MỤC LỤC
1
Vấn đề 1: Đối tượng, nhiệm vụ và phương pháp của tâm lý
học tội phạm
1. Sơ lược lịch sử phát triển của tâm lý học tội phạm
– Ra đời từ cuối thế kỷ 19, phát triển mạnh nhất ở phương Tây
– Tâm lý học tội phạm được ứng dụng rộng rãi trong cơng tác phịng ngừa, phát
hiện và điều tra, xử lý tội phạm nhằm giữ vững an ninh quốc gia và trật tự an
toàn xã hội
– Khái niệm: tâm lý học tội phạm là khoa học nghiên cứu những hiện tượng tâm
lý nảy sinh trong quá trình hoạt động phạm tội của các tội phạm nhằm phòng
ngừa, phát hiện, và đấu tranh chống tội phạm, góp phần bảo vệ an ninh quốc
gia, trật tự an toàn xã hội.
2. Đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu của tâm lý học tội phạm
2.1. Đối tượng nghiên cứu của tâm lý học tội phạm
– Các hiện tượng, đặc điểm và những khía cạnh tâm lý nảy sinh trong quá trình
hoạt động phạm tội
– Nhân cách người phạm tội:
+ các đặc trưng tâm lý
+ các kiểu nhân cách
+ những lệch lạc trong nhân cách
+ các yếu tố tác động làm suy thoái nhân cách
– Tâm lý nhóm tội phạm: đặc điểm tâm lý của tội phạm hoạt động theo nhóm (tội
phạm có tổ chức)
– Các nguyên nhân tâm lý – XH của tội phạm
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của tâm lý học tội phạm
– Làm rõ các quy luật hình thành và phát triển các phẩm chất tâm lý tiêu cực dẫn
cá nhân đi vào con đường phạm tội
– Giáo dục công dân ý thức tuân thủ PL, đề cao tinh thần cảnh giác và chủ động
tham gia vào cơng tác phịng ngừa, phát hiện và đấu tranh phòng chống tội
phạm
– Nghiên cứu cơ sở tâm lý của các biện pháp phòng ngừa, phát hiện và đấu tranh
chống tội phạm
– Xây dựng các phương pháp nghiên cứu tâm lý, tác động tâm lý phục vụ cho
hoạt động phòng ngừa, phát hiện và đấu tranh chống tội phạm
– Góp phần hồn thiện hệ thống lý luận của tâm lý học nói chung, tâm lý học tội
phạm nói riêng
2
3. Các nguyên tắc và phương pháp nghiên cứu của tâm lý học tội phạm
3.1. Các nguyên tắc nghiên cứu của tâm lý học tội phạm
– Nguyên tắc mục đích: khi sử dụng các phương pháp nghiên cứu tâm lý, ta phải
biết rõ mục đích sử dụng
– Nguyên tắc quyết định luận XH: mọi hiện tượng tâm lý không tự nhiên sinh ra
mà đều có ngun nhân làm hình thành hoặc làm thay đổi
– Nguyên tắc khách quan: khi thu thập thơng về tâm lý đối tượng nào đó, ta phải
đảm bảo được tính chân thực và phản ánh đúng bản chất của hiện tượng tâm lý
mà ta quan tâm
– Nguyên tắc về sự thống nhất giữa tâm lý nhân cách và hoạt động: khi đánh giá
tâm lý của người khác cần thông qua hành động, hoạt động học tập, lao động,
giải trí …
– Nguyên tắc phát triển: khi đánh giá tâm lý của 1 đối tượng nào đó, cần phải
xem xét nó trong sự vận động và phát triển. Khi đánh giá 1 người, khơng nên chỉ
qua 1 tình huống mà phải qua 1 quá trình lâu dài
– Nguyên tắc tiếp cận nhân cách: cần phải tiếp cận con người 1 cách tồn diện,
tìm hiểu tất cả các thuộc tính trong nhân cách và mối quan hệ tác động qua lại
của chúng
——————–
3.2. Phương pháp nghiên cứu của tâm lý học tội phạm
3.2.1. Phương pháp quan sát
– Là sự tri giác có chủ định các biểu hiện bề ngồi của con người để nhận xét,
phán đoán các đặc điểm tâm lý của họ
– Phương pháp quan sát được sử dụng phổ biến trong hoạt động tố tụng, VD
quan sát các biểu cảm trên nét mặt của bị cáo và các hành vi của họ, Hội đồng
xét xử có thể phán đoán thái độ của họ đối với hành vi mà họ đã thực hiện
– Đặc điểm:
+ chủ thể tiến hành quan sát cũng có thể trở thành đối tượng bị quan sát. VD khi
điều tra viên quan sát đối tượng thì đối tượng cũng quan sát lại điều tra viên
+ việc sử dụng phương pháp quan sát có thể gặp những trở ngại nhất định, vì đối
tượng của quan sát có thế có những động tác giả để che đậy nội tâm của mình.
VD 1 bị cáo tại phiên tịa có thể khóc nức nở và thể hiện sự hối hận 1 cách rất
“nghệ thuật” mặc dù thật tâm không hề hối hận
3
+ điều kiện của hoạt động tư pháp có thể gây ra những tác động lớn đối với tâm
tý của các chủ thể tham gia, vì vậy tâm lý của họ thường bộc lộ dưới rất nhiều
sắc thái khác nhau
3.2.2. Phương pháp phỏng vấn cá nhân
– Là phương pháp thu thập thông tin về người phạm tội bằng cách trưng cầu ý
kiến miệng
– Hai hình thức phổ biến nhất của phỏng vấn là :
+ phỏng vấn tự do: không tuyên bố chủ đề và hình thức đàm thoại
+ phỏng vấn chuẩn mực hóa: gần giống với điều tra bằng bảng câu hỏi
– Khi tiến hành phỏng vấn cần chú ý:
+ người tiến hành phỏng vấn nên đưa ra những câu hỏi rành mạch, rõ ràng
+ trong trường hợp cần thiết cần tạo ra 1 khơng khí thẳng thắn và tin tưởng để
tranh thủ sự hợp tác của những người được hỏi
3.2.3. Phương pháp thực nghiệm
– Là phương pháp mà chủ thể chủ động tạo ra tình huống nhằm làm xuất hiện ở
đối tượng những hiện tượng tâm lý cần quan tâm, tiến hành đo đạc, định lượng
chúng 1 cách khách quan
– Có nhiều loại thực nghiệm:
+ thực nghiệm tự nhiên: là thực nghiệm dựa vào những điều kiện hoàn cảnh
trong cuộc sống và hoạt động của đối tượng. Trong hoạt động tố tụng thì các
thực nghiệm chủ yếu là thực nghiệm tự nhiên, VD thực nghiệm diễn lại hành
động,
+ thực nghiệm giáo dục: nhằm phát triển, rèn luyện hoặc uốn nắn những phẩm
chất tâm lý nào đó ở đối tượng. Thường được sử dụng trong quá trình giam giữ
cải tạo phạm nhân
+ thực nghiệm trong phịng thí nghiệm: nghiên cứu những đặc điểm tâm lý nhất
định, được tiến hành trong những phịng được bố trí đặc biệt với máy móc, thiết
bị tinh vi
– Trong thực tế thường thực hiện thực nghiệm nhiều lần và phối hợp với các
phương pháp khác
3.2.4. Phương pháp điều tra bảng hỏi cá nhân
– Là phương pháp dùng 1 bảng câu hỏi chung cho 1 số lớn đối tượng nghiên cứu
nhằm thu thập ý kiến chủ quan của họ về 1 vấn đề nào đó
4
– Sử dụng phương pháp này có thể trong 1 thời gian ngắn thu thập được ý kiến
của nhiều người, nhưng là ý kiến chủ quan. Do đó để có được thơng tin có giá trị
thì cần soạn kỹ bảng câu hỏi và hướng dẫn trả lời.
– Dựa vào phiếu điều tra sẽ giúp nghiên cứu những nguyên nhân tâm lý xã hội
của hành vi phạm tội cụ thể và đặc điểm nhân cách của người phạm tội.
3.2.5. Phương pháp phân tích sản phẩm hoạt động
– Là việc dựa vào phân tích kết quả, sản phẩm hoạt động có thể rút ra những kết
quả luận về tâm lý nhân cách của người đã làm ra sản phẩm đó. Chẳng hạn
thơng qua bài thi của 1 học viên mà phán đoán 1 số nét về tâm lý của họ như:
thái độ đối với môn học, hiểu biết xã hội, khả năng tư duy, …
– Trong hoạt động tố tụng, khi phân tích đánh giá những dấu vết phát hiện được
trên hiện trường, công cụ phạm tội, hậu quả mà hành vi phạm tội gây ra, … ta có
thể xác định được động cơ, mục đích, diễn biến hành vi, ý chí, thói quen, trạng
thái tâm lý của cá nhân đã thực hiện hành vi phạm tội. Ở một số nước, các
chuyên gia tội phạm đã căn cứ vào cách thức thực hiện hành vi phạm tội, các
dấu vết của hành vi, … mà xây dựng chân dung tâm lý của đối tượng phạm tội
3.2.6. Phương pháp trắc nghiệm
– Là phương pháp chẩn đốn tâm lý, có sử dụng những câu hỏi và bài tập được
chuẩn hóa (các test) theo những thang nhất định
– Trắc nhiệm cho phép với độ chính xác nhất định, xác định được mức độ hiện tại
các hiểu biết và đặc điểm nhân cách của người phạm tội
– Q trình trắc nghiệm có thể chia làm 3 giai đoạn:
+ lựa chọn trắc nghiệm (xác định mục đích trắc nghiệm, mức độ tin cậy và độc
xác thực của test)
+ tiến hành trắc nghiệm
+ xử lý kết quả thu được
3.2.7. Phương pháp nghiên cứu văn bản, hồ sơ, tài liệu
– Là phương pháp tìm hiểu tâm lý người phạm tội thơng qua việc hệ thống hóa
các thơng tin về quan hệ, về môi trường sống, hoạt động của người phạm tội –
yếu tố có ý nghĩa quyết định nội dung, phẩm chất tâm lý người phạm tội.
– Vì vậy việc nghiên cứu này giúp ta có cơ sở để phát hiện các phẩm chất tâm lý
của người phạm tội như: trình độ học vấn, kinh nghiệm, nghề nghiệp, vốn sống
xã hội, quan điểm chống đối, …
3.2.8. Phương pháp phân tích trường hợp điển hình (case study)
– Là phương pháp được sử dụng rất phổ biến trong các ngành giáo dục học, xã
hội học, quản trị học, luật học và y học
5
– Mục tiêu cơ bản của phương pháp này là tìm hiểu rõ về trường hợp nghiên cứu
bằng cách theo dõi sát sao và toàn diện trường hợp đã chọn trong 1 thời gian đủ
dài và ngay tại môi trường tự nhiên của nó.
– Kết quả nghiên cứu trường hợp điển hình cho phép nhà nghiên cứu đưa ra lời
giải thích tại sao mọi việc xảy ra như đã xảy ra, và thơng qua đó xác định các
vấn đề quan trọng cần được tiếp tục nghiên cứu rộng rãi hơn trong tương lai.
4. Vị trí, vai trị của tâm lý học tội phạm
4.1. Ví trí của tâm lý học tội phạm
– Tâm lý học tội phạm có vị trí quan trọng trong hệ thống các khoa học pháp lý.
Nó là 1 bộ phận cấu thành của tâm lý học pháp lý, nghiên cứu tâm lý người phạm
tội cũng như các vấn đề, các khía cạnh tâm lý nảy sinh trong hoạt động phạm tội
của tội phạm nhằm giúp cho hoạt động điều tra, xét xử, và cải tạo giáo dục người
phạm tội có kết quả.
– Tâm lý học tội phạm có mối quan hệ chặt chẽ với tội phạm học và khoa học
điều tra hình sự
– Tâm lý học tội phạm cũng có mối quan hệ chặt chẽ với tâm lý học nhân cách,
tâm lý học hoạt động: nó được nghiên cứu, xây dựng dựa trên lý luận của các
ngành tâm lý đó
4.2. Vai trị của tâm lý học tội phạm
– Tâm lý học tội phạm có vai trị to lớn trong cơng tác đấu tranh, phịng ngừa tội
phạm. Những kết quả nghiên cứu các vấn đề, các quy luật tâm lý nảy sinh trong
hoạt động phạm tội đã góp phần nâng cao hiệu quả của các mặt hoạt động này.
– Trên cơ sở nghiên cứu,
phạm giúp các cơ quan
biện pháp đúng đắn và
những yếu tố là nguyên
cộng đồng.
làm rõ nguyên nhân, điều kiện phạm tội, tâm lý học tội
có thẩm quyền đưa ra được những chủ trương, những
có hiệu quả trong việc phòng ngừa tội phạm, loại bỏ
nhân phát sinh tội phạm trong lối sống của cá nhân và
——————–
Vấn đề 2: Nhân cách người phạm tội
1. Khái niệm nhân cách người phạm tội
– Nhân cách là tổ hợp những thuộc tính tâm lý của 1 con người biểu hiện ở bản
sắc và giá trị xã hội của người đó.
– Nhân cách người phạm tội là tổ hợp các phẩm chất, các thuộc tính tâm lý cá
nhân thể hiện xu hướng chống đối xã hội và thái độ tiêu cực đối với các lợi ích,
các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ, ln lựa chọn ý đồ và thực
hiện hành vi phạm tội.
6
– Những khiếm khuyết trong nhân cách của người phạm tội có thể là hậu quả của
q trình chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố xã hội tiêu cực, của q trình tham
gia vào các nhóm, các quan hệ xã hội không lành mạnh, nhưng đồng thời cũng là
hệ quả tất yếu của sự buông lỏng, không chịu rèn luyện bản thân của cá nhân.
2. Cấu trúc nhân cách người phạm tội
2.1. Xu hướng của người phạm tội
– Xu hướng nói lên chiều hướng phát triển của nhân cách. Theo đó nhân cách
phát triển từ đâu, theo chiều hướng nào.
– Người phạm tội hướng tới những lợi ích mà những lợi ích đó đối lập với lợi ích xã
hội, xâm phạm tới lợi ích chính đáng và hợp pháp của người khác
– Xu hướng bao gồm: nhu cầu, hứng thú, lý tưởng, thế giới quan, niềm tin.
– Một đặc trưng cơ bản trong nhân cách của người phạm tội thiếu sự cân bằng
giữa các loại nhu cầu và hứng thú. Trong đó nhu cầu và hứng thú vật chất cao
hơn, chiếm ưu thế hơn so với nhu cầu tinh thần và nhu cầu xã hội. ==> đặc
trưng này là biểu hiện của sự suy thoái nhân cách ở người phạm tội. VD vì tiền
hay vì các nhu cầu thấp hèn mà người phạm tội có thể dùng mọi thủ đoạn như
dụ dỗ, đâm chém, giết, …
– Cội nguồn của hành vi phạm tội không phải ở bản thân nhu cầu mà là ở sự ý
thức sai về nhu cầu và con đường thỏa mãn nhu cầu.
– Thế giới quan, niềm tin ở người phạm tội phát triển lệch lạc khác với ở con
người bình thường trong xã hội:
+ thế giới quan của người phạm tội được hình thành trên cơ sở quan niệm, quan
điểm, nhận thức lệch lạc, sai trái như tơn thờ chủ nghĩa vật chất ích kỷ, mang
nặng chủ nghĩa cá nhân.
+ niềm tin của người phạm tội đã mất hết ý nghĩa đúng đắn và thiêng liêng giữa
con người với nhau: họ khơng cịn tin ai (kể cả ruột thịt), chỉ tin vào sức mạnh
bạo lực, sức mạnh đồng tiền
2.2. Năng lực của người phạm tội
– Năng lực của cá nhân phát triển theo chiều hướng để đạt hiệu quả trong hoạt
động tội phạm, cho nên năng lực của người phạm tội phát triển ở cả những lĩnh
vực liên quan tới hoạt động phạm tội. Đối với hoạt động phạm tội thì kỹ năng, kỹ
xảo phạm tội rất phát triển, vì thế những hành vi phạm tội được thực hiện chuẩn
xác, mau lẹ, kín đáo và thuần thục
– Do bị chi phối bởi xu hướng của hành động phạm tội, nên ở người phạm tội
thường phát triển năng lực với các kỹ năng, kỹ xảo hành động phạm tội.
– Tùy theo từng loại tội phạm cụ thể, ở người phạm tội phát triển các thuộc tính,
các kỹ năng phù hợp, cấu thành năng lực chuyên biệt giúp họ thực hiện các hành
động phạm tội cụ thể
7
2.3. Tình cảm và ý chí của người phạm tội
– Tình cảm và ý chí của người phạm tội thường nghèo nàn, các tình cảm cao cấp
như tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ và tình cảm trí tuệ kém phát triển.
Trong đó, tình cảm đạo đức bị suy thoái nghiêm trọng, mất chức năng động cơ
thúc đẩy các hành vi xã hội và hoạt động tích cực của con người. Cái thiện bị
thay thế dần dần bởi cái ác, các phẩm chất ý chí tích cực ở người phạm tội kém
phát triển bị lấn át bởi các phẩm chất ý chí tiêu cực
– Tuy nhiên trong các hành động phạm tội, ở các đối tượng phạm tội luôn thể
hiện tính mục đích cao, tính quyết đốn, sự kiên trì và nỗ lực ý chí lớn
2.4. Tính cách của người phạm tội
– Tính cách của người phạm tội, nhất là của những đối tượng phạm tội chuyên
nghiệp, tái phạm nguy hiểm thường bao gồm các nét xấu xa, tiêu cực.
– Thái độ của người phạm tội đối với xã hội thường là lệch lạc, họ chà đạp lên đạo
đức và dư luận xã hội, bị chi phối và điều chỉnh bởi các mục đích phản xã hội,
sống bng thả, tự do, coi thường đạo đức, coi thưởng pháp luật, sẵn sàng chà
đạp lên dư luận, bất chấp lẽ phải, kỷ cương.
– Tính cách của người phạm tội là kết quả của quá trình thực hiện các hoạt động
phạm tội (thể hiện rõ nhất ở “tội phạm chuyên nghiệp”). Cho nên ở người phạm
tội, sự “bình tĩnh” mang tính chất thủ đoạn nhằm tránh tội khi khai báo, “bản
lĩnh” mang nặng tính chất lì lợm nhằm hạn chế đến mức tối đa những sơ hở trong
quá trình “hành nghề”. Những “tính cách giả” xuất hiện ở cá nhân khi mới gia
nhập nhóm khơng chính thức tiêu cực tới cá nhân trong 1 thời gian dài.
2.5. Khí chất của người phạm tội
– Trong quá trình thực hiện phạm tội với những tình huống “căng thẳng” cản trở
việc thực hiện mục đích, nhiều cá nhân phải “điều tiết” liên tục hệ thần kinh, khí
chất vốn có của mình cho phù hợp với hiện thực. Bởi thế có những trường hợp
người phạm tội lại có những hành vi “hình như khác xa với hành vi bản tính”
thường ngày.
——————3. Các kiểu nhân cách người phạm tội
– Cách thứ nhất, theo A.I.Đơngơva, có 3 loại:
+ Loại hình nhân cách phạm pháp có hệ thống: khơng chỉ lợi dụng hồn cảnh mà
cịn tự bản thân tạo ra hoàn cảnh, vượt qua mọi trở ngại để thực hiện âm mưu tội
lỗi. Ở họ, hành vi phạm tội đã trở thành thói quen.
+ Loại hình nhân cách phạm pháp do chuẩn mực đạo đức, pháp luật lỏng lẻo:
8
+ Loại hình nhân cách bối cảnh: hành vi phạm tội xảy ra trong hoàn cảnh xung
đột
– Cách thứ hai, căn cứ vào mức độ của những đặc điểm, phẩm chất tâm
lý tiêu cực để phân loại về nội dung:
+ nhân cách tội phạm tồn thể: có thái độ xấu với xã hội, hành vi phạm tội được
định hình, cuộc sống khơng ngồi tội phạm, thường xun gắn liền với tính tốn
và hoạt động phạm tội (gọi là tội phạm chuyên nghiệp)
+ nhân cách tội phạm cục bộ: có sự phân đơi các phẩm chất, vừa có những phẩm
chất hợp chuẩn, vừa có những phẩm chất khơng hợp chuẩn (thường thấy ở tội
phạm tham ô, hối lộ, buôn lậu, …)
+ nhân cách tội phạm tiểu cục bộ: có một số phẩm chất tiêu cực mà trong tình
huống nhất định đã thúc đẩy cá nhân phạm tội (VD ghen tuông, xúc phạm nhau
dẫn đến phạm tội)
– Cách thứ ba, căn cứ theo khách thể bị xâm hại và đặc điểm hành vi
phạm tội:
+ nhân cách người phạm tội vụ lợi: thể hiện rõ tính vụ lợi trong hoạt động, giao
tiếp, quan hệ, ứng xử hàng ngày
+ nhân cách người phạm tội bạo lực: tính ích kỷ cao, khơng có thái độ dung hịa
khi lợi ích cá nhân bị va chạm, tính quyết đoán cao, nhân tâm, tàn bạo, coi
thường người khác, thường sử dụng bạo lực trong giải quyết xung đột, mâu thuẫn
+ nhân cách người phạm tội vụ lợi – bạo lực: có sự pha trộng, kết hợp của 2 nhân
cách trên
– Cách thứ tư, căn cứ vào ý thức trong hoạt động phạm tội:
+ nhân cách người phạm tội chuyên nghiệp, tái phạm: coi thường pháp luật,
hành vi phạm tội ln được tiến hành một cách thuần thục; có sự rối loạn, lệch
lạc tâm lý
+ nhân cách người phạm tội vơ ý: khơng có động cơ, mục đích phạm tội; tuy
nhiên thiếu tự giác, thiếu tuân thủ kỷ luật, kém kiềm chế ==> dẫn đến sự chủ
quan, cẩu thả, lệ thuộc vào tình huống ==> vi phạm các quy tắc phịng ngừa,
khơng nhận thấy hậu quả tiêu cực có thể xảy ra. Cũng có thể hành động phạm
tội trong tình trạng vơ ý, bất cẩn, hoặc có sự q tải về tâm sinh lý hay cảm xúc
tiêu cực
4. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành nhân cách người phạm tội
– Từ một người bình thường trở thành 1 người phạm tội ít khi là hiện tượng bất
ngờ mà thường là q trình suy thối nhân cách. Có 2 quy luật cửa sự suy thoái
nhân cách:
+ Sự phát triển tâm lý hành vi tiêu cực theo hướng dao động dần
9
+ Sự phát triển tâm lý hành vi tiêu cực theo tuyến
– Sự suy thoái nhân cách người phạm tội có thể theo 1 hoặc cả 2 quy luật trên,
nhưng thường cả 2 quy luật đan xen tác động
4.1. Các yếu tố bẩm sinh di truyền
– Yếu tố bẩm sinh di truyền có vai trị là cơ sở, là tiền đề vật chất cho sự hình
thành và phát triển nhân cách nói chung và nhân cách người phạm tội nói riêng.
Chính những đặc điểm tâm lý này dưới ảnh hưởng của môi trường xã hội và trong
những điều kiện nhất định có thể nảy sinh thành động cơ và chi phối hành vi
phạm tội của con người
4.2. Các yếu tố xã hội
– Ảnh hưởng của khiếm khuyết trong môi trường nhỏ hẹp (gia đình, lớp học, nhà
trường, nhóm bạn bè, …)
– Những thiếu sót trong hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội (chính trị,
kinh tế, văn hóa, mơi trường sống)
4.3. Những thiếu sót trong q trình xã hội hóa cá nhân
– Q trình xã hội hóa cá nhân được điều chỉnh bằng các quy phạm PL. Quá trình
này rất phức tạp, kéo dài trong cả đời người và được biểu hiện qua các mặt cơ
bản sau:
+ thực hiện vai trò xã hội
+ tiếp thu kinh nghiệm xã hội
+ thực hiện hệ thống giao tiếp
+ thích nghi xã hội
– Mặc dù q trình xã hội hóa cá nhân được NN, XH quan tâm và điều chỉnh, tuy
nhiên vẫn tồn tại những thiếu sót, lệch lạc nhất định, và chúng là nguyên nhân
nảy sinh các phẩm chất tiêu cực của cá nhân, từ đó ảnh hưởng đến sự hình thành
nhân cách người phạm tội.
a. Những thiếu sót khi thực hiện vai trò xã hội
– Đặc biệt là vai trò trong hoạt động nghề nghiệp, có thể do các nguyên nhân:
+ Cá nhân khơng có đủ những phẩm chất tâm lý cần thiết mà vai trò xã hội đòi
hỏi ở họ
+ Cá nhân khơng có đủ tri thức, kỹ năng, kỹ xảo cần thiết để hồn thành vai trị
xã hội
+ Cá nhân khơng ý thức được đầy đủ hoặc có khái độ tiêu cực đối với vai trò xã
hội của bản thân
10
– Những thiếu sót này dẫn tới làm giảm tính tích cực của cá nhân khi thực hiện
vai trị xã hội ==> khơng chú ý đến cơng việc của mình, không sáng tạo, cẩu
thả, thờ ơ ==> coi nhẹ trách nhiệm của bản thân, nảy sinh tính vơ kỷ luật, thiếu
ý thức lao động, lười biếng, …
b. Những thiếu sót trong quá trình tiếp thu kinh nghiệm xã hội
– Những nguyên nhân:
+ cá nhân không tự giác tiếp thu kinh nghiệm xã hội
+ thiếu sót trong kinh nghiệm xã hội của nhóm, tập thể ảnh hưởng trực tiếp đến
việc tiếp thu kinh nghiệm của cá nhân
+ do cá nhân chỉ quan tâm tiếp thu những kinh nghiệm nhằm đáp ứng nhu cầu
của bản thân ==> dẫn đến hệ thống kinh nghiệm của cá nhân không đầy đủ,
phiến diện
– Từ những thiếu sót trên dẫn cá nhân đến việc khơng thực hiện được vai trị xã
hội của mình, khơng thể tham gia tích cực vào đời sống xã hội, làm hạn chế các
mối quan hệ giữa cá nhân với xã hội, làm nảy sinh tích ích kỷ, hẹp hịi, chủ nghĩa
cá nhân
c. Những thiếu sót trong thực hiện hệ thống giao tiếp
– Nguyên nhân:
+ do hệ thống giao tiếp không thực hiện đầy đủ chức năng của mình. VD trong
tập thể thiếu sự phê bình, tự phê bình
+ giao tiếp trong nhóm có mục đích chống đối xã hội nằm thỏa mãn những nhu
cầu không lành mạnh, không phù hợp với các chuẩn mực xã hội
– Những thiếu sót đó phá vỡ những quan hệ giao tiếp tốt đẹp sẵn có, củng cố thể
những phẩm chất tâm lý tiêu cực như chủ nghĩa cá nhân, bất mãn với xã hội, đưa
con người đến chỗ phủ nhận các chuẩn mực xã hội, làm tích cực hóa hành vi
phạm tội.
d. Những thiếu sót trong q trình thích nghi xã hội
– Q trình thích nghi xã hội phụ thuộc vào :
+ mức độ và tốc độ biến đổi của xã hội
+ đặc điểm tâm lý của cá nhân như khí chất, tính cách, xu hướng, năng lực
+ ý chí, kiến thức, hiểu biết của cá nhân
– Những thiếu sót trong q trình thích nghi xã hội làm cho cá nhân khơng thể
thích nghi với điều kiện mới, làm xuất hiện thêm những bất đồng và mâu thuẫn
giữa cá nhân với xã hội ==> dẫn đến hành vi chống đối xã hội của cá nhân.
11
12
Vấn đề 3: Phân tích tâm lý hành vi phạm tội
1. Nguyên nhân tâm lý xã hội của hành vi phạm tội
1.1. Hành vi phạm tội
– Khái niệm: Hành vi phạm tội là 1 hành động có ý thức của 1 con người cụ thể
xâm hại đến các quy định chung mà pháp luật nghiêm cấm được thể hiện rõ
trong Bộ luật hình sự.
1.2. Nguyên nhân tâm lý xã hội của hành vi phạm tội
– Là tập hợp các đặc điểm tâm lý tiêu cực, hình thành và phát triển do hậu quả
của những điều kiện xã hội không thuận lợi trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ
thể là nguyên nhân đưa con người đến chỗ phạm tội.
==> nguyên nhân tâm lý xã hội của hành vi phạm tội được thể hiện qua 2 nhóm:
+ đặc điểm tâm lý tiêu cực
+ điều kiện và hồn cảnh cụ thể
– Q trình xã hội hóa cá nhân là q trình 1 con người cụ thể chuyển biến thành
1 thành viên của xã hội hiện tại, tiếp nhận, kế tục và phát triển các giá trị văn
hóa xã hội, các quy phạm đạo đức xã hội cũng như lĩnh hội ngôn ngữ và các kỹ
năng thiết yếu trong sự tác động giữa cá nhân và xã hội.
1.3. Các nguyên nhân hình thành đặc điểm tâm lý tiêu cực trong tâm lý
nhân cách
a. Quá trình thực hiện vai trị xã hội
– Cá nhân khơng có đủ các phẩm chất tâm – sinh lý mà vai trò xã hội của họ đòi
hỏi: chán nản, chây lười, thụ động trong cơng việc
– Cá nhân có thái độ tiêu cực đối với vai trò xã hội của bản thân: thái độ vô trách
nhiệm với công việc, lạm dụng quyền hạn của mình vì lợi ích cá nhân, làm giảm
tính tích cực và tính sáng tạo của họ trong cơng việc, nảy sinh tính vơ kỷ luật và
thiếu ý thức trách nhiệm
b. Quá trình tiếp thu kinh nghiệm xã hội
– Cá nhân khơng tích cực, khơng tự giác tiếp thu kinh nghiệm xã hội: lệch lạc
trong nhận thức, thái độ và hình thành những đặc điểm tâm lý tiêu cực ở cá nhân
– Trong các kinh nghiệm mà cá nhân tiếp thu có những khiếm khuyết lệch lạc
nhất định
– Cá nhân chỉ quan tâm tiếp thu những kinh nghiệm mà nhờ đó có thể thỏa mãn
nhu cầu của bản thân
c. Hệ thống giao tiếp
13
– Các quan hệ giao tiếp cơ bản trong đời sống và hoạt động của cá nhân không
thực hiện được đầy đủ chức năng của mình
– Cá nhân tham gia vào các quan hệ giao tiếp ở những nhóm khơng chuẩn mực,
có hoạt động khơng lành mạnh, có mục đích chống đối xã hội: hình thành ở cá
nhân những lệch lạc trong chuẩn mực đạo đức và hành vi, làm hình thành những
quan điểm sống và định hướng giá trị tiêu cực
d. Quá trình kiểm tra xã hội
– Nguyên nhân khách quan là những yếu tố, những sự kiện xảy ra trong đời sống
xã hội, ngoài ý muốn chủ quan của cá nhân như: thiên tai, hỏa hoạn, chiến tranh,
… làm cho NN và XH khơng thể duy trì chế độ kiểm tra ở mức độ bình thường.
– Nguyên nhân chủ quan: tồn tại trong nhận thức, đánh giá của cá nhân
e. Q trình thích nghi xã hội
– Sự thích nghi của xã hội phụ thuộc vào:
+ mức độ biến đổi của môi trường xã hội
+ đặc điểm tâm lý của cá nhân: khí chất, tính cách, xu hướng, thói quen, năng
lực, tình cảm, …
+ nhận thức và thái độ của cá nhân đối với sự thay đổi của môi trường xã hội
– Cá nhân khơng thích nghi: sự mâu thuẫn, bất đồng với xã hội, làm giảm ý thức
PL của cá nhân
——————–
2. Cấu trúc tâm lý của hành vi phạm tội
2.1. Nhu cầu và lợi ích
a. Nhu cầu
– Nhu cầu là trạng thái thiếu thốn về cái gì đó và cịn người phải tìm cách hành
động để bù đắp.
– Nhu cầu là cội nguồn, là nguyên nhân sâu xa bên trong của hành vi của con
người. Mọi hành động của con người đều trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến sự
thỏa mãn nhu cầu.
– Nhu cầu của con người xuất hiện, phát triển trong quá trình sống và hoạt động
của con người, chịu ảnh hưởng của các mối quan hệ xã hội.
– Nhu cầu của người phạm tội có nhiều điểm khác biệt so với nhu cầu của người
bình thường, thường có những đặc trưng sau:
+ tính nghèo nàn, hạn hẹp của hệ thống nhu cầu
14
+ sự đòi hỏi quá cao của các nhu cầu mức độ thấp (nhu cầu sinh lý, nhu cầu vật
chất)
+ tính suy đồi và thiếu lành mạnh
– Chú ý: khơng tồn tại nhu cầu phạm tội. Một người bị coi là phạm tội khơng phải
vì người đó cần phải thỏa mãn nhu cầu nào đó của mình, mà bởi vì họ đã lựa
chọn phương thức thỏa mãn nó bằng việc thực hiện 1 hành vi nguy hiểm cho xã
hội, trong khi họ có đủ điều kiện để quyết định 1 hành vi khác phù hợp với chuẩn
mực xã hội.
==> do đó sự lựa chọn phương thức hành động được quy định không phải bởi
nhu cầu, mà bởi các đặc điểm nhân cách của con người.
b. Lợi ích
– Lợi ích là sự nhận thức nhu cầu và so sánh nó với những điều kiện và cơng cụ
thực hiện đang có.
– Lợi ích con người thể hiện ở mối quan hệ của cá nhân với điều kiện hiện tại, với
cái ước muốn ở kế hoạch hoạt động sống của nó trong tương lai.
2.2. Động cơ, mục đích, ý đồ phạm tội
a. Động cơ phạm tội
– Động cơ phạm tội là các yếu tố tâm lý bên trong thúc đẩy người phạm tội thực
hiện hành vi phạm tội. VD thù hằn cá nhân có thể đưa đến hành vi cố ý gây
thương tích, giết người
– Động cơ phạm tội là nguyên nhân bên trong, trực tiếp đưa con người đến quyết
định thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, biểu hiện mức độ nguy hiểm cho xã
hội của hành vi và của nhân cách người phạm tội.
– Nếu phạm tội với lỗi cố ý thì ln tồn tại động cơ phạm tội, nếu phạm tội với lỗi
vơ ý thì chỉ tồn tại động cơ ứng xử, khơng đóng vai trị thúc đẩy hành vi phạm tội
– Chú ý: động cơ và hành vi do nó thúc đẩy có thể khơng cùng tính chất. Một
động cơ tốt cũng có thể dẫn đến hành vi phạm tội. VD vì bảo vệ cho con mình
mà đánh đến mức gây thương tích cho con nhà khác
b. Mục đích phạm tội
– Là kết quả mà người phạm tội mong muốn đạt được bằng việc thực hiện hành
vi phạm tội.
– Không phải hành vi phạm tội nào cũng có mục đích phạm tội. VD phạm tội do
lỗi vơ ý
– Mục đích được xác định trên cơ sở động cơ. Trong thực tế thường khó phân biệt
động cơ và mục đích, tuy nhiên chúng là 2 hiện tượng tâm lý khác nhau:
+ chức năng chủ yếu của động cơ là động lực thúc đẩy hành vi
15
+ chức năng chủ yếu của mục đích là định hướng và điều khiển hành vi
Từ 1 động cơ, con người có thể đặt ra nhiều mục đích, và ngược lại 1 mục đích có
thể được xác định trên cơ sở của nhiều động cơ thúc đẩy khác nhau
– Mục đích phạm tội biểu hiện mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm
tội.
c. Mối quan hệ giữa động cơ và mục đích phạm tội
– Việc lựa chọn mục đích là do động cơ quyết định
– Động cơ là động lực thúc đẩy hành vi cá nhân
– Động cơ và mục đích phạm tội có mối quan hệ chặt chẽ với nhau: nhờ động cơ
thúc đẩy nên người phạm tội mới hành động quyết liệt để đạt mục đích
– Động cơ và mục đích đơi khi được dùng thay thế cho nhau
– Tất cả phạm tội cố ý đều do động cơ nhất định thúc đẩy. Chỉ có trường hợp
phạm tội vơ ý do cẩu thả thì mới khơng có động cơ rõ ràng
2.3. Quyết định thực hiện hành vi phạm tội
– Sau khi đã có động cơ, mục đích và lập kế hoạch thực hiện, người phạm tội
thường cân nhắc 1 lần nữa: có thực hiện hành vi phạm tội không ?
– Quyết định thực hiện hành vi phạm tội là sự lựa chọn cuối cùng của người phạm
tội về mục đích, phương án phương tiện phạm tội, thể hiện ý chí và lý trí của
người phạm tội, thái độ của họ đối với hành vi phạm tội và hậu quả của nó
– Quyết định thực hiện hành vi phạm tội có thể là quyết định có cơ sở, hợp lý, tối
ưu hoặc là quyết định nông nổi, manh động, thiếu cơ sở
2.4. Phương thức thực hiện hành vi phạm tội
– Là dấu hiệu cơ bản để đánh giá về tội phạm.
– Làm rõ phương thức thực hiện hành vi phạm tội cho thấy tội phạm được thực
hiện do cố ý, được chuẩn bị trước hay bất ngờ, cái gì được sử dụng, tính chất và
mức độ nguy hiểm của hành vi
2.5. Điều kiện, hoàn cảnh phạm tội
– Là điều kiện, hồn cảnh cụ thể về khơng gian, thời gian và những sự kiện có
liên quan xảy ra trong tình huống cá nhân thực hiện hành vi phạm tội
– Vai trị của điều kiện, hồn cảnh bên ngồi thể hiện ở chỗ: hoặc kích thích, hoặc
cản trở con người thực hiện hành vi phạm tội
– Sự thay đổi của điều kiện, hồn cảnh bên ngồi có thể làm thay đổi ý đồ của
người phạm tội và làm xuất hiện ý đồ mới
* Tóm lại: cấu trúc tâm lý của hành vi phạm tội gồm:
16
Nhu cầu vụ lợi, lợi ích hẹp hịi
==> Mục đích, động cơ, ý đồ phạm tội
==> Hình thành quyết định và chương trình định hướng hành vi
==> Điều kiện khách quan của hành vi
==> Thực hiện hành vi phạm tội
==> Hậu quả tâm lý của hành vi phạm tội
3. Hậu quả tâm lý của hành vi phạm tội
3.1. Trạng thái tâm lý
– Sau khi thực hiện hành vi phạm tội, trạng thái tâm lý của người phạm tội
thường có xu hướng trở nên căng thẳng và phức tạp. Điều này xảy ra do nhiều
nguyên nhân khác nhau:
+ sự xuất hiện của những xúc cảm căng thẳng, những ấn tượng, ám ảnh ở người
phạm tội. Vì trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội không
chỉ hành động mà còn tri giác về diễn biến và hậu quả của nó, VD người phạm tội
thường xuyên nhớ lại, ám ảnh bởi những hành vi đã thực hiện ==> gây ra những
cảm xúc nặng nề như ghê rợn, sợ hãi, căng thẳng
+ người phạm tội nhận thức dược ý nghĩa và hậu quả của hành vi phạm tội, họ
có thể có những ăn năn, hối hận
+ người phạm tội lo lắng cho sự an toàn của bản thân, lo sợ bị phát hiện và trừng
trị
+ sự hoạt động tích cực của tư duy để tìm cách đối phó với cơ quan điều tra,
hòng che dấu hành vi phạm tội: khi thấy hành vi của mình chưa bị lơi ra ánh
sáng, người phạm tội hy vọng rằng họ có thể lẩn tránh được sự phát hiện và
trừng trị của PL ==> họ tìm mọi cách để che dấu và lẩn trốn, họ cố gắng lý giải
các tình huống nếu bị hỏi đến, ln phán đốn, nhận định về hoạt động của cơ
quan điều tra ==> dẫn đến người phạm tội luôn căng thẳng
3.2. Hành vi
– Xuất phát từ sự căng thẳng tâm lý, hành vi của người phạm tội thường có
những biểu hiện:
+ hành vi của người phạm tội trở nên thụ động, họ dễ bị kích động, khơng làm
chủ được bản thân
+ người phạm tội có thể tìm đến những hình thức như sử dụng các chất kích
thích (rượu, ma túy, …) hoặc tìm cảm giác mạnh ở các trị tiêu khiển
+ người phạm tội có xu thế muốn tìm hiểu, thăm dị các thơng tin về q trình
điều tra. Thông thường sau khi gây án, người phạm tội thường rời bỏ địa bàn cư
trú để lẩn trốn, nghe ngóng động tĩnh
17
+ người phạm tội có sự mâu thuẫn trong xu hướng hành vi: một mặt họ muốn
đầu thú vì biết rằng khơng sớm thì muộn cũng sẽ bị phát hiện và bị trừng phạt,
một mặt họ lại muốn lẩn trốn với hy vọng mong manh rằng hành vi của mình sẽ
không bị phát hiện
– Nếu người phạm tội không bị phát hiện hoặc khơng bị trừng trị nghiêm khắc thì
họ sẽ trở nên chai dạn, kinh nghiệm và nguy hiểm hơn cho xã hội
3.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành hành vi người phạm tội
– Các yếu tố bẩm sinh di truyền
– Các yếu tố xã hội ảnh hưởng đến sự hình thành hành vi phạm tội
——————-
18
Vấn đề 4: Tâm lý nhóm tội phạm
1. Khái niệm và đặc điểm tâm lý của nhóm tội phạm
1.1. Khái niệm
– Khái niệm: Nhóm tội phạm là tập hợp người có sự liên kết, phân cơng, phối hợp
hoạt động với nhau do 1 hoặc 1 số cá nhân thành lập, điều khiển 1 cách có kế
hoạch, thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
– Nhóm tội phạm có cấu trúc thứ bậc và có sự cấu kết chặt chẽ. Trong nhóm có
sự phân cơng rõ ràng, mỗi thành viên có vai trị, nhiệm vụ cụ thể. Nhóm tội phạm
là tiền đề hình thành hành vi phạm tội có tổ chức
– So với cá nhân thì hành vi của nhóm tội phạm nguy hiểm hơn.
1.2. Đặc điểm tâm lý của nhóm tội phạm
– Nhóm tội phạm bao gồm các thành viên có tâm thế chống đối các chuẩn mực
XH, thường có các đặc điểm tâm lý tiêu cực trong nhân cách
– Trong nhóm tội phạm có tinh thần đồn kết, sự tiếp xúc cá nhân khá ổn định, có
định hướng giá trị chung
– Trong nhóm tội phạm, sự lan nhiễm tâm lý chống đối, tính tích cực và quyết liệt
hành động được tăng cường
– Nhóm tội phạm là tổ chức bí mật, khép kín, bất hợp pháp (kể cả núp dưới danh
nghĩa 1 tổ chức hợp pháp). Tổ chức hoạt động rõ ràng, chặt chẽ, có người cầm
đầu, chỉ huy, có kỷ luật riêng được quy ước bằng miệng hay bằng văn bản
– Hoạt động mang tính hệ thống, có sự chỉ huy thống nhất, mục đích cuối cùng là
thu được lợi ích bất chính
– Những tên cầm đầu ln tìm mọi cách tạo vỏ bọc kín để chỉ huy các thành viên
hoạt động phạm tội
– Đa số các nhóm tội phạm có cấu trúc thứ bậc rõ ràng với vai trị, vị trí cụ thể
đối với mỗi thành viên, gồm:
+ đối tượng cầm đầu chỉ huy
+ đối tượng tay chân, cốt cán
+ những đối tượng tham gia khác
2. Các loại nhóm tội phạm
Chia làm 3 loại:
+ nhóm tội phạm tạm thời
+ nhóm tội phạm đơn giản
+ nhóm tội phạm có tổ chức
19
2.1. Nhóm tội phạm tạm thời
– Là nhóm được hình thành theo tình huống và bắt nguồn từ nhóm mang tính
chất chơi bời, bạn bè bình thường
– Đặc trưng của nhóm là sự lệch lạc trong chuẩn mực sinh hoạt của nhóm và
trong hành vi của các thành viên
– Nhóm này có mức độ cố kết thấp, thực hiện tội phạm khơng có sự thỏa thuận
trước, xuất hiện ngẫu nhiên, thường trong hồn cảnh bất ngờ
– Khơng có cấu trúc tâm lý, vai trò của người đứng đầu chưa thể hiện rõ. Việc ra
quyết định của các đối tượng chịu ảnh hưởng của tình huống ngẫu nhiên, do tác
động của cảm xúc
2.2. Nhóm tội phạm đơn giản
– Là nhóm mà quan hệ giữa các thành viên là nhất thời, tổ chức thiếu chặt chẽ,
với số lượng khơng nhiều.
– Khơng có cấu trúc phức tạp giữa những người phạm tội, nhưng có sự bí mật cấu
kết và có sự thỏa thuận sơ bộ từ trước để cùng nhau thực hiện tội phạm.
– Thành phần tội phạm thường là những tên có nhiều tiền án, tiền sự, tính tình
thơ bạo, tàn ác, cơn đồ, trình độ văn hóa thấp, khơng có cơng ăn việc làm, hoặc
làm lao động đơn giản, có mức thu nhập thấp
2.3. Nhóm tội phạm có tổ chức
– Là nhóm tội phạm đặc trưng bởi sự bền vững trong quan hệ, liên hệ giữa các
đối tượng, sự định hình các phương thức hoạt động và che dấu hành vi phạm tội
– Nhóm tội phạm có tổ chức chia làm 3 loại:
+ nhóm tội phạm có tổ chức ổn định, phức tạp
+ nhóm tội phạm có tổ chức cao, chặt chẽ
+ cộng đồng tội phạm, liên minh các nhóm tội phạm có tổ chức
– Tội phạm có tổ chức cao: thường xuất hiện ở các thành phố có nền cơng
nghiệp, dịch vụ, du lịch phát triển, tại các địa bàn có khai thác khống sản (nơi
có nhiều người lao động các nơi về làm thuê). Đây là những tổ chức tội phạm
hoạt động bí mật, khép kín với cơ cấu tổ chức rõ ràng với 2 hoặc 3 cấp, có mục
tiêu hoạt động lâu dài và bền vững.
– Nhóm tội phạm có tổ chức cao bao gồm tất cả các thành viên đặc trưng bởi ý
thức phạm tội, là loại nhóm tội phạm nguy hiểm nhất cho xã hội.
– Tính chất nguy hiểm của tội phạm có tổ chức là cao hơn so với tội phạm cá
nhân, vì trong điều kiện của nhóm có thuận lợi về tâm lý, có sự gia tăng quyết
tâm phạm tội ở những phần tử hay dao động do ảnh hưởng của các thành viên
20
khác, tăng cường khả năng lôi cuốn những thành viên mới vào hoạt động tội
phạm. (==> chính là sự lây lan tâm lý)
– Trong điều kiện hiện nay, nhiều tổ chức tội phạm hoạt động xuyên quốc gia,
câu kết kết với các tổ chức tội phạm nước ngoài, , lũng đoạn chính quyền theo
kiểu mafia, xã hội đen. Các nhóm gián điệp, phản động trong và ngoài nước được
lập ra để tập hợp lực lượng, thực hiện các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia,
đây là các nhóm tội phạm có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, cùng chung ý đồ hoạt
động xâm phạm an ninh quốc gia, có phương thức, thủ đoạn hoạt động tinh vi,
xảo quyệt, có sự cấu kết, liên hệ với các tổ chức chống đối khác.
– Nhóm tội phạm có tổ chức ở mức cao hoạt động theo kiểu “xã hội đen” thường
có 1 tên đứng đầu gọi là ông trùm (boss), thủ lĩnh, đại ca, băng trưởng, … Đó
thường là tên có đầu óc tổ chức, có hiểu biết khá rộng (về luật pháp, về xã hội,
…) và mối quan hệ rộng rãi trong xã hội, có quá khứ “oanh liệt” trong giới giang
hồ hoặc các “thế giới ngầm”. Thủ lĩnh quyết định mọi hoạt động của tổ chức tội
phạm. Thủ lĩnh rất ít khi trực tiếp tham gia vào việc gây án, mà điều hành thông
qua chỉ huy hoặc tay chân, do đó rất ít có nguy cơ sa lưới pháp luật.
– Ở cấp chỉ huy, mỗi tổ chức tội phạm cao có nhiều nhóm, mỗi nhóm lại có 1
hoặc 2 chỉ huy do thủ lĩnh trực tiếp chỉ định, những tên này điều hành các hoạt
động cụ thể của các tổ, nhóm theo lệnh của thủ lĩnh và có trách nhiệm báo cáo
thủ lĩnh về mọi hoạt động của các thành viên trong nhóm, thu tiền kiếm được
nộp cho chỉ huy.
3. Đặc điểm tâm lý của thủ lĩnh nhóm tội phạm
– Thủ lĩnh là người có kinh nghiệm, có bản lĩnh thực hiện và che dấu tội phạm
hơn các thành viên khác
– Thủ lĩnh quyết định phương thức hoạt động phạm tội, tổ chức điều khiển các
thành viên trong nhóm hành động và phân chia kết quả thu được
– Thủ lĩnh có độ ám thị cao (ám thị là q trình tác động một cách trực tiếp hoặc
gián tiếp lên tâm lý con người nhằm mục đích điều khiển họ thực hiện những yêu
cầu nhất định), do đó làm giảm trạng thái hồi hộp, lo lắng, căng thẳng khi cá
nhân tiến hành hoạt động phạm tội, làm tăng tính quyết đốn của những phần tử
còn dao động, chần chừ
– Thủ lĩnh thường là đối tượng chủ mưu và giữ vị trí chỉ huy trong việc thực hiện
hành vi phạm tội
4. Đặc điểm tâm lý của người chưa thành niên phạm tội
– Ở VN, người chưa thành niên phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi
có hành vi phạm tội
– Về trí tuệ: so với trẻ em bình thường, người chưa thành niên phạm tội chậm
phát triển hơn về trí tuệ, tư duy trừu tượng kém, nặng về tư duy cụ thể, khơng
biết phân tích, đánh giá đúng hiện tượng
21
– Về hứng thú: thường thiên về ham muốn vật chất, khơng có có hứng thú học
tập, thích đua địi, ăn chơi như người lớn
– Về tình cảm: thiếu bền vững, dễ dàng thay đổi nhưng lại rất mạnh mẽ, trong
nhiều trường hợp mang tính cực đoan. Tình cảm mang tính xung động cao, dễ bị
kích động, bồng bột, sơi nổi. Trẻ chưa thành niên phạm tội thường có nhu cầu lớn
trong tình cảm bạn bè, thường thích kết bạn với trẻ em có cùng cảnh ngộ, tình
bạn trở thành tình đồng bọn, dễ thân nhau và cũng dễ phản bội nhau. Trong
nhóm trẻ chưa thành niên, vai trị của “thủ lĩnh” được đặc biệt đề cao và có sức
áp thị lớn.
– Về quan hệ: có xu hướng muốn thốt ly gia đình, trong khi vẫn cịn bị phụ thuộc
vào gia đình ==> rơi vào tình thế xung đột, mâu thuẫn
– Về tính cách: có sự đan xem giữa tính cách trẻ con và người lớn, luôn muốn tự
khẳng định sức mạnh của mình, muốn hoạt động thử sức để chứng minh mình là
người lớn. Có tính độc lập và tự trọng cao, phản ứng cực đoan và mạnh mẽ khi bị
xúc phạm.
– Về ý chí trong tính cách: thích lao vào nguy hiểm để chứng tỏ bản lĩnh của
mình, tỏ ra dũng cảm và liều lĩnh, hành động táo bạo, liều lĩnh và thiếu suy nghĩ.
5. Một số loại trẻ em chưa thành niên có nguy cơ phạm tội
– Trẻ em lang thang: là những trẻ em mà vì những lý do nào đó (chính đáng hay
khơng chính đáng) đã lìa bỏ mái ấm gia đình, sống cuộc đời lang thang. Về cơ
bản đây vẫn là những trẻ em bình thường, khơng phải trẻ em hư hay phạm pháp,
nhưng các em đứng trước những nguy cơ bị lôi kéo, xô dẩy vào những việc làm
sai trái.
– Trẻ em hư: cịn gọi là trẻ khó bảo hay trẻ khó giáo dục, trẻ chậm tiến. Đây là
những đứa trẻ hoàn toàn bình thường, chỉ khác ở chỗ chúng khơng được giáo dục
đầy đủ nên trí tuệ và tư chất khơng được phát triển đúng và hết khả năng của
nó.
– Trẻ em phạm pháp: là trẻ có hành vi vi phạm PL hiện hành (hành chính hay
hình sự) đã hoặc chưa bị phát hiện và xử lý
– Trẻ em bụi đời: là loại trẻ vừa có dấu hiệu của trẻ lang thang đường phố, vừa có
dấu hiệu của trẻ hư
– Trẻ em rối loạn hành vi: vừa có dấu hiệu của trẻ hư, vừa có dấu hiệu của trẻ
phạm pháp
Chú ý: những loại trẻ em trên đây có thể chuyển hóa lẫn nhau:
+ trẻ lang thang ==> trẻ hư ==> trẻ phạm pháp
+ trẻ lang thang + trẻ hư ==> trẻ bụi đời
+ trẻ hư + trẻ phạm pháp ==> trẻ rối loạn hành vi
22
23
Vấn đề V: Cơ sở tâm lý của hoạt động phòng ngừa tội phạm
1. Khái niệm phòng ngừa tội phạm
– Tập trung vào việc hạn chế, tiến gần đến thủ tiêu những hiệ tượng xã hội tiêu
cực là nguyên nhân, điều kiện của tội phạm
– Bằng mọi cách ngăn chặn các tội phạm đang xảy ra, phát hiện kịp thời, xử lý
nghiêm minh các trường hợp phạm tội và cuối cùng là giáo dục, cải tạo người
phạm tội trở thành những cơng dân có ích cho xã hội.
– Định nghĩa: Phòng ngừa tội phạm là hệ thống các quy định, các biện pháp, các
hành động của cá nhân, tổ chức nhằm hạn chế, ngăn chặn tội phạm xảy ra, phát
hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh các tội phạm xảy ra và giáo dục người phạm tội
trở thành người có ích cho xã hội.
2. Một số thuyết tâm lý về phòng ngừa tội phạm
2.1. Quan điểm của phân tâm học truyền thống
– Đại diện: Sigmund Freud
– Quan niệm: bản tính của con người là xấu xa, là thù địch với xã hội, do đó tội
phạm có thể xảy ra ở bất kỳ đâu, ở bất kỳ thời điểm nào và với bất cứ ai
– Phòng ngừa tội phạm bằng cách:
+ tạo các rào cản để các thúc đẩy tội lỗi khơng thể đưa tới hành vi thực tế: hình
phạt, các biện pháp răn đe đủ mạnh, giáo dục đạo đức, các chuẩn mực xã hội
+ tư vấn giúp con người chọn nghề hay các hoạt động phù hợp để giúp giải tỏa
các xung năng
+ tổ chức các hoạt động để con người có thể giải tỏa các xung năng bị dồn nén
hoặc tìm được đối tượng thay thế
+ với người phạm tội, phải phân tích, tìm hiểu ngun nhân sâu xa của hành vi
bất thường của họ và tìm biện pháp điều trị phù hợp
2.2. Quan điểm của tâm lý học nhân văn
– Đại diện: A. Maslow, C. Roger
– Quan niệm: bản tính con người là tốt, con người là hiện thân của cái đẹp, tuy
nhiên họ có thể có hành vi xấu, có thể phạm tội
– Phịng ngừa tội phạm bằng cách:
+ tạo điều kiện thuận lợi để mỗi cá nhân phát triển mọi tiềm năng của mình
+ tạo mơi trường lành mạnh, thể hiện tình thương u, sự quan tâm trong quan
hệ người – người
+ trong giáo dục người phạm tội cần hiểu, gần gũi, quan tâm để cảm hóa họ
24
2.3. Quan điểm của tâm lý học hành vi
– Đại diện: John Broadus Watron
– Quan niệm: bản chất và hành vi con người do môi trường, đặc biệt là môi
trường xã hội quyết định, và hầu hết các hành vi của con người là do tập nhiễm
– Phòng ngừa tội phạm bằng cách:
+ chú trọng đặc biệt đến môi trường xã hội
+ chú trọng đến việc hình thành thói quen tn theo PL
+ kiểm sốt chặt chẽ các tình huống giáo dục
+ tránh xa các tình huống dễ gây cảm xúc
2.4. Quan điểm của tâm lý học nhận thức
– Đại diện: A. Bandura, W. Mischel, J. Rotter
– Quan niệm:
+ con người là 1 hệ thống xử lý thông tin, các sự kiện cung cấp thông tin (đầu
vào), con người xử lý và kết quả là hành vi xảy ra (đầu ra);
+ hành vi phạm tội là kết quả của quá trình học tập xã hội, quá trình quan sát, là
sự mơ phỏng các hành vi mẫu
– Phịng ngừa tội phạm bằng cách:
+ cung cấp thông tin đầy đủ, đúng về các sự kiện xảy ra
+ tạo môi trường lành mạnh
+ xây dựng các hành vi mẫu để tuyên truyền
+ hành vi phạm pháp, phạm tội phải được xử lý nghiêm minh; hành vi tuân theo
PL phải được khen thưởng
2.5. Quan điểm của tâm lý học hoạt động
– Đại diện:
– Quan niệm:
+ nhân cách và yếu tố bên trong quy định hành vi, được hình thành thơng qua
hoạt động trong mơi trường XH
+ hành vi phạm tội là kết quả của sự tác động qua lại giữa nhân cách với những
phẩm chất tâm lý tiêu cực và hồn cảnh, tình huống bên ngồi
– Phịng ngừa tội phạm bằng cách:
25