Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

Bài tiểu luận: Lễ tết cổ truyền của người Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.43 KB, 42 trang )

LỄ TẾT CỔ TRUYỀN CỦA NGƯỜI VIỆT
Lời mở đầu
Trải qua hơn 4000 năm lịch sử dựng nước và giữ nước, Việt Nam là 1quốc
gia mang trong mình một nền văn hóa lớn, đẹp đẽ và độc đáo. Văn hóa Việt Nam
gắn liền với văn minh lúa nước vì vậy nó vẫn chất phác, đơn sơ, giản dị, gần gũi
nhưng vẫn khơng kém phần tinh tế. Những nét văn hóa ấy được gìn giữ và lưu
truyền qua bao đời nay. Một trong nhưng viên ngọc quý của văn hóa Việt Nam là
các ngày lễ Tết cổ truyền. Tết cổ truyền dân tộc khơng chỉ là nét văn hóa mà là vốn
văn hóa q giá được cha ơng ta gây dựng, bởi vì ngày Tết chứa đựng rất nhiều ý
nghĩa, có những điều đẹp đẽ, nghĩa tình và thiêng liêng. Từ buổi “khai thiên lập
địa” đã tiềm tang những giá trị nhân văn thể hiện mối quan hệ giữa con người với
thiên nhiên, vũ trụ qua bốn mùa xuân-hạ-thu-đông. Những ngày Lễ Tết còn là dịp
để mọi người tưởng nhớ, tri ân tổ tiên,nguồn cội, giao cảm nhân sinh trong quan hệ
đạo lí “ ăn quả nhớ kẻ trồng cây” và tình nghĩa xóm làng.
Sau đây, nhóm xin trình bày nguồn gốc, phong tục, ý nghĩa của các ngày Lễ
tết cổ truyền của dân tộc.
1.Tết Nguyên Đán
Tên gọi(còn gọi là Tết ta, Tết âm lịch, Tết cổ truyền):
Chữ “Tết” do chữ “Tiết” mà thành. “Tiết” ở đây là thời tiết. “Nguyên” có
nghĩa là sự khởi đầu hay sơ khai và “đán” có nghĩa là buổi sáng sớm. “Tết nguyên
đán” bắt nguồn từ Trung Hoa và đến bây giờ, đó vẫn là tết cổ truyền của người
Trung Quốc.
Nguồn gốc: do nhu cầu canh tác nông nghiệp đã "phân chia" thời gian trong
một năm thành 24 tiết khí khác nhau (và ứng với mỗi tiết này có một thời khắc

1


"giao thừa") trong đó tiết quan trọng nhất là tiết khởi đầu của một chu kỳ canh tác,
gieo trồng, tức là Tiết Nguyên Đán sau này được biết đến là Tết Nguyên Đán.
Thời gian: Thường kéo dài trong khoảng 7,8 ngày cuối năm cũ và 7 ngày đầu


năm mới (23 tháng Chạp đến hết ngày 7 tháng Giêng).
Không gian:Trên đất nước Việt Nam và một vài nước khác có cộng đồng
người Việt sinh sống. Tết nguyên đán
Nghi thức:
Vào 23 tháng Chạp có nghi thức đưa ơng Táo (Táo qn) về chầu thiên đình
để tâu với Ngọc Hồng về chuyện dưới trần gian. Theo quan điểm của người Việt
thì ơng Táo vừa là thần bếp trong nhà vừa là người ghi chép tất cả những việc làm
tốt xấu mà con người đã làm trong năm cũ và báo cáo với Ngọc Hồng những vấn
đề tốt xấu của gia chủ. Ơng Táo được cúng vào trưa hoặc chiều ngày 23 tháng
Chạp âm lịch hàng năm. Lễ cúng gồm có hương, nến, hoa quả, vàng mã và hai mũ
đàn ông, một mũ đàn bà kèm theo ba con cá chép (cá chép thật hoặc cá chép làm
bằng giấy kèm theo cỗ mũ). Theo sự tích ơng Táo, cá chép sẽ đưa ơng Táo vượt
qua Vũ Mơn để lên thiên đình gặp Ngọc hồng.
-

Dựng cây nêu:
Một số gia đình ở nơng thơn vẫn cịn gìn giữ phong tục dựng cây nêu, trong
khi ở thành phố, phong tục này đã bị lãng quên. Theo phong tục, cây nêu được
dựng lên để chống lại quỷ dữ và những điềm gở. Cây nêu thường được treo hoặc
trang trí thêm những thứ được coi là để dọa ma quỷ như: tỏi, xương rồng, hình
nộm và lá dứa.

-

Tất niên:
2


Ngày Tất niên có thể là ngày 30 tháng Chạp (nếu là năm đủ) hoặc 29 tháng
Chạp (nếu là năm thiếu). Đây là ngày gia đình sum họp lại với nhau để ăn cơm

buổi tất niên.Buổi tối ngày này, người ta làm cỗ cúng tất niên. Giữa ngày 30 (hoặc
29) tháng Chạp và ngày mùng 1 tháng Giêng (từ 23 giờ hơm trước đến 1 giờ hơm
sau), trong đó thời điểm bắt đầu giờ Chính Tý (0 giờ 0 phút 0 giây ngày Mồng 1
tháng Giêng) là thời khắc quan trọng nhất của dịp Tết. Nó đánh dấu sự chuyển giao
năm cũ và năm mới, nó được gọi là Giao thừa. Để ghi nhận thời khắc này, người ta
thường làm hai mâm cỗ. Một mâm cúng gia tiên tại bàn thờ ở trong nhà mình và
một mâm cúng thiên địa ở khoảng sân trước nhà.
Sắp dọn bàn thờ Trong gia đình người Việt thường có một bàn thờ tổ tiên, ơng
bà (hay cịn gọi ơng Vải). Cách trang trí và sắp đặt bàn thờ khác nhau tùy theo từng
nhà. Biền, bàn thờ là nơi tưởng nhớ, là thế giới thu nhỏ của người đã khuất. Hai
cây đèn tượng trưng cho mặt trời, Mặt Trăng và hương là tinh tú. Hai bát hương để
đối xứng. Phía sau hai cây đèn thường có hai cành hoa cúc giấy với nhiều bơng
nhỏ bao quanh bơng lớn. Có nhà cũng cắm "cành vàng lá ngọc" (một thứ hàng mã)
với sự cầu mong làm ăn được quả vàng, quả bạc và buôn bán lãi gấp nhiều lần năm
trước. Ở giữa có trục "vũ trụ" là khúc trầm hương dưới dạng khúc khủy và vươn
lên trong bát hương. Nhiều gia đình đặt xen hai cái đĩa giữa đèn và hương để đặt
hoa quả lễ gọi là mâm ngũ quả (tuỳ mỗi miền có sự biến thiên các loại quả, nhưng
mỗi loại quả đều có ý nghĩa của nó). Trước bát hương để một bát nước trong để coi
như nước thiêng. Hai cây mía đặt ở hai bên bàn thờ là để các cụ chống gậy về với
con cháu và dẫn linh hồn tổ tiên từ trên trời về hạ giới.
-

Giao thừa:
Giao thừa là thời khắc chuyển giao giữa năm cũ và năm mới. Trong thời khắc
giao thừa mọi người trong gia đình thường dành cho nhau những lời chúc tốt đẹp
3


nhất. Dịp này, người ta thường bắn pháo hoa ở những địa điểm rộng rãi, thoáng
mát.

Cúng Giao thừa là lễ cúng để đem bỏ hết đi những điều xấu của năm cũ sắp
qua để đón những điều tốt đẹp của năm mới sắp đến.
-

Cúng Giao thừa ngoài trời
Theo tục lệ cổ truyền thì Giao thừa được tổ chức nhằm đón các Thiên binh..
Lúc đó họ đi thị sát dưới hạ giới, rất vội không kịp vào tận bên trong nhà được, nên
bàn cúng thường được đặt ở ngồi cửa chính mỗi nhà. Hết một năm, vị Hành khiển
cũ đã cai quản Hạ giới trong năm cũ sẽ bàn giao công việc cho vị Hành khiển mới
đi xuống sẽ cai quản Hạ giới trong năm mới.
Mâm lễ được sắp bày với lịng thành kính tiễn đưa người Nhà Trời đã cai
quản mình năm cũ trở lại thiên đình và đón người mới xuống sẽ làm nhiệm vụ cai
quản Hạ giới năm tới. Vì việc bàn giao, tiếp quản cơng việc hết sức khẩn trương
nên các vị chỉ có thể ăn vội vàng hoặc mang theo, thậm chí chỉ chứng kiến lịng
thành của chủ nhà. Trên chiếc hương án có bình hương, hai ngọn đèn dầu hoặc hai
ngọn nến.

-

Ba ngày Tân niên
"Ngày mồng Một tháng Giêng" là ngày Tân niên đầu tiên và được coi là ngày
quan trọng nhất trong toàn bộ dịp Tết. Không kể những người tốt số, hợp tuổi được
mời đi xông đất, vào sáng sớm ngày này, người Việt cổ thường không ra khỏi nhà,
chỉ bày cỗ cúng Tân niên, ăn tiệc và chúc tụng nhau trong nội bộ gia đình. Đối với
những gia đình đã tách khỏi cha mẹ và cha mẹ vẫn còn sống, họ đến chúc tết các
ông bố theo tục: Mồng Một Tết cha.

4



"Ngày mồng Hai tháng Giêng" là ngày có những hoạt động cúng lễ tại gia vào
sáng sớm. Sau đó, người ta chúc tết các bà mẹ theo tục Mồng Hai Tết mẹ. Riêng
đàn ơng chuẩn bị lập gia đình cịn phải đến nhà cha mẹ vợ tương lai (nhạc gia) để
chúc Tết theo tục Đi sêu.
"Ngày mồng Ba tháng Giêng" là ngày sau khi cúng cơm tại gia theo lệ cúng ít
nhất đủ ba ngày Tết, các học trị thường đến chúc Tết thầy dạy học theo tục Mồng
Ba Tết thầy. Trong những ngày này người ta thường đi thăm viếng, hỏi thăm nhau
những điều đã làm trong năm cũ và những điều sẽ làm trong năm mới.
-

Xông đất
Xông đất (hay đạp đất, mở hàng) là tục lệ đã có lâu đời ở Việt Nam. Nhiều
người quan niệm ngày Mồng Một "khai trương" một năm mới. Họ cho rằng vào
ngày này, nếu mọi việc diễn ra suôn sẻ, may mắn, cả năm cũng sẽ được tốt lành,
thuận lợi. Ngay sau thời khắc giao thừa, bất cứ người nào bước từ ngoài vào nhà
với lời chúc năm mới được coi là đã xông đất cho gia chủ. Người khách đến thăm
nhà đầu tiên trong một năm cũng vì thế mà quan trọng. Cho nên cứ cuối năm, mọi
người cố ý tìm xem những người trong bà con hay láng giềng có tính vui vẻ, linh
hoạt, đạo đức và thành cơng để nhờ sang thăm. Người đến xông đất thường chỉ đến
thăm, chúc tết chừng 5 đến 10 phút chứ không ở lại lâu, cầu cho mọi việc trong
năm của chủ nhà cũng được trôi chảy thông suốt.
Xuất hành và hái lộc
Xuất hành là lần đi ra khỏi nhà đầu tiên trong năm, thường được thực hiện
vào ngày tốt đầu tiên của năm mới để đi tìm may mắn cho bản thân và gia đình.
Trước khi xuất hành, người ta phải chọn ngày Hoàng đạo, giờ Hoàng đạo và các
phương hướng tốt để mong gặp được các quý thần, tài thần, hỉ thần... Tại miền
Bắc, nếu xuất hành ra chùa hay đền, sau khi lễ bái, người Việt cịn có tục bẻ lấy
một cành lộc để mang về nhà lấy may, lấy phước. Đó là tục hái lộc. Cành lộc là
một cành đa nhỏ hay cành đề, cành si... là những loại cây quanh năm tươi tốt và
5



nảy lộc. Tục hái lộc ở các nơi đền, chùa ngụ ý xin hưởng chút lộc của Thần, Phật
ban cho nhân năm mới. Cành lộc thường đem về cắm ở bàn thờ. Khác với miền
Bắc, miền Trung khơng có tục hái lộc đầu năm nhờ thế mà cây cối trong các đền
chùa ở miền Trung vẫn giữ nguyên lá xanh biếc suốt cả mùa xuân.
Tuy nhiên việc hái lộc ngày nay đã có những quan niệm trái chiều so với
trước đó là: - Việc hái lộc khơng nên vì có thể có những cành lộc có "Vong" (linh
hồn) bám theo. Khi chúng ta hái lộc về vơ tình sẽ mang "Vong" về theo, nếu
"Vong" tốt thì khơng sao nhưng nếu "Vong" xấu thì có thể làm cho nhà cửa chúng
ta không may mắn... Đây là vấn đề mang tinh Duy tâm tuy nhiên nó cũng có cái lý
của nó. - Tiếp theo việc hái lộc đôi khi làm ảnh hưởng đến cây xanh cảnh quan đơ
thị vì tâm lý mọi người đều muốn đem thật nhiều lộc về nhà cầu may, do vậy đã
khơng ít trường hợp làm hỏng hết cây cối gây ảnh hưởng đến môi trường... - Cuối
cùng việc hái lộc đôi khi dẫn đến xô xát do việc tranh cướp hoặc hái "trộm" lộc
trong các cơ quan nhạy cảm như Ngân hàng chẳng hạn... Những việc làm này
khơng biết có mang lại may mắn khơng nhưng nó phản ánh mặt xấu của Văn hóa
ứng xử của những người trong cuộc...
Chúc Tết
Sáng mồng Một Tết còn gọi là ngày Chính đán, con cháu tụ họp ở nhà tộc
trưởng để lễ Tổ Tiên và chúc tết ông bà, các bậc huynh trưởng. Theo quan niệm, cứ
năm mới tới, mỗi người tăng lên một tuổi, bởi vậy ngày mồng Một Tết là ngày con
cháu "chúc thọ" ông bà và các bậc cao niên (ngày xưa, các cụ thường không nhớ rõ
ngày tháng sinh nên chỉ biết Tết đến là tăng thêm một tuổi).
Tục thăm viếng
Thăm viếng họ hàng là để gắn kết tình cảm gia đình họ hàng. Lời chúc tết
thường là sức khỏe, phát tài phát lộc, gặp nhiều may mắn, mọi ước muốn đều thành
công... Những người năm cũ gặp rủi ro thì động viên nhau tai qua nạn
6



khỏi hay của đi thay người nghĩa là trong cái họa cũng tìm thấy cái phúc, hướng về
sự tốt lành.
Đến thăm những người hàng xóm của mình và những gia đình sống gần với
gia đình mình, chúc họ những câu tốt lành đầu năm mới. Những chuyến thăm hỏi
này giúp gắn kết mọi người với nhau, xóa hết những khúc mắc của năm cũ, vui vẻ
đón chào năm mới.
Đến thăm những người bạn bè, đồng nghiệp và những người thân thiết với
mình để chúc họ những câu tốt lành, giúp tình cảm bạn bè gần gũi hơn.
Mừng tuổi
Lì xì : người lớn thường tặng trẻ em tiền bỏ trong một bao giấy đỏ, hay "hồng
bao", gọi là "lì xì" với những lời chúc mừng ăn no, chóng lớn. Theo cổ tích Trung
Quốc thì trong "hồng bao" có 8 đồng tiền (là Bát tiên hóa thân) được đặt dưới gối
đứa trẻ để xua đuổi quỷ đến quấy nhiễu, vì ma sẽ sợ giấy màu đỏ.
Tiền mừng tuổi nhận được trong ngày Tết gọi là "Tiền mở hàng". Xưa cịn có
lệ cho tiền phong bao với số tiền lẻ (chứ không phải là tiền chẵn), ngụ ý tiền này sẽ
sinh sôi nảy nở thêm nhiều.[20]
Hóa vàng
Ngày mồng 4 tháng Giêng theo lịch cổ là ngày con nước. Trong ngày này,
người Việt làm lễ cúng tổ tiên đã về ăn Tết với con cháu và đốt nhiều vàng mã để
tiền nhân về cõi âm có thêm tiền vốn đầu năm, đặng phù hộ độ trì cho con cháu
hậu thế làm ăn phát đạt. Tại nhiều vùng ở Đồng bằng Bắc Bộ, người Việt có tục hát
chèo đị đưa tổ tiên trở lại thế giới bên kia.
Tục hóa vàng ngày mồng 4 hoặc mồng 5, khơng ít gia đình vẫn theo truyền
thống cũ: làm cơm, đốt vàng mã gửi người thân khuất bóng lời cầu nguyện một
năm mới nhiều may mắn. Theo nhà sử học Dương Trung Quốc tục hố vàng dựa
trên tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, vật hoá vàng thường gắn với đời sống thường
nhật, để thấy con người ở thế giới vơ hình bên kia sống gần với dương gian. ]Vào
7



ngày mồng 4 và mồng 5 tháng Giêng, người ta kiêng xuất hành vì đây là ngày
khơng tốt.
Khai hạ
Ngày mồng 7 tháng Giêng (cũng có thể là mồng 6 tháng Giêng) là ngày cuối
cùng của chuỗi lễ hội Tết. Trong ngày này, người Việt làm lễ hạ Cây nêu, gọi là lễ
Khai hạ, kết thúc dịp Tết Nguyên đán và bắt đầu bước vào việc làm ăn trong năm
mới từ ngày mồng 8 hoặc mồng 9 tháng Giêng.
Mâm ngũ quả
Mâm ngũ quả là một mâm trái cây có chừng năm thứ trái cây khác nhau
thường có trong ngày Tết Nguyên Đán của người Việt. Các loại trái cây bày lên thể
hiện nguyện ước của gia chủ qua tên gọi, màu sắc và cách sắp xếp của chúng.
Một mâm Ngũ quả ngày Tết ở miền Bắc Việt Nam, gồm cam, quất, bưởi,
chuối và dứa.
Chọn 5 thứ quả theo quan niệm người xưa là ngũ hành ứng với mệnh của con
người. Chọn số lẻ tượng trưng cho sự phát triển, sinh sôi. Mâm ngũ quả của người
miến Bắc gồm: chuối, bưởi, đào, hồng, quýt hay là chuối, ớt, bưởi, quất, lê. Có thể
thay thế bằng cam, lê-ki-ma,táo, mãng cầu. Nói chung, người miền Bắc khơng có
phong tục khắt khe về mâm ngũ quả và hầu như tất cả các loại quả đều có thể bày
được, miễn là nhiều màu sắc.Mâm ngũ quả người miền Nam gồm dừa, đu
đủ, mãng cầu Xiêm, xoài, sung, với ngụ ý cầu sung vừa đủ xài. Người miền Nam
thường kiêng kỵ chưng trái có tên mang ý nghĩa xấu (kể cả khi đọc trại) như chuối
- chúi nhủi, cam - cam chịu, lê - lê lết, sầu riêng, bom (táo), lựu- lựu đạn... và
khơng chọn trái có vị đắng, cay.
Tranh tết
Phía trên bàn thờ thường treo một tranh dân gian vẽ ngũ quả, chiếc cuốn thư...
có khi là một chữ Nho (chữ Tâm, Phúc, Đức...).

8



Tranh Tết từ lâu đã trở thành một tập quán, một thú chơi của người dân Việt
Nam và không chỉ người có tiền mới chơi tranh mà người ít tiền cũng có thể chơi
tranh. Nó là một phần khơng thể thiếu trong không gian của ngày Tết cổ truyền xưa
kia. Những màu sắc rực rỡ như khơi gợi nên cảm giác mới mẻ ấm cúng rộn rã sắc
xuân trong mỗi gia đình của người Việt.
Để trang hồng nhà cửa và để thưởng Xuân, trước đây từ các nho học cho tới
những người bình dân "tồn cổ" vẫn cịn trọng tục treo "câu đối đỏ" nhân ngày Tết.
Những câu đối này được viết bằng chữ Nho (màu đen hay vàng) trên những tấm
giấy đỏ hay hồng đào cho nên còn được gọi là câu đối đỏ. [28] Bản thân chữ "câu đối
đỏ" cũng xuất hiện trong câu đối Tết sau:
Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh.

Hoa tết
Ngoài hai loại hoa đặc trưng cho Tết là đào và mai, hầu như nhà nào cũng có
thêm những loại hoa để thờ cúng và hoa trang trí. Hoa thờ cúng có thể như hoa vạn
thọ, cúc, lay ơn, hoa huệ...; hoa để trang trí thì mn màu sắc như hoa hồng, hoa
thủy tiên, hoa lay ơn, hoa thực dược. Ngoài ra, hoa hồng, cẩm chướng, loa kèn, huệ
tây, lá măng, thạch thảo... cắm kèm sẽ tạo sự phong phú và mang ý nghĩa sum họp
cho bình hoa ngày tết. Màu sắc tươi vui chủ đạo của bình hoa cũng ngụ ý cầu
mong một năm mới làm ăn phát đạt, gia đình an khang và sung túc.
Thành ngữ Việt Nam có câu Đói giỗ cha, no ba ngày Tết. Tết đến, dù nghèo
khó đến đâu thì người ta cũng cố vay mượn, xoay xở để có đủ ăn trong ba ngày Tết
sao cho "già được bát canh, trẻ có manh áo mới". Hơn thế nữa, dù có đói khát
quanh năm thì đến Tết, mọi người mà nhất là trẻ em thường được ăn uống no đủ.
9


Bữa ăn ngày Tết thường có nhiều món, đủ chất hơn và sang trọng hơn bữa ăn ngày

thường. Vì vậy mà người ta cũng thường gọi là "ăn Tết". Ngoài cơm, ngày Tết cịn
có:
Bánh truyền thống: bánh chưng, bánh giầy, bánh tét... Đây là các loại bánh
đặc trưng cho phong tục ăn uống ngày Tết ở Việt Nam. Bánh chưng và bánh giầy
cịn được gắn với các sự tích cổ của cácvua Hùng, tổ tiên của người Việt.
Cỗ Tết: dịp Tết người Việt thường tổ chức ăn uống lớn, gọi là ăn cỗ. Các món
cỗ trong nhiều gia đình có thể có bóng bì, canh măng, chân giị có nấm
hương, miến nấu lịng gà, nem rán, xơi gấc,xơi đỗ, thịt gà, thịt đơng, món xào, giị
lụa, giị mỡ, nộm, dưa hành muối...
Mứt Tết và các loại bánh kẹo khác để thờ cúng, sau đó dọn ra để đãi khách.
Mứt có rất nhiều loại như: mứt gừng, mứt bí, mứt cà chua, mứt táo, mứt dừa, mứt
quất, mứt sầu riêng, mứt mít, mứt khoai, mứt hạt sen, mứt chà-là, mứt lạc, mứt
me...
Trái cây, mâm ngũ quả, và đặc biệt là dưa hấu đỏ khơng thể thiếu trong những
gia đình miền Nam.[35] Dưa hấu được chưng cúng nơi bàn thờ Tổ tiên, bên cạnh các
loại mứt, mâm ngũ quả, bánh kẹo..., và nhiều quả dưa còn được gắn thêm
chữ Phước - Lộc - Thọ. Sáng mồng một Tết, người nhà cử người bổ quả dưa để bói
cầu may và lấy hên.
Kẹo bánh thì đa dạng hơn như: Kẹo bột, kẹo dồi, kẹo vừng (mè), kẹo thèo
lèo, kẹo dừa, kẹo cau, kẹo đậu phụng (kẹo cu-đơ), bánh chè lam... Ngồi ra, Tết
cịn có hạt dưa, hạt bí, hạt hướng dương, hạt điều, hạt dẻ rang...
Thức uống ngày Tết: Phổ biến nhất vẫn là rượu. Các loại rượu truyền thống
của dân tộc như rượu nếp thơm, nếp cái hoa vàng (người Kinh), nếp nương (người
Thái), nếp cẩm (người Mường), rượu San lùng, rượu ngô (người H'Mong, người
Dao), rượu Mẫu sơn (người Tày, người Nùng), ruợu Bàu đá (Trung bộ), rượu

10


đế (Nam Bộ)... thường được dùng. Sau bữa ăn, người ta thường dùng trà xanh.

Ngày nay cịn có thêm các loại ruợu của phương Tây, bia và các loại nước ngọt.
Ngồi ra, các gia đình miền Nam thường có thêm nồi thịt kho nước dừa (thịt
kho rệu) và nồi khổ qua hầm và nem bì, dưa giá miền Nam, củ kiệu ngâm, bánh
tráng (để quấn) để ăn mấy ngày tết. [36][37] Miền Bắc có cơm rượu và thịt đơng, dưa
hành [38] và ngày trước có chè kho, mọc vân ám, thang ngày Tết, hiện nay ít được
biết đến.[39][40] Miền Trung có dưa món và món tré, giống giị thủ của miền Bắc
nhưng nhiều vị củ riềng, thịt chua và tai heo. [38] Thông thường, người nội trợ miền
Nam lục tỉnh nghỉ ngơi, không nấu nướng trong 3 ngày Tết, mà chỉ dùng thức ăn
đã được chuẩn bị sẵn trước Tết.
Pháo.
Đến Tết, khi những vị thần tốt đã lên Trời chầu Ngọc Hồng thì hai vị thần
xấu càng lộng hành và gây nhiều khó khăn cho dân chúng.Dân chúng biết là NãÔng và Nã-Bà rất sợ ánh sáng và tiếng động, cho nên người ta thắp đèn sáng trong
nhà và đốt pháo để đuổi những vị thần xấu nầy đi chỗ khác.
Người ta tiếp tục đốt pháo và thắp đèn sáng liên miên cho đến khi Tết đã hết
và những vị thần tốt bảo vệ dân từ Trời trở về.Ngày này, người ta dùng pháo để
đón Giao-Thừa năm mới. Có một sự thay đổi trong ý nghĩa của truyền thống nầy.
Tiếng pháo vui mừng được coi như biểu hiệu của hạnh phúc hơn là một cách để
đuổi hung thần đi nơi khác.
Việt Nam ta có rất nhiều thứ pháo. Chẳng hạn như pháo tống, pháo xiết, pháo
chuột,

pháo

nổ

chậm,

pháo

thăng


thiên,

pháo

đơi,

pháo

hoa



Ngày xưa là vậy, cịn ngày nay với nhiều lý do, tập tục đốt pháo ở nước ta đã được
xóa bỏ. Duy chỉ cịn pháo hoa là được nhà nước ta tổ chức rất hoành tráng, đốt vào
đêm giao thừa ở các thành phố lớn và được truyền hình trực tiếp cho mọi người
chiêm ngưỡng.
Người xông Đất (nhà)
11


Người Việt Nam tin tưởng ở sự liên quan giữa con người và huyền bí, may
mắn nên người ta chọn người để xông nhà. Nếu người xông đất là người vui vẻ thì
chủ nhân sẽ có một năm vui vẻ, hạnh phúc. Ngược lại, gặp người thô lỗ cọc cằn,
rượu chè, hút xách, cờ bạc thì năm đó chắc chắn sẽ gặp nhiều chuyện không may,
rắc rối.
Để tránh các điều trên, người ta thường chọn mặt gửi vàng, nghĩa là chọn
trước người xơng đất, nếu là người quen thân thì điều đình trước để có sự phối
hợp. Thơng thường người được lựa chọn xơng đất thường là người có đạo đức, có
gia đình hạnh phúc, sức khoẻ cường tráng.

2. Tết Thượng Nguyên
Tết Thượng nguyên (Tết Nguyên tiêu) vào đúng Rằm tháng Giêng - ngày
trăng tròn đầu tiên của năm. Tết này phần lớn tổ chức tại chùa vì Rằm tháng Giêng
cịn là ngày vía của Phật tổ.
Từ xa xưa trong dân gian Việt Nam đã truyền tụng câu ca:
"Lễ Phật quanh năm không bằng Rằm tháng Giêng" Xuất phát từ đó. Sau khi
đi chùa, mọi người về nhà họp mặt, cúng gia tiên và ăn cỗ.
Tết Thượng Nguyên - rằm tháng Giêng. Theo sử sách cũ chép lại, Thượng
Nguyên vừa được gọi là lễ vừa được gọi là Tết, một trong những cái Tết trong năm
đầy ý nghĩa của người dân Việt Nam. Lễ Thượng Nguyên có sách ghi có nguồn
gốc từ thời Tây Hán. Lễ được khởi hành vào buổi tối để cúng thần sao, cầu một
năm mưa thuận gió hồ cho mùa màng tốt tươi. Song, Tết Thượng Nguyên cũng
được coi là ngày vía phật. Vào ngày này, Phật tổ giáng trần tại các chùa để chứng
độ lòng trung thành của các tăng ni, phật tử. Vì thế, các lão bà thường tới chùa để
cầu kinh niệm phật. Các cụ vừa lần tràng hạt, vừa kể lại sự tích của Đức Phật, của
12


Chư vị bồ tát. Chùa Quán Sứ, trụ sở của Trung ương Hội Phật giáo Việt Nam là nơi
nhiều người tìm đến cầu khấn. Các đơi lứa, nam thanh nữ tú cũng dắt tay nhau đến
cửa Phật, để khấn nguyện cầu may mắn, tài lộc cho cả năm, không gặp điều giữ chỉ
gặp điều lành. Chùa Hà (Cầu Giấy- Hà Nội) là một địa chỉ có đơng các đơi trai gái
tìm về hành hương khấn vái cầu mong được se duyên kết tóc với nhau đến trọn
đời.
Vào ngày rằm tháng Giêng, ở tất cả các chùa, đền, phủ đều nghi ngút khói
nhang của người đến cúng bái. Các tín đồ phật tử đổ về đơng, các dịch vụ phục vụ
tín ngưỡng như: hương hoa, vàng, mã của các bà các cô cũng cực kỳ đắt khách,
người mua không mặc cả và người bán khơng nói thách. Tất cả mọi người đều vui
vẻ hướng về đất Phật với nhiều tâm trạng khác nhau. Người bán đồ lễ trước cổng
chùa Quán Sứ (Hà Nội) cho biết: Ngày nay khơng riêng gì lớp người già tới chùa

mà lớp thanh niên trẻ tới chùa ngày một đơng. Lớp trẻ thể hiện lịng cung kính
ngưỡng mộ hướng về cửa Phật như thế lớp già cả như chúng tơi cũng mừng vì
hướng về Phật là hướng tới cái thiện, ở đời người ta sống không thể thiếu cái thiện,
cái thiện nhiều, kỷ cương trật tự xã hội mới tốt. Thực vậy cùng với tín ngưỡng tâm
linh, đầu năm đi lễ rằm tháng Giêng đã trở thành một phong tục đẹp, một nét sinh
hoạt văn hoá trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Đi lễ chùa đúng dịp lễ Thượng Nguyên là nhu cầu tâm linh của người Việt.
Nếu xa xưa chủ yếu là các bà, các chị thì nay đã thay đổi nhiều. Ngồi các bà, các
chị ăn mặc áo nâu sòng nhà phật, đến đền, chùa cịn có nhiều lứa tuổi khác nhau.
Họ là cơng chức,doanh nhân hay liên doanh nước ngoài. Nhiều cặp trai gái độ tuổi
sinh viên mang đồ lễ tới chùa cầu chúc cho mình gặp may trong học tập và con
đường cơng danh sự nghiệp. Dẫu là ai, làm gì, khi đến lễ chùa họ đều thanh thản và
thành tâm cầu ước cho bản thân và gia đình những điều tốt lành.
13


3. Tết Khai hạ
Theo cách tính của người xưa, ngày mùng Một tháng Giêng ứng vào gà,
mùng Hai - chó, mùng Ba - lợn, mùng Bốn - dê, mùng Năm - trâu, mùng Sáu ngựa,
mùng Bảy - người, mùng Tám - lúa. Trong 8 ngày đầu năm, cứ ngày nào sáng sủa
thì coi như giống thuộc về ngày ấy cả năm được tốt. Vì vậy, đến mùng Bảy, thấy
trời tạnh ráo thì người ta tin cả năm mọi người sẽ gặp may mắn, hạnh phúc. Mùng
Bảy kết thúc Tết Nguyên Đán thì cũng là lúc bắt đầu Tết Khai hạ - Tết mở đầu
ngày vui để chào mùa Xuân mới. Theo tục lệ Việt Nam, ngày mồng bảy tháng
giêng là ngày hạ cây nêu. Cây nêu trồng trong năm, khi sửa soạn đón tết cùng với
cung tên bằng vơi trắng vẽ trước cửa nhà để "trừ ma quỷ", nay được hạ xuống. Lễ
hạ nêu còn được gọi là lễ Khai hạ. Nhân dịp này, ngoài lễ giữa trời cúng trời đất,
người ta còn sửa lễ cúng Gia tiên, cúng Thổ công và thần tài. Thường sau ngày lễ
này, mọi công việc thường xuyên mới được bắt đầu trở lại. Theo tục xưa, cây tre
dài khoảng 5 – 6m được dùng làm cây nêu. Cây thường được dựng vào ngày 23

tháng Chạp hoặc chiều 30 Tết. Cây được chôn chặt, trên ngọn cây treo một vòng
tròn nhỏ và treo nhiều vật dụng có tính chất biểu tượng tùy theo địa phương, phong
tục, dân tộc.
Có nơi người ta treo bó lá dứa, khung tre nứa dán giấy màu xanh đỏ, lá bùa
hình bát quái, vàng mã, câu đối hoặc hình con vật bằng đất nung… Có nơi lại là túi
nhỏ đựng trầu cau và ống sáo, chiếc khánh (chng gió), những miếng kim loại lớn
nhỏ, lá thiên tuế, lông gà, củ tỏi. Khi có gió thổi, chiếc khánh và những miếng kim
loại phát ra tiếng leng keng như tiếng phong linh. Chiếc khánh, đồng âm với
“khánh” có nghĩa là “phúc”có ý nghĩa năm mới đem lại hạnh phúc cho gia đình.
Dưới chân cây nêu có rắc vơi bột và vẽ hình cung tên. Trong sách Gia Định Thành
Thơng Chí của Trịnh Hồi Đức, Tập Hạ chép rằng: "Bữa trừ tịch (tức ngày cuối
năm) mọi nhà ở trước cửa lớn đều dựng một cây tre, trên buộc cái giỏ bằng tre,
14


trong giỏ đựng trầu cau vơi, ở bên giỏ có treo giấy vàng bạc, gọi là "lên nêu"... có ý
nghĩa là để làm tiêu biểu cho năm mới mà tảo trừ những xấu xa trong năm cũ".
4. Tết Hàn thực

Tết Hàn Thực là một ngày tết vào ngày mồng 3 tháng 3 Âm lịch. Theo
nghĩa chữ Hán "Hàn" là lạnh, "thực " là ăn; " Tết Hàn thực" là tết ăn đồ lạnh.
Phong tục cổ truyền này có nguồn gốc từ Trung Quốc, được biết tới nhiều qua tiểu
thuyết Đông Chu liệt quốc.
Đời Xuân Thu (770-221 trước công nguyên), vua Tấn Văn Công, nước Tấn,
gặp loạn phải bỏ nước lưu vong, nay trú nước Tề, mai trú nước Sở.
Bấy giờ có một hiền sĩ tên là Giới Tử Thơi theo vua giúp đỡ mưu kế. Một
hôm, trên đường lánh nạn, lương thực cạn, Giới Tử Thôi phải lén cắt một miếng
thịt đùi mình nấu lên dâng vua. Vua ăn xong hỏi ra mới biết, đem lịng cảm kích vơ
cùng.
Giới Tử Thơi theo phị Tấn Văn Cơng trong mười chín năm trời, cùng nhau

trải nếm bao nhiêu gian truân nguy hiểm. Về sau, Tấn Văn Công giành lại được
ngôi báu trở về làm vua nước Tấn, phong thưởng rất hậu cho những người có cơng,
nhưng lại qn mất cơng lao của Giới Tử Thơi.
Giới Tử Thơi cũng khơng ốn giận gì, nghĩ mình làm được việc gì, cũng là cái
nghĩa vụ của mình, chứ khơng có cơng lao gì đáng nói. Vì vậy, ơng về nhà đưa mẹ
vào núi Điền Sơn ở ẩn.

15


Tấn Văn Công về sau nhớ ra, cho người đi tìm. Giới Tử Thơi khơng chịu rời
Điền Sơn ra lĩnh thưởng, Tấn Văn Công hạ lệnh đốt rừng, ý muốn thúc ép Giới Tử
Thôi phải ra, nhưng ông nhất định không chịu tuân mệnh, rốt cục cả hai mẹ con
ông đều chết cháy.
Vua thương xót, lập miếu thờ và hạ lệnh trong dân gian phải kiêng đốt lửa ba
ngày, chỉ ăn đồ ăn nguội đã nấu sẵn để tưởng niệm (khoảng từ mồng 3/3 đến mồng
5/3 âm lịch hàng năm). Từ đó ngày mùng 3/3 âm lịch hằng năm được coi là ngày
tết Hàn thực, nhằm tưởng nhớ đến công ơn dưỡng dục của những người đã khuất.
Tết hàn thực của người Việt Nam
Do giao lưu văn hoá lâu đời với Trung Hoa nên người Việt ảnh hưởng tết Hàn
thực. Ở Việt Nam cũng theo tục ấy và ăn Tết Hàn Thực ngày mồng 3 tháng 3. Tuy
nhiên, người ta chỉ làm bánh trôi hay bánh chay để thế cho đồ lạnh nhưng chỉ cúng
gia tiên, và có ít liên hệ đến Giới Tử Thôi và những kiêng kỵ khác, mang ý nghĩa
dân tộc sâu sắc. Hàng năm vào ngày này, nhiều gia đình cho xay bột, đồ đỗ xanh,
làm bánh trôi, bánh chay, nấu xôi chè lễ Phật và cúng gia tiên, có lẽ đó cũng là một
cách tưởng niệm người thân trong những ngày tháng cuối xuân.
Ngày ấy các gia đình làm bánh trơi bánh chay cúng ơng bà, tổ tiên và không
kiêng đốt lửa. Cũng trong dịp này nhiều nơi làm bánh trơi bánh chay cúng thần
hồng.
Làng Hát Mơn (PhúcThọ - Hà Tây) có lệ dâng bánh trôi lễ Hai Bà Trưng ngày

6 tháng 3, theo một truyền thuyết linh dị: Khi Hai bà thua trận từ Cấm khê chạy về
Hát Môn là nơi phất cờ khởi nghĩa, Hai Bà bị thương ở cổ còn ăn được bánh trôi
của Bà hàng mời rồi theo lời chỉ dẫn của Bà hàng (Bà hàng chính là Tiên hiện đón
Hai Bà về Trời) để gieo mình xuống dịng sơng Hát tuẫn tiết.
16


Hoặc hơn nữa ngày giỗ Tổ Hùng Vương ngày 10 tháng 3 hàng năm lễ hội
cũng dâng cúng bánh trôi. Trong hội Phủ Giầy tháng 3 lễ Mẫu cũng thấy cúng bánh
trôi.
Như thế rõ ràng Tết Hàn thực của ta mang màu sắc dân tộc riêng, trường tồn
trong quá trình dựng nước và giữ nước.
Hai thứ bánh trôi và chay đều làm từ bột gạo nếp thơm. Bánh trôi nặn viên
nhỏ, ngoài trắng, trong nhân đường đỏ, thả luộc trong nồi nước sôi, khi bánh nổi
lên mặt nước vớt ra vừa chín tới vì thế bà Hồ Xn Hương viết :
Thân em vừa trắng lại vừa trịn
Bẩy nổi ba chìm với nước non
Cịn bánh chay thì nặn trịn dẹt, khơng nhân, đặt lên đĩa nhỏ, khi ăn đổ nước
đường lên trên.
Ngày nay, cứ mỗi dịp tết Hàn thực về, người dân mọi vùng q đều làm bánh
trơi, bánh chay. Cịn ở thị thành, ngày xuân đi du ngoạn, khách cũng được hưởng
hương vị bánh trôi, bánh chay từ các quán hàng. Giữa thủ đô Hà Nội, trong những
phố cổ du khách có dịp được tận hưởng hương vị bánh trơi bánh chay mà tưởng
đến chuyện xưa nhiều điều thú vị.

4. Tết Thanh minh
Nguồn gốc

17



Tết Thanh minh là một khái niệm trong công tác lập lịch của các nước
phương Đông chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa cổ đại. Nó là một trong
số hai mươi tư tiết khí của các lịch Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên.
Tết Thanh minh Là tiết thứ năm trong "nhị thập tứ khí" và đã được người
phương Đông coi là một lễ tiết hàng năm. Theo nghĩa đen, thanh là khí trong, cịn
minh là sáng sủa. Khi tiết Xuân Phân qua, những cơn mưa bụi của trời xuân đã hết,
bầu trời trở nên quang đãng, sáng sủa là sang tiết Thanh Minh (thường bắt đầu
trong tháng ba hoặc muộn lắm là đầu tháng tư âm lịch tùy từng năm).
Thanh Minh là tiết thứ 5 trong 24 tiết của một năm, đây là dịp tiết trời trong
sáng mát mẻ nhất của năm, và ngày tiết Thanh Minh cách ngày tiết lập xuân 60
ngày.
Tết Thanh minh mang ý nghĩa cội nguồn, nhắc chúng ta không quên hướng về
quê cha đất tổ. Người dân nhiều nơi kết hợp Tết Thanh minh với Tết Hàn thực, tức
ngày bánh trôi bánh chay, được tổ chức vào ngày 3 tháng Ba âm lịch. Tuy nhiên,
trên thực tế Tết Thanh minh đi theo quy luật vận hành của mặt trời - lịch dương,
chứ không theo lịch mặt trăng - lịch âm, thường rơi vào ngày 4 hoặc ngày 5 của
tháng Tư dương lịch
Phong tục làm cỏ các phần mộ (lễ tảo mộ), sửa sang, thắp hương, đặt hoa quả
thành kính tưởng nhớ ông bà tổ tiên là những hoạt động không thể thiếu trong ngày
lễ quan trọng này
Phong tục
-

Lễ tảo mộ

18


Tảo mộ chính là sửa sang ngơi mộ cho sạch sẽ. Nhân ngày lễ Thanh Minh

người ta mang theo cuốc xẻng để đắp lại nấm mồ cho to, rẫy hết cỏ dại và những
cây hoang mọc trèo lên mộ có thể phạm tới hài cốt của người thân đã khuất. Sau đó
cắm mấy nén hương, đốt vàng mã hoặc đặt thêm bó hoa dâng cho vong hồn người
quá vãng.
Bên cạnh những ngơi mộ được trơng nom, săn sóc, cịn có những ngôi mộ vô
chủ, không người thăm viếng. Những người có lịng nhân đức khơng khỏi mủi lịng
thường cắm một nén hương, đốt nắm vàng mã cho những ngôi mộ này. Tại các nơi
tha ma mộ địa cịn có lập một cái am để thờ chung những mồ mả vô chủ gọi là Am
chúng sinh và mỗi cửa am có một bà đồng sớm tối đèn hương thờ phụng. Mọi
người đi tảo mộ ăn vận rất chỉnh tề. Những người quanh năm đi làm ăn xa cũng
thường trở về vào dịp này để tảo mộ gia tiên và sum họp với đại gia đình. Thường
người ta đi tảo mộ từ sáng sớm cho đến gần trưa. Thường người ta đi tảo mộ vào
tiết Thanh Minh trời quang mây tĩnh, và sau đó kính mời hương hồn tổ tiên về
hưởng cỗ con cháu cúng trong dịp này. Nhưng cũng có nhiều nơi người ta tảo mộ
vào dịp trước và sau ngày Tết. Nhiều làng thuộc tỉnh Hà Ðông ở vào vùng đất thấp,
tới vụ nước, ruộng nương và cả bãi tha ma đều ngập nước, thì người ta đi tảo mộ
vào đầu tháng chín, sau khi nước đã rút. Dù đi tảo mộ vào ngày nào thì việc thăm
nom mồ mả tổ tiên cũng là việc hay. Nghĩ đến gia tiên tức là nghĩ đến gốc, tưởng
đến nguồn.
-

Cúng lễ trong ngày tết thanh minh
Tết Thanh Minh cũng là dịp để con cháu sửa lễ cúng gia tiên sau khi viếng mộ
về. Cũng có nhà sửa lễ mang ra mộ cúng, nhưng đó chỉ là cúng riêng một ngơi mộ.
Cịn sau đó người ta vẫn cúng ở bàn thờ tổ tiên và khấn tất cả gia tiên nội ngoại về
phối hưởng. Người ta thường cúng mặn trong ngày Thanh Minh, nghĩa là có làm
cỗ, hoặc khơng làm cỗ thì cũng có đĩa xôi, con gà cùng với hương hoa, trà rượu,

19



vàng mã. Và đồng thời với việc cúng tổ tiên cũng có cúng Thổ Cơng như trong mọi
dịp.
Ngồi tục lệ trên, người Việt Nam cịn có tục lệ làm bánh trơi, bánh chay thắp
hương, sau đó cả gia đình qy quần bên nhau thưởng thức hương vị đậm đà của
món bánh này.
5. Tết Đoan ngọ
Nguồn gốc Tết Đoan ngọ: Không thể quan niệm Tết của người Việt có từ
Trung Quốc
Ở Việt Nam, Tết Đoan ngọ còn được dân gian gọi là bằng cái tên dân dã hơn
là Tết giết sâu bọ. Đây là một trong những ngày lễ truyền thống có nội hàm văn
hóa phong phú. Khơng chỉ riêng ở Việt Nam hay Trung Quốc mà ở Triều Tiên, Hàn
Quốc cũng có Tết Đoan ngọ. Vì vậy, Tết Đoan ngọ thực chất là một phong tục lễ
tết Á Đông gắn liền với quan niệm về sự tuần hoàn của thời tiết trong năm.
Trung Quốc với truyền thuyết Khuất Nguyên:
Vào cuối thời Chiến Quốc, có một vị đại thần nước Sở là Khuất Nguyên. Ông
là vị trung thần nước Sở và cịn là nhà văn hố nổi tiếng. Tương truyền ơng là tác
giả bài thơ Ly Tao (thuộc thể loại Sở từ) nổi tiếng trong văn hóa cổ Trung Hoa, thể
hiện tâm trạng buồn vì đất nước suy vong với hoạ mất nước. Do can ngăn vua Hồi
Vương khơng được, lại bị gian thần hãm hại, ông đã uất ức gieo mình xuống sơng
Mịch La tự vẫn ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch. Thương tiếc người trung nghĩa, mỗi
năm cứ đến ngày đó, dân Trung Quốc xưa lại làm bánh, quấn chỉ ngũ sắc bên ngoài
(ý làm cho cá sợ, khỏi đớp mất) rồi bơi thuyền ra giữa sông, ném bánh, lấy bỏ gạo
vào ống tre rồi thả xuống sông cúng Khuất Nguyên.

20


Ngồi ra, có truyền thuyết khác về sự bắt nguồn của ngày tết Đoan ngọ, nhiều
nguồn tin cho rằng tập tục tết Đoan Ngọ là bắt nguồn từ Hạ Trí trong thời cổ, có

người thì cho rằng, đây là sự tôn sùng vật tổ của người dân vùng sông Trường
Giang.
Truyền thuyết Tết Đoan ngọ tại Việt Nam:
Vào một ngày sau vụ mùa, nơng dân ăn mừng vì trúng mùa nhưng sâu bọ năm
ấy lại kéo dày ăn mất cây trái, thực phẩm đã thu hoạch. Nhân dân đau đầu không
biết làm cách nào để có thể giải được nạn sâu bọ này, bỗng nhiên có một ơng lão từ
xa đi tới tự xưng là Đơi Trn. Ơng chỉ dân chúng mỗi nhà lập một đàn cúng gồm
đơn giản có bánh tro, trái cây, sau đó ra trước nhà mình vận động thể dục. Nhân
dân làm theo chỉ một lúc sau đó sâu bọ đàn lũ té ngã rã rượt. Lão ông còn bảo
thêm: Sâu bọ hằng năm vào ngày này rất hung hăng, mỗi năm vào đúng ngày này
cứ làm theo những gì ta đã dặn thì sẽ trị được chúng.Dân chúng biết ơn định cảm tạ
thì ơng lão đã đi đâu mất. Để tưởng nhớ việc này, dân chúng đặt cho ngày này là
ngày "Tết diệt sâu bọ", có người gọi nó là "Tết Đoan ngọ" vì giờ cúng thường vào
giữa giờ Ngọ. Bởi vậy, không thể quan niệm Tết Đoan Ngọ của người Việt bắt
nguồn từ Trung Quốc như một số người vẫn lầm tưởng như hiện nay.
Ý nghĩa Tết Đoan ngọ
Ở Việt Nam, Tết Đoan ngọ được “Việt hóa” thành ngày Tết diệt sâu bọ và thờ
cúng tổ tiên. Người Việt Nam cịn gọi Tết Đồn Ngọ là "Tết giết sâu bọ" vì trong
giai đoạn chuyển mùa, chuyển tiết, dịch bệnh dễ phát sinh. Vào ngày này, dân gian
có nhiều tục trừ trùng phịng bệnh.
Hiện ở một số làng quê Việt Nam vẫn còn giữ nếp xưa, rất coi trọng ngày Tết
này. Sau Tết Nguyên Đán, có lẽ “Tết giết sâu bọ” là cái Tết sum họp đầm ấm nhất
21


và có nhiều tục lệ gắn kết với đời sống của người dân… vì vậy con cháu dù làm ăn
xa xôi mấy cũng cố thu xếp để về.
Vào thời điểm này, trái cây, hoa lá bắt đầu đơm hoa kết trái mong một mùa
bội thu, vì vậy, hoa quả là thứ đồ cúng khơng thể thiếu. Ngồi ra cịn có những
món ăn khác tùy theo tập quán của từng địa phương.

Vào ngày này, cả làng nhộn nhịp hẳn lên, nhà nào cũng dậy từ sớm chuẩn bị
phẩm vật cúng tổ tiên và hoa quả là thứ đồ cúng không thể thiếu. Người ta quan
niệm rằng, đây là thời điểm quả trên cây, lá trên cành bắt đầu đơm hoa kết trái và
cúng tổ tiên để mong một mùa bội thu.
Sau lễ cúng là các tục lệ giết sâu bọ. Cả nhà quây quần ăn những thứ quả
chua, rượu nếp, bánh tro... để diệt trừ" sâu bọ", xua đuổi hết bệnh tật...
Theo lệ, đúng ngọ (12h trưa), người dân ở các vùng thôn quê rủ nhau đi hái
lá. Đây là thời khắc có dương khí tốt nhất, là giờ mặt trời toả ánh nắng tốt nhất
trong năm. Lá cây cỏ hái được vào giờ này có tác dụng chữa bệnh rất tốt như các
bệnh ngứa ngoài da, nhất là các bệnh về đường ruột hay khi cảm mạo, đem những
lá thuốc này nấu nước xông giải cảm rất tốt.
Ngày xưa, vào ngày này, người ta cịn có tục nhuộm móng chân, móng tay,
tục khảo cây lấy quả, tục treo ngải cứu để trừ tà... Những em bé chưa biết đi thì
được lấy một ít vơi quyệt vào thóp, vào ngực và rốn để chúng không bị đau bụng,
nhức đầu. Tuy nhiên, phần lớn các tục lệ này nay đã được bãi bỏ, chỉ còn giữ lại
tục tắm nước lá và tục đi hái lá thuốc.
Nơi phố phường, thị thành, không nhiều vườn tược, cỏ cây, người dân có lệ đi
mua lá thuốc mồng 5. Dịp này, những người buôn bán từ quê ra đều mang theo đủ
22


thứ loại lá bày bán. Lá được xắt nhỏ, phân từng loại riêng biệt, người đi chợ chọn
lấy những lá có mùi vị ưa thích mua về, đúng ngọ ngày mồng 5, lại đem ra phơi
khô rồi bọc lại để trong tủ thuốc gia đình, dùng khi nhà có người ốm đau. Theo
truyền thống của từng miền, vào ngày này, ngồi hoa quả, những món ăn cũng
khác nhau. Tại Hà Nội và một số vùng của miền Bắc ngày này, rượu nếp, đặc biệt
là rượu nếp cẩm, là món khơng thể thiếu. Người ta cho rằng, bộ phận tiêu hoá của
con người thường có các loại ký sinh gây hại và chúng nằm sâu trong bụng nên
không phải lúc nào cũng diệt được. Duy có ngày mồng 5/5 (âm lịch), các loại ký
sinh này thường ngoi lên, con người có thể ăn thức ăn, hoa quả vị chua, chát và

nhất là rượu nếp, có thể loại bỏ chúng.
Theo dân gian, rượu nếp được ăn ngay khi vừa ngủ dậy thì rất hiệu nghiệm.
Rượu này chủ yếu là xơi cịn ngun hạt lên men, còn gọi là "cái". Người dân
thường dùng các loại gạo nếp trắng và cẩm đồ thành xôi, để nguội rồi rắc men, ủ
trong ba ngày. Thúng xôi ủ được đặt trên một chiếc chậu, hứng lấy nước rượu để
khi ăn, trộn với cái, tạo vị ngọt, cay rất dễ chịu. Người già, con trẻ đều có thể ăn
loại rượu này.
Phụ nữ các vùng quê miền Bắc phần lớn đều biết "ngả rượu nếp" và thường
tranh thủ dịp này ngả rượu để mang ra Hà Nội bán, có người chỉ trong một buổi
sáng bán được đến cả 10 chậu nếp cẩm.
Cịn ở Đà Nẵng, món khơng thể thiếu trên mâm cơm cúng là bánh ú tro. Nhà
nào cũng mua từ ba bốn chục bánh trở lên.
Ngoài ra, theo truyền thống của người miền trong, thịt vịt cũng là một thứ
không thể thiếu cho ngày lễ này. Tại TP.HCM, vịt quay, heo quay ngày này thường
tăng hơn so với ngày thường.
23


7. Tết Trung nguyên( Rằm Tháng 7)
Nguồn gốc ra đời lễ Vu Lan
Lễ Vu Lan chính thức được bắt nguồn từ một bản kinh ngắn của Phật Giáo
Đại Thừa “Phật Thuyết Kinh Vu Lan Bồn”, do ngài Trúc Pháp Hộ dịch từ tiếng
Phạn sang tiếng Hán vào đời Tây Tấn, tức khoảng năm 750-801 sau Công Nguyên
và được truyền từ Trung Hoa vào Việt Nam, không rõ từ năm nào.
Chữ Vu Lan, vốn phiên âm từ tiếng Sanscrit: Ullambana, Hán dịch là giải đảo
huyền, có nghĩa là “cứu nạn treo ngược”.
Xuất phát từ sự tích về Bồ tát Mục Kiền Liên đại hiếu đã cứu mẹ của mình ra
khỏi kiếp ngạ quỷ. Vu Lan là ngày lễ hằng năm để tưởng nhớ cơng ơn cha mẹ (và
tổ tiên nói chung) – cha mẹ của kiếp này và của các kiếp trước.
Chuyện xưa kể rằng, Mục Liên tên thật là La Bộc. La Bộc là con ông Phổ

Tướng và bà Thanh Đề. Vì gia đình túng thiếu, La Bộc phải đi bn bán ở tỉnh
Kiên Liên. Khi đã giàu có, La Bộc nhớ tới mẹ già liền cho người về quê biếu tiền
mẹ. Bà mẹ ăn xài hết nhẵn số tiền đó rồi, lại sai người giết chó làm nhân bánh biếu
sư. Đến lúc La Bộc về thì bà mẹ lại chối và nói rằng bao nhiêu tiền con gửi về cho
đã đem cúng cả vào đền chùa miếu vũ rồi. Chẳng bao lâu bà mẹ chết.
Chịu tang mẹ 3 năm, La Bộc đi qua nước Ki Đô là nơi Phật ở, La Bộc xin ở
lại tu luyện. Phật thương tình ưng thuận, sai thầy Kha Na cắt tóc ơng và đặt tên là
Đại Mục Khiên Liên( Mục Liên) và cho vào tu ở chùa Lã Bí trong rừng Quýt Sơn.
Muốn đến rừng Quýt Sơn phải đi qua ngôi chùa Thiên Giai là nơi có những âm hồn
nghe kinh. Mục Liên chỉ nhận ra người cha là Phổ Tướng còn mẹ là Thanh Đề thì
24


khơng. Mục Liên ơm mặt khóc, Phật hiện lên bảo cho biết là Thanh Đề vì khi sống
điêu ngoa gian ác nên bị đầy xuống ngục A Tỳ rồi. Mục Liên nghe vậy liền lặn lội
xuống ngục A Tỳ tìm mẹ. Nơi đây bà mẹ Mục Liên phải chịu trăm ngàn cực hình,
thấy con tới bà khóc lóc nhờ con tìm cách cứu. Mục Liên thấy mẹ bị như vậy liền
lấy bình bát, đem cơm dâng mẹ. Mẹ ngài được cơm nhưng chưa vào miệng cơm đã
hoà ra than lửa đỏ hồng.
Tôn giả Mục Liên thấy mẹ như thế gào khóc bi thảm, về bạch Đức Phật. Phật
dạy phải nhờ tới uy lực mười phương Chúng Tăng, cách cứu độ để những bà mẹ
hiện đang đau khổ đều được giải thoát. Ngày rằm tháng 7 là ngày tự thứ của mười
phương Tăng, tất thảy đều tư bi, ứng thọ. Ai được cúng đường Thánh Tăng thì tất
cả đều vượt ác đạo, ứng niệm giải thoát. Cũng thế chiếc chậu Vu Lan đựng những
tu lực chứng tâm hậu nhất của những đệ tử Đức Phật có thể chuyển nghiệp ác
thành nghiệp lành của con người. Mục Liên làm đúng lời Phật dạy, quả nhân mẹ
ơng được giải thốt. Mục Liên theo mẹ bay lên trời cầu xin Đức Phật xoá tội cho
bảy đời họ hàng nhà mình.
Cũng xuất phát từ tư tưởng “nhân- hiếu- trung- tín” của Nho giáo và Đạo giáo
bên Trung Quốc, ngày rằm tháng 7 còn gọi là tết Trung Nguyên có tục tế lễ tổ tiên.

Đạo giáo còn cho rằng Trung Nguyên một trong ba “nhật kỳ” của tam cung thần
cai quản họa phúc của con người chính là ngày Địa cung xá tội. Theo tín ngưỡng
dân gian thì ngày này ở âm phủ khảo chiếu sổ sách để đại xá cho các linh hồn ma
quỷ cô đơn ngồi đồng nội. Vì vậy ngày này cùng với cúng tổ tiên nhân dân cịn
nấu cháo hoa, bỏng ngơ, tiền giấy cúng chúng sinh mong họ siêu thoát cũng để tích
cơng đức cho bản thân.
Dựa vào tích ấy, vào ngày rằm tháng 7, các chùa đều làm lễ chay chạy đàn,
phá ngục cho các tội nhân. Nhà nhà cũng theo đó thành kính làm lễ vì tin rằng
25


×