Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (711.94 KB, 7 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>Chứng minh những người đói họ không nghĩ đến cái chết, mà nghĩ đến cái sống mà </b>
Học247 giới thiệu dưới đây sẽ giúp các em thấy được những phẩm chất đáng quý của con
người trong thời buổi khó khăn cũng như sự nhân đạo mà Kim Lân dành cho các nhân vật
của mình. Đồng thời, dàn bài chi tiết và bài văn mẫu này sẽ giúp các em định hướng được
cách giải quyết dạng bài phân tích nghệ thuật đặc sắc của một tác phẩm. Mời các em cùng
<b>tham khảo! </b>
<b>A. SƠ ĐỒ TÓM TẮT GỢI Ý </b>
<b>B. DÀN BÀI CHI TIẾT </b>
<b>Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng phải đảm bảo các ý sau: </b>
<b>1. Mở bài </b>
- Giới thiệu về tác giả, tác phẩm:
+ Kim Lân ( 1920 – 2007) là cây bút chuyên viết truyện ngắn. Ông thường viết về nông thôn
và người nông dân.
- Trích dẫn ý kiến: Những người đói họ không nghĩ đến cái chết, mà nghĩ đến
cái sống
<b>2. Thân bài </b>
- Giải thích ý kiến: Những người đói họ khơng nghĩ đến cái chết, mà nghĩ đến cái sống
+ Nạn đói khủng khiếp năm 1945: Cái đói bao trùm khắp nơi và tràn đến cái xóm nghèo của
dân ngụ cư. Những gia đình từ Nam Định, Thái Bình lũ lượt đội chiếu, dắt díu bồng bế nhau
lên, xám lại như những bóng ma. Buổi sáng nào cũng có vài người chết còng queo bên
đường, toả mùi gây gây của xác chết.
+ Toàn bộ câu truyện của Tràng diễn ra trên cái cảnh đói khổ và tang tóc ấy: Cảnh xóm ngụ
cư vào buổi chiều Tràng đưa người vợ theo về; tiếng hờ khóc trong đêm, mùi đốt đống rấm.
- Tình cảnh của gia đình Tràng
+ Tràng: nghèo, khơng lấy nổi vợ.
+ Vợ Tràng: Vì đói mà phải theo khơng về làm vợ, khơng có cưới cheo gì.
+ Tình cảm xót xa của bữa cơm đón nàng dâu mới (nồi cháo loãng và bát cám).
+ Sự cưu mang, niềm hi vọng của người lao động nghèo khổ: Truyện đã làm sáng lên trên cái
nền đen tối ảm đạm ấy sức sống, khát vọng: mái ấm gia đình và sự nương tựa, che chở cho
nhau của những người lao động nghèo khổ, sáng lên niềm tin hy vọng của họ.
- Tình huống Tràng có vợ, “nhặt” được vợ và ý nghĩa: Thái độ của Tràng từ lúc chỉ coi là
chuyện tầm phào đến lúc xem đó là truyện nghiêm chỉnh của đời mình (Dẫn và phân lích
những lời nói, hàng động của Tràng khi mới gặp người đàn bà và trong cảnh đưa chị ta về
nhà).
+ Ánh sáng của hơi ấm hạnh phúc gia đình giữa lúc nạn đói hồnh hành
+ Cảnh gia đình Tràng, căn nhà, mảnh vườn trong buổi sáng hôm sau.
+ Sự biến đổi trong tâm trạng của Tràng, của người vợ nhặt.
+ Ý nghĩa và thái độ của bà cụ Tứ, nỗi xót xa, thương cảm và niềm hy vọng cùa người mẹ.
+ Niềm hi vọng của họ về sự đổi thay số phận hướng về cuộc cách mạng.
- Giá trị nhân đạo của tác phẩm
+ Một tư tưởng nhân đạo hướng về quần chúng lao động, khẳng định phẩm chất và sức sống
bền bỉ của họ.
+ Niềm tin của tác giả đặt vào những khát vọng bình dị mà chân chính những con người vẫn
muốn sống, vẫn khát khao tình thương và sự gắn bó, việc nương tựa vào nhau đã cho họ
niềm tin để sống.
<b>3. Kết bài </b>
- Nêu cảm nhận, đánh giá, nhận xét về vấn đề
<b>- Mở rộng vấn đề bằng suy nghĩ và liên tưởng cá nhân </b>
<b>C. BÀI VĂN MẪU </b>
<i><b>Đề bài: Những người đói họ khơng nghĩ đến cái chết, mà nghĩ đến cái sống (Kim Lân). Hãy </b></i>
<i>làm sáng tỏ tư tưởng trên qua các nhân vật trong truyện ngắn “Vợ nhặt” - Kim Lân. </i>
“Vợ nhặt” là tác phẩm ưu tú của nhà văn Kim Lân và cũng là một trong những thành tựu
xuất sắc của nền vãn học cách mạng. Tác phẩm ra đời cách đây đã trên bốn mươi năm, viết
về một giai đoạn đau thương trong lịch sử dân tộc: nạn đói năm 1945 – từ Quảng Trị đến
Bắc Bộ, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói; thế nhưng, tác phẩm khơng mang tính nhất
thời và sẽ bất tử với thời gian bởi giá trị nhân văn cao cả, niềm tin không bao giờ tắt hướng
về con người. Trong tác phẩm, niềm tin ấy được thể hiện ở chỗ: những người đói, họ khơng
nghĩ đến cái chết, mà nghĩ đến cái sống.
Như nhiều tác phẩm trước đó viết về nạn đói, ngịi bút Kim Lân chứa chan thương cảm
Ngay từ đầu, câu truyện đã hiện lên đượm màu sắc tang thương tử khí: “Cái đói đã tràn đến
xóm này tự lúc nào. Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình đội chiếu lũ lượt
bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ.
Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng khơng gặp
ba bốn cái thây nằm cịng queo bên đường. Khơng khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và
mùi gây của xác người”. Thực khơng cịn gì ảm đạm hơn bức tranh q ấy. Trong khi trước
đó khơng lâu, mỗi chiều Tràng đi làm về, “cái xóm ngụ cư tồi tàn ấy lại xơn xao lên được một
lúc” cịn bây giờ, cái đói đã đè nặng lên vai mỗi người; ngay cả bọn trẻ – những đứa bé hồn
nhiên, vô tư nhất cũng mất đi sự tự nhiên, ngây thơ của mình, chúng ủ rũ, khơng buồn nhúc
nhích…
mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”. Đọc đến đây, ta không thể không nghĩ đến những
trang bi kịch của Secxpia, Môlie hay Stăngđan. Tuy nhiên, bi kịch ở đây đã vượt lên sự thơng
thường vẫn có; nó cũng khơng phải là “hiện thân của sự ngu dốt” như Mác nói, mà trở nên
sự cao cả “đẹp tươi lạ thường”. Đó là biểu hiện cao nhất của sự chiến thắng, vượt lên trên
thực tại chết chóc, đen tối để hướng tới sự sống, niềm tin, ánh sáng. Với chi tiết Tràng cùng
vợ đi về nhà, chủ nghĩa nhân đạo trong văn học nước nhà cũng có thêm một tiêng nói mới,
có sức mạnh.
Chuyện lấy vợ của Tràng, trước hết là một chuyện lạ mà thi vị. Điều ấy đã khiến người dân ở
xóm ngụ cư hết sức tò mò, từ bọn trẻ con cho đến tất cả người làng; “Họ bàn tán… Họ hiểu
đôi phần, khuôn mặt họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên”. Từ trong sâu thẳm tâm hồn những
người dân làng, le lói lên một chút niềm vui. Họ thú vị nghĩ tới chuyện Tràng có vợ. Có thể
nói, trong phút chốc, khi Tràng cùng với cô “Vợ nhặt” đi về làng, cái chết, sự ảm đạm thâm u
nơi xóm ngụ cư được đẩy sang một bên. Xóm ngụ cư đang ở trên miệng vực cái chết, bỗng
hé lên một thoáng sống.
Nhưng, niềm vui vừa đến, đã phải nhường chỗ cho sự âu lo. Dân làng lo thay cho Tràng: Giời
đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có ni nổi nhau sống qua được cái thì này khơng.
Tuy nhiên, đó khơng phái là nỗi lo tuyệt vọng, mà là lo cho cái sống. Sự chết chóc cứ ám ảnh,
đe dọa sự sống, nhưng sự sống vẫn vượt lên cái chết. Khuôn mặt “rạng rỡ” của người dân
làng, ánh mắt của họ thực ý nghĩa, nói với chúng ta bao điều.
Ở bước đường cùng, người ta sinh ra liều lĩnh – điều đó thực đúng lắm thay! Hành động
nhân đùa làm thật của cô gái theo chân Tràng về nhà, xét đến cùng, là một hành động liều
lĩnh. Tràng gặp người đàn bà ấy tất cả chỉ có hai lần vào các dịp chở thác lên tỉnh. Với Tràng,
chị ta chẳng để lại trong anh một ấn tượng gì. Bởi thế, lần thứ hai gặp lại, Tràng phải mất
một thời gian mới nhận ra và cũng như nhiều nhân vật khác trong các sáng tác của Nam Cao,
cái dạ dày chị đã chiến thắng khối óc và con tim: được Tràng đãi, chị ăn liền một chập bốn
bát bánh đúc. Cái đói đã đẩy lùi ý thức nhân cách, sĩ diện. Quên cả thẹn thùng, người đàn bà
khơng tên ấy cắm đầu ăn “khơng chuyện trị gì”. Khi Tràng ngỏ lời, không cần suy nghĩ, chị
cũng đi theo một cách dễ dàng, “vô tư lự”. Thế mới hay, cái đói ghê gớm biết chừng nào. Và
hai cái “liều” gặp nhau đã tạo nên một gia đình thời tao loạn. Điều đáng chú ý là ở đây, khi
cùng người “Vợ nhặt” về nhà, Tràng bỏ ra hai hào để mua một chai dầu, điều này có nghĩa là
anh đã thắp lên một ngọn lửa trong cuộc sơng tăm tối của mình, đem lại chút ánh sáng cho
gia đình cũng như dân làng. Điều này chi phối toàn bộ văn phẩm. Cũng từ cuộc “hôn nhân”
của Tràng, những người đời mới thực sự không nghĩ đến cái chết, mà nghĩ đến cái sống.
Khi Tràng cùng vợ về nhà, cuộc sống trước mắt họ không kém phần thảm hại: căn nhà vắng
truyện ngắn, hơn hai mươi lần nhà văn nhắc đến niềm vui và nụ cười thường trực của
Tràng, khi đã có vợ. Tình u của hai người, có sức cải biến thật lớn.
“Trong một lúc, Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày, quên cả cái
đói khát đang đe dọa… Trong lịng hắn, lúc này chỉ cịn tình nghĩa với người đàn bà đi bên.
Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông ấy…”. Đúng vậy. Niềm vui lớn
nhất đời anh đã thành sự thực: có vợ. Cái “mới mẻ”, “lạ lẫm” ấy là tinh thần trách nhiệm của
một người chủ gia đình sẽ phải lèo lái con thuyền nhà – gia đình qua thời điểm khó khăn,
vươn lên trên hoàn cảnh khắc nghiệt để xây dựng cuộc sống. Tràng bỏ sau lưng tất cả những
tiếng hờ khóc, tiếng quạ kêu…
Chỉ sau một đêm “nên vợ, nên chồng”, Tràng thấy mình có sự đổi khác: “Trong người êm ái
lửng lơ như người ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hơm nay hắn vẫn cịn ngỡ như
khơng phải…”. Chuyện được “vợ nhặt” của Tràng ngỡ như đùa nhưng lại là sự thật; bao
nhiêu sự sống, sinh khí trở lại với Tràng, với gia đình sau khi anh có vợ. Và cũng từ buổi
“sáng hơm sau đó”, dường như tất cả sự thực chết chóc khơng cịn tồn tại nữa, Tràng chỉ
nghĩ đến sự gây dựng cuộc sống, hướng về sự sống mà tạo lập hạnh phúc: “Tràng thấy
thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh
con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa, che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn
đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn
phận phải lo cho vợ con sau này”,..
Có thể nói, đó là biếu hiện cao nhất của tinh thần hướng về sự sống, quên đi cái chết đang
bủa vây.
Vợ Tràng là một nhân vật khá độc đáo. Chị khơng có tên, không tuổi, không đặc điểm nhận
dạng và, quê quán. Tưởng rằng, khi chị theo Tràng đi về nhà, với sự chao chát, chỏng lỏng
văn học Việt Nam lại có thêm một nhân vật “khơng bình thường”. Nhưng khơng, ngịi bút
Kim Lân chưa bao giờ để nhân vật của mình tha hóa, biến chất đến độ ấy. Khi về đến nhà
Tràng, con người thật của chị mới hiện lên đầy đủ. Chị cứ “ngồi mớm ở mép giường, hai tay
ôm khư khư cái thúng”. Vì sao vậy? Cái thế ngồi rụt rè, chơng chênh ấy cũng là cái thế của
lịng chị, trăm mối ngổn ngang. Liệu chỗ ngồi ấy có phải là chỗ của chị khơng? Nhà này có
phải chốn để chị dung thân?
Và cũng như Tràng, sau một đêm làm vợ, chị đã thay đổi hẳn: “Trông chị hôm nay khác lắm,
rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực…”. Cái đói một khi được xua đi, thì sự tốt đẹp
đúng như bản chất hiền trở lại với chị. Ấy cũng là lúc chị nghĩ đên sự sống, lo cho gia đình
mình. Chị quét dọn sân nhà sạch sẽ, gánh nước đổ đầy ang… Có bàn tay săn sóc của chị, căn
nhà trở nên gọn gàng, sáng sủa. Sự sống trở về với người với cảnh…
trong bữa cơm, cả ba mẹ con đều quên đi hiện thực đau lòng để hướng đến một tương lai
tươi đẹp hơn: “Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đơi gà. Tao tin rằng cái chỗ đầu bếp kia
làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này, ngoảnh đi ngoảnh lại, chả mấy mà có ngay đàn gà cho
mà xem…”. “Nghĩ đến cái sống, không nghĩ đến cái chết là ở chỗ đấy. Bà cố gắng xua đi thực
tại hãi hùng, để nhen nhóm niềm tin vào cuộc sống cho các con. Tuy nhiên, món chè cám đã
nhắc họ về với thực tại. Chao ôi, chè cám! Phải đói đến một mức nào đó, người ta ăn cám
mới cảm thấy ngon! Cuộc sống khắc nghiệt, đày đọa, bắt họ phải sống cuộc sống lồi vật,
nhưng nào có dập tắt được phần Người đáng quí trong mỗi con người. Cái phần Người ấy, sẽ
giúp họ vượt qua giai đoạn khó khăn này.
Sẽ là thiếu sót lớn nếu bỏ qua hình ảnh những người nơng dân trên đê Sộp cùng nhau đi phá
kho thóc, khi nói đến những kẻ hấp hối trong vòng tử địa vẫn hướng tới cuộc sống. Đó là
hình ảnh khơng hề ngẫu nhiên chút nào, được nhà văn chuẩn bị từ trước. Nó là dấu hiệu của
“bước đường cùng”, khơng cịn cách giành sự sống nào khác, phải vùng dậy đấu tranh,
hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Tràng thấy “ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, khó hiểu” bởi anh
<b>Website HOC247 cung cấp một môi trường học trực tuyến sinh động, nhiều tiện ích thơng minh, nội dung </b>
<b>bài giảng được biên soạn công phu và giảng dạy bởi những giáo viên nhiều năm kinh nghiệm, giỏi về kiến </b>
<b>thức chuyên môn lẫn kỹ năng sư phạm đến từ các trường Đại học và các trường chuyên danh tiếng. </b>
<b>I. </b> <b>Luyện Thi Online</b>
- <b>Luyên thi ĐH, THPT QG: Đội ngũ GV Giỏi, Kinh nghiệm từ các Trường ĐH và THPT danh tiếng xây </b>
<b>dựng các khóa luyện thi THPTQG các mơn: Tốn, Ngữ Văn, Tiếng Anh, Vật Lý, Hóa Học và Sinh Học. </b>
- <b>Luyện thi vào lớp 10 chuyên Tốn: Ơn thi HSG lớp 9 và luyện thi vào lớp 10 chuyên Toán các </b>
<i>trường PTNK, Chuyên HCM (LHP-TĐN-NTH-GĐ), Chuyên Phan Bội Châu Nghệ An và các trường Chuyên </i>
<i>khác cùng TS.Trần Nam Dũng, TS. Pham Sỹ Nam, TS. Trịnh Thanh Đèo và Thầy Nguyễn Đức Tấn. </i>
<b>II. </b> <b>Khoá Học Nâng Cao và HSG </b>
- <b>Toán Nâng Cao THCS:</b> Cung cấp chương trình Tốn Nâng Cao, Tốn Chun dành cho các em HS THCS
lớp 6, 7, 8, 9 yêu thích mơn Tốn phát triển tư duy, nâng cao thành tích học tập ở trường và đạt điểm tốt
ở các kỳ thi HSG.
- <b>Bồi dưỡng HSG Toán: Bồi dưỡng 5 phân mơn Đại Số, Số Học, Giải Tích, Hình Học và Tổ Hợp dành cho </b>
<i>học sinh các khối lớp 10, 11, 12. Đội ngũ Giảng Viên giàu kinh nghiệm: TS. Lê Bá Khánh Trình, TS. Trần </i>
<i>Nam Dũng, TS. Pham Sỹ Nam, TS. Lưu Bá Thắng, Thầy Lê Phúc Lữ, Thầy Võ Quốc Bá Cẩn cùng đơi HLV đạt </i>
<b>III. </b> <b>Kênh học tập miễn phí</b>
- <b>HOC247 NET: Website hoc miễn phí các bài học theo chương trình SGK từ lớp 1 đến lớp 12 tất cả các </b>
môn học với nội dung bài giảng chi tiết, sửa bài tập SGK, luyện tập trắc nghiệm mễn phí, kho tư liệu tham
khảo phong phú và cộng đồng hỏi đáp sôi động nhất.
- <b>HOC247 TV: Kênh Youtube cung cấp các Video bài giảng, chuyên đề, ôn tập, sửa bài tập, sửa đề thi miễn </b>
phí từ lớp 1 đến lớp 12 tất cả các mơn Tốn- Lý - Hố, Sinh- Sử - Địa, Ngữ Văn, Tin Học và Tiếng Anh.
<i><b> Học mọi lúc, mọi nơi, mọi thiết bi – Tiết kiệm 90% </b></i>
<i><b>Học Toán Online cùng Chuyên Gia </b></i>