MĨ THUẬT HI LẠP CỔ ĐẠI
Sau Ai Cập cổ đại, vào khoảng thế kỉ VIII tr.CN, ở phía bên kia
Địa Trung Hải, một nhà nước chiếm hữu nô lệ ra đời và tồn tại đến thế kỉ
II tr.CN. Đó là nhà nước Hi Lạp ngày nay, mà còn bao gồm cả các đảo
thuộc biển Ê-giê và vùng Tây Tiểu Á. Vị trí địa lí của Hi Lạp khơng thuận
lợi cho người Hi Lạp phát triển. Với nguyền nguyên liệu dồi dào như sắt
ở Spate, đồng ở đảo Chypze; vàng ở Terace; bạc ở Attique đã tạo điều
kiện cho Hi Lạp phát triển thủ cơng nghiệp. Có thể nói Hi Lạp đã trở
thành một trung tâm lớn nhất Châu Âu về sản xuất thủ công nghiệp và
ngoại thương. Điều này đã góp phần lớn thúc đẩy sự phát triển nền văn
minh Hi Lạp, trong đó có nghệ thuật tạo hình . Nền vă minh Hi Lạp bao
gồm nhiều thời kì phát triển. Thời kì văn minh Crét-Mi-xen (Crête-My
cène) từ cuối thiên niên kỉ III tr.CN; thời kì Hơ-me-rơ (Homère) thời kì
cơng xã nguyên thủy là thời kì ra đời và phát triển của các bang (từ thế kỉ
VIII đến giữa thế kỉ II tr.CN). Thời kì thứ 3 cũng chính là thời kì sẽ được
đề cập tới trong nội dung phần này.
2.3.1.Nghệ thuật tạo hình Hi Lạp và ảnh hưởng của nó đến sự phát
triển của nghệ thuật tạo hình thế giới
Cho đến tận ngày nay, khi nhắc đến Hi Lạp người ta sẽ nghĩ ngay
đến đền thờ Pác-tê-nông(Pảthénon), đến các pho tượng trên biển của Hi
Lạp như tượng người ném đĩa, tượng Vệ nữ Mi-lô.... Nghệ thuật Hi Lạp
đã phát triển và để lại nhiều thành tự vĩ đại. Theo Các Mác (Kak Max),
“trên một phương diện nào đó nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc Hi Lạp
được coi là tiêu chuẩn và những kiểu mẫu không thể bắt chước được”.
Văn hóa Hi Lạp cổ đại nói chung, nghệ thuật tạo hình Hi Lạp cổ
nói riêng đã đạt được những thành tựu lớn lao và chiếm một vị trí quan
trọng trong lịch sử phát triển của văn hóa thế giới. Thành tựu của nghệ
thuật tạo hình Hi Lạp vừa biểu hiện sự sáng tạo tuyệt vời của người Hi
Lạp vừa chứng tỏ đỉnh cao về sự mẫu mực của Hi Lạp về trí tuệ . Các
chuẩn mực Hi Lạp (Canon Gree) về tỉ lệ con người đến nay vẫn là những
bài học cho các thế hệ nghệ sĩ.Sau thời kì trung cổ, không phải ngẫu
nhiên con người ở thời Phục hưng nghĩ đến việc làm cho nghệ thuật lại
phát triển rực rỡ như xưa. Con người thời Phục hưng không chỉ khâm
phục trước những tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu của Hi Lạp. Họ đã tìm
thấy trong nền nghệ thuật cổ đại này một tư tưởng nhân văn cao thượng,
một nền nghệ thuật hiện thực, ca ngợi giá trị và vẻ đẹp của con người.
Đây là cơ sở để xây dựng một nền văn hóa mới, thấm đẫm những tư
tưởng nhân văn. Nền văn hóa của giai cấp tư sản chống lại nền văn hóa
của giai cấp phong kiến, của nhà thờ, giáo hội, nơi đã giam cầm khống
chế cả phần hồn và phần xác của con người trong thời kì trung cổ. Vai trị
của nghệ thuật Hi Lạp đối với sự phát triển văn hóa và nghệ thuật nhân
loại là rất lớn. Ăng-ghen có viết: “Khơng có các cơ sở đó, cơ sở do Hi
Lạp và La Mã xây nên, thì khơng thể có Châu Âu hiện đại”.
Sự phát triển của nghệ thuật Hi Lạp không giống với sự phát triển
của Ai Cập hay các nước phương Đông khác. Do có nhiều điều kiện
thuận lợi, nghệ thuật Hi Lạp có thể phát triển một cách đột biến. Trước
khi dân tộc Đô Riêng từ miền Bắc lục địa tràn xuống phía Nam, chinh
phục bán đảo Ban-căng và khắp vùng biển Ê-giê (Egéc) ở đây đã tồn tại
nhiều nền văn minh sớm phát triển và có những thành tựu cao với những
trung tâm như đảo Crét (Crete) và thành Mi-xen (Micène). Người Hi Lạp
có học được gì ở những nền văn minh hay khơng? Điều đó thật khó
khẳng định. Tuy vậy ta có thể thấy một điều chắc chắn rằng, cũng trên
mảnh đất đó, sau khi Crét và Mi-xen bị phá hủy đã xuất hiện một nền
nghệ thuật rực rỡ với nhiều tên tuổi lừng danh như Phi-đi-át, Mi-rông,...
Nghệ thuật đã trổ hoa đơm trái trên mảnh đất giàu truyền thống nghệ
thuật là một điều tất yếu và dễ hiểu. Bên cạnh đó, chế độ dân chủ đã tạo
điều kiện cho các tài năng nghệ thuật phát triển. Không phải ngẫu nhiên
mà các Pha-ra-ơng Ai Cập hay nữ hồng Clê-ơ-pác... đều được mọi người
biết đến. Nhưng ở Hi Lạp cổ đại, tên tuổi của các vị vua hay người đứng
đầu thành bang không được biết đến nhiều và sâu sắc như tên tuổi của
Hô-me-rơ (Home) một nhà thơ vĩ đại và các bản trường ca I-li-át, Ô-đixê, Xã hội Hi Lạp thời cổ đại là xã hội chiếm hữu nô lệ. Nhưng trong
lòng xã hội ấy lại chứa đựng những tư tưởng dân chủ tiến bộ. Nhà nước
chiếm hữu nô lệ Hi Lạp cổ đại là nhà nước thông bang. Ở đó có hai vua
với quyền lực như nhau, vừa là thủ lĩnh quân sự, vừa là tăng lữ và người
xử án. Dưới hai vua là Hội đồng trưởng lao gồm 28 người và Hội đồng
công dân 3 người. Chế độ xã hội ở đây là chế độ dân chủ chủ nơ. Chế độ
đó, mở đường cho các nhà khoa học, những nghệ sĩ được phát triển tài
năng, trí sáng tạo. Điều này giúp nghệ thuật cũng như khoa học Hi Lạp cổ
đại phát triển mạnh.
Nhưng như vậy vẫn chưa đủ, nghệ thuật Hi Lạp cịn được ni
dưỡng bằng một nguồn đất đặc biệt – nguồn thần thoại Hi Lạp. Mọi câu
chuyện thần thoại ra đời đều muốn giải thích các hiện tượng tự nhiên và
xã hội. Thần thoại Hi Lạp mang một sắc thái riêng, nó cũng giải thích thế
giới, song là sự giải thích hợp lí, lơgic mà lại rất giàu chất trữ tình. Quan
niệm của người Hi Lạp về thế giới thần linh giống như thế giới con
người. Các vị thần cũng có mọi điều hay, tốt và cả điều xấu như con
người. Đó là quan niệm “thần nhân đồng hình”. Quan niệm này chi phối
tới việc xây cất các cơng trình kiến trúc, việc làm các pho tượng thể hiện
thần linh không giống với nghệ thuật Ai Cập. Ngoài ra thần thoại Hi Lạp
còn là những câu chuyện hay, hấp dẫn, gợi nguồn cảm hứng sáng tạo cho
các nghệ sĩ tạo hình. Họ tìm thấy ở đây chất thơ, chất cảm xúc, thúc đẩy
họ sáng tạo ra những tác phẩm nghệ thuật bất hủ, thấm đượm tinh thần
nhân văn. Do lãnh thổ Hi Lạp gồm nhiều đảo nhỏ trên biển đã cho phép
Hi Lạp có điều kiện giao lưu và tiếp thu ảnh hưởng văn hóa của các quốc
gia xung quanh và ngược lại. Đây cũng là một điều kiện giúp văn hóa
nghệ thuật Hi Lạp phát triển nhanh chóng.
Năm 776 tr.CN, thế vận hội đầu tiên được tổ chức tại Hi Lạp.
Trong các đại hội thể thao thời cổ đại, các vận động viên thi điều kinh
năm môn phối hơpj: ném đĩa, ném lao, nhảy xa, vật và chạy. Thế vận hội
O-lim-píc được tổ chức ở O-lim-pi-a bốn năm một lần để tôn vinh Thần
Dớt (Zeus) là đại hội thể thao quan trọng nhất. Phong trào rèn luyện thể
thao sôi nổi này mang nhiều ý nghĩa lớn lao. Thể thao giúp rèn luyện sức
khỏe để có thể trở thành các chiến binh dũng mãnh, đồng thời còn tạo ra
những cơ thể lực sĩ đẹp đẽ cân đối. Điều này còn thể hiện quan niệm của
người Hi Lạp về cái đẹp. Lí tưởng thẩm mĩ Hi Lạp cổ đại là lí tưởng về
cái đẹp hồn thiện, hồn mĩ, đẹp về ngoại hình và đẹp cả về nội tâm. Lực
sĩ thể thao với các thân hình cường tráng cịn là nguồn mẫu hình lí tưởng
cho các nghệ sĩ Hi Lạp nghiên cứu và sáng tạo ra những tỉ lệ “vàng” cho
hình tượng con người”.
Hội tụ tất cả các yếu tố trên là điều kiện tuyệt vời cho sự phát triển
của văn hóa, nghệ thuật Hi Lạp. Nghệ thuật tạo hình Hi Lạp nhất là kiến
trúc và điêu khắc đã đạt tới đỉnh cao chỉ sau hơn 200 năm, từ thế kỉ VII
đến thế kỉ V tr.CN.
Từ giữ thế kỉ IV tr.CN, Hi Lạp đã có nhiều biến động lớn. Dưới
thời A-lếc-xăng-đrơ (Alecxandros) Hi Lạp đã xâm chiếm Ba Tư, Tiểu Á,
Phê-ni-xi (Phénicie) Pa-lét-xtin (Palestine) Ai Cập, Ấn Độ... Đây là giai
đoạn Hi Lạp hóa trong nghệ thuật Hi Lạp. Đến thế kỉ II tr.CN Hi Lạp bị
La Mã chinh phục. Sự kiện này là đầu mối kết thúc nền văn hóa văn minh
Hi Lạp cổ đại. Tuy vậy người Hi Lạp thời kì cổ đại đã để lại cho nhân
loại một di sản khổng lồ về văn hóa nghệ thuật. Những áng văn thơ bất hủ
của Hô-me-rơ, những tác phẩm kiến trúc, điêu khắc, những tư tưởng triết
học sâu sắc của Pla-tơn, A-rít-xtoots, Đê-mơ-cơ-rít, Xơ-cơ-rát,... những
phát minh khoa học của Hê-ra-cơ-lít, Pi-ta-go, Ơ-cơ-lít, Ác-si-mét... mãi
mãi đi vào lịch sử thế giới và được ca tụng.
Mĩ thuật Hi Lạp cổ đại phát triển trải qua ba giai đoạn. Thời kì cổ
sơ từ thế kỉ VII-VI tr.CN. Đây là giai đoạn mĩ thuật bắt đầu phát triển.
Thời kì cổ điển (480-323 tr.CN) là thời kì mĩ thuật Hi Lạp đạt đến đỉnh
cao mẫu mực và định hình. Từ năm 323 đến lúc kết thúc là thời kì Hi Lạp
hóa. Đây là lúc Hi Lạp phát triển và chinh phục các quốc gia khác. Họ
muốn các nền văn hóa này mang màu sắc của nghệ thuật Hi Lạp.
2.3.2.Nghệ thuật kiến trúc Hi Lạp cổ đại
a) Kiến trúc đền thờ
Trong đời sống của người Hi Lạp thời cổ đại, tơn giáo đóng vai trị
quan trọng. Họ thờ rất nhiều vị thần. Mỗi thành bang lại thờ một vị thần
bảo trợ riêng. Vì vậy, ở bất cứ thành bang nào của Hi Lạp cùng có các
đền thờ thần. Thể loại kiến trúc phát triển là kiến trúc đền thờ. Gần như
tồn thể các cơng trình xây dựng có giá trị nghệ thuật, to đẹp nhất Hi Lạp
đều thuộc về tôn giáo. Đền thờ ở Hi Lạp không phải là nơi tập trung của
các tín đồ tơn giáo do đó có kích thước vừa phải, khơng q to lớn, đồ sộ
như đền thờ của người Ai Cập. Nó cũng giống nghệ thuật kiến trúc Ai
Cập ở chỗ kiến trúc chính là kiến thức cột. Kiến trúc Hi Lạp có ba thức
cột chính.
b) Thức Đơ-ríc, thức I-ơ-nic và thức Cơ-ranh-tiêng
Sự khác nhau giữa các thức cột này được phân biệt bởi phần đầu
cột và các khía cạnh. Cột Đơ-ríc có hai mươi khía rãnh khá rộng. Hai
mươi bốn đơi khi là bốn tám khía của cột I-ơ-níc sâu hơn, khít hơn. Cột
Đơ-ríc ra đời sớm nhất và phát triển ở Péloponnêse ở các khu dân cư
miền Nam nước Ý và đảo Si-xin (Sicile). Phong cách I-ô-nic thanh mảnh
và duyên dáng hơn. Phần đầu cột được trang trí bằng hình guột cột. Ở
thời Hi Lạp hóa thức Cơ-ranh-tiêng được sử dụng nhiều. Phần đầu cột
được trang trí bằng những họa tiết và cách điệu mềm mại và trang nhã.
Năm 447 tr.CN đền thờ Pác-tê-ông (Parthenon) được khởi công
xây dựng trên đỉnh đồi A-cơ-rô-pôn (Acopolis). Đền thờ nữ thần A-tê-na
(Athena vị nữ thần bảo vệ thành A-ten). Theo tiếng Hi Lạp Pác-tê-nông
xuất phát từ chữ Pathenos: có nghĩa là Trinh nữ. Đền thờ được xây dựng
trong khoảng 447 đến 432 tr.CN.
Đền thờ Pác-tê-nông là sự kết hợp hài hòa giữa sự khỏe khoắn của
thức Đơ-níc và sự dun dáng nhẹ nhàng của thức I-ơ-níc. Đền có kích
thước rộng 31m, dài 70m và cao 14m. Vẻ đẹp của đền Pác-tê-nông thể
hiện trong sự cân đối, hài hòa về tỉ lệ giữa các bộ phận kiến trúc. Tỉ lệ này
được coi là có một khơng hai. Nếu chỉ thay đổi đơi chút về tỉ lệ các chi
tiết thì tồn bộ sự cân đối hài hịa sẽ khơng cịn. Vẻ đẹp của đền thờ còn
bộc lộ trong sự đơn giản, trang nhã của khối kiến trúc chủ yếu dựa trên
những đường thẳng với trang trí bằng các tác phẩm điêu khắc và phù điêu
dạng trụ ngang. Tác giả của Pác-tê-nông là hai kiến trúc sư Ichtinốt và
CanLi Crát. Nền đền có bậc cấp, không phải được xây cho vừa với bươc
chân con người mà là cho vừa với tầm vóc, kích thước của cơng trình.
Kiến trúc cân đối hài hịa của Pác-tê-nơng được trang điểm thêm đẹp đẽ,
lộng lẫy yếu tố đó đã đưa ngôi đền thờ nữ thần A-tê-na trở thành một
trong những cơng trình sáng tạo đẹp nhất của thế giới cổ đại và là một
trong hàng trăm kì quan của thế giới. Ngồi đền Pác-tê-ơng, ở Hi Lạp cịn
rất nhiều đền thờ nổi tiếng: đền thờ thần Dớt ở Péc-gam Ơ-lim-pi-a, đền
thờ thần biểu cả Pơ-giây-đon (Poseidon) ở phía Nam A-ten, đều thờ thần
Ác-tê-mít ở Ê-phê-đơ... Cho tới thế kỉ VI tr.CN, các đền thờ của Hi Lạp
đều được làm bằng gỗ hoặc gạch. Đến thws kỉ V tr.CN người Hi Lạp
chuyển sang các kiến trúc đá cẩm thạch lộng lẫy và sang trọng với bốn
mặt đền là các hàng cột đa. Kiến trúc tôn giáo là thể loại biểu hiện tài
năng của người Hi Lạp. Tuy vậy người Hi Lạp cổ đại đã không dừng ở
đây. Họ đã sáng tạo ra nhiều thức kiến trúc với nhiều kiểu dáng phong
phú. Thành tích của kiến trúc Hi Lạp cổ đại cịn phải kể đếnv việc quy
hoạch đơ thị, xây dựng các nhà hát, các quảng trường, các thành lũy... vào
thời kì các thế kỉ IV đến thế kỉ II tr.CN. Nhất là vào thời kì Hi Lạp hóa,
người Hi Lạp đã tiến hành quy hoạch trung tâm thành Péc-gam to lớn, đồ
sộ vượt cả thành A-ten thời cổ điển. Từ thế kỉ IV tr.CN trong kiến trúc Hi
Lạp còn phát triển loại kiến trúc lăng mộ. Có những lưng lớn, đẹp đẽ
được xếp vào một trong bảy kì quan của thế giới cổ đại như lăng vua Môxô-lơ (Mausole) ở Ha-li-các-nat (Halicảnasse).
Kiến trúc Hi Lạp được xây dựng theo ba kiểu thức khác nhau. Tuy
vậy vẻ đẹp của các cơng trình kiến trúc Hi Lạp lại có đặc trưng giống
nhau ở các thể loại. Đó là vẻ đẹp trang nhã, mực thước, trong sáng với kết
cấu kiến trúc chính là phịng cột trên mặt bằng hình chữ nhật.
2.3.3.Nghệ thuật điêu khắc Hi Lạp cổ đại
a) Thời cổ sơ (thế kỉ VII – VI tr.CN)
Cũng giống như kiến trúc, điêu khắc Hi Lạp cũng được phát triển
qua 3 thời kì. Ở thời kì cổ sơ hình tượng điêu khắc rất đơn giản. Trước đó
nghệ thuật điêu khắc Hi Lạp đã bắt đầu những bước đi dò dẫm (từ thế kỉ
X – VIII tr.CN). Phần lớn là các tượng nhỏ bằng đồng thanh, đất nung,
hoặc ngà voi thể hiện một cách sơ lược hình tượng các con vật, con người
hay các quái vật trong sự kết hợp giữa người và vật. Đơi khi cịn có
những tượng bằng gỗ, diễn tả các vị thần. Điêu khắc thời kì này gắn liền
với tơn giáo bằng các tượng thờ là chủ yếu.
Từ khoảng thế kỉ VII tr.CN, trong nghệ thuật điêu khắc Hi Lạp
xuất hiện hai loại tượng: tượng nam khỏa thân và tượng nữ mặc áo dài.
Những tượng này được thể hiện trong dáng đứng thẳng, hai tay buông
theo thân. Tượng trong dáng tĩnh, nghiêm trang, cân đối. Tuy vậy tỉ lệ cơ
thể cũng như hình khối chưa chuẩn mực. Các nghệ sĩ Hi Lạp đã nghiên
cứu và thể hiện vẻ đẹp khỏa thân của cơ thể nam giới. Tượng nữ giấu sự
duyên dáng của cơ thể trong nếp áo dài che toàn thân. Ngoài những chất
liệu quan trọng thuộc các thể kỉ trước nay chuyển dẫn sang chất liệu đá.
Ở thế kỉ VII tr.CN, trong điêu khắc Hi Lạp vẫn thấy những ảnh
hưởng của ước lệ tạo hình phương Đơng. Tượng “nhìn ngay ngó thẳng”
và gắn liền tơn giáo, tín ngưỡng. Sang thế kỉ VI tr.CN, trong phong cách
làm tượng đã có sự chuyển biến. Các tượng được thay thế bằng những
pho tượng có dáng động từ đơn giản đến phức tạp dần. Nửa đầu thế kỉ V
tr.CN, điêu khắc Hi Lạp được đánh dấu bằng các tác phẩm chạm nổi ở
đền thờ thần diễn tả 12 chiến công của người anh hùng Héc-quyn
(Hercules). Con người được diễn tả ở nhiều tư thế vận động khác nhau,
sinh động. Hình tượng điêu khắc Hi Lạp đã thốt khỏi sự chi phối của
ước lệ tạo hình cơ sở, nghệ thuật điêu khắc Hi Lạp bước vào thời kì cổ
điển với những tác phẩm tuyệt đẹp cịn được nhắc tới tận ngày nay.
b) Thời kì cổ điển (thế kỉ V-IV tr.CN)
Từ giữa thế kỉ V tr.CN thành bang A-ten đã phát triển trở thành
trung tâm lớn của Hi Lạp cả về chế độ xã hội cũng như về văn hóa nghệ
thuật. Về mặt xã hội, thế kỉ V tr.CN cịn được gọi là thế kỉ Pê-ri-clet. Ơng
là người duy trì nền dân chủ A-ten từ năm 462 đến năm 429 tr.CN. Người
đứng đầu về điêu khắc thời này là Phi-đi-át (Phiđias). Ngồi ra cịn phải
kể đến Pơ-li-clét (Polycléte ở Argos) và Mi-rông (Myzon) ở Át-tich.
Pô-li-clét dành thời gian, sự nghiên cứu sáng tạo của mình cho việc
tìm ra tỉ lệ chuẩn cân đối, hài hòa của cơ thể nam giới. Các pho tượng do
ơng sáng tác đã nói lên điều đó.
Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông là tượng Đô-ri-pho
(Doryphore) người lực sĩ vác giáo. Pho tượng có tỉ lệ 7 đầu. Điều đáng
nói ở đây là sự cân đối, hài hòa của các tỉ lệ giữa đàu thân tay chân, sự
mềm mại, sống động của hệ thống cơ, chất đá dường như đã biến thành
da thịt. Ở tượng Đô-ri-pho, ta cảm nhận được sự vững chắc của cơ thể, sự
chuẩn xác về giải phẫu tạo hình kết hợp với cái đẹp của đường nét, hình
khối. Đơ-ri-pho chính là chuẩn thước Hi Lạp. Ngồi ra tỉ lệ này còn được
thể hiện trên nhiều tác phẩm của Pô-li-clét như tượng Đi-a-đuy-men
(Diadusmène) năm 430 tr.CN.
Nếu Pô-li-clét say mê trong sáng tạo chuẩn mực Hi Lạp t hì Mirơng (Myzon) lại thích thú nghiên cứu dáng động của hình tượng con
người. Tượng Người ném đĩa (Discobolos) là một tác phẩm tiêu biểu của
ông. Qua nhiều phiên bản khác nhau cho ta hình ảnh khái quát về tác
phẩm. Trước mắt chúng ta là hình ảnh của một lực sĩ cường tráng đang
vận động hết sức các cơ của cơ thể để vung tay ném đĩa đi mong đạt được
thành tích cao nhất. Mi-rơng đã chọn được giây phút điển hình nhất của
hình tượng người ném đĩa. Ở đây có sự phối hợp cái đẹp về dáng, về
hình, về tỉ lệ. Để phô diễn hết vẻ đẹp của cơ thể, tác giả đã tạo ra dáng
vặn hợp lí, trong sự phối hợp phần chân nghiêng và thân nhìn chính diện.
Sự kết hợp này của hình khối đã tạo ra sự chuyển động và vẻ đẹp hoàn mĩ
cho tác phẩm. Trong nghệ thuật điêu khắc của Hi Lạp không thể không kể
đến Phi-đi-át. Tên tuổi ơng đã bao trùm tồn bộ thế kỉ V tr.CN. Tác phẩm
của ông chủ yếu là tượng và phù điêu trang trí ở đền thờ nữ thần A-tê-na.
Tượng thần Dớt của ông đã được xếp vào một trong bảy kì quan của thế
giới cổ đại. Đó là pho tượng thần Dớt ngồi trên ngai vàng đặt ở đền Ôlim-pi-a. Tay trái thần cầm cây vương trượng, tay phải cầm tượng thần
chiến thắng. Phần trên của tượng được khảm ngà voi, nửa thân dưới được
phủ một “tấm vải” bằng vàng dát mỏng, có chạm trổ nhiều ngơi sao. Thần
Dớt đi dép vàng. Ngai vàng cũng bằng ngà voi, vàng và trang trí bằng
những trận đấu điền kinh ở Ơ-lim-pi-a.
Phi-đi-át cịn là tác giả của tượng nữ thần A-tê-na. Cả hai bức
tượng này đều không giữ được đến ngày nay. Tuy vậy trong Bảo tàng cổ
học Quốc gia có một bản sao bằng đá cẩm thạch của người La Mã phỏng
theo tượng của Phi-đi-át tạc vào khoảng giữa 447 và 432 tr.CN. Qua đó ta
có thể hình dung pho tượng như sau. Đây là một pho tượng lớn, có nhiều
tài liệu, mỗi tài liệu lại cho một chiều cao khác nhau, nhưng có một điểm
chung là có thể tương cao trên 10 mét, trong dáng đứng. Tay trái nữ thần
cầm chiếc khiên nổi tiếng. Trên bàn tay phải là tượng nữ thần Chiến
thắng. Tượng cũng được làm bằng chất liệu giống như tượng thần Dớt.
Giáp trụ và y phục được dát vàng, da khảm ngà voi, đôi mắt được làm
bằng đá màu. Có một con rắn lớn cuộn trịn trong khiên, nhơ đầu ra
ngồi. Đơi mắt của nó cũng được điểm bằng đá sáng óng ảnh. Y phục của
nữ thần được nhà điêu khắc diễn tả nhiều nếp gấp, sóng thẳng, tạo vẻ uy
nghi song cũng rất mềm mại. Ở đền thờ Pác-tê-nơng cịn giữ lại được
những đoạn thần thoại đặc biệt biểu hiện lòng tự hào và sự dũng cảm của
người dân A-ten. Những phù điêu Hi Lạp hình tượng có độ nổi cao, gợi
cho ta cảm giác những bức tượng tròn được gắn lên mặt phẳng tường của
ngôi đền.
Sang thế kỉ thứ IV tr.CN, điêu khắc Hi Lạp lại tiến thêm một bước.
Nếu ở thời kì trước các tác giả muốn đạt đến độ mẫu mực về tỉ lệ, về hình
khối, về tạo dáng động thì ở thế kỉ này họ lại muốn tăng thêm chất liệu
thực cho tượng, bớt chất lí tưởng hóa. Ngồi những thành tựu đã có ở thể
kỉ V tr.CN, tượng thời kì này biểu cảm sâu sắc hơn, tiêu biểu là các tác
giả: Xcơ-pa (Scopa) Pra-xi-ten (Praxitéle) Li-xíp (Lisippe) Mơ-xơ-lơ ở
Ha Li, Các-nát-xơ vào năm 350 tr.CN. Tác phẩm của ông nằm ở mặt phía
Đơng của lăng Xcơ-pa thường thích diễn tả những cảm giải đau thương,
mạnh mẽ và sâu sắc. Pra-xi-ten lại thích vẻ đẹp mềm mại, duyên dáng
khác với vẻ đẹp tráng kiện, uy nghiêm của thể kỉ trước. Những tác phẩm
của ông như Héc-mét (Hermes), tượng nữ thần săn bắn Ác-tê-mít
(Artémis) và đặc biệt là các tượng vệ nữ như vệ nữ ở Xni-đơ (Cnide)...
Đến thế kỉ IV tr.CN, với Pra-xi-ten, ta được chứng kiến vẻ đẹp khỏa thân
của cơ thể nữ. Đây là sự thay đổi lớn trong nghệ thuật điêu khắc Hi Lạp
cổ đại. Đến đây các nghệ sĩ Hi Lạp đã phô diễn vẻ đẹp tuyệt mĩ mà tạo
hóa đã ban tặng cho “phái yếu” qua những pho tượng nữ khỏa thân. Có lẽ
cũng vì lẽ đó mà khi tìm thấy hai pho tượng vơ danh: Vệ nữ Mi-lô và
tượng Nữ thần chiến thưangs ở Xa-mô-crát, các nhà nghiên cứu mĩ thuật
đã xếp chúng vào thể kỉ IV tr.CN. Mặc dù vậy, nếu đặt vệ nữ Mi-lô bên
cạnh vệ nữ Xni-đơ của Pra-xi-ten ta thấy hai phong cách và hai vẻ đẹp
khác nhau: lí tưởng hóa và trần đầy hiện thực.
Sau Xcơ-pa và Pra-xi-ten, cịn phải kể đến Li-xíp một nhà điêu
khắc tiêu biểu của thời kì cuối thế kỉ thứ IV tr.CN. Đến Li-xíp, tỉ lệ cơ thể
nam giới lại có sự thay đổi. Nếu Đơ-ri-pho của Pơ-li-clét có tỉ lệ 7 đầu thì
tượng A-pơ-xi-ơ-men (tượng lực sĩ) có chuẩn mực về tỉ lệ (8 đầu). Vì vậy
tượng của Li-xíp mang vẻ đẹp thanh mảnh hơn, đầu nhỏ thân dài. Ông
được Alếch-xăng-đrơ đại đế (Alecxandre) phong làm nghệ sĩ chính thức
của mình.
c) Thời kì Hi Lạp hóa (thế kỉ III-II tr.CN)
Ở thời kì này, A-ten khơng cịn là trung tâm cường thịnh duy nhất
như thời kì trước. Trên những miền đất mới ở Tiểu Á và Bắc Phi mọc lên
những trung tâm mới như Péc-gam (pergame), Phốt-đơ (Phodes) Alếch-
xăng-đơ-ri. Điêu khắc cũng như kiến trúc đều muốn tìm đến một phong
cách mới. Hoặc tiếp tục phong cách của giai đoạn trước nhưng đẩy cao
hơn về mặt biểu hiện những tình cảm đau thương, bi thảm như những tác
phẩm Người lính Gơ-loa bị trọng thương hay Người chiến binh Gô-loa
giết vợ và tự sat...Trong pho tượng này gây ấn tượng mạnh cho thị giác
và cảm xúc. Hoặc phức tạp hơn trong phong cách diễn tả, hoặc cường
điệu hóa. Thể loại thường gặp trong điêu khắc thời Hi Lạp hóa là nhóm
tượng và phù điêu lớn. Ở đây ta đề cập đến hai tác phẩm tiêu biểu: nhóm
tượng Lao-cun và dải phù điêu diềm mũ cột ở đền thờ Péc-gam (năm 170
tr.CN).
Phù điêu trên diềm mũ cột đền thờ Péc-gam dài khoảng 120m, bao
quanh đền thờ, diễn tả cuộc giao chiến giữa các thần linh và những người
khổng lồ. Mọi hình tượng đều được diễn tả bằng kĩ thuật điêu luyện, hình
khối mạnh mẽ, với cường độ dữ dội trong các động tác.
Trong lịch sử Hi Lạp ghi nhận cuộc chiến tranh thành Tơ-roa với
chiến thắng oanh liệt của người Hi Lạp. Tuy vậy trong thần thoại Hi Lạp
lại nhắc đến chiến thắng này với sự khôn khéo mưu mẹo của Uy-lít-xơ và
sự giúp sức của các thần, nhất là thần A-tê-na. Sự thất thủ của thành Tơroa gắn với câu chuyện con ngựa gỗ thành Tơ-roa. Lao-cun (LaoCoon) là
viên tư tế của thần ánh sáng A-pô-lô. Khi thấy con ngựa gỗ ở ngoài thành,
Lao-cun đã khuyên quân Tơ-roa phá hủy nó đi. Vì chuyện đó, nữ thần Atê-na đã sai hai con rắn lớn cuối chết ba cha con khi cha con ông đang lập
đàn cúng tế thần biển Pơ-xây-đơng. Nhóm tượng đẹp và mang đầy chất bi
tráng, diễn tả một cảnh tượng khủng khiếp về số phận con người. Nhóm
tượng diễn tả ba nhân vật, mỗi người mang một nét đẹp riêng. Ngồi cái
đẹp lí tưởng về hình thể, tác giả còn muốn nhấn mạnh vẻ đẹp về tính
cách, về sự bộc lộ nội tâm. Cụ thể ở đây qua các hình dáng, thái độ khác
nhau của ba nhân vật đã bộc lộ nỗi khiếp sợ, đau đớn, kiệt sức của ba cha
caon Lao-cun. Sức căng vặn của ba cơ thể, kết hợp với đường cong ngoằn
ngèo của hai con rắn đã tạo nên một nhóm tượng có bố cục chặt chẽ, gắn
bó thể hiện nội dung một cách sâu sắc. Tất cả những điều đó đã khiến tác
phẩm trở nên vĩnh cửu với thời gian.
Ngoài ra trong nghệ thuật điêu khắc Hi Lạp còn phải kể đến những
pho tượng đất nung được chế tạo tại xưởng điêu khắc Ta-na-ga (Tanagra)
ở Bê-ô-trê (Béotré) với những khuôn khổ nhỏ. Ở bảo tàng Lu-vơ-rơ
(Pháp) có bộ sưu tập lớn những pho tượng Ta-na-ga.
2.3.4.Nghệ thuật hội họa, đồ họa Hi Lạp
Ở Ai Cập cùng với các cơng trình kiến trúc cịn tồn tại một số bích
họa. Nhưng ở Hi Lạp, hội họa hầu như khơng cịn giữ được tác phẩm nào.
Các tác giả, tác phẩm danh tiếng của Hi Lạp cổ đại cịn được lưu truyền
trong sách, truyện. Qua đó ta biết đến nghệ thuật hội họa với những tên
tuổi như A-pen-lơ, Giơ-xít, Pơ-lin-hơ... Với Pơ-lin-hơ, đề tài tranh của
ơng phần lớn về đề tài lịch sử và thân thoại Hi Lạp như Trận Ma-ra-tông,
Chiếm thành Tơ-roa... nhân vật được vẽ trên nền trắng. A-pen-lơ, Giơ-xít
với tác phẩm vẽ Ngựa, Chú bé với lẵng nho. Các tác phẩm được vẽ với
phong cách tả thực, sinh động.
Ngoài những căn cứ trên, các nhà nghiên cứu đã không bỏ qua một
nguồn tài liệu phong phú cho nghệ thuật về hình mang tính đồ họa. Đó là
những hình vẽ trên những chiếc bình cổ Hi Lạp. Bình cổ Hi Lạp có nhiều
kiểu dáng đẹp. Điều đáng lưu ý là các hình vẽ trang trí trên đồ gốm cổ Hi
Lạp có hai cách trang trí: hình vẽ đen trên nền trắng hoặc sáng và hình vẽ
màu đỏ trên nền gốm đen. Các họa sĩ trang trí lưu ý đặc biệt đến yếu tố
nét, mang trong các hình vẽ. Đề tài thay đổi qua các thời kì. Thời kì đầu
trong nghệ thuật Hi Lạp các nghệ sĩ quan tâm nhiều đến đề tài thần thoại.
Nửa cuối thế kỉ V tr.CN các cảnh thần thoại nhường chỗ cho những cảnh
sinh hoạt: duyên dáng và si tình. Thời kì Hi Lạp hóa, hội họa Hi Lạp phát
triển rực rỡ với những đề tài phong cách lịch sử. Ta có thể thấy từ các bức
họa ở Pom-pê-i mà nguồn gốc chính là từ những nguyên bản của Hi Lạp,
hoặc chính do các nghệ sĩ Hi Lạp sáng tạo ra. Vì vậy hoặc nó của Hi Lạp
hoặc mang phong cách, bút pháp của Hi Lạp.
Qua ba loại hình nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc và tranh của HI
Lạp cổ đại ta có thể thấy rõ đặc điểm đặc trưng nhất của nghệ thuật Hi
Lạp. Đó là một nền nghệ thuật gắn liền với thần thoại. Mà thần thoại Hi
Lạp vừa giải thích, mơ phỏng tự nhiên, xã hội vừa là những trang viết
huyền thoại về lịch sử Hi Lạp. Quan niệm thần nhân đồng hình đã dẫn
đến đặc điểm lớn cho nghệ thuật Hi Lạp cổ đại. Tính chất tôn giáo, thần
thoại bộc lộ ở nội dung, đề tài. Nhưng qua các hình tượng nhân vật các
tác giả lại muốn ca ngợi vẻ đẹp của con người, một vẻ đẹp hồn thiện cả
về ngoại hình và nội tâm. Các nghệ sĩ Hi Lạp đã bỏ được công thức chi
phối trong nghệ thuật tạo hình buổi ban đầu – những uocw lệ tạo hình cơ
sở để tiến tới một nền nghệ thuật hiện thực giàu tính nhân văn. Các loại
hình nghệ thuật tạo hình đều phát triển và có thành tựu cao, để lại cho
nhân loại nhiều tác phẩm vô giá. Đó là nền móng, là cơ sở cho nghệ thuật
tạo hình Châu Âu sau này.
2.4 .MỸ THUẬT LA MÃ CỔ ĐẠI
Theo truyền thuyết, La Mã được thành lập ở vùng Bảy đồi vào năm
753 tr.CN. Họ cũng cho rằng Rô-muy-luýt (Romulus) là hoàng đế đầu
tiên của La Mã, đồng thời là người sáng lập ra thành La Mã. Ngày nay ở
La Mã vẫn còn bức tượng đồng diễn tả hai đứa bé đang bú sữa một con
chó sói rừng. Bức tượng này được coi là biểu tượng cho La Mã. Hai đứa
bé đó theo truyền thuyết là hai anh em Rê-mút và Rơ-muy-luyt. Đó là hai
cậu con trai sinh đơi của công chúa Rlea Silvia và thần chiến tranh Mảs.
Do không biết cho chjungs là ai, nên ông ngoại chúng đã sai đem dìm
chúng xuống sơng Ti-bơ-rơ. Nhưng các thần linh đã cứu thốt hai đứa trẻ
và ni nấng chúng bằng sữa của chó sói. Sau đó chúng được một người
chăn cừu nuôi nấng và đặt tên là Rô-muy-luyt và Rê-mút. Sau này, lớn
lên, khi phát hiện ra nguồn gốc thần thánh của mình, hai anh em quyết
định lập thành phố cho riêng mình. La Mã đã ra đời như thế. Từ một
thành phố do các vua cai trị đến năm 509 tr.CN, La Mã trở thành nước
cộng hòa. Sau đó đến năm 260 tr.CN La Mã đã trở thành một quốc gia
mạnh mẽ. Năm 146 tr.CN La Mã trở thành đế quốc mạnh nhất ở vùng Địa
Trung Hải. Cũng vào thời điểm này La Mã đã chiếm Macedon và đưa Hi
Lạp lại chinh phục được La Mã. Họ là người mang đến cho người LA Mã
nghệ thuật danh tiếng của Hi Lạp. Nhiều nghệ sĩ Rô-ma vốn gốc người Hi
Lạp hoặc đã được học ở Hi Lạp, ở các bậc thầy Hi Lạp. Nghệ thuật Hi
Lạp đã ảnh hưởng lớn đến nghệ thuật La Mã.
2.4.1.Sự hình thành nền mĩ thuật La Mã cổ đại
Nền mĩ thuật La Mã được hình thành do nhiều nguồn ảnh hưởng.
Điều này có thể lí giải sự phát triển rực rỡ của mĩ thuật La mã mặc dù nó
ra đời muộn hơn các nền mĩ thuật khác. Có hai nguồn nghệ thuật chính
tạo nên dịng văn hóa LA Mã cổ đại. Một là của Hi Lạp và hai là nghệ
thuật của tộc người Ê-tơ-rúc-xcơ, một tộc người sống ở các quốc gia đô
thị ở Bắc MĨ và chịu ảnh hưởng của người Hi Lạp. Người Ê-tơ-rúc-xcơ
có thành tựu về nghệ thuật đúc tượng đồng. Điều này góp phần tạo nên sự
phát triển của La Mã về điêu khắc, nhất là tượng chân dung.
Người La Mã đã học theo người Hi Lạp rất nhiều lĩnh vực. Các vị
thần của La Mã cũng giống các vị thần của Hi Lạp nhưng có tên gọi khác.
Ví dụ, thần Dớt được goi là thần Giuy-pi-te, Thần A-phơ-rô-đit được gọi
là thần Vê-nuýt, hay Héc-quyn được gọi là Hê-ra-clét... Về văn học, lúc
đầu người La Mã cũng học theo HI Lạp. Sử thi của Hô-me-rơ và bản dịch
của Xô-phô-clơ được xem là những di sản văn học quý báu. Mặc dù vậy,
trong nghệ thuật và nhiều lĩnh vực khác La Mã có những sáng tạo riêng
và đóng góp rất lớn cho khoa học và nghệ thuật tạo hình. Một trong
những loại hình nghệ thuật có thành tựu lớn đó là kiến trúc. Vào nửa sau
thế kỉ I tr.CN, La Mã tiếp tục chinh chiến để mở rộng bờ cõi của mình.
Nhiều vùng đất quanh Địa Trung Hải đều thuộc quyền kiểm soát của La
Mã. Đất đai La Mã thời này bao gồm Tây Ban Nha, Pháp cổ, Hi Lạp, Siri, Ai Cập.... Lãnh thổ La Mã bao gồm cả đất đai ở châu Âu, Á và Bắc
Phi. Sự phát triển, lớn mạnh và giàu có của La Mã góp phần thúc đẩy sự
ra đời và đạt đến đỉnh cao của một số loại hình nghệ thuật mang đặc điểm
đặc trưng của La Mã. Vì vậy có thể khẳng định rằng, nền văn hóa La Mã
là nơi hội tụ của nhiều tinh hoa văn hóa của nhiều vùng khác nhau trên
thế giới. Mặc dù vậy, La Mã vẫn còn những sáng tạo riêng rất đặc sắc về
nghệ thuật.
2.4.2.Những sáng tạo trong mĩ thuật La Mã cổ đại
a) Kiến trúc La Mã cổ đại
Có thể nói nghệ thuật kiến trúc La Mã đã phát triển phù hợp với
nhu cầu của người La Mã. Vì vậy nó có nhiều đặc điểm khác với Hi Lạp
và nhất là Ai Cập. Ở Hi Lạp, đền thờ và các cơng trình cơng cộng được
xây dựng to lớn, tráng lệ. Nhưng nhà ở Hi Lạp nhỏ bé, khiêm tốn. Từ thế
kỉ IV tr.CN và nhất là thời kì Hi Lạp hóa mới xuất hiện những biệt thự
đầu tiên. Lâu đài của vua chúa cũng chỉ là những biệt thự lớn. Ở Ai Cập
cũng chỉ chú ý đến các kiến trúc “nhà ở cho linh hồn”, và thần linh, còn
nhà ở cho con người cũng làm rất đơn giản. Sau khi xâm chiếm được
vùng đất nào, người La Mã lập tức cho xây dựng, quy hoặc đô thị, tạo
tiện nghi cho cuộc sống của mình. Trong kiến trúc La Mã, kiến trúc thế
tục được đặc biệt chú trọng và phát triển. Sự nổi tiếng và vĩ đại của La
Mã chính là ở loại hình kiến trúc này.
Kiến trúc thời La Mã cổ đại rất phong phú. Trong đó nổi lên là các
kiến trúc cơng cộng như trụ sở Viện nguyên lão, đền thờ, cửa hàng, kho
chứa, nhà tắm... Các cơng trình cơng cộng đó được gọi là Ba-xi-li-ca
(Basilica). Ngồi ra ở trung tâm của các Ba-xi-li-ca có thể loại kiến trúc
phục vụ cho nhu cầu về mặt tinh thần cho con người, nhất là để tôn vinh
chiến cơng, chiến tích của các hồng đế La Mã. Đó là các khải hồn mơn,
các trụ biểu, hay các đấu trường, nhà hát... Trong thành tựu về kiến trúc
của mình, người La Mã cổ còn rất sáng tạo trong thể loại nhà ở tập t hể.
Mỗi in-su-la-e (insulae) cao 5 tầng và có 5 căn hộ sinh sống ở đó. Đến thế
kỉ IV Rơ-ma đã có 46600 nhà ở cơng cộng như vậy. Đi theo với kiến trúc,
trong quy hoạch đô thị người La Mã đã chú ý đến các cơng trình cấp,
thốt nước. Các cầu máng dẫn nước sinh hoạt do người La Mã xây dựng
có nhiều cơng trình đã trở thành tác phẩm nghệ thuật còn tồn tại đến ngày
nay.
Đây là một trong những đấu trường lớn nhất La Mã cổ đại. Theo
tiếng Ý “Colosseo” có nghĩa là khổng lồ. Những gì cịn lại cũng cho ta
thấy sự vĩ đại của cơng trình kiến trúc này. Đấu trường được xây dựng
theo dạng hình elip: vịng ngồi có kích thước 188m x 156m. Sân đấu bên
trong là 86m x 54m. Mặt ngoài cao 49m gồm 4 tầng, ba tầng dưới mỗi
tầng có 80 vịm uốn. Sức chứa của đấu trường lên tới 50.000 người. Ngày
nay đấu trường Cơ-li-dê khơng cịn ngun vẹn. Lớp nền lát đá đã biến
mất để lộ ra các mê cung, hành lang xà lim và lối đi bên dưới. Tuy vậy,
nếu nhìn phía ngồi thì đấu trường là sự kết hợp các thể thức kiến trúc
của Hi Lạp. Tầng một là sự biến thể của thức Đơríc, tầng hai là một cột
theo kiểu I-ơ-níc và tầng ba là kiểu thức Cơ-ranh-tiêng, tầng bốn sử dụng
mảng đặc là chính. Thỉnh thoảng có trổ cửa nhỏ, kết cấu theo kiểu nhẹ
dần lên. Bên cạnh những hàng cột theo kiểu Hi Lạp là các vòm cuốn bán
nguyệt mang đặc trưng kiến trúc La Mã. Sự kết hợp đó đã tạo cho mặt
ngồi đấu trường một dáng vẻ đặc biệt, phản ánh được một cách rõ nét
đặc điểm của nghệ thuật La Mã. Lúc ban đầu, đấu trường Cơ-li-dê là một
nhà hát ngồi trời. Do đó người ta cịn có thể gọi là hí trường Cơ-li-dê.
Trong các đơ thị của La Mã cổ đại, cịn có rất nhiều các khải hồn
mơn. Thể loại kiến trúc này thường được bố cục 3 cổng vòm. Nổi bật là
cổng chính ở giữa. Hai bên là hai cổng nhỏ. Tuy vậy cũng có khải hồn
mơn chỉ có một cổng duy nhất như khải hồn mơn Ti-tút xây dựng năm
81, khải hồn mơn Tru-gian (114-129). Những cơng trình kiến trúc loại
này có hai đặc điểm chính, đồng thời cũng là đặc điểm của kiến trúc La
Mã nói chung: chúng thường có kích thước lớn, độ rộng và sử dụng nhiều
vịm, vịng cung. Khải hồn mơn Sép-ti-mi-út (Septimius) được xây dựng
năm 203 cao 20m, rộng 25m và sâu 11m. Bên trong được xây bằng gạch,
đá vơi, ngồi bọc bằng đá cẩm thạch. Khải hồn mơn thường được xây
dựng để tơn vinh và ghi lại chiến thắng của các hoàng đế La Mã. Vì vậy
trang trí ở đây là phù điêu và chỉ phủ kín mặt ngồi kiến trúc. Nó khơng
mang giá trị vật chất cụ thể mà là biểu trưng cho các hoàng đế, khẳng
định bá chủ dành cho người chiến thắng.
Trong tất cả các thể loại kiến trúc La Mã, người La Mã đều sử
dụng vòm cuốn nhiều kiểu. Họ tỏ ra có biệt tài trong việc xây dựng mái
vịm với kỹ thuật điêu luyện. Điều này không xuất hiện trong nghệ thuật
kiến trúc Hi Lạp. Một phần do vật liệu sử dụng trong kiến trúc Hi Lạp
chủ yếu là bằng đá. ở La Mã có sự kiết hợp của nhiều vật liệu: gạch, đá...
Điện vĩ nhân Pan-tê-ơn (Pantheon) là một ví dụ điển hình cho kỹ thuật
xây mái vịm trịn của La Mã. Bên trong điện Pan-tê-ơn là một sảnh
đường hình trịn khổng lồ với mái vịm có lỗ thủng hình trịn, qua đó có
thể thấy bầu trời lồng lộng bên ngồi. Nhờ cửa sổ trịn trên đỉnh mái vịm
đó, trong lịng kiến trúc điện Pan-tê-ôn tràn đầy ánh sáng và tỏa đều từ
trên cao.
Dê thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tiện nghi sinh hoạt, người La
Mã còn xây nhiều nhà tắm cơng cộng. Ở Rơ-ma có khoảng 1000 nhà tắm
cơng cộng. Lớn nhất có 2 nhà tắm Ca-ra-ca-la và Đi-ơ-clê-ti-an. Nhà tắm
cơng cộng thực chất là một cơng trình kiến trúc với nhiều chức năng. Ở
đây có phịng ấm, phịng nóng, phịng tắm hơi, bể bơi, phịng lạnh... để
phục vụ cho nhu cầu tắm.. Ngồi ra cịn có nhà hát, phòng tranh, thư viện
hoặc nơi luận bàn về văn chương. Nhà tắm Ca-ra-ca-la được hoàng đế
Ca-ra-ca-la xây dựng năm 212. Với kích thước 330m x 330m nhà tắm
này thực sự là cơng trình nghỉ ngơi giải trí của người La Mã cổ. Trên đất
Pháp ngày nay còn cầu dẫn nước Ga-đơ (Pont du Gard) bắc qua sông Gađơ, dẫn nước về thành Nin-xơ. Cỗu cao 49m, dài 274m và được xây vào
năm 19tr.CN. Cầu móng Ga-đơ có ba tầng móng: lớp dưới cùng có 6
cổng vịm, lớp thứ 2 có 11 cổng vòm và trên cùng là 35 cổng vòm. Các
cổng vịm của mỗi tầng lại khơng giống nhau. Cầu Ga-đơ nằm trong hệ
thống cầu và ngòi dẫn nước từ đầu nguồn gần Ga-đơ về Nim-xơ (Nimes),
kéo dài 48km. Cầu móng có độ nghiêng thích hợp để nước lúc nào cũng
chảy. CƠng trình hùng vĩ này xây bằng gạch, đá để mộc, tạo vẻ đẹp cho
tác phẩm nghệ thuật này. Cơng trình cầu dẫn nước Ga-đơ được xếp vào
100 kì quan thế giới từ cổ đại đến ngày nay. Cầu Ga-đơ do tướng quân và
tổng đốc La Mã A-gu-ri-ba, bạn và anh em cọc chèo với hoàng đế Augút-xtra xây dựng.
Kiến trúc La Mã có nhiều đặc điểm khác hồn tồn Hi Lạp. Nếu
kiến trúc Hi Lạp có vẻ đẹp đơn giản, bình dị với đường thằng là chính thì
kiến trúc La Mã lại có vẻ đẹp hùng vĩ, đồ sộ với những vòm cuốn, vòng
cung nhiều loại. Trong nghệ thuật kiến trúc, thể loại kiến trúc dân dụng
phát triển nhất và đã để lại trên đất ý ngày nay nhiều cơng trình danh
tiếng, chứng tỏ tài năng về mặt kiến trúc của người La Mã cổ đại.