp xúc tự nguyện là tiếp xúc ngơn ngữ
một cách tự giác, có ý thức, trong đó ngôn ngữ của hai dân tộc tiếp xúc nhau một


19

cách bình đẳng hoặc dân tộc này tiếp nhận hay chấp nhận sự trao đổi giao lưu, sự
tồn tại văn tự hay tiếng nói của dân tộc kia [Lê Tuấn Sơn 1999: 6].
Trong nghiên cứu này, chúng tôi sẽ tiếp cận vấn đề (sự tiếp xúc ngôn ngữ
Hán với Hàn và sự tiếp xúc ngôn ngữ Hán với Việt) theo cách phân loại tiếp xúc
ngôn ngữ thứ hai. Cách phân loại thứ nhất khơng có ý nghĩa trong hai trường hợp
tiếp xúc ngơn ngữ này vì cả Việt Nam và Hàn Quốc đều tương cận về không gian
với Trung Quốc. Trong khi đó, cách phân loại thứ hai có thể cho thấy được sự
khác biệt cơ bản giữa hai sự tiếp xúc ngôn ngữ này: một bên là tiếp xúc cưỡng ép
(ngôn ngữ Hán và Việt) và một bên là tiếp xúc tự nguyện (ngôn ngữ Hán và Hàn).
1.1.2. Quá trình tiếp xúc ngơn ngữ Hán và ngơn ngữ Hàn
Chúng tơi sẽ phân tích q trình tiếp xúc ngơn ngữ Hán và ngôn ngữ Hàn
theo cách thức sau: đầu tiên, chúng tôi sẽ dựa vào các bối cảnh, sự kiện lịch sử
của từng thời kỳ, sau đó là nhận xét về nhân tố ảnh hưởng đến q trình tiếp xúc
ngơn ngữ cũng như xu hướng tiếp xúc ngôn ngữ (tự nguyện hay cưỡng ép).

1.1.2.1. Thời kỳ Gojoseon (고조선 - Cổ Triều Tiên, ? ~ 108 tr.CN)
Về bối cảnh lịch sử, theo cuốn sách “국사 (상)” (Quốc sử, quyển thượng),
vùng Mãn Châu và vùng Tây Bắc bán đảo Hàn là chiến địa của nhiều bộ tộc sống
lâu đời. Đến năm 2333 tr.CN, vua Đàn Quân hay còn gọi là Đàn Quân Vương
Kiệm (단군왕검) đã liên minh các bộ tộc này lại với nhau và thành lập nên nước
Gojoseon [Bộ Giáo dục Hàn Quốc 1996: 47]. Tiếp đến, do chiến tranh nông dân
nổ ra vào thời nhà Tần mà nhiều cư dân ở các nước Tề, Yên, Triệu đã chạy sang
Gojoseon lánh nạn [Lê Văn Quang 1993: 14-15]. Từ bối cảnh trên có thể dễ dàng
nhận thấy q trình tiếp xúc ngơn ngữ Hán và Hàn đã sớm bắt đầu từ thời kỳ này.
Trong bối cảnh sơ khai trên, sự tiếp xúc ngôn ngữ qua lại giữa hai dân tộc đều là
tự nguyện, bởi khơng có bất kỳ sự áp đặt chế độ chính trị hay quân sự nào ở đây.
Vào thời nhà Hán (năm 108 tr.CN), Hán Vũ Đế đem quân sang xâm lược
bán đảo Hàn. Trong khoảng 100 năm cai trị bán đảo Hàn, nhà Hán đã truyền bá
chữ Hán, ra lệnh dùng chữ Hán trong công văn giấy tờ của cơ quan hành chính
do nhà Hán lập ra và bắt quan lại, người bản địa phải học chữ Hán [Lý Xuân
Chung, Lý Kính Hiền 2014: 10]. Thời kỳ này, nhà Hán đã ép buộc dân tộc Hàn
phải học ngôn ngữ Hán để áp đặt chế độ chính trị. Và theo như định nghĩa đã nêu
ở phần trước thì đây chính là xu hướng tiếp xúc ngơn ngữ cưỡng ép.


×