Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Giới thiệu các công cụ chế biến và vật dụng truyền thống được sử dụng trong ăn uống. Phân tích ý nghĩa các món ăn, đồ uống là vật thờ cúng trong các ngày lễ tết của các dân tộc : Ê đê, Bana, Hoa, Chăm, Khmer

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (74.33 KB, 9 trang )

VĂN HÓA ẨM THỰC VIỆT NAM
A - Giới thiệu các công cụ chế biến và vật dụng truyền
thống được sử dụng trong ăn uống
I. Dụng cụ chế biến:
1. Nồi:

nồi gang ( giúp cơm nấu giữ được mùi, ít khê cháy, giữ cơm được
trắng), xoong( đặc tính là mỏng, dễ chin thức ăn), nồi đất ( giữ đc hương vị
và các chất dinh dưỡng tốt hơn nồi gang và xoong).
2. Chảo gang: giúp phân phối nhiệt tốt, khá lý tưởng trong việc chiên, xào,
nướng, om, rang…
3. Siêu / Ấm đất : thích hợp để đun các loại nước uống giải nhiệt như lá vối,
nhân trần, lá hòe, lá chè tươi…
4. Chõ : thường dùng để đồ xôi, hấp bánh hoặc nấu rượu. Thường xưa kia
nhân dân ta hay sử dụng nồi đất/ nồi gang có chứa nước bên dưới chõ để
cung cấp hơi nước cho thức ăn trong chõ. Để đảm bảo độ kín , khơng để
hơi nước thốt ra ngồi các bà, các mẹ thường trộn cám với nước hòa thành
bột nhão rồi trét vào chỗ nối giữa chõ và nồi. ngày nay đã có các loại chõ
nối liền cả hai phần tiện dụng hơn trước kia. Chõ nấu rượu thì có hình dáng
to hơn, cịn cấu tạo cũng tương tự.
5. Xửng : có hình dáng tựa như chiếc rá đế bằng, thường làm bằng tre hoặc
mây để hấp bánh hoặc có thể đồ xơi.
6. Chày và cối: thường làm bằng đá trắng hoặc bằng gang; chày thường làm
bằng gỗ ( giúp cầm chắc tay, đỡ nặng và giảm tiếng ồn khi va chạm với
cối). cối bằng đá thường nhỏ, dùng để nghiền gia vị như tiêu, tỏi, ớt… còn
cối bằng gang thường to hơn, có thể dùng để giã cua, nghiền rau lấy nước
cốt …vv
Chày và cối đôi khi cịn mang ý nghĩa tâm linh.Có nơi chờ đám rước dâu
về tới đầu ngõ, một người lấy chày giã vào cối đá.
* Giã cối là một tục cổ, có từ thời đại Hùng Vương.
Giã cối cũng là một tục lệ ngày hội.Từng đôi nam nữ cầm chày dài đứng


giã cối trịn.Đó là những chiếc cối rỗng, là một thứ dụng cụ nông nghiệp,
đồng thời là nhạc cụ, và cũng là vật tượng trưng cho sự sinh sôi nảy nở.
Trở thành một tiết mục trong ngày hội lễ, giã cối(và hát) vừa là hình thức
1


biểu diễn và thưởng thức văn nghệ vừa là trò chơi và hình thức giao duyên
nam nữ, vừa mang ý nghĩa cầu mong sinh sản thịnh vượng.
*Chày cối, theo quan niệm dân gian, là hình giống của nam và nữ. Giã
cối, ở một số nơi, cịn có ý nghĩa tượng trưng cho hành động tính giao
7. Niêu : thường làm bằng đất nung, dùng để nấu cơm, kho,om thức ăn
8. Thớt : thường có dạng trịn, làm bằng gỗ nghiến, có độ dày từ 3 đến 5
phân. Ngày nay có nhiều vật liệu để làm thớt hơn như thớt nhựa dùng để
thái rau củ, thớt thủy tinh để thái hoa quả vv, tuy nhiên thớt gỗ vẫn được ưa
chuộng nhất.
9. Dao : có rất nhiều loại dao để chế biến thức ăn.
• Dao đầu bếp: lưỡi dài, thon dần về mũi, lưỡi khá dày, tay cầm rộng. Có
thể sử dụng để thái hầu hết các thứ nhưng phù hợp nhất vẫn là thái raucủ-quả. Đây là con dao linh hoạt nhất trong 1 bếp ăn.
• Dao phay: hay cịn gọi là dao chặt thịt/ xương với lưỡi có bản rộng,
vng
• Dao ba : khá dài. Khoảng 30 đến 40cm, lưỡi mỏng, vng ở đầu và
thon ở cán, thích hợp với việc thái thịt.
• Dao con : thường nhỏ, thích hợp với gọt các loại củ quả, hay tách/ bóc
vỏ hạt, tỏi, hành vv…
• Nạo : Ngồi ra cịn có 1 loại dụng cụ dùng để gọt vỏ, dân gian hay gọi
là cái “ nạo”. thường có cán bằng gỗ, 1 đầu có hai lưỡi lam mỏng dùng
để gọt vỏ củ-quả, một đầu có những hình lỗ nhỏ bằng sắt, dùng để nạo
các loại củ quả thành hình sợi chỉ, thích hợp để chế biến nộm

II.


Dụng cụ sử dụng trong ẩm thực Việt Nam

1. Ăn :
1.1. Bát ( bát đựng nước chấm, bát con, bát tơ)
1.2.
Đũa ( đũa cả, đũa con).
• Đơi đũa: thường làm bằng tre, có nơi làm bằng cây dừa. người Việt
được sử dụng rất linh hoạt như gắp thức ăn, và cơm, xé, xẻ, dầm, quấy,
trộn, vét… và làm vật nối cho cánh tay để gắp những mó ở xa. Trong
tâm thức người việt từ bao đời nay, đôi đũa đã trở thành biểu tượng cho
đôi lứa : “ vợ chồng như đũa có đơi”, hay sự đồn kết cộng đồng : “ so
bó đũa chọn cột cờ” / câu chuyện “ bó đũa”. Do vậy, đơi đũa tuy đơn
giản như thế nhưng vẫn được coi trọng và coi đây là một nét tiêu biểu
độc đáo của văn hóa ẩm thực Việt Nam ( civilization des baguettes).
• Đũa cả: thường được vót bằng tre, có độ to và dài gấp nhiều lần đũa
con, bản dẹt, thường sử dụng để ghế cơm, đơm- xới cơm. Đây là vật
dụng không thể thiếu của những mâm cơm, mặc dù giờ đây nó đã bị
thay thế dần bằng các mi nhựa. Ngoài ra,sử dụng đũa cả bằng tre
đảm bảo độ an toàn thực phẩm hơn các vật dụng bằng nhự (các vật
2


dụng bằng nhựa khi tiếp xúc với nhiệt độ cao đều sản sinh ra những
chất rất có hại cho con người ). Hình ảnh đơi đũa cả cịn xuất hiện trong
những bài mẹo dân gian về chế biến thức ăn, ví dụ ở một số nơi quan
niệm khi nấu dọc mùng phải sử dụng đũa cả để nấu nếu không sẽ gây
ngứa họng( dạng ngộ độc nhẹ đối với người ăn).
1.3. Đĩa: đĩa thuyền, đĩa trịn, đĩa sâu lịng…
1.4. Thìa, Muôi/ Môi

1.5. Âu
Uống: đa số làm bằng gốm
II.1. Ấm
II.2. Chén/ tách/ cốc: riêng chén chia thành chén uống rượu (thường được là
chén hạt mít, có hình dáng rất nhỏ như tên gọi của nó.) và chén uống trà
( to hơn chén hạt mít).
II.3. Tích: thường sử dụng trong các gia đình xưa, dùng để giữ ấm cho trà
hoặc các nước giải nhiệt như lá vối, nhân trần… có dạng như ấm nhưng
to hơn, hình trụ chứ khơng có dáng khum như ấm.
II.4. Chung/vò: thường dùng để đựng rượu, làm bằng sành, có hình dáng
như chiếc chum nhưng nhỏ hơn nhiều.
2.

B - Phân tích ý nghĩa các món ăn, đồ uống là vật thờ cúng
trong các ngày lễ tết của các dân tộc : Ê - đê, Bana, Hoa,
Chăm, Khmer
I - Dân tộc Bana
1. Đồ ăn
1.1. Cơm lam
Đó là món ăn đầu tiên mang đến hương vị ngày tết của người Ba na. Cách nấu
cơm lam của người Ba na khác với các dân tộc thiểu số phía Bắc. Người Ba na
không dùng ống nứa mà họ vào rừng chặt những ống lơ ơ cịn non, giữ lại đầu
mấu ở một đầu ống rồi cho gạo nếp và nước vào. Xong nút lại kéo léo đốt bằng
lửa và than.
Những ống cơm lam của người Ba na bên ngoài tuy cháy đen nhưng bên trong
lại thơm ngon, hấp dẫn.
Nhiều người cho rằng, cơm lam là tên lấy từ ý nghĩa của vỏ ống tre, ống nứa
bên ngồi có màu xanh. Song thực tế thì chữ lam có nghĩa là nướng. Cơm lam
nghĩa là cơm được nướng trực tiếp trên ngọn lửa, một cách cổ sơ. Song đến nay
đã được khoa học chứng minh là một cách làm cơm ưu việt, vì gạo được nấu

trong ống tre bịt kín vẫn giữ nguyên mùi hương và không mất đi chất dinh dưỡng

3


1.2. Cháo
Món cháo hay được nấu trong lễ bỏ mả. Cơm nếp ngâm vài giờ, vớt ra để ráo
rồi mang vào cối giã nhỏ sau đó nấu chín đến khi chá nhuyễn. Cũng có khi người
Bân nấu cháo hoa với muối và bí
1.3. Bánh đót
Người Bana có món bánh đót làm từ gạo nếp tương tự như bánh chưng của
người Việt. Gạo nếp ngâm khoảng 3;4h, vớt ra gói bằng là chuối (hla prit) hoặc lá
lơ pang. Mỗi chiếc bánh chừng nửa bát gạo, k có nhân. Bánh gói xong có hình
khối tam giác bốn mặt. Bánh được đun trong khoảng 2h thì chín. Khi ăn, bánh
được chấm với muối ớt. Bánh đót hay có trong lễ bỏ mả, do người dân trog làng
mang đến đóng góp cho gia chủ.
1.4. Món nướng
Món nướng khơng thể thiếu trong các đám cưới của người Bana vì nó được
dùng để mời bố mẹ của 2 bên nhà trai và nhà gái
Món nướng là món đặc biệt được người Bana rất thích. Họ thường nướng các loại
như thịt trâu, thịt lợn...họ thái mỏng thịt, sau đó xiên vào que rồi đưa lên nướng
trên lửa
1.5. Món thịt tái
Là món dành cho đàn ơng trong những dịp đám thứ. Có 2 cách làm thịt tái.
Cách thứ nhất là trộn thịt thái mỏng với lá me giã nhuyễn và muối ớt, gọi là món
nhâm jâm. Cách thứ 2 là băm nhỏ thịt trộn với bột ngô, muối, ớt, hành, múi tàu,
sả gọi là món canh.
*** Các món ăn phục vụ cho lễ hội cịn có : cơm lồ ơ nếp trắng, cơm lơ nếp
than, thịt heo, bị, trộn đều với gia vị nướng lồ ô, cháo (ta bung) nấu thịt, măng
đắng nấu với cá trên ống lồ ô, gỏi kiến bóp chua với rau rừng; muối giã với mè,

muối giã với lá é và món tráng miệng khoai lang, khoai sắn.
Cách trang trí, bày biện cũng hết sức hấp dẫn, khi các món ăn đã được
nướng, nấu chín, họ trải lá kbang (lá dầu) trên cái nia và đổ thức ăn từ ống lồ ô
lên trên lá. Mỗi một món ăn được sắp đặt trên một cái lá. Các món được trải kín
mặt nia, nhìn vào khá bắt mắt.
Bên cạnh các món ăn đó, người Ba na cịn có một món ăn rất q bắt nguồn từ
sở thích ăn phèo trâu, bị, dê. Họ lấy phần ruột non chứa nước sữa trắng, rồi cột
hai đầu lại luộc chín. Sau đó, thái ra tùng miếng như thái dồi. Phần gần ruột già
thì trộn với thịt cổ hũ, ướp sả, muối, hành.
Theo cách chế biến các món ăn, chúng ta có thể thấy được các nguyên liệu (gia
vị) chế biến các món ăn của người Ba na được sử dụng một cách tương sinh hài
hoà với nhau và thường thuận theo nguyên lý “âm dương phối triển” như món ăn
dễ gây lạnh bụng buộc phải có gia vị cay nóng đi kèm. Rất phù hợp với tiết trời
rừng núi.
Người Ba na khơng có nhiều món ăn mang tính riêng biệt nhưng với với những
nét riêng trong chế biến, người thưởng thức vẫn khơng thể qn được món ăn của
họ.
2. Đồ uống
4


Vào các dịp cúng lễ như nhà rông, cúng nhà mới, cúng máng nước, cúng lúa
hoặc các dịp đám ma, đám cưới, người Bana uống rượu cần. Rượu cần bao gồm
nhiều loại như rượu gạo, rượu kê, rượu ngố, rượu sắn...
Trong các loại rượu, rượu kê là rượu ngon nhất, hút ra cốc có màu vàng của
mật ong, chỉ được dùng trong các lễ cúng của gia đình.
Người Bana uống rượu bằng cách đổ nước lã vào ché và dùng cần hút. Sau
mỗi lần uống cạn nước lại được đổ ngập trong rượu. Người uống phải uống hết
phần nước và rượu đến khi hở mấu cang mới được thôi. Sau mỗi lần uống hết
cang nước lại được đổ ngập cang và uống tiếp đến khi rượu nhạt thì thơi. Nếu

uống rượu trong nhà thì gia chủ sẽ là người uống trước. Nếu uống rượu tại nhà
rơng thì già làng và khách có quyền uống trước. Việc làm rượu cần do người phụ
nữ đảm nhiệm, nhưng việc tổ chức uống rượu lại do đàn ông chủ động

II - Dân tộc Ê - đê
1. Đồ ăn
1.1. Thịt lợn (bao gồm cả đầu, mình, đi, nội tạng), trâu bị: theo quan niệm
truyền thống của người Ê-đê, hiến sinh nhiều súc vật trong các nghi lễ là vinh dự
trọng đại, là mục tiêu mà người ta cần đạt tới để khẳng đinh vị trí xã hội của mình
1.2. Cơm trắng, xơi: dùng trong lễ tết và những khi có khách, mang ý nghĩa
mong muốn luôn no ấm
1.3. Cơm lam dùng trong lễ cúng thần lúa
1.4. Thúng gạo giã: gạo giã trắng tinh được dùng trong lễ cúng hồn lúa
2. Thức uống
2.1. Rượu cần:
Đối với dân tộc Ê-đê, rượu cần gắn với nét tâm linh, gắn với thần linh; sự giao
tiếp giữa con người với thần linh. Trong quan niệm của họ, rượu cần đem lại
niềm vui, sự tốt lành. Khi uống rượu, họ thường tâm sự những điều tốt lành chứ
khơng ăn nói lung tung thô tục
Trong một số nghi lễ như cúng hồn lúa, rượu cần phải pha huyết con vật hiến tế
để làm lễ với niềm tin được chúc phúc, cầu bình an và may mắn cho gia đình.
Đồng thời, rượu cần cũng là để chính thức mở màn cho buổi tiệc mừng

III - Dân tộc Khmer
1. Đồ ăn
1.1. Bún nước lèo cá lóc
Là 1 đặc sản của người Khmer ở Tây Nam Bộ đây là món của người Khmer đã
có từ năm 50 của thế kỷ trước, đặc biệt là vùng Sóc Trăng và Trà Vinh là quê
hương của món bún nước lèo. Nó khơng những là món ăn dân dã mà đã trở
thành một món ăn truyền thống độc đáo của người Khmer trong ngày Tết.

Nguyên liệu chính làm nên món bún nước lèo cá lóc là mắn bị hóc ( 1 loại mắm
đặc trưng của người Khmer) và cả ngãi bún.
Món này rất phổ biến, đặc biệt vào dịp lễ, tết của đồng bào dân tộc Khmer,
trong 03 ngày tết hầu như nhà nào cũng có. Món ăn này có ý nghĩa manng dư ẩm
5


của dân tộc người Khmer thể hiện tinh thần đoàn tụ của người Khmer. Sự đoàn tụ
trong những dịp lễ tết cho mọi gia đình bên tơ bún nước lè cá lóc.
1.2. Bánh cốm dẹp
Bánh cốm dẹp, một món ăn cổ truyền mang tính đặc trưng dân tộc khơng thể
thiếu trong lễ hội Ok om bok ( lễ cúng trăng) của đồng bào dân tộc Khmer Nam
bộ.
Ngày lễ này được tổ chức hàng năm để tỏ lòng biết ơn cho một mùa màng tươi
tốt. Đồng bào Khmer cho rằng, nhờ ơn đức của phật trời nên họ mới có được hạt
cơm, hạt nếp để ni sống gia đình.
Và cũng chính từ những hạt nếp dẻo ngon ấy, đồng bào đã làm ra món cốm
dẹp để đáp tạ trời đất và để dâng tặng cho đời, cho thế hệ tương lai những món ăn
ngon dẻo thơm ấy.Cốm dẹp được làm từ những hạt lúa non mới gặt được giã ra
thơm ngát, khi ăn được trộn thêm ít đường, dừa bào sợi tạo vị vừa ngọt, vừa béo,
vừa thơm rất hấp dẫn.
Bánh có ý nghĩa tượng trưng cho sự ấm no, hạnh phúc, làm ăn thịnh vượng
được mùa của người khmer
1.3. Bánh gừng
Đây là loại bánh truyền thống của dân tộc Khmer Nam bộ, được làm vào dịp lễ
tết cổ truyền của đồng bào Khmer như: Tết Chol Chnam Thmay, lễ Dolta,... hay
đám hỏi, đám cưới. Bánh được trưng trên bàn thờ tổ tiên, với ý nghĩa nhớ đến sự
cực khổ của ông bà ngày xưa đã làm ra hạt lúa, hạt nếp cho con cháu ngày nay.
Trong dịp lễ cưới của người Khmer, bánh gừng là một trong ba loại bánh
không thể thiếu ( bánh gừng, bánh tai yến, bánh bông lan).

Sở dĩ bày bánh củ gừng vì gừng có tác dụng trị cảm mạo, nó mang ý nghĩa
chúc sức khỏe cơ dâu, chú rể. Hơn nữa hình dạng gừng là loại củ đâm mọc ra
nhiều nhánh nó nhằm biểu tượng cho cơ dâu sih nhiều con cái.
1.4. Bánh thốt nốt
Có thể nói thốt nốt là đặc trưng của người Khmer Nam Bộ và là loại cây đa
dụng của vùng Thất Sơn huyền bí. Nơi nào có người Khmer sinh sống thì nơi đó
sẽ có cây thốt nốt và ngược lại. Có thể nói, sự tồn tại ấy dường như mang tính tất
yếu, đó là một sự gắn bó đặc biệt với những nét tương đồng đặc biệt.
Bởi khi xét ở nhiều phương diện, cây thốt nốt không những tượng trưng cho
tâm hồn, tính cách của người Khmer, mà nó cịn tượng trưng cho văn hóa của họ.
Cây thốt nốt cịn được xem là biểu tượng cho đức tính nhẫn nại, chịu khó của
người.
1.5. Bánh bơng điên điển
Hay cịn được gọi là “bánh treo trên cành”- món ăn độc đáo này vừa là hoa,
vừa là thức ăn, vừa là món bánh dâng lên các sư sãi.
Theo tín ngưỡng người Khmer, hàng năm bà con đều làm chay cầu siêu cho tổ
tiên hoặc các vong hồn chết oan chết ức. Vào các những ngày này, từ sáng sớm
các vị sư sãi đã ra đồng tìm những mồ mả xiêu lạc để đọc kinh cầu nguyện.
6


Chính vì vậy các thiếu nữ và trinh nữ trong làng mới giúp các sư một bữa ăn
gọi là 'làm phước'.Các cô gái ấy dùng xuồng ba lá bơi ra giữa đồng tìm các cây
điên điển có nhiều bơng để dùng làm bánh. Các cô chọn những nhánh hoa tươi,
đẹp rồi kéo xuống nhúng các chùm bông điên điển vào vịm bột đã chuẩn bị sẵn.
Sau đó kéo chùm bơng sang chảo mỡ nóng để chiên cho chín vàng. Xong, họ
bng nhẹ nhánh hoa trở về vị trí cũ.
Bánh đó gọi là bánh treo trên cành làm bằng bông điên điển để dâng cho các
sư sãi. Tục lệ ấy đã đi vào huyền thoại và nay đã trở thành một nét đẹp trong văn
hóa ẩm thực người Khmer.

Hiện nay một vài địa phương, người Khmer vẫn còn làm loại bánh bơng điên
điển. Đó là loại bánh làm bằng bột gạo, đường, hột vịt và bơng điên điển. Các thứ
hịa trộn vào nhau rồi đem chiên với mỡ vừa thơm ngon, vừa giịn béo.
Bánh bơng điên điển mang ý nghĩa về tơn giáo thể hiện long tơn kính của người
dân Khmer đối với Phật. Ngoài ra trong những dịp lễ này họ cịn có các loại đồ
nữa như bánh tét, bánh dừa nhân chuối, bánh ít, bánh bột nhân dừa, bánh ống…
2. Thức uống
Người Khmer tiêu thụ nhiều rượu, nhất là vào dịp lễ, tết, đám làm phước..Cách
làm rượu thủ công của người Khmer cũng giống như người Việt.
Một trả rượu nấu khoảng 10kg gạo ( hoặc nếp) được 5 lít rượu có nồng độ
khoảng 35 độ. Có nơi sản xuất rượu có nồng độ khá cao, chừng 50độ như ở xã
Thanh Sơn, huyện Trà Cỳ, tỉnh Trà Vinh. Người ta nấu gạo hoặc nếp thành cơm,
trải rộng ra trên ván lá lát lá chuối. Khi cơm bớt nóng, người ta rải men rượu lên
rồi trộn đều, sau đó cho vơ lu đậy kín, ủ 3 ngày đêm rồi đổ nước vào. Kế đó
người ta chưng cất dung dịch này cho bay hơi trong một ống tre hoặc nhôm được
ngâm quanh một thau nước nguội để hơi nước ngưng tụ lại thành rượu.
Rượu là một hiện vật trong đời sống lễ nghi của con người. Những hội hè đình
đám, những dịp quan, hôn, tang tế, lễ, nghĩa, hiếu hỉ đều cần đến rượu. Rượu còn
là phương tiện bày tỏ lòng hiếu khách.

IV - Dân tộc Hoa
1. Đồ ăn
1.1. Sủi cảo ( Há cảo )
Với người Hoa, Sủi cảo là một món ăn truyền thống rất được ưa chuộng, đặc
biệt là vào ngày tết. Đây là món ăn biểu tượng sự may mắn và đồn tụ của gia
đình.
Thành phần chính để chế biến Sủi cảo là sự kết hợp của hai loại gạo: gạo
trắng và gạo nếp. Theo duy tâm, người Hoa cho rằng hai loại gạo này sẽ mang
lại nhiều điều may mắn trong cuộc sống. Đặc biệt giới kinh doanh thì càng tin


7


hơn khi cho rằng ăn loại bánh kết hợp hai loại gạo này sẽ giúp cho họ “cầu
được ước thấy” và cơ hội phát triển sự nghiệp sẽ rộng mở hơn.
Hình dáng của Sủi cảo cũng mưu cầu sự may mắn. Sủi cảo hình bán nguyệt,
viền bánh phải được viền cho đều gọi là “viền phúc”. Còn kéo hai đầu của hình
bán nguyệt nối liền với nhau giống như một nén bạc để cầu mong cho cuộc
sống tiền bạc dư dả, sung túc.
1.2. Bánh Tổ
Một loại bánh chế biến bằng bột nếp, đường rồi phơi khơ nên có thể để lâu
ngày, màu của đường tạo nên màu của bánh (trắng hoặc nâu).. Bánh Tổ thường
được cúng tổ tiên, phải chiên trước khi ăn. Đây là loại thực phẩm làm bằng bột
lọc, gọi là “cao”, đồng âm với chữ “cao thăng”, “cao phát” một từ hay chúc
tụng nhau.
1.3. Hàu khô
Hàu không chỉ là món ăn bổ dưỡng mà cịn là món ăn may mắn. Đặc biệt là
món hàu khơ được tin rằng sẽ đem đến sự phát đạt trong kinh doanh.
1.4. Bánh bao và mỳ sợi dài
Vào năm mới, đặc biệt là ngày mừng thọ thì khơng thể thiếu bánh bao đào
tiên và món mì dài với ngụ ý chúc mừng mọi sự được miên trường vĩnh cửu.
Họ tin rằng mì không nên bị cắt ngắn ra để tránh gặp điều không may vào năm
mới
1.5. Trứng trà
Theo quan niệm của người Hoa, trứng gà là món ăn mang lại sự thịnh vượng,
giàu có trong dịp Tết.Trứng trà - món ăn Tết của Trung Quốc - được làm rất
đơn giản. Trứng sau khi được luộc chín sẽ được đem đập dập phần vỏ, đun sơi
trong một nồi nước có trà đen, xì dầu, ngũ vị hương, hoa hồi, hành lá, gừng.
Những thành phần nguyên liệu này sẽ ngấm vào trứng qua các vết nứt của vỏ
trứng tạo nên các đường vân rạn trên trứng rất đẹp. Khi thưởng thức, trứng sẽ

mang đầy đủ các hương vị của những nguyên liệu đã ngấm vào nó.
1.6. Cá
Cá được coi là món ăn may mắn bởi trong tiếng Trung Quốc, con cá được phát
âm là “yu”, nghe gần giống với từ miêu tả sự giàu có, sung túc. Người Trung
Quốc tin rằng cá nên được ăn nguyên con nhưng chừa lại phần đầu và phần
đuôi để tránh bị xui xẻo cả năm.
2. Thức uống
8


2.1. Uống trà
Trước đây, cứ vào mùng 1 tháng giêng, ngày đơng chí hoặc ngày mùng 1 các
tháng trong năm, đồng bào dân tộc Hoa lại tụ tập tại các từ đường để tiến hành
lễ cúng tổ tiên. Họ quan niệm tổ tiên chính là vị thần của gia tộc, ln phù hộ
cho sự n bình, hưng thịnh và sinh tồn của gia tộc, vì thế, nghi thức cúng tế tổ
tiên được diễn ra vô cùng long trọng và trang nghiêm. Các đồ cúng tế cũng đều
là những đồ dùng riêng, ngồi bàn, ghế, bát hương, đèn cầy, cịn có bình trà,
ấm trà.v..v… Khi cúng tế, mọi người đều phải vái ba vái, sau đó trưởng tộc sẽ
rót rượu mời các vị nam thần và rót trà mời các nữ thần.

V - Dân tộc Chăm
1. Đồ ăn
1.1. Cơm: được dùng trong tất thảy các lễ của người Chăm: họ coi mỗi hạt
cơm là thân xác và linh hồn của Pô Yang Sri (Thần lúa gạo)
1.2. Bánh: do đặc trưng sống chủ yếu bằng nghề nông nên bánh trái đã trở
thành món ăn quen thuộc của người Chăm, và họ coi đây là lễ vật quý để dâng
lên các vị thần thánh.
1.3. Dê, gà : Dê là con vật mang tính dương, gà là con vật mang tính âm, họ
coi đó là những con vật sạch sẽ và ít chất béo (do đặc tính của người Chăm)
1.4. Canh: là món chủ đạo trong bữa ăn của người Chăm, do nơi ở của họ chi

phối, ngồi ra thì do đặc điểm của người Chăm thích ăn nước, vì thế canh ln
là vật thờ cúng trong mọi ngày lễ
1.5. Chè: chỉ là 1 hình thức khác thay đổi của bánh và cơm, làm tăng thêm sự
hấp dẫn cũng như chất bổ cho người Chăm bởi cháo của họ thường sẽ bao gồm
nhiều loại dinh dưỡng từ các loại động thực vật khác nhau.
1.6. Trầu cau: thể hiện sự tôn trọng với thần linh, thể hiện sự gắn kết, tin
tưởng của người Chăm tới thần thánh
2. Thức uống
Rượu: thể hiện sự giao lưu giữa con người và thần linh

9



×