Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG NGƢỜI VIỆT NAM Ở NƢỚC NGOÀI TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2015 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (711.51 KB, 27 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

MAI QUỐC DŨNG

ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LÃNH ĐẠO
CƠNG TÁC VẬN ĐỘNG NGƢỜI VIỆT NAM Ở NƢỚC NGOÀI
TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2015

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
MÃ SỐ: 62 22 03 15

HÀ NỘI - 2020


CƠNG TRÌNH ĐƢỢC HỒN THÀNH TẠI:
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

Người hướng dẫn khoa học:

1. PGS, TS Trần Trọng Thơ
2. TS Nguyễn Thị Hồng Mai

Phản biện 1: …………………………………………………………
…………………………………………………………
Phản biện 2: …………………………………………………………
…………………………………………………………
Phản biện 3: …………………………………………………………
…………………………………………………………

Luận án sẽ đƣợc bảo vệ trƣớc hội đồng chấm luận án cấp


Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Vào .......... giờ............ ngày......... năm 20.....

Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia;
- Viện Thơng tin khoa học Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh;
- Bộ phận Tư liệu Viện lịch sử Đảng.


DANH MỤC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Mai Quốc Dũng (2018), “Trí thức người Việt Nam ở nước ngồi một nguồn
lực quan trọng trong q trình xây dựng Chính phủ kiến tạo”, Kỷ yếu hội
thảo quốc tế do Học viện Hành chính quốc gia, Viện Kinh tế Việt Nam và
Học viện Hành chính Metz (Pháp), tr. 559-565.
2. Mai Quốc Dũng (2018), “Người Việt Nam ở nước ngồi một bộ phận khơng
tách rời, một nguồn lực của dân tộc Việt Nam”, Tạp chí Giáo dục và xã hội,
(92), tr. 85-88.
3. Mai Quốc Dũng (2019), “Chính sách thu hút trí thức người Việt Nam ở
nước ngồi của Thành phố Hồ Chí Minh”, Tạp chí Giáo dục và xã hội, (96),
tr. 75-79.
4. Mai Quốc Dũng (2019), “Thực tiễn công tác thu hút nguồn lực trí thức
người Việt Nam ở nước ngồi của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ
đổi mới”, Tạp chí Thơng tin khoa học lý luận chính trị, (5), tr. 42-47.
5. Mai Quốc Dũng (2019), “Thành phố Hồ Chí Minh với cơng tác vận động
người Việt Nam ở nước ngồi (2005 - 2018)”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (10),
tr. 72-76.


1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quán triệt quan điểm của Đảng về công tác NVNONN, Đảng bộ và chính
quyền thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM) ln xác định cơng tác vận động
NVNONN là một nhiệm vụ chính trị quan trọng. Từ đó, Đảng bộ TP.HCM đã
đề ra những chủ trương về vận động, tranh thủ NVNONN và tìm tòi những
bước đi phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương.
Công tác vận động NVNONN của Đảng bộ TP.HCM đã đạt nhiều kết quả
tích cực trong lĩnh vực kinh tế, khoa học – công nghệ. Hằng năm, thành phố
nhận được hơn 50% lượng kiều hối và là địa phương có số lượng doanh nhân,
chun gia, trí thức NVNONN đơng nhất cả nước, góp phần quan trọng cho sự
phát triển chung của thành phố và của cả nước. Tuy nhiên, công tác vận động
NVNONN của Đảng bộ TP.HCM chưa khai thác tối đa và hiệu quả tiềm lực. Số
lượng và chất lượng đóng góp của NVNONN đối với TP.HCM chưa nhiều, các
doanh nghiệp vẫn chưa mạnh dạn đầu tư, kinh doanh, sản xuất, chưa có nhiều
người ở lại làm việc lâu dài. Tâm lý e dè, thiếu niềm tin vào chính sách vẫn cịn.
Thực tế cho thấy chính sách, cơ chế về công tác vận động NVNONN đã ban
hành chưa đồng bộ, việc thực thi chính sách của các cơ quan quản lý, trong
nhiều trường hợp còn chưa đúng với tinh thần “cởi mở, thơng thống” nên đã
gây lên những lực cản, thậm chí làm mất lịng tin của NVNONN đối với các cơ
quan cơng quyền. Bên cạnh đó, thủ tục hành chính rườm rà, phiền nhiễu cũng là
rào cản lớn đối với sự nhiệt tình đóng góp của NVNONN.
Từ thực trạng trên, cần một nghiên cứu, tổng kết, đánh giá tồn bộ q
trình lãnh đạo, thực hiện chính sách đối với công tác vận động NVNONN của
Đảng bộ TP.HCM, chỉ ra thành công, hạn chế, rút ra một số kinh nghiệm về sự
lãnh đạo của Đảng bộ TP.HCM trong công tác vận động NVNONN, đồng thời,
thông qua nghiên cứu tại một địa bàn trọng yếu về kinh tế, chính trị, văn hóa, có
số đơng NVNONN và thân nhân NVNONN là TP.HCM sẽ cung cấp những cơ
sở khoa học nhằm góp phần tổng kết những vấn đề lý luận và thực tiễn về công

tác vận động NVNONN ở tầm vĩ mơ, để từ đó hoạch định chính sách về công
tác này, đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ của thời kỳ cơng nghiệp hóa - hiện đại
hóa và hội nhập quốc tế.
Với lý đó, nghiên cứu sinh lựa chọn vấn đề “Đảng bộ thành phố Hồ Chí
Minh lãnh đạo cơng tác vận động người Việt Nam ở nước ngồi từ năm 2001
đến năm 2015” làm đề tài luận án tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản
Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ q trình Đảng bộ TP.HCM lãnh đạo công tác vận động
NVNONN từ năm 2001 đến năm 2015, đúc kết một số kinh nghiệm góp phần
nâng cao hiệu quả công tác lãnh đạo vận động NVNONN của Đảng bộ
TP.HCM hiện nay.


2

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khái quát những nghiên cứu liên quan, chỉ ra những vấn đề đã được giải
quyết, những nội dung mà luận án tập trung nghiên cứu.
- Phân tích các nhân tố tác động đến sự lãnh đạo của Đảng bộ TP.HCM
về công tác vận động NVNONN.
- Trình bày, phân tích các chủ trương và q trình chỉ đạo thực hiện của
Đảng bộ TP.HCM về công tác vận động NVNONN từ năm 2001 đến năm 2015.
- Đánh giá ưu điểm, hạn chế trong quá trình Đảng bộ TP.HCM lãnh đạo
cơng tác vận động NVNONN, từ đó nêu rõ nguyên nhân của những ưu điểm, hạn
chế đó. Đúc kết một số kinh nghiệm có giá trị tham khảo góp phần nâng cao sự
lãnh đạo của Đảng bộ TP.HCM đối với công tác vận động NVNONN hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng

Các chủ trương và sự chỉ đạo thực hiện của Đảng bộ TP.HCM đối với
công tác vận động NVNONN từ năm 2001 đến năm 2015.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: Luận án giới hạn phạm vi thời gian nghiên cứu từ năm 2001
đến năm 2015. Luận án lấy mốc thời gian từ năm 2001 là năm đầu thế kỷ XXI,
năm đầu tiên của nhiệm kỳ Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố lần thứ VII, kết
thúc năm 2015 là năm kết thúc nhiệm kỳ Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố
lần thứ IX.
Về không gian: Luận án nghiên cứu công tác vận động NVNONN trên địa
bàn TP.HCM.
Về nội dung nghiên cứu: Luận án nghiên cứu chủ trương và quá trình
Đảng bộ TP.HCM chỉ đạo thực hiện công tác vận động NVNONN từ năm 2001
đến năm 2015, trên một số nội dung sau: xây dựng và ban hành các chủ trương
về vận động NVNONN; thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền đến
NVNONN; công tác thu hút và phát huy tiềm năng của NVNONN trên hai
phương diện chính là tri thức và kinh tế; công tác hỗ trợ NVNONN ổn định
cuộc sống; tăng cường hoạt động của Ủy ban về NVNONN TP.HCM.
4. Cơ sở lý luận, nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. C ở l luận
Luận án dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về cơng tác dân vận, cơng tác quần chúng, đoàn kết dân tộc.
4.2. Nguồn tài liệu
Văn kiện của Đảng và Nhà nước bao gồm: các nghị quyết, chỉ thị, luật,
nghị định, kế hoạch, thơng tư, chương trình.
Văn kiện của Đảng bộ, chính quyền TP.HCM (Tỉnh ủy, UBND, các sở, ban,
ngành) bao gồm các nghị quyết, chỉ thị, kế hoạch, chương trình, thơng tư, đề án.
Các sách, báo, tạp chí đã xuất bản; luận văn, luận án, đề tài viết về
NVNONN đã bảo vệ thành công.
4.3. Phư ng ph p nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp lơgíc là chủ yếu,

đồng thời, kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngành, như


3

phương pháp thống kê, phương pháp đối chiếu, phương pháp so sánh, phương
pháp phân tích, phương pháp tổng hợp.
Phương pháp lịch sử được sử dụng để trình bày quá trình lãnh đạo công
tác vận động NVNONN của Đảng bộ TP.HCM.
Phương pháp lơgíc được dùng để làm rõ mối liên hệ giữa các quan điểm,
chủ trương với quá trình chỉ đạo thực hiện, những kết quả đạt được, từ đó, khái
quát những ưu điểm, hạn chế và rút ra một số kinh nghiệm trong q trình Đảng
bộ TP.HCM lãnh đạo cơng tác vận động NVNONN từ năm 2001 đến năm 2015.
Các phương pháp khác như: phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp,
nhằm làm sáng tỏ hơn những vấn đề mà luận án đặt ra.
5. Những đóng góp mới của luận án
5.1. Đóng góp về khoa học
Luận án hệ thống hóa các chủ trương, làm rõ quá trình chỉ đạo thực hiện
của Đảng bộ TP.HCM về công tác vận động NVNONN, góp phần làm rõ và
làm phong phú thêm những vấn đề lý luận về công tác vận động NVNONN ở
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, mở cửa, hội nhập quốc tế.
Luận án đã bước đầu nêu lên những nhận xét, đánh giá về các ưu điểm,
hạn chế, phân tích nguyên nhân ưu điểm, hạn chế, đồng thời rút ra một số kinh
nghiệm bổ ích từ q trình lãnh đạo của Đảng bộ thành phố về công tác vận
động NVNONN từ năm 2001 đến năm 2015.
Luận án cung cấp những cơ sở thực tiễn có thể được dùng làm những luận
cứ khoa học cho việc xây dựng chủ trương, biện pháp chỉ đạo công tác vận
động NVNONN của Đảng bộ TP.HCM.
Luận án góp phần làm phong phú, tồn diện và sâu sắc thêm lịch sử Đảng bộ
TP.HCM trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

5.2. Đóng góp về thực tiễn
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy
và học tập tại các cơ sở đào tạo ở TP.HCM và khu vực Nam Bộ.
Kết quả nghiên cứu của luận án giúp cho các cấp ủy đảng và chính quyền
TP.HCM có thể tham khảo, vận dụng vào thực tiễn trong lãnh đạo công tác vận
động NVNONN ngày càng đạt kết quả cao hơn.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung luận án được kết cấu gồm 4 chương, 10 tiết.
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

Trên những cấp độ khác nhau, đến nay đã có nhiều cơng trình nghiên cứu
liên quan đến vấn đề NVNONN được công bố. Có thể khái qt và phân loại
thành các nhóm cơng trình sau đây:


4

1.1.1. Nhóm cơng trình nghiên cứu chung về NVNONN
Các cơng trình phân tích những đặc điểm về tâm lý, địa vị pháp lý, đời
sống văn hóa, hoạt động kinh tế và giáo dục, đào tạo của kiều bào, từ đó, đã
làm rõ những tiềm lực của cộng đồng NVNONN có thể đóng góp cho đất nước,
đồng thời cũng phân tích những vấn đề như: những khó khăn trong đời sống
của kiều bào, một bộ phận kiều bào còn bị tác động, lôi kéo của các thế lực
phản động:
Cuốn sách “Về người Việt Nam định cư ở nước ngoài” của tác giả
Nguyễn Ngọc Hà. Cuốn sách “Người Việt Nam ở nước ngoài” của tác giả Trần

Trọng Đăng Đàn. Cuốn sách “Người Việt Nam ở nước ngồi khơng chỉ có Việt
kiều” của tác giả Trần Trọng Đăng Đàn. Cuốn sách “Thuyền nhân Việt Nam
định cư hay hồi hương” của tác giả Vũ Ngọc Bình. Cuốn sách “Người Việt ở
Thái Lan – Campuchia – Lào” của tác giả Nguyễn Quốc Lộc. Cuốn sách
“Cộng đồng và trí thức người Việt Nam ở một số nước Đông Âu những năm
đầu thế kỷ 21” của tác giả Nguyễn An Hà (chủ biên). Cuốn sách “Vai trò của
Cộng đồng người Việt ở Lào trong mối quan hệ Việt Nam – Lào” của Viện
Nghiên cứu Đông Nam Á. Cuốn sách “Việt kiều Thái Lan trong mối quan hệ
Thái Lan - Việt Nam” của tác giả Trịnh Diệu Thìn và Thanyathip Sripana. Luận
án “Quá trình hình thành phát triển cộng đồng người Việt ở Thái Lan” của tác giả
Hà Nguyên Khoa. Chuyên đề nghiên cứu “Các nguồn lực từ cộng đồng người
Việt ở nước ngoài” thuộc đề tài nghiên cứu cấp nhà nước KHXH-02-03 do tác
giả Vũ Hy Chương chủ trì. Bài “Bước đầu nghiên cứu cộng đồng người Việt
Nam ở nước ngoài” tác giả Nguyễn Cảnh Toàn. Bài “Người Việt Nam ở nước
ngoài hội nhập và hướng về quê hương” của tác giả Nguyễn Đình Bin. Bài
“Tiềm năng cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài” của tác giả Nguyễn Phú
Bình. Bài “Huy động trí tuệ của Việt kiều và người nước ngoài” của tác giả
Trần Kim Dung. Bài “ Một số đóng góp của Việt kiều ở Pháp trong cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược” và bài “Kiều bào Việt
Nam hướng về Tổ quốc trong cuộc đấu tranh giành và giữ chính quyền (19451946)” của tác giả Trần Thị Vui.
1.1.2. Nhóm cơng trình nghiên cứu về cơng tác vận động NVNONN
Người Việt Nam ở nước ngồi là bộ phận khơng tách rời và là một nguồn
lực của cộng đồng dân tộc, từ quan điểm nhất quán đó, Đảng đã ban hành nhiều
văn kiện quan trọng đối với NVNONN. Những quan điểm, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác vận động NVNONN
được nhiều học giả quan tâm nghiên cứu, thể hiện qua các cơng trình như sách,
bài viết, luận văn, luận án, đề tài nghiên cứu các cấp:
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Công tác vận động người Việt Nam ở
nước ngoài: thực tiễn và một số cơ sở lý luận” của Ủy ban Nhà nước về người
Việt Nam ở nước ngoài. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Phát huy vai trò

của các tổ chức đảng và đảng viên trong công tác vận động, tập hợp, giáo dục
và quản lý lưu học sinh Việt Nam du học tự túc ở ngoài nước” của Đảng ủy
ngoài nước. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Tăng cường năng lực đội ngũ


5

cán bộ làm công tác về người Việt Nam ở nước ngồi đáp ứng u cầu của
tình hình mới do tác giả Trần Trọng Toàn làm chủ nhiệm. Cuốn sách “Chính
sách của Đảng và Nhà nước đối với người Việt Nam ở nước ngoài trong thời kỳ
đổi mới” của tác giả Trần Thị Vui. Luận văn “Chính sách của Việt Nam đối với
người Việt Nam ở nước ngoài trong thời kỳ đổi mới” của tác giả Nguyễn Bảo
Chung. Luận văn “Thu hút đầu tư của Việt kiều vào phát triển kinh tế Hà Nội”
của tác giả Trần Thị Minh Trâm. Luận văn “Vai trò của cộng đồng người Việt
Nam ở nước ngoài trong sự nghiệp phát triển đất nước thời kỳ đổi mới” của tác
giả Phạm Văn Hùng. Bài “Giải pháp thu hút nhân tài Việt về nước” của tác giả
Quang Hoan. Bài “Phát huy tiềm năng trí thức người Việt Nam ở nước ngồi
vào sự nghiệp cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế” của
tác giả Nguyễn Thanh Sơn. Bài “Công tác người Việt Nam ở nước ngoài của
Đảng trong thời kỳ đổi mới” của tác giả Bùi Thị Thu Hà. Bài “Công tác vận
động người Việt Nam ở nước ngoài và những bài học thực tế” và bài “Những
chuyển biến tích cực trong công tác vận động cộng đồng người Việt Nam ở
nước ngồi năm 2005” của tác giả Nguyễn Phú Bình. Bài “Làm tốt công tác đối
với người Việt Nam ở nước ngoài” của tác giả Nguyễn Chiến Thắng. Bài “Thu
hút và phát huy vai trị của trí thức khoa học và cơng nghệ người Việt Nam ở
nước ngồi” của tác giả Trần Đắc Hiến. Bài “Thu hút kiều bào, khơi thông
nguồn lực Việt”, của tác giả Nguyễn Thanh Hải.
1.1.3. Nhóm cơng trình nghiên cứu về cơng tác vận động NVNONN ở
thành phố Hồ Chí Minh
Với những đặc điểm về văn hóa, xã hội, lịch sử, TP.HCM thu hút sự quan

tâm và đóng góp của NVNONN nhiều nhất cả nước. Đến nay, đã có nhiều cơng
trình nghiên cứu về cơng tác NVNONN ở TP.HCM:
Cuốn sách “Hội nghị hợp tác kinh tế và khoa học kỹ thuật thành phố Hồ
Chí Minh và Việt kiều” của Ban Việt kiều thành phố Hồ Chí Minh. Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Thành phố “Giải pháp khai thác tiềm lực của người
Việt Nam ở nước ngoài góp phần phát triển kinh tế thành phố Hồ Chí Minh”
của tác giả Đoàn Kim Thành (chủ nhiệm). Đề tài nghiên cứu khoa học cấp
Thành phố “Khả năng thu hút và thực tế sử dụng trí thức Việt kiều về làm việc
tại thành phố Hồ Chí Minh trong q trình phát triển và hội nhập hiện nay”
của tác giả Trần Văn Phương. Bài “Thành phố Hồ Chí Minh với cơng tác đối
với người Việt Nam ở nước ngoài thực tiễn và vấn đề đặt ra” của tác giả Lê Thị
Bình. Những bài viết thông tin về Hội nghị “Kiều bào chung sức xây dựng
thành phố Hồ Chí Minh phát triển nhanh, bền vững và hội nhập quốc tế” từ
ngày 10 đến ngày 16-11-2016 được đăng tải trên tạp chí Quê hương online. Bài
“Doanh nghiệp người Việt Nam ở nước ngoài - tiềm năng góp phần phát triển
thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Hồng Xn Bình. Bài “Một số giải pháp
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho thành phố Hồ Chí Minh” của tác
giả Trần Tất Đạt. Bài “Giải pháp cho Thành phố Hồ Chí Minh phát triển thịnh
vượng” của tác giả Nguyễn Hoài Bắc. Bài “Doanh nghiệp Việt Nam tại Nga và
cầu nối hợp tác phát triển thương mại Nga – thành phố Hồ Chí Minh” của tác
giả Lê Trường Sơn.


6
1.2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA CÁC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN
QUAN VÀ NỘI DUNG LUẬN ÁN TẬP TRUNG NGHIÊN CỨU

1.2.1. Kết quả nghiên cứu của các nhóm nghiên cứu
Về nội dung, các cơng trình đã xuất bản nghiên cứu về NVNONN đã giải
quyết những nội dung như sau:

Đã trình bày những vấn đề cơ bản về NVNONN theo các phương diện: quá
trình hình thành, phát triển; số lượng và khu vực phân bố; đặc điểm cơ bản về
kinh tế, văn hóa, giáo dục, địa vị pháp lý ở các nước sở tại. Qua đó, cho thấy rõ
vị trí, vai trò của kiều bào trong sự nghiệp cách mạng. Đồng thời, khẳng định, đại
đa số NVNONN có tình cảm, hướng về Tổ quốc và mong muốn đóng góp, xây
dựng quê hương, đất nước.
Đã phân tích những quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước đối với cơng tác vận động NVNONN. Trình bày những kết quả
đạt được và hạn chế còn tồn tại trong việc thu hút, khai thác nguồn lực kiều bào.
Chỉ ra những thời cơ, vận hội và khó khăn, thách thức, từ đó, đề ra giải pháp
nâng cao hiệu quả công tác NVNONN.
Đã phân tích và đưa ra những kết quả trong cơng tác vận động NVNONN
của TP.HCM. Chỉ ra nguyên nhân của những ưu điểm, hạn chế và đề ra giải pháp
nâng cao hiệu quả công tác vận động NVNONN của TP.HCM.
Về tư liệu, các cơng trình trên, đã cung cấp nguồn tư liệu phong phú, đa
dạng nhiều góc độ khác nhau về công tác NVNONN, tạo nên bức tranh sinh
động, nhiều mặt về bộ phận dân cư này. Từ đó, giúp cho việc nghiên cứu về
công tác vận động NVNONN được thuận lợi trên bình diện cả nước cũng như
từng địa phương cụ thể.
Về phương pháp, các cơng trình trên, đã cung cấp những phương pháp
nghiên cứu khoa học (phương pháp lịch sử, phương pháp lơgíc, phân tích, so
sánh, thống kê,…) khi nghiên cứu về công tác NVNONN, giúp cho tác giả luận
án thuận lợi hơn khi thực hiện đề tài.
Các nhóm cơng trình khoa học nêu trên đã nghiên cứu chung về quá trình
hình thành, phát triển, đặc điểm cơ bản của NVNONN, quan điểm, chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với công tác NVNONN.
Qua tìm hiểu tác giả thấy rằng, cho đến nay chưa có một cơng trình nào
nghiên cứu một cách tồn diện, có hệ thống, chuyên sâu về Đảng bộ TP.HCM
lãnh đạo công tác vận động NVNONN từ năm 2001 đến năm 2015 như đề tài
luận án mà tác giả đã chọn. Các cơng trình nghiên cứu trên là nguồn tư liệu

quan trọng để tác giả thực hiện đề tài luận án.
1.2.2. Những nội dung luận án tập trung nghiên cứu
Từ thực tiễn đó tác giả định hướng nghiên cứu và xác định những nội
dung trọng tâm cần nghiên cứu:
Một là, làm rõ những mối liên hệ giữa kiều bào với TP.HCM trên phương
diện lịch sử, văn hóa, chính trị - xã hội. Những yếu tố tác động đến công tác vận
động NVNONN của TP.HCM từ năm 2001 đến năm 2015.
Hai là, phân tích những chủ trương của Đảng bộ TP.HCM đối với công tác
vận động NVNONN từ năm 2001 đến năm 2015.


7

Ba là, phân tích, làm rõ q trình Đảng bộ TP.HCM chỉ đạo thực hiện công
tác vận động NVNONN từ năm 2001 đến năm 2015.
Bốn là, đánh giá những kết quả và những hạn chế, đồng thời đúc kết
những kinh nghiệm qua thực tiễn quá trình Đảng bộ TP.HCM lãnh đạo công
tác vận động NVNONN nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Chƣơng 2
CHỦ TRƢƠNG VÀ QUÁ TRÌNH CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN CÔNG TÁC
VẬN ĐỘNG NGƢỜI VIỆT NAM Ở NƢỚC NGỒI CỦA ĐẢNG BỘ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH (2001 - 2005)
2.1. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG NGƢỜI VIỆT
NAM Ở NƢỚC NGOÀI CỦA ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

2.1.1. Một số khái niệm
Trong công tác quản lý, thực tiễn hoạt động, nghiên cứu khoa học có
nhiều cách gọi khác nhau về NVNONN:
Việt kiều là khái niệm được sử dụng thường xuyên, sớm nhất và chính

thức trong các văn bản của Nhà nước.
Kiều bào, theo Từ điển Tiếng Việt (1997): “Kiều bào là người dân nước
mình sinh sống ở nước ngồi
Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, “Người Việt Nam định cư ở nước
ngồi là cơng dân Việt Nam và người gốc Việt Nam cư trú, sinh sống lâu dài ở
nước ngoài; Người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài là người Việt Nam đã
từng có quốc tịch Việt Nam mà khi sinh ra quốc tịch của họ được xác định theo
nguyên tắc huyết thống và con, cháu của họ đang cư trú, sinh sống lâu dài ở
nước ngoài”.
Người Việt Nam ở nước ngồi, “NVNONN là cơng dân Việt Nam và
người gốc Việt Nam thường trú hoặc tạm trú ở nước ngoài”.
Khái niệm vận động người Việt Nam ở nước ngoài: Vận động NVNONN
là vận động tất cả lực lượng của mỗi người Việt ở nước ngồi, khơng để sót
một cá nhân nào, góp thành lực lượng tồn dân để thực hành những công việc
nên làm, phải làm, nhằm xây dựng sự đồng thuận xã hội, thực hiện thắng lợi
đường lối cách mạng.
2.1.2. Một số vấn đề cơ bản về ngƣời Việt Nam ở nƣớc ngoài
Hiện tượng di cư từ vùng này sang vùng khác hay từ quốc gia này sang
quốc gia khác diễn ra từ lâu đời, phổ biến và thường gắn với những nhu cầu về
điều kiện kinh tế hoặc biến cố lịch sử xã hội.
Một trong những dấu mốc đầu tiên đánh dấu sự hình thành NVNONN là
“từ thế kỷ thứ XIII hoàng tử Lý Long Tường, con trai thứ hai của vua Lý Anh
Tông, đã sang Cao Ly (bán đảo Triều Tiên ngày nay) tị nạn, tránh sự tàn sát của
nhà Trần vào năm 1226”. Có thể nói, dòng họ Lý Hoa Sơn với hơn 1.000 người
là cộng đồng đầu tiên của NVNONN.
Từ cuối thế kỷ XIX đến trước năm 1975, số lượng NVNONN dần tăng lên;


8


địa bàn cư trú ngồi các nước láng giềng cịn mở rộng sang cả châu Âu, châu Mỹ,
châu Phi, châu Đại Dương. Cộng đồng người Việt ở một số khu vực, một số nước
đã hình thành rõ nét, với quy mơ từ vài nghìn đến vài chục nghìn người.
Người Việt Nam ra đi từ năm 1975: Sau những thất bại liên tiếp của quân
đội VNCH trên khắp chiến trường miền Nam và nhất là sau khi Mỹ tuyên bố
không đưa quân trở lại Việt Nam, hàng loạt tướng tá cao cấp và những người
Việt Nam trực tiếp làm việc cho Mỹ đã chuẩn bị ra nước ngoài.
Người ra đi bất hợp pháp: Sau khi miền Nam hoàn toàn được giải phóng,
hàng chục ngàn người đã từng sống và làm việc dưới chế độ Mỹ - VNCH, do
mặc cảm, định kiến hoặc bị tuyên truyền lừa bịp về “hiểm họa cộng sản”,
khơng thích nghi được với chế độ mới đã rời bỏ đất nước một cách bất hợp
pháp bằng cách vượt biên hoặc ra đi theo nhiều cách. Việc số lượng lớn người
Việt Nam di tản ra nước ngoài đã làm thay đổi thành phần và tính chất của cộng
đồng NVNONN.
Người ra đi hợp pháp: Nhằm tìm giải pháp cho vấn đề người tị nạn Đông
Dương tại các nước Đông Nam Á và Hồng Kông, tháng 7 – 1979 Hội nghị
Geneva về người tị nạn được triệu tập. Tại đây các nước phương Tây đồng ý
tăng số người được phép nhập cư vào nước mình theo “Chương trình ra đi có
trật tự” (ODP).
Quá trình hình thành cộng đồng người Việt tại Liên Xô và một số nước
Đông Âu: Từ đầu những năm 1980, theo các “Hiệp định về lao động và dạy
nghề” ký giữa Việt Nam với Liên Xô và các nước Đông Âu, hàng chục vạn
công dân Việt Nam được đưa sang các nước này lao động, học tập. Sau khi chế
độ XHCN ở các nước Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, nhiều công nhân, kể cả số
hết hạn và chưa hết hạn hợp đồng lao động cũng như nhiều sinh viên, nghiên
cứu sinh đã tốt nghiệp hoặc chưa tốt nghiệp đã ở lại làm ăn sinh sống. Những
người ở lại sau đó cịn làm cầu nối đưa một số lượng lớn người thân, bạn bè từ
Việt Nam sang cư trú, làm ăn.
Trong giai đoạn từ cuối những năm 1990 - 2000, việc hợp tác xuất khẩu
lao động giữa Việt Nam với nhiều nước được đẩy mạnh. Do vậy, số lao động

Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài ngày càng tăng, đã có hàng trăm nghìn lượt
lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc theo hợp đồng.
Từ quá trình hình thành phát triển của cộng đồng NVNONN và những
thay đổi của tình hình quốc tế và trong nước. NVNONN có một số đặc điểm cơ
bản sau:
Do những biến động của lịch sử và nhiều nguyên nhân về chính trị, kinh
tế, xã hội,… nhiều người Việt Nam rời đất nước ra đi, hình thành cộng đồng
NVNONN bao gồm nhiều thành phần, nhiều thế hệ. Trong tổng số NVNONN
thì phần đông tập trung ở những nước tư bản phát triển như Mỹ, Pháp, Canada,
Ôxtrâylia, Đức, Anh, Hà Lan, Bỉ, Nhật Bản.
Đại đa số NVNONN sống xen kẽ với dân nước sở tại, nhưng cũng có một
số nơi, đặc biệt là Mỹ, người Việt sống tập trung ở những khu vực riêng như
quận Cam (Orange) thuộc Nam California.


9

Trong cộng đồng NVNONN, nhiều người đã tích lũy được một tiềm lực
kinh tế nhất định và có quan hệ với các tổ chức kinh tế lớn trên thế giới, tuy
nhiên số lượng người giàu theo tiêu chuẩn của các nước sở tại chưa nhiều. Điều
này khác với cộng đồng người Hoa, người Do Thái ở nước ngồi, họ có nhiều
tỷ phú, đóng vai trị nổi bật về kinh tế ở nhiều nước sở tại và có khả năng đầu tư
lớn về quê hương của họ.
Với khoảng trên 400.000 NVNONN có trình độ từ đại học trở lên. Trong
đó có một số trí thức, nhà khoa học, nhà quản lý có vị trí quan trọng trong các
viện nghiên cứu, trường đại học, các tập đoàn kinh tế đa quốc gia. Đây là nguồn
chất xám rất đa dạng và phong phú, được đào tạo từ nhiều trung tâm khoa học
hàng đầu thế giới, do đó họ có nhiều điều kiện tiếp cận và nắm bắt những thành
tựu mới về khoa học và công nghệ, khoa học quản lý, kinh doanh ở trình độ cao
của thời đại.

Khoảng 3/4 NVNONN rời đất nước ra đi từ sau năm 1975, chủ yếu gắn
với chế độ VNCH. Vì thế, phần đơng những người này mang nhiều mặc cảm,
một bộ phận thuộc các thế lực chống phá Việt Nam, vẫn nuôi tư tưởng hận thù
với chế độ trong nước. Tuy nhiên, ý thức dân tộc, tình cảm hướng về quê
hương, đất nước, gắn bó với gia đình vẫn cịn sâu đậm trong đại đa số
NVNONN.
Số đơng NVONN chăm lo làm ăn, ổn định cuộc sống,, không tham gia
hoạt động chính trị, được gọi là “đa số thầm lặng”, dần thối thác sự lơi kéo của
một số tổ chức chống phá Việt Nam. Đặc biệt trong thế hệ trẻ, do không vướng
mắc bởi mặc cảm của quá khứ nên có xu hướng tìm về cội nguồn dân tộc ngày
càng mạnh mẽ. Các tổ chức chống phá Việt Nam ở nước ngồi ngày càng bị cơ
lập. Tuy số lượng tổ chức không thay đổi nhiều, nhưng thế và lực của họ ngày
càng suy yếu do mất dần sự ủng hộ của quần chúng và sự hỗ trợ tài chính của
một số nước sở tại, các nước sở tại cũng khơng cịn cơng khai ủng hộ họ như
trước đây.
Những chuyển biến tích cực và thành tựu của đất nước trong tiến trình
đổi mới cùng với chính sách cởi mở của nhà nước Việt Nam đã phát huy mạnh
mẽ trong NVNONN tinh thần hướng về quê hương, Tổ quốc. Số lượng về thăm
quê hương ngày càng đông, các hoạt động đóng góp cho đất nước, q hương,
gia đình ngày càng phong phú. Đại đa số NVNONN tin tưởng công cuộc đổi
mới của đất nước, nhất là trong lĩnh vực kinh tế, giáo dục, y tế và sự ổn định
chính trị - xã hội ở trong nước.
2.1.3. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội thành phố Hồ Chí Minh
Với vị trí tâm điểm của khu vực Đơng Nam Á, TP.HCM là một đầu mối
giao thông quan trọng về cả đường bộ, đường thủy và đường hàng không, nối
liền các tỉnh trong vùng và còn là một cửa ngõ quốc tế, là điểm đến, điểm đi cơ
bản mỗi khi kiều bào về nước. Với yếu tố này, thành phố có điều kiện quảng bá
hình ảnh, con người cũng như giới thiệu những thành tựu và chính sách thu hút
đầu tư, nhân lực của thành phố.
Là địa bàn trọng điểm về thu hút đầu tư, đồng thời có những cơ chế phân



10

cấp đặc thù, điều này cho phép thành phố có những chính sách “phá rào” trong
thu hút đầu tư, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao. Với những con số cụ thể
về tăng trưởng kinh tế đã minh chứng cho vai trò quan trọng của thành phố
trong nền kinh tế Việt Nam và cũng là minh chứng cho sự năng động, định
hướng đúng đắn trong chính sách phát triển của thành phố.
2.1.3. Tình hình thực hiện chính sách đối với ngƣời Việt Nam ở nƣớc
ngoài của thành phố Hồ Chí Minh trƣớc năm 2001
Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố lần thứ II (nhiệm kỳ 1980-1983),
Đảng bộ TP.HCM nêu rõ: “Thành phố ta có nhiều dây liên hệ rộng lớn với Việt
kiều mà số đông luôn luôn hướng về Tổ quốc, có nhiều khả năng cống hiến cho
đất nước. Nhiều anh chị em đã có phần đóng góp đáng kể; nhưng, nhìn chung
kiều bào chưa được tập hợp, hướng dẫn để góp phần nhiều hơn và thiết thực
hơn vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước”. Trong công tác vận động
quần chúng, Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố lần thứ III (nhiệm kỳ 19831986), Đảng bộ TP.HCM xác định: “Mặt trận Tổ quốc các cấp phải tăng cường
giáo dục và động viên các tầng lớp, giai cấp, tôn giáo, dân tộc ở thành phố và
kiều bào ở nước ngồi tích cực góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực
hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Đảng đề ra”. Trong bối cảnh phức tạp của
thành phố và cả nước, những vấn đề liên quan đến kiều bào được Đảng bộ
thành phố coi trọng, đề cao vị trí, vai trị của kiều bào trong công cuộc bảo vệ
và xây dựng thành phố.
Đại hội đại biểu Đảng bộ TP.HCM lần thứ IV xác định: “Có chính sách
thỏa đáng huy động kiều hối và thu hút vốn đầu tư của nước ngoài, nhập khẩu
nguyên liệu, vật tư, thiết bị, kỹ thuật cho các chương trình mục tiêu phát triển
kinh tế xã hội thành phố”. Tạo điều kiện thuận lợi để kiều bào về nước thăm
thân, gửi kiều hối, hàng hóa giúp đỡ thân nhân trong nước, Đảng bộ TP.HCM
“đề nghị Trung ương mở rộng cơ chế cho Việt kiều về thăm quê hương bằng

con đường du lịch. Riêng đối với kiều hối và hàng quà biếu của kiều bào gửi về
cho thân nhân cần nghiên cứu đề nghị với Trung ương một chính sách tồn
diện, cả về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội”.
Đại hội đại biểu Đảng bộ TP.HCM lần VI đề ra phương hướng nhiệm vụ
5 năm (1996 – 2000), trong công tác quần chúng, xây dựng khối đại đoàn kết
dân tộc, Đảng bộ TP.HCM nhấn mạnh: “Người Việt Nam ở nước ngồi là một
bộ phận khơng tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Tiếp tục cuộc vận
động và hỗ trợ kiều bào đang sinh sống ở nước ngoài nâng cao ý thức cộng
đồng, mở rộng và tăng cường đồn kết, tương thân, tương trợ, giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hoá dân tộc, đồng thời tiếp tục góp phần xây dựng quê hương
đất nước, xây dựng thành phố”.
Đây là chủ trương có ý nghĩa rất quan trọng đối với công tác vận động
NVNONN của Đảng bộ thành phố, là nền tảng cho quá trình xây dựng những
chính sách đối với kiều bào trong giai đoạn tiếp theo.
Thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về công tác
Việt kiều, ngày 8-6-1981, UBND thành phố ban hành Quyết định số 108/QĐUB về việc thành lập Ban Việt kiều thành phố Hồ Chí Minh, Ban Việt kiều có


11

nhiệm vụ: tham mưu cho Thành ủy về chính sách kiều bào và giúp UBND
thành phố về công tác quản lý nhà nước đối với Việt kiều trên địa bàn
TP.HCM. Ngày 17-7-1985, UBND TP.HCM ban hành Chỉ thị số 33/CT-UB về
cơng tác huy động kiều hối, theo đó các đầu mối vận động Việt kiều và thân
nhân gửi ngoại tệ, hàng hóa, nguyên liệu về nước phải trên tinh thần tự nguyện,
tự giác.Tiếp đó, ngày 12-2-1986, UBND TP.HCM ban hành Quy định số
553/UB về việc tổ chức huy động kiều hối trên địa bàn thành phố, quy định:
“Các biện pháp quản lý và thanh toán kiều hối phải đảm bảo thống nhất, giải
quyết nhanh, kịp thời, chống mọi biểu hiện tiêu cực, tranh chấp trong thực hiện
chánh sách kiều hối”.

Các quy định của thành phố được ban hành kịp thời, đã chấn chỉnh hoạt
động thu hút kiều hối và hàng hóa đi làm nề nếp, đồng thời hạn chế những tiêu
cực và nâng cao ý thức của một bộ phận cán bộ khi thực thi nhiệm vụ, góp phần
làm tăng niềm tin của kiều bào và kiều quyến.
Cùng với việc thu hút kiều hối, thành phố chú trọng tới công tác thu hút
đầu tư của kiều bào. UBND TP.HCM đã làm việc với các sở, ngành, Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc thành phố và Ủy ban về NVNONN TP.HCM về tình hình thu
hút đầu tư của kiều bào về thành phố. Đồng thời, chỉ đạo một số việc cần làm
để thu hút mạnh hơn đầu tư của kiều bào về thành phố. Ngày 16-7-1997,
UBND TP.HCM đã họp với Ủy ban về NVNONN TP.HCM để giải quyết
những kiến nghị của doanh nghiệp kiều bào và ban hành văn bản số 56/TB-UBKT về việc giải quyết kiến nghị của các doanh nghiệp Việt kiều. Kèm theo văn
bản số 56/TB-UB-KT về việc giải quyết kiến nghị của các doanh nghiệp Việt
kiều, UBND TP.HCM tập hợp tất cả các vấn đề kiều bào kiến nghị, đồng thời
gửi tới các cơ quan giải quyết.
2.1.4. Chủ trƣơng của Đảng và Chính sách của Nhà nƣớc đối với
cơng tác vận động ngƣời Việt Nam ở nƣớc ngồi
Ngày 4-10-1982, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số
09/CT-TW về công tác vận động người Việt Nam ở nước ngồi, trong đó tập
trung theo hướng xây dựng nòng cốt, hỗ trợ phong trào Việt kiều, thiết lập mối
quan hệ chặt chẽ với các hội đoàn NVNONN, hỗ trợ các phong trào theo đặc
điểm cụ thể của từng cộng đồng ở các nước sở tại. Đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
trong tình hình mới, ngày 4-12-1990, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị
số 67/CT-TU về công tác đối với NVNONN trong tình hình mới. Ngày 29-111993, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW về chính sách và cơng
tác đối với NVNONN. Đây là nghị quyết chuyên đề đầu tiên của Đảng với
những quan điểm mới rất cơ bản và có ý nghĩa chỉ đạo chiến lược lâu dài về
công tác đối với NVNONN. Thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính
trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 55-CT/TW ngày 23-3-1995 về
việc triển khai thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về chính sách và cơng tác
vận động NVNONN trong tình hình mới. Để đáp ứng những yêu cầu mới trong
cơng tác kiều bào, ngày 26-3-2004, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 36-NQ/TW

về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngồi. Nghị quyết có ý nghĩa rất lớn
đối với công tác về NVNONN.


12

Quán triệt quan điểm, chủ trương của Đảng đối với công tác NVNONN,
Nhà nước ban hành các văn bản pháp lý từ hiến pháp, luật, sắc lệnh, nghị định,
thông tư, quyết định, chương trình… về các lĩnh vực, nhằm đảm bảo cho
NVNONN có quyền lợi và trách nhiệm đối với quê hương, Tổ quốc, tạo điều
kiện tốt nhất cho cộng đồng NVNONN ổn định cuộc sống ở nước sở tại và có
điều kiện gắn bó với quê hương đất nước; tạo điều kiện để NVNONN về nước
đầu tư, kinh doanh và đóng góp trí tuệ vào cơng cuộc đổi mới đất nước.
2.2. CHỦ TRƢƠNG CỦA ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VỀ CƠNG
TÁC VẬN ĐỘNG NGƢỜI VIỆT NAM Ở NƢỚC NGOÀI (2001 - 2005)

Một là, người Việt Nam ở nước ngồi là bộ phận khơng tách rời trong
khối đại đoàn kết dân tộc.
Quán triệt quan điểm đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng bộ TP.HCM khẳng
định: “Đồng bào Việt Nam định cư ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời
của cộng đồng dân tộc Việt Nam”. Bà con kiều bào dù ở bất cứ nơi đâu, luôn
luôn là một phần máu thịt không tách rời của quê hương, Tổ quốc.
Hai là, xây dựng các kênh thông tin giúp NVNONN hiểu đúng và kịp thời
chủ trương, chính sách và tình hình trong nước.
Cơng tác thơng tin tun truyền có vai trị, nhiệm vụ quan trọng khơng
chỉ trong việc tranh thủ, động viên tinh thần yêu nước, hướng về q hương
của số đơng NVNONN, thực hiện đại đồn kết dân tộc mà cịn góp phần vào
việc đấu tranh phân hố, cơ lập và làm thất bại các âm mưu chống phá của các
thế lực thù địch.
Ba là, phát huy tiềm năng NVNONN để góp phần xây dựng quê hương, đất

nước trên nhiều lĩnh vực, bằng nhiều hình thức phù hợp với khả năng và thực tế
của mỗi người, kết hợp lợi ích của mình với đất nước.
Khuyến khích các hoạt động đầu tư, kinh doanh của kiều bào. Xóa bỏ mọi
sự phân biệt đối xử, tạo sân chơi bình đẳng giữa doanh nghiệp trong nước với
doanh nghiệp kiều bào. Coi trọng các hình thức đầu tư, kinh doanh nhỏ và vừa
do kiều bào trực tiếp làm hoặc thông qua thân nhân trong nước. Áp dụng cơ chế
kiều hối thuận lợi và xúc tiến thành lập các ngân hàng kiều hối trên địa bàn
TP.HCM. Thiết lập cơ chế phối hợp giữa các doanh nghiệp kiều bào với các cơ
quan chức năng của thành phố, nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của doanh
nghiệp, xử lý các vi phạm theo đúng quy định của pháp luật, góp phần tạo sự tin
tưởng khi kiều bào đầu tư, hợp tác đầu tư, sản xuất, kinh doanh tại thành phố.
Bốn là, tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ NVNONN ổn định cuộc sống, duy
trì quan hệ gắn bó với q hương, đất nước.
Tạo điều kiện thuận lợi để NVNONN về thăm quê hương, thân nhân, thờ
cúng tổ tiên. Thực hiện các quy định về xuất nhập cảnh, cư trú, đi lại ở trong
nước của NVNONN theo hướng thơng thống, thuận tiện và đơn giản thủ tục.
Giải quyết thuận lợi, nhanh chóng thủ tục cho NVNONN hồi hương hoặc về
làm ăn, sinh sống có thời hạn ở trong nước; tiếp tục giải quyết những vấn đề tồn
tại về mua nhà ở trong nước, thừa kế, hơn nhân gia đình, nhận con ni... liên
quan đến người Việt Nam ở nước ngoài. Dành cho NVNONN giá dịch vụ như
công dân trong nước.


13
2.3. ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN CÔNG
TÁC VẬN ĐỘNG NGƢỜI VIỆT NAM Ở NƢỚC NGỒI (2001 – 2005)

2.3.1. Chỉ đạo thực hiện cơng tác thông tin, tuyên truyền
Nhằm thực hiện hiệu quả công tác vận động NVNONN trên địa bàn
thành phố theo tinh thần Nghị quyết số 36-NQ/TW của Bộ Chính trị về cơng

tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài, ngày 22-9-2004, UBND TP.HCM
ban hành Quyết định số 219/2004/QĐ-UBND về quy chế phối hợp thực hiện
công tác đối với người Việt Nam ở nước ngồi trên địa bàn thành phố Hồ Chí
Minh, trong đó khẳng định nguyên tắc: “Việc phối hợp hoạt động nhằm thực
hiện có hiệu quả các chính sách đối với NVNONN; tạo điều kiện thuận lợi để
NVNONN đang làm việc, sinh sống trên địa bàn thành phố phát huy khả năng,
góp phần vào cơng cuộc xây dựng và phát triển thành phố”.
Trong công tác thông tin, tuyên truyền, TP.HCM duy trì kênh thơng tin
truyền thống như: báo, đài, intenet, vận động trực tiếp thân nhân kiều bào. Đặc
biệt Lãnh đạo thành phố ln quan tâm và duy trì thường xuyên các cuộc gặp
gỡ và đối thoại với kiều bào, lắng nghe tâm tư tình cảm, đồng thời trao đổi và
tìm hướng tháo gỡ khó khăn, vướng mắc khi kiều bào về thành phố sinh sống,
làm ăn. Đây cũng là dịp để thành phố khen thưởng những cá nhân, tập thể có
thành tích xuất sắc trong cơng tác vận động NVONN.
2.3.2. Chỉ đạo thực hiện công tác hỗ trợ ngƣời Việt Nam ở nƣớc ngoài
Thực hiện chỉ đạo của Thành phố, từ cuối năm 2002, Phòng Quản lý xuất
nhập cảnh đã thực hiện cấp thẻ tạm trú cho Việt kiều theo đúng quy trình, thủ
tục theo quy định. Đơn giản hóa các thủ tục xin cấp các loại giấy tờ, nâng cao
chất lượng phục vụ của cán bộ thụ lý, tạo điều kiện thuận lợi trong việc đi lại và
kinh doanh của bà con Việt kiều.
Mục tiêu của chính sách là góp phần thu hẹp, tiến tới xóa bỏ sự cách biệt
về quyền lợi được hưởng giữa đồng bào ở ngoài nước và đồng bào ở trong
nước. TP.HCM đã nghiêm túc thực hiện chính sách khơng phân biệt quốc tịch,
mang hộ chiếu Việt Nam hay hộ chiếu nước ngoài, tất cả NVNONN khi về
nước đều được hưởng giá các loại dịch vụ, giá vé đi lại trên các loại phương
tiện giao thông vận tải như áp dụng đối với người Việt Nam ở trong nước.
Việc thực hiện chính sách thống nhất một giá các loại dịch vụ, giá vé đi
lại trên các loại phương tiện giao thông vận tải như công dân trong nước cho
thấy Đảng, Nhà nước và TP.HCM luôn quan tâm đến cộng đồng NVNONN,
đảm bảo quyền lợi hợp pháp của bà con kiều bào.

Tạo điều kiện thuận lợi cho con em Việt kiều được học tập trong hệ thống
giáo dục của thành phố. Với chính sách giáo dục của TP.HCM và tinh thần sẵn
sàng hỗ trợ của các sở, ngành chuyên trách đã góp phần giúp bà con Việt kiều
yên tâm trở về làm ăn, sinh sống.
Trong những năm 2001-2005, công tác vận động NVNONN của Đảng bộ
TP.HCM đã đạt được những kết quả cụ thông qua số lượng NVNONN về thăm
quê hương. Theo thống kê của Ủy ban NVNONN TP.HCM, trong năm 2000 đã
có gần 300.000 lượt Việt kiều về thăm quê hương qua sân bay quốc tế Tân Sơn
Nhất tăng 50% so với cùng kỳ năm 1999. Năm 2004 có 402.000 kiều bào về


14

thăm quê hương, tăng 35% so với năm 2003. Năm 2005, số lượng khoảng
450.000 kiều bào qua sân bay Tân Sơn Nhất tăng 12% so với năm 2004.
2.3.3. Chỉ đạo thực hiện chính sách thu hút nguồn lực ngƣời Việt
Nam ở nƣớc ngoài
Đối với doanh nhân, doanh nghiệp người Việt Nam ở nước ngồi
Việt kiều có thể lựa chọn hai hình thức đầu tư khi dự định đầu tư về Việt
Nam: đầu tư theo hình thức đầu tư trực tiếp nước ngồi hoặc đầu tư về nước
theo hình thức doanh nghiệp liên doanh; doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
hoặc tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh. Doanh nghiệp Việt kiều được
phép đầu tư theo các loại hình doanh nghiệp: Công ty trách nhiệm hữu hạn,
Công ty cổ phần và doanh nghiệp tư nhân. Khi tham gia đầu tư vào loại hình
doanh nghiệp này, doanh nghiệp Việt kiều sẽ được hưởng các ưu đãi đầu tư
khác nhau theo các quy định.
Trường hợp đặc biệt, doanh nghiệp hoặc công ty sản xuất hàng xuất khẩu
của Việt kiều nếu đạt trên 80% tỷ lệ xuất khẩu mỗi năm, doanh nghiệp sẽ được
đưa vào danh mục các dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư. Nếu như các Công
ty trong nước phải chịu thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 25%, thì doanh

nghiệp chỉ phải chịu thuế suất thu nhập doanh nghiệp là 10% và mức thuế này
được áp dụng trong suốt thời gian hoạt động của dự án.
Việc thu hút nguồn lực kinh tế của NVNONN trong công cuộc xây dựng,
phát triển thành phố được Lãnh đạo thành phố rất quan tâm và chỉ đạo sâu sát
tới các sở, ban, ngành và cán bộ thực hiện nhiệm vụ phải tư vấn rõ ràng, chính
xác và hỗ trợ thủ tục để nhà đầu tư NVNONN được hưởng chính sách ưu đãi có
lợi nhất theo đúng quy định.
Đối với chuyên gia, trí thức người Việt Nam ở nước ngồi
Nhằm thu hút trí thức Việt kiều tham gia các hoạt động kinh tế - xã hội
của thành phố, tháng 8-2003, TP.HCM đã giới thiệu trên trang thơng tin điện tử
những đề tài, chương trình, dự án cần kêu gọi tham gia đóng góp và hợp tác của
kiều bào, đồng thời Lãnh đạo thành phố sẵn sàng giao trọng trách, bố trí cương
vị quan trọng đối với những kiều bào muốn tham gia vào các đơn vị nhà nước
để họ phát huy tài năng hiệu quả nhất.
2.3.4. Quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban
về ngƣời Việt Nam ở nƣớc ngồi thành phố Hồ Chí Minh
Là đơn vị đầu mối trong công tác Việt kiều, Ủy ban về NVNONN
TP.HCM, thường xuyên được quan tâm và chỉ đạo Đảng bộ và chính quyền
thành phố. TP.HCM đã giao nhiệm vụ cho Ủy ban về NVNONN TP.HCM như
sau: “Chủ trì phối hợp và đôn đốc các sở - ngành thành phố liên quan trong việc
triển khai thực hiện các chính sách và pháp luật đối với NVNONN; thông báo
tiêu chuẩn khen thưởng đối với NVNONN; tập hợp hồ sơ, phối hợp với các cơ
quan chức năng, đề xuất trình Thường trực Hội đồng Thi đua và Khen thưởng
thành phố xét duyệt; soạn thảo Quy chế phối hợp cơng tác NVNONN tại thành
phố trình UBND thành phố xem xét, quyết định”.
Tạo điều kiện để Ủy ban về NVNONN TP.HCM thực hiện tốt nhiệm vụ


15


được giao, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn và các lĩnh vực do mình quản lý,
các sở, ngành, UBND quận, huyện có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban về
NVNONN TP.HCM thực hiện những kế hoạch vận động, giải quyết những vụ
việc liên quan đến NNVONN và cung cấp thơng tin liên quan khi có u cầu
của Ủy ban về NVNONN TP.HCM.
Chƣơng 3
ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG NGƢỜI
VIỆT NAM Ở NƢỚC NGOÀI (2006 - 2015)
3.1. NHỮNG YÊU CẦU MỚI TÁC ĐỘNG ĐẾN CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG NGƢỜI
VIỆT NAM Ở NƢỚC NGOÀI

3.1.1. Bối cảnh lịch sử và những biến động mới của ngƣời Việt Nam ở
nƣớc ngoài
Bối cảnh lịch ử
Là một trung tâm kinh tế, văn hóa – xã hội lớn nhất phía Nam, đầu mối
giao lưu quốc tế, TP.HCM ln chịu tác động bởi bối cảnh chung trong nước và
quốc tế, cả thời cơ, thuận lợi lẫn khó khăn, thách thức.
Trong bối cảnh đó, TP.HCM phải chủ động hội nhập và tăng tốc phát
triển, đổi mới toàn diện và mạnh mẽ hơn nữa; thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
nhanh, hiệu quả và bền vững, không ngừng nâng cao đời sống nhân dân; phát
huy dân chủ và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, động viên mọi nguồn
lực, nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức, chủ động hội nhập kinh tế khu vực và
quốc tế. Được khơi nguồn, NVNONN sẽ là một nguồn lực quan trọng, tiếp tục
có những đóng góp lớn cho cơng cuộc phát triển của đất nước nói chung và
TP.HCM nói riêng.
Những biến động mới của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài
Trong thế kỷ XX, lý do người Việt Nam ra đi, chủ yếu là do biến động lịch
sử - chính trị, đại bộ phận người Việt tập trung ở 21 nước thuộc 5 khu vực địa lý:
Bắc Mỹ, Tây Bắc Âu, Nga và Đông Âu, Đông Nam Á, Đông Bắc Á và châu Đại

Dương. Bước vào thế kỷ XXI, số lượng NVNONN không ngừng tăng lên, địa bàn
cư trú được mở rộng và lý do ra đi cũng có nhiều thay đổi, chủ yếu là do vấn đề
kinh tế – xã hội, tuy chưa nhiều, nhưng những khu vực nghèo và đang phát triển ở
châu Phi, Trung Đông và Nam Mỹ hoặc các đảo nhỏ ở Thái Bình Dương đều có
NVNONN sinh sống, làm ăn. Đây là, những biến động mới, dẫn đến đặc điểm của
NVNONN cũng có nhiều thay đổi.
Với những biến động mới về lý do ra đi, địa bàn cư trú, địa vị kinh tế - xã
hội, nhưng NVNONN vẫn có những đặc điểm chung như sau:
Tình cảm của NVNONN đối với dân tộc. Đại đa số NVNONN có tinh
thần tự tơn dân tộc, giữ gìn bản sắc văn hoá và truyền thống yêu nước, hướng
về cội nguồn, gắn bó với gia đình, q hương, khơng quan tâm và khơng đồng
tình với các hoạt động đi ngược lại lợi ích của đất nước hiện nay.
Người Việt Nam ở nước ngồi có khả năng nhanh chóng hồ nhập vào


16

cuộc sống ở nước họ sinh sống nhưng vẫn giữ bản sắc văn hố riêng.
Người Việt Nam ở nước ngồi đang từng bước vươn lên song tiềm lực
kinh tế nhìn chung cịn thấp.
Người Việt Nam ở nước ngồi có thái độ chính trị đa dạng đối với chế độ
XHCN ở Việt Nam. Có thể chia làm 3 thành phần có thái độ chính trị khác nhau
đối với đất nước hiện nay của cộng đồng NVNONN:
Thành phần thứ nhất, số người từng đứng trong chính quyền VNCH, số
đảng phái phản động lưu vong có thái độ thù địch, chống lại Nhà nước Việt
Nam XHCN và một số người trong giới trẻ bị lơi cuốn vào các hoạt động chống
chính quyền Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, số lượng những người trong thành
phần này đang giảm đi nhanh chóng, thế hệ gắn bó trực tiếp với chế độ VNCH
đa phần đã lớn tuổi hoặc đã mất.
Thành phần thứ hai, những người tuy khơng thích chế độ Nhà nước

XHCN nhưng có những tình cảm nhất định đối với Nhà nước Việt Nam, họ
thường so sánh những ưu điểm về quản lý nhà nước, quản lý xã hội của chế độ
XHCN với chế độ cũ trước đây. Họ cịn là những người khơng quan tâm đến
chính trị mà chỉ lo đến làm ăn kinh tế, quan tâm đến mối quan hệ gia đình dịng
tộc ở trong nước, thái độ đối với chính quyền khơng thân thiện nhưng cũng
không thù ghét. Những người này chiếm số đông nhất NVNONN.
Thành phần thứ ba, những người là xuất thân từ cán bộ, cơng nhân được
ra nước ngồi lao động, học tập rồi ở lại (số đông ở các nước Đơng Âu) và một
số có quan điểm chính trị phù hợp với quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Số này thường xuyên liên hệ với Sứ quán Việt Nam và hay về thăm, làm
ăn ở Việt Nam. Đại bộ phận thành phần này rất hoan nghênh chủ trương, chính
sách đại đồn kết dân tộc của Đảng và Nhà nước, ủng hộ cơng cuộc đổi mới vì
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Điều
này đang trở thành xu thế chung của NVNONN.
3.1.2. Chủ trƣơng của Đảng về công tác vận động ngƣời Việt Nam ở
nƣớc ngoài (2006 - 2015)
Để đẩy mạnh hơn nữa đối với cơng tác NVNONN, Ban Bí thư ra Kết
luận số 14-KL/TW ngày 11-11-2011 về việc tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài. Chỉ thị u
cầu các ban ngành phải có tăng cường cơng tác tun truyền, thơng tin đầy đủ
tình hình trong nước để kiều bào nắm vững và hiểu sâu sắc tình hình trong
nước, đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch. Phối
hợp với các cơ quan, quốc gia sở tại bảo vệ lợi ích chính đáng của bà con Việt
kiều ở các nước sở tại, trên cơ sở tôn trọng pháp luật, phong tục, tập quán của
dân tộc, quốc gia sở tại, tăng cường đoàn kết cộng đồng NVNONN. Rà sốt,
sửa đổi chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho kiều bào về nước sinh sống,
thăm thân, du lịch, đầu tư kinh tế, cống hiến tri thức.
Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương ra Chỉ
thị số 45-CT/TW ngày 19-5-2015 về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị
quyết số 36-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về cơng tác đối với người Việt



17

Nam ở nước ngồi trong tình hình mới. Trên cơ sở phát huy kết quả đã đạt
được, khắc phục những hạn chế, bất cập, Bộ Chính trị yêu cầu cấp uỷ, chính
quyền, Mặt trận Tổ quốc và đồn thể nhân dân các cấp cần tiếp tục thực hiện có
hiệu quả những chủ trương, phương hướng công tác đối với NVNONN đã nêu
trong Nghị quyết số 36-NQ/TW.
Chính sách của Nhà nước đã khuyến khích NVNONN thêm gắn bó với
nguồn cội, tạo điều kiện thuận lợi cho kiều bào mạnh dạn về nước, tìm hiểu cơ
hội, mở rộng hợp tác, đầu tư kinh doanh, giảng dạy, nghiên cứu, chuyển giao tri
thức, công nghệ, góp ý, tư vấn cho những dự án kinh tế - xã hội quan trọng của
đất nước. Cùng với việc xây dựng, hồn thiện hệ thống chính sách, Nhà nước
Việt Nam đã chủ động đàm phán, ký kết nhiều điều ước quốc tế đa phương và
song phương, hiệp định lãnh sự, hỗ trợ tư pháp, nhận trở lại công dân Việt Nam
nhằm tạo điều kiện cho kiều bào hội nhập vào xã hội nước sở tại, bảo vệ lợi ích
chính đáng của kiều bào, chống kỳ thị, chống lại hoạt động chống phá Nhà
nước Việt Nam.
3.2. CHỦ TRƢƠNG CỦA ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VỀ CƠNG
TÁC VẬN ĐỘNG NGƢỜI VIỆT NAM Ở NƢỚC NGOÀI (2006 - 2015)

Thứ nhất, công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài cần tiếp tục thể
hiện đầy đủ và phát huy tốt truyền thống đại đồn kết tồn dân tộc,
Trong cơng tác vận động NVNONN, TP.HCM thực hiện các biện pháp
nhằm “cổ vũ các tầng lớp nhân dân, người Việt Nam ở nước ngồi hướng về cội
nguồn dân tộc, đồng lịng, chung sức xây dựng đất nước phồn vinh, ấm no, hạnh
phúc và phát triển”, tăng cường mối quan hệ “ruột thịt” với kiều bào trên tinh
thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, xoá bỏ mặc cảm, định kiến,
chấp nhận những điểm khác nhau nhưng không trái với lợi ích chung của dân

tộc, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, nguồn gốc xuất thân, địa vị xã hội, lý do
ra nước ngoài, cùng kiều bào xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, tạo nên nguồn
sức mạnh to lớn để xây dựng và phát triển thành phố.
Thứ hai, người Việt Nam ở nước ngồi là bộ phận khơng tách rời là một
nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Tiếp tục quan tâm, sớm có giải pháp phù hợp để giải quyết các vấn đề còn
tồn đọng trên tinh thần cởi mở, chân thành, khép lại quá khứ, hướng tới tương
lai. Kiên trì vận động, thuyết phục những người còn giữ định kiến, mặc cảm,
sớm hiểu đúng, hiểu kịp thời tình hình quê hương, đất nước và chủ trương của
Đảng, của Thành phố.
Thứ ba, đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác thông tin, tuyên truyền, đảm
bảo thông tin truyền tải tới người Việt Nam ở nước ngoài nhanh chóng, kịp
thời, đầy đủ.
Tiếp tục đổi mới cả về nội dung, hình thức, biện pháp tun truyền, coi
trọng tính định hướng và sức thuyết phục, tính hiệu quả và sự phù hợp về nội
dung, đối tượng, thời điểm, quy mô, cấp độ, địa bàn tuyên truyền để kiều bào
hiểu đúng, hiểu đủ về chính sách, tình hình trong nước và thành phố, góp phần
xây dựng niềm tin cho kiều bào: “Tăng cường thông tin đối ngoại nhằm giới


18

thiệu thành tựu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, của thành phố và chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước đến đồng bào ta ở nước
ngoài và bạn bè quốc tế”; “đẩy mạnh công tác thông tin đối ngoại để giúp
NVNONN và nhân dân các nước, hiểu đúng, ủng hộ công cuộc đổi mới của
nhân dân ta”.
Thứ tư, tăng cường công tác thu hút nguồn lực người Việt Nam ở nước
ngoài, đặc biệt là nguồn lực tri thức.
Đảng bộ TP.HCM lần thứ VIII, đề ra chủ trương và giải pháp nhằm thu

hút, sử dụng, đãi ngộ trí thức phù hợp với những cống hiến của họ, để họ yên
tâm làm việc, phát huy trí tuệ: “Có chính sách thu hút, sử dụng nhân tài và đội
ngũ trí thức khoa học trên địa bàn thành phố và cả nước, nhất là trí thức đầu đàn
trong những ngành nghề mũi nhọn và những lĩnh vực quan trọng; thu hút các
nhà khoa học và quản lý nước ngồi, phát huy sự đóng góp của trí thức kiều
bào. Mạnh dạn thuê chuyên gia giỏi về các lĩnh vực và có chính sách thỏa đáng
về tiền lương, điều kiện và chế độ cư trú, làm việc... phù hợp với sự cống hiến
của họ”.
Thứ năm, đổi mới phương thức hoạt động và công tác phối hợp của Ủy
ban về người Việt Nam ở nước ngồi thành phố Hồ Chí Minh.
Đổi mới phương thức hoạt động và cơ chế phối hợp triển khai công tác về
NVNONN giữa các đơn vị, cơ quan theo nguyên tắc thu gọn đầu mối, rõ ràng,
rành mạch về chức năng, nhiệm vụ, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động.
Tăng cường năng lực đội ngũ cán bộ, không làm tăng biên chế, những vẫn đảm
bảo nhiệm vụ theo hướng chuyên sâu, làm tốt vai trị cơ quan tham mưu, thống
nhất quản lý cơng tác đối với NVNONN.
3.3. Q TRÌNH CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN CƠNG TÁC VẬN ĐỘNG NGƯỜI
VIỆT NAM Ở NƯỚC NGOÀI CỦA ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
(2006 – 2015)

3.3.1. Đẩy mạnh cơng tác thơng tin, tun truyền
Thành phố Hồ Chí Minh luôn xác định kiều bào là một bộ phận cần
được thông tin, tuyên truyền. Thành phố yêu cầu các cơ quan chức năng xây
dựng đề án tăng cường thông tin, nhằm hỗ trợ kiều bào trong các hoạt động
quảng bá hình ảnh, văn hóa truyền thống dân tộc; phổ biến chính sách, pháp
luật liên quan đến kiều bào; thực hiện chế độ trợ giá cho công tác này
Thông qua các phương tiện thông tin, các cơ quan báo, đài của thành
phố đã tăng thêm thời lượng và nội dung hướng về cộng đồng NVNONN.
Việc tổ chức các cuộc gặp gỡ, giao lưu, hội thảo chuyên đề, trao đổi trực tiếp,
trao đổi sách, báo, tư liệu, thông tin qua địa chỉ email đã có sự phối hợp và

phát huy vai trị của cơ quan báo chí, các tổ chức Hội đồn kiều bào, góp phần
giúp kiều bào nắm bắt được những chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước và hiểu biết rõ tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
địa phương. Mặt khác, công tác thông tin đến cộng đồng NVNONN thông qua
thân nhân tại thành phố được thực hiện tại các Tổ, Ban Liên lạc thân nhân


19

NVNONN tại các phường/xã/thị trấn, quận/huyện với sự hỗ trợ về nội dung từ
các bản tin hàng tháng của Ủy ban về NVNONN TP.HCM và Hội Liên lạc
NVNONN thành phố.
3.3.2. Tăng cƣờng công tác hỗ trợ ngƣời Việt Nam ở nƣớc ngồi
Tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa NVNONN với quê hương, đất
nước, với nhân dân thành phố, UBND TP.HCM chú trọng các hoạt động giao
lưu văn hóa, nghệ thuật, thể thao với kiều bào. Bên cạnh những hoạt động giao
lưu văn hóa, văn nghệ, TP.HCM chú trọng tới hoạt động dạy tiếng Việt cho thế
hệ trẻ. Thông qua hoạt động dạy tiếng Việt, truyền thống văn hóa dân tộc sẽ
tiếp tục được lưu giữ trong các thế hệ NVNONN.
Thành phố tạo điều kiện cho các tổ chức của NVNONN tại địa bàn thành
phố được thành lập và hoạt động nhằm tập hợp, nối kết, hợp tác giúp đỡ lẫn
nhau góp phần xây dựng thành phố, đất nước như: Hội Liên lạc NVNONN,
Hiệp hội Doanh nghiệp NVNONN, Chi hội Doanh nghiệp Việt kiều người Hoa,
Câu lạc bộ Khoa học - Kỹ thuật NVNONN, Câu lạc bộ Doanh nghiệp Việt kiều.
Thành phố có mạng lưới hoạt động tại các quận/huyện và mạng lưới liên
lạc gồm 24 Ban Liên lạc thân nhân NVNONN trực thuộc Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam TP.HCM ở 24 quận/huyện và 206 Tổ liên lạc ở các phường/xã
có đơng thân nhân NVNONN nhằm tạo điều kiện để kiều bào giao lưu với các
tổ chức khoa học – kinh tế – xã hội trong nước, thực hiện các chương trình, dự
án của thành phố. Hằng tháng, các Tổ liên lạc ở phường - xã đều được cung cấp

tài liệu, bản tin nội bộ để sinh hoạt.
3.3.3. Tăng cƣờng thu hút, phát huy nguồn lực của ngƣời Việt Nam ở
nƣớc ngoài
Tạo điều kiện thuận lợi cho NVNONN ổn định cuộc sống khi về làm
việc, sinh sống tại thành phố, UBND TP.HCM yêu cầu các cơ quan chuyên
môn tạo điều thuận lợi về xuất nhập cảnh, cư trú, đi lại ở trong nước của
NVNONN theo hướng thơng thống, thuận tiện và đơn giản thủ tục. Giải
quyết thuận lợi, nhanh chóng thủ tục cho NVNONN hồi hương hoặc về làm
ăn, sinh sống có thời hạn ở trong nước; tiếp tục giải quyết những vấn đề tồn tại
về thừa kế, hơn nhân gia đình, hộ tịch... liên quan đến NVNONN.
 Về nguồn lực tri thức của ngƣời Việt Nam ở nƣớc ngồi
Xác định trí thức NVNONN là một trong những nguồn lực quan trọng
trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, vì vậy, UBND Thành phố yêu
cầu các cơ quan chuyên trách: Nghiên cứu, xây dựng chính sách thỏa đáng đối
với những chuyên gia trí thức kiều bào có trình độ chun mơn cao, có điều
kiện tham gia đóng góp cho các chương trình dự án phát triển kinh tế xã hội của
thành phố và đất nước. Nhằm chủ động thu hút nhân tài NVNONN đóng góp
vào sự nghiệp cơng nghiệp hóa hiện đại hóa thành phố và đất nước; có đề án
thành lập các tổ chức nhằm quy tụ trí thức, chuyên gia kiều bào tham gia đóng
góp trực tiếp cho các chương trình dự án trọng điểm của thành phố; thành lập
Trung tâm Nghiên cứu, Tư vấn, Đào tạo, Ứng dụng và Chuyển giao công nghệ


20

các thành tựu về khoa học kỹ thuật của NVNONN.
Để tạo bước đột phá hơn nữa trong chính sách thu hút đội ngũ trí thức,
chuyên gia, nhà khoa học, ngày 21-11-2014, UBND thành phố ban hành Quyết
định số 5715/QĐ-UBND cho phép 4 đơn vị là: Khu công nghệ cao, Khu nông
nghiệp công nghệ cao, Viện Khoa học - Công nghệ tính tốn và Trung tâm

Cơng nghệ sinh học được thực hiện thí điểm một số chính sách thu hút chuyên
gia khoa học và cơng nghệ vào làm việc. Các chính sách ưu đãi được thành phố
áp dụng cho tất cả các trí thức trong và ngồi nước, nhưng cũng có những điểm
ưu tiên riêng đối với trí thức NVNONN. Điều này thể hiện một sự quan tâm,
trân trọng đối với kiều bào nói chung và trí thức kiều bào nói riêng.
 Về nguồn lực kinh tế của ngƣời Việt Nam ở nƣớc ngoài
Nhằm phát huy tiềm năng của NVNONN, trong xúc tiến và hợp tác kinh
tế, đầu tư, kinh doanh và thương mại. TP.HCM yêu cầu các cơ quan chức năng,
thực hiện những nhiệm vụ sau:
Đối với công tác phổ biến các quy định pháp luật, thủ tục hành chính liên
quan đến hoạt động đầu tư và chính sách ưu đãi, được thực hiện định kỳ 3
tháng/lần nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho kiều bào tham gia hoạt động đầu tư,
kinh doanh tại thành phố.
Hướng dẫn thủ tục hành chính về đầu tư đối với NVNONN, kịp thời và chủ
động đề xuất biện pháp giải quyết vướng mắc, trở ngại, đơn giản hóa thủ tục, giải
quyết nhanh việc cấp phép nhằm thu hút đầu tư của NVNONN vào các chương
trình, dự án, lĩnh vực mà thành phố có chính sách khuyến khích và ưu đãi.
Thường xuyên tổ chức các buổi tọa đàm, gặp gỡ, trao đổ, lắng nghe và
ghi nhận nguyện vọng, những ý kiến đóng góp, xây dựng của kiều bào, qua đó
tham mưu hoặc kiến nghị đến các cấp có thẩm quyền về việc thực hiện các chủ
trương, chính sách liên quan đến NVNONN.
Đặc biệt, thành phố chỉ đạo cho các cơ quan chuyên trách sẵn sàng tư
vấn, hướng dẫn miễn phí các hồ sơ, thủ tục hành chính nhằm đơn giản hóa các
thủ tục, giúp nhà đầu tư tránh khỏi cảm giác bỡ ngỡ. Ngoài ra, theo yêu cầu của
nhà đầu tư, thành phố cũng thành lập trung tâm hỗ trợ thực hiện các dịch vụ liên
quan như: đăng ký kinh doanh, hỗ trợ dịch vụ pháp lý, giới thiệu nguồn nhân
lực phù hợp với pháp luật.
3.3.4. Tăng cƣờng hoạt động của Ủy ban về ngƣời Việt Nam ở nƣớc
ngồi thành phố Hồ Chí Minh
Để cơng tác NVNONN được thuận lợi, Đảng bộ và chính quyền thành

phố luôn quan tâm, hỗ trợ và từng bước kiện toàn bộ máy, tổ chức chuyên trách
về NVNONN trên địa bàn thành phố. Từ tên gọi ban đầu là Tổ cơng tác Việt
kiều, đến nay cơ quan chun trách có tên gọi là Ủy ban về NVNONN
TP.HCM, quy định rõ ràng về quyền hạn và nhiệm vụ tại Quy chế ban hành
kèm theo Quyết định số 33/2009/QĐ-UBND của UBND TP.HCM ngày 29-42009 về ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của Ủy ban về người Việt Nam
ở nước ngồi thành phố Hồ Chí Minh.


21

Chƣơng 4
NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
4.1. MỘT SỐ NHẬN XÉT

4.1.1. Ƣu điểm
Một là, quán triệt và thực hiện nghiêm túc quan điểm, chủ trương của
Đảng về công tác người Việt Nam ở nước ngoài.
Quán triệt quản điểm của Đảng và Đảng bộ Thành phố, UBND thành phố
ban hành nhiều văn bản như: Chỉ thị số 03/2004/CT-UB ngày 15-1-2004 của
UBND về Tăng cường thực hiện các chính sách đối với người Việt Nam ở nước
ngoài trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, Quyết định số 77/2006/QĐ-UBND
ngày 22-5-2006 của UBND về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết
số 36-NQ/TW của Bộ Chính trị, Chương trình hành động của Chính phủ và Kế
hoạch số 47-KH/TU của Thành ủy về công tác đối với người Việt Nam ở nước
ngoài trên địa bàn Thành phố, Quyết định số 5715/QĐ-UBND của UBND
ngày 21-11-2014 Ban hành quy chế thực hiện thí điểm một số chính sách thu
hút chuyên gia khoa học và công nghệ vào làm việc tại 4 đơn vị: Khu Công
nghệ cao, Khu Nông nghiệp công nghệ cao, Viện Khoa học – công nghệ tính
tốn và Trung tâm Cơng nghệ sinh học,… các văn bản này đều thể hiện tính đặc
thù của thành phố và tạo những điều kiện đột phá, thơng thống, cơ bản xóa bỏ

các rào cản phân biệt giữa đồng bào trong nước và ngoài nước, đáp ứng nguyện
vọng và lợi ích thiết thân của kiều bào.
Hai là, Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh coi trọng và phát huy nguồn lực
của người Việt Nam ở nước ngoài trong quá trình bảo vệ và xây dựng thành phố.
Cơng tác phát huy tiềm năng NVNONN được quan tâm, đôn đốc thực
hiện. Thường xuyên tiếp xúc, giới thiệu đến doanh nghiệp, doanh nhân
NVNONN các đầu mối làm ăn, hợp tác khoa học – cơng nghệ. Có sự phối hợp
chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng trong việc giải quyết, xử lý các vấn đề
liên quan đến NVNONN, góp phần bảo vệ lợi ích chính đáng của kiều bào. Cơ
chế cho kiều bào hưởng chế độ một giá như người trong nước và cho một số
diện NVNONN được mua nhà tạo điều kiện thuận lợi cho NVNONN an tâm
khi về TP.HCM thăm thân, du lịch, cư trú, đi lại, làm ăn và sinh sống.
Ba là, Đảng bộ thành phố chỉ đạo thực hiện xây dựng và củng cố cơ quan
chuyên trách thực hiện cơng tác người Việt Nam ở nước ngồi.
Ngay sau ngày thống nhất Tổ quốc năm 1975, TP.HCM thành lập Tổ
công tác Việt kiều được giao nhiệm vụ tổ chức đón tiếp chu đáo, tận tình các
đồn NVNONN có cơng với nước và các cá nhân NVNONN tiêu biểu về thăm
gia đình tại TP.HCM và các tỉnh phía Nam nhân các dịp lễ, Tết. Sau đó được
đổi tên là Ban Liên lạc Việt kiều.
Bốn là, q trình lãnh đạo cơng tác vận động người Việt Nam ở nước
ngoài đã đạt được một số kết qủa cụ thể:
Người Việt Nam ở nước ngoài về nước, theo báo cáo của Ủy ban về
NVNONN TP.HCM, kiều bào về nước qua cửa ngõ sân bay quốc tế Tân Sơn
Nhất trong năm 2015 khoảng 1 triệu lượt người.


22

Người Việt Nam ở nước ngồi tìm hiểu thơng tin, Ủy ban về NVNONN
TP.HCM được đông đảo kiều bào và thân nhân tìm đến để được hỗ trợ dịch vụ

hành chính, tìm hiểu về chính sách, pháp luật liên quan đến quốc tịch, cư trú,
đầu tư, lao động, nhà đất, là địa chỉ tin cậy của NVNONN và thân nhân đến tìm
hiểu những thơng tin quan trọng khác.
Về trí thức người Việt Nam ở nước ngoài, xác định khoa học - công nghệ
là động lực cho phát triển kinh tế - xã hội, TP.HCM xây dựng cơ chế, chính
sách ưu đãi nhằm thu hút trí thức NVNONN đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo các
cơ quan nghiên cứu khoa học.
Về kiều hối, TP.HCM là địa phương đi đầu trong cả nước về thu hút kiều
hối và dự án đầu tư của NVNONN.
Nguyên nhân của những ƣu điểm
Một là, Đảng và Nhà nước với quan điểm nhất quán, luôn khẳng định
NVNONN là bộ phận tách rời của dân tộc. Đã có nhiều chủ trương, chính sách
cần thiết, tạo điều kiện thuận lợi để NVNONN hồi hương, đầu tư, trở về Việt
Nam sinh sống, làm việc.
Hai là, môi trường làm việc và đầu tư của Việt Nam nói chung, TP.HCM
nói riêng ln được cải thiện thường xun, có chính sách ưu đãi ngày càng cụ
thể và sát với thực tế.
Ba là, trong bối cảnh quốc tế và khu vực ln có những biến động to lớn
thì Việt Nam lại là một quốc gia có nền chính trị ổn định.
Bốn là, TP.HCM có nhiều điều kiện thuận lợi như: vị trí địa lý, hạ tầng
giao thông đường bộ, đường sắt, đường biển, hàng không, cửa ngõ của vùng
kinh tế phía nam, nơi tập trung kinh tế lớn nhất cả nước, nên có thể kết nối
vùng, ngành kinh tế thuận lợi.
Năm là, công tác NVNONN từng bước đi vào nề nếp. Sau khi nhà nước
ban hành các văn bản pháp quy, các cấp ngành của thành phố đã nhanh chóng
triển khai bằng cách ban hành kế hoạch, quyết định, công văn hướng dẫn tới các
cấp ngành, các địa phương, cán bộ chuyên trách.
4.1.2. Hạn chế
Một là, về xây dựng cơ chế, quy định: một số cơ chế, quy định tính đồng
bộ, ổn định lâu dài và mang tính khả thi chưa cao.

Hai là, về triển khai thực hiện: một số cơ quan chức năng chưa linh hoạt
trong phân tích tình hình, đánh giá đầy đủ về NVNONN trong bối cảnh tình
hình quốc tế diễn biến phức tạp để đề ra cơ chế phù hợp, kịp thời, đáp ứng
nguyện vọng chính đáng của NVNONN.
Ba là, về công tác tuyên truyền quan điểm, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, đơi khi chưa được quán triệt sâu sắc đầy đủ và
quan tâm đúng mức trong hệ thống chính trị TP.HCM bao gồm các cấp ủy Đảng,
chính quyền TP.HCM, Mặt trận, các đồn thể nhân dân khiến cho nhiều nơi,
nhiều lúc và trên nhiều lĩnh vực nhưng quan điểm, chủ trương của Đảng và chính
sách, pháp luật của Nhà nước chưa chuyển thành hành động thực tế của các sở,
ban, ngành và cán bộ thực hiện.


×