Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Giao lưu tiếp biến văn hoá Việt Nam và các nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.62 KB, 11 trang )

Giao lưu tiếp biến văn hoá Việt Nam và các nước
Sự giao lưu - tiếp biến văn hoá là dựa trên lý thuyết các trung tâm và sự lan
toả văn hố hay cịn gọi là thuyết khuếch tán văn hố. Điều này được giải thích
như sau: theo thuyết trên thì các trung tâm văn hoá lớn như Ấn Độ, Trung Quốc
không ngừng lan toả sang các nước khác đồng thời giao thoa với nhau, tạo nên
những vùng giao thoa văn hoá – nơi chịu ảnh hưởng đồng thời của nhiều trung tâm
văn hố. Vì nền văn hố Việt Nam là một nền văn hoá nhỏ, lại nằm trong vùng
giao thoa văn hoá nên văn hoá nước ta chịu ảnh hưởng của những nền văn hoá lớn,
đây là sự giao lưu - tiếp biến văn hố. Do đó mà văn hố nước ta có tính tổng hợp
và dung chấp.
Lịch sử nước ta.
Nước ta luôn đứng trước nguy cơ bị Trung Quốc, một cường quốc, cạnh
nước ta âm mưu xâm chiếm và đồng hố. Do đó nước ta đã mở cửa nền văn hố,
chấp nhận những giá trị văn hố bên ngồi và cải biến nó cho phù hợp với nền văn
hố nước ta. Trong những nền văn hoá ta tiếp thu từ bên ngồi có Ấn Độ, một nền
văn hố lớn tương đương với Trung Quốc và được du nhập bằng con đường hồ
bình nên đã có ảnh hưởng lớn đến nước ta.
Giao lưu nội vùng
Lớp văn hóa bản địa là thời kỳ hình thành nền tảng cơ tầng văn hố Việt
Nam, được tính từ khi người nguyên thủy biết dùng đá để chế tác công cụ cách
ngày nay vài chục vạn năm cho đến thời đại Hùng Vương dựng nước - thời đại làm
nên hai thành tựu lớn lao có ý nghĩa lịch sử. Đó là sự hình thành của nền văn minh
sơng Hồng và sự ra đời của hình thái nhà nước sơ khai:.nhà nước Văn Lang của
các vua Hùng và tiếp đó là nước All Lạc của An Dương Vương.
Văn hóa Việt Nam thời tiền sử:
Là thịi kỳ trước khi xuất hiện nền văn minh cổ đại, tức là trước khi hình
thành nhà nước quốc gia (từ buổi đầu thế kỷ I TCN - cuối thời đại đá mói), trên đất
nước Việt Nam đã có một q trình phát triến văn hoá lâu dài.
- Trong thời kỳ tiền sử ấy đã dần dần hình thành một cơ tầng văn hố chung cho tất

cả cư dân ở vùng Đơng Nam Á. Đó là nền văn hố lấy nghề nơng làm phương thức




hoạt động, thích nghi với điều kiện tự nhiên thuộc khu vực châu Á gió mùa - Nền
văn hố có đặc trưng là một phức thể văn hoá lúa nước vói ba yếu tố: văn hố núi,
văn hố đồng bằng và văn hố biển. Trong đó, yếu tố đồng bằng tuy có sau nhưng
đóng vai trị chủ đạo. Ở sườn đồi, sườn núi thấp, người ta đốt rùng làm nương rẫy,
trồng lúa cạn. Ở thung lũng, đồng bằng, ỏ’ ven biển, người ta canh tác lúa nước. Ở
nhiều nơi, cư dân còn biết dùng trâu bò để cày bừa. Ở ven các dịng sơng, ở ven
biển, cư dân thạo nghề đi biển và đánh bất hải sản. Ớ các vùng núi, cư dân nói
chung cịn ở trình độ tố chức sống bộ lạc, nhưng ở trung du và đồng bằng, cư dân
đã dần dần vươn tới trình độ tổ chức liên minh bộ lạc, sống thành vùng cư dân
đông đúc, gồm nhiều làng xã lớn.
- Liên minh bộ lạc là một bước quá độ đế vươn lên trình độ tố chức quốc gia.Việt

Nam là một Đông Nam Á thu nhỏ, có đủ ba yếu tố văn hố núi, đồng bằng và biển,
có đủ các sắc tộc thuộc các ngữ hệ ở Đông Nam Á hiện nay. Thông qua các ngành
khảo cổ học và cổ nhân học, chúng ta biết có các nền văn hoá trên đất nước Việt
Nam thuộc thời kỳ tiền sử:
+ Văn hoá Núi Đọ : văn hoá thuộc thời kỳ đá cũ, bắt đầu hàng chục vạn năm
kéo dài cho đến một vạn năm cách ngày nay (tên gọi của nền văn hoá này là từ
điểm khảo cổ học ở núi Đọ, Thanh Hoá)
+ Văn hoá Sơn Vi (Phú Thọ): văn hoá thuộc hậu kỳ đá cũ, tồn tại từ 20 đến
15 nghìn năm trước cơng ngun.
+ Văn hố Hồ Bình (Hồ Bình) - văn hố thuộc thời kỳ đá giữa, kéo dài
khoảng từ 12.000 đến 7.000 năm cách ngày nay. Đã có một nền nơng nghiệp sơ
khai xuất hiện trong lịng văn hố Hồ Bình.
+ Văn hoá Bắc Sơn (Lạng Sơn): văn hoá thuộc thời kỳ đá mới, kéo dài
khoảng từ 11.000 năm đến 7.000 năm cách ngày nay. Cùng với nền văn hố Hồ
Bình, văn hoá Bắc Sơn đã làm nên khúc dạo đầu của cuộc cách mạng đá mới. Đe
đến cuối thời đại đá mới thì phần lớn các bộ lạc nguyên thuỷ đã tiến sang giai đoạn

nông nghiệp trồng lúa, cũng tức là chuyến từ kinh tế khai thác sang kinh tế sản

2


xuất, thực sự bước vào lĩnh vực sáng tạo văn hố. Cư dân thời đại đá mới đã có
những tri thức phong phú về tự nhiên và dựa vào những tri thức đó để thích nghi
một cách hài hồ với tự nhiên.
Văn hóa thời Văn Lang – Âu Lạc
Cách đây khoảng thiên niên kỷ 3 trước công nguyên cho đến khi nhà hán
xâm lược (năm 111 TCN - thời kỳ hình thành chủng Nam Á Bách Việt) cư dân
Việt Nam từ lưu vực sông Hồng đến lưu vực sông Đồng Nai đã bước vào thời đại
kim khí. Thời kỳ này trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay đã tồn tại 3 trung tâm văn
hoá lớn của 3 quốc gia cố nhất Đơng Nam A :
- Văn hố Đơng Sơn (miền Bắc) gắn với sự ra đời của nhà nước Văn Lang của các

vua Hùng và tiếp đó là nước Âu Lạc của vua An Dương Vương. Với nền văn hố
Đơng Sơn, kỹ thuật chế tác đồ đồng đã vươn lên trình độ khá cao so với trình độ
thế giới lúc đương thời. Sản phẩm đồng thời cũng là biếu tượng của văn hố Đơng
Sơn là trống đồng Đơng Sơn. Q trình hình thànhvà phát triến của văn hố Đơng
Sơn / văn minh sông Hồng ở miền Bắc là một quá trình hình thành nên cái cốt lõi
của người Việt cổ và nhà nước đầu tiên của họ. Đây là một nền văn hoá thống nhất
mà chủ nhân của nền văn hố đó là một cộng đồng cư dân gồm nhiều thành phần
tộc người gần gũi nhau về nhân chủng và văn hố.Văn hố Đơng Sơn là một điển
hình của nền văn hố nơng nghiệp lúa nước.
- Văn liố Sa Huỳnh (miền Trung) được coi là tiền nhân tố của người Chăm và

vương quốc Chăm Pa. Văn hoá Sa Huỳnh là sản phẩm của cư dân nông nghiệp
trồng lúa, nhưng biết khai thác nguồn lợi của rừng và biển, và phát triển các nghề
thủ cơng.

- Văn hố Đồng Nai (miền Nam), một cội nguồn hình thành nền văn hố Ĩc Eo ở

Nam Bộ vào nhũng thế kỷ đầu công nguyên sau này. Văn hố Ĩc Eo gắn với
vương quốc Phù Nam, một nhà nước tồn tại từ thế kỷ II đến thế kỷ VII ở châu thổ
sơng Cửu Long. Văn hố Đồng Nai cũng là sản phẩm của cư dân có hoạt động
kinh tế chủ yếu là nông nghiệp và thủ cơng. Tóm lại, tiến trình văn hố thời tiền sử

3


và sơ sử thuộc giai đoạn hình thành nền tảng của văn hoá Việt Nam, với các đặc
điểm cơ bản sau đây:
- Tiến trình văn hố Việt Nam thời tiền sử và sơ sử là tiến trình hình thành nên

những nền tảng của văn hố Việt Nam, hình thành cốt lõi của người Việt cổ, là
phác thảo khởi nguyên về một nền văn hoá quốc gia dân tộc đa tộc người về sau.
- Những nền tảng văn hố đó có là những nền tảng văn hoá bản địa / nội sinh, nằm

trong cơ tầng văn hoá chung của khu vực văn hố Đơng Nam Á thời bây giờ, nó
khác với hai nên văn hố - văn minh Trung Qc và An Độ ở châu
- Đỉnh cao của giai đoạn hình thành những nền tảng văn hoá nội sinh Việt Nam là

văn hố Đơng Sơn, văn hố Sa Huỳnh và văn hố Đơng Nai, cũng là ba đỉnh cao
của văn hố Đông Nam Á, miền đông bán đảo Đông Dương. Ba trung tâm văn hố
đó phát triển theo thế chân vạc, nhưng ln có mối quan hệ qua lại với nhau, đồng
thời phát triển, giao lưu với nhiều văn hoá khác ở khu vực. Đơng thời, ba trung
tâm văn hố ây đêu sẽ phát triên thành ba nên văn minh lớn ở Đông Nam Á, ứng
với ba quốc gia cổ đại là Văn Lang - Au Lạc, Chăm Pa và Phù Nam
Giao lưu liên vùng
Chỉnh sách Hán hóa và sự giao lưu cưỡng bức (111TCN đến năm 939

Từ năm 179TCN, sau thất bại của An Dương Vương trong cuộc kháng
chiến chống Triệu, đất nước Au Lạc bị nội thuộc vào lãnh thổ Nam Việt của Triệu
Đà. Đến năm 11ÌTCN,^ nhà Hán tiêu diệt họ Triệu, sáp nhập Nam Việt vào đế chế
Hán.từ đây cho đến năm 905 sau công nguyên, đất nước Âu Lạc rơi vào ách thống
trị của bọn phong kiến phương Bắc.
Dưới ách Bắc thuộc, bọn thống trị Trung Quốc ra sức thực hiện chính sách
Hán hóa. Chúng cho di thực mơ hình tổ chức chính trị và sinh hoạt xã hội Trung
Hoa sang đất Việt, chúng xóa bỏ chính quyền trung ương của vua Thục và chia
nhỏ miền đất nước ta thành các đơn vị hành chính địa phương các cấp theo hệ
thống hành chính địa phương ở Trung Quốc là châu, quận, huyện, hương, xã và
đến thời Đường bao trùm lên các châu ở miền đất nước ta chúng đặt thành một phủ

4


(An Nam đô hộ phủ). Từ một quốc gia độc lập, nước ta trở thành một địa phương
của Trung Quốc
Có thể nói, dưới ách Bắc thuộc, nhân dân Âu Lạc đã phải chấp nhận mọt
cuộc giao lưu cưỡng bức vô cùng nghiệt ngã với nền văn hóa Hán, một nền văn
hóa có khả năng đồng hóa rất cao, đã từng đồng hóa một cộng dồng Bách Việt
rộng lớn từ phía Nam sông Dương Tử trải dài về nam cho đến núi Ngũ Lĩnh. Bọn
phong kiến phương Bắc ra sức phá huỷ? tiêu diệt thành tựu văn hóa dân tộc ta như:
thu gom sách vở, bắt thay thế trang phục Hán.v.v... nhưng khơng đạt được mục
đích Có thể hệ thống văn tự Việt đã bị xóa bỏ trong suốt ngàn năm đô hộ này.
Đấu tranh chống Hán hỏa và phát triển văn hóa dân tộc:
Ý thức đối kháng kiên trì, bất khuất trước nguy cơ xâm lăng của phong kiến
phương Bắc. Tên nước "Nam Việt" ra đời từ thời Triệu Đà' đã tỏ rõ ý thức phân
biệt chủ quyền đất nước . Từ đó về sau, trải nhiều lần đổi tên, chữ "Nam" vẫn được
duy trì
Những cuộc kháng chiến liên tiếp qua các thế kỉ như Hai Bà Trưng, Bà

Triệu, Lí Bí,Triệu Quang Phục, Mai Thúc Loan, Phùng Hưng, Cha con họ Khúc,
Dương Diên Nghệ và đỉnh cao là cuộc đại thắng của Ngô Quyền năm 938.
Với cuộc đấu tranh chống Hán hóa một cách tích cực đó, khi bựớc ra khỏi
ách Bắc thuộc, nền văn hóa của người Việt "như một tòa nhà chỉ thây đổi ở mặt
tiền và vẫn giữ được cấu trúc ở bên trong".
Sau chiến thắng của Ngô Quyền, nước ta lại xây dựng nền độc lập.Trải qua
các triêu đại ngăn Đinh Bộ Lĩnh (968-980), Lê Hoàn, phải đên thời nhà Lý (10091225 - quốc hiệu Đại Việt được đặt vào năm 1054 thời vua Lê Thánh Tơng ) nền
văn hóá Đại Việt mới phát triển mạnh với tinh thần phục hưng mãnh liệt.
Tiếp theo là nhà Trần, nền văn hóa Đại Việt đạt được bước phát triến rực rỡ,
gọi chung là thời đại văn hóa Lý - Trần.
Đạt tới đỉnh cao rực rỡ là thòi nhà Lê, nước ta đã có một nền văn hóa phong
kiến ngang tầm khu vực, đủ sức tự cường và giữ vững độc lập dân tộc.

5


Dân tộc ta phát triển về phương Nam vừa nhằm mục đích bảo vệ lãnh thố,
vừa phát triên đât nước. Sáp nhập vương quôc Chăm pa ở miên Trung vào lãnh thổ
để mở đầu cho cuộc Nam tiến.
Dân tộc ta khẩn trương tiếp thu văn hóa phong kiến Trung Hoa, chủ yếu là
hệ thống giáo dục Nho Giáo, Phật giáo Trung hoa, kể cả Đạo giáo, theo xu hướng"
Tam giáo đồng quy Với phương châm "Việt Nam hóa " những thứ văn hóa ngoại
lai, nghĩa là tiếp nhận văn hóa và vận dụng cho phù hợp hoàn cảnh và bản lĩnh,
tính cách dân tộc Việt, nhân dân ta đã tạo nên một nền Nho giáo Việt Nam, Phật
giáo Việt Nam...
Nhân dân ta tiếp nhận chữ Hán, nhưng tạo ra chữ Nôm (TK VII- VIII) để
ghi âm tiếng việt - tiêu biểu có Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, Truyện Kiều
(3254 câu thơ lục bát) của Nguyễn Du...
Những lớp trí thức Hán học đã đóng vai trị nịng cột trong bộ máy quan lại
phong kiến Việt Nam các triều đại Lý, Trần, Lê và Nguyễn.

Thủ đô bền vững từ đây đặt tại Thăng Long, với Quốc Tử Giám được coi là
trường đại học đầu tiên, cùng với Văn Miếu (1070), khẳng định một giai đoạn phát
triển cao của dân tộc.
Những biểu hiện của văn hoá hỗn dung của nước ta.
Trong nền văn hố hiện nay có rất nhiều biểu hiện thể hiện sự hỗn dung của
văn hoá nước ta, điểm này được thể hiện trong một số lĩnh vực sau:
Thứ nhất tơi xét đến chữ viết. Trong thời kì Bắc thuộc nước ta tiếp nhận từ
Trung Quốc chữ Hán, nhưng chữ Hán được đọc theo cách của người Việt, gọi là
cách đọc Hán-Việt và được Việt hóa bằng nhiều cách tạo ra nhiều từ Việt thông
dụng. Tiếng Việt phát triển phong phú đi đến ra đời hệ thống chữ viết ghi lại tiếng
Việt trên cơ sở văn tự Hán vào thế kỉ XIII là chữ Nôm.
Chữ Hán
Chữ Nôm

6


Hay người Chăm đã tiếp thu hệ thống văn tự Ấn Độ cổ (chữ Phạn – Sancrit)
để tạo ra chữ viết riêng của họ. Hay vào thế kỉ XVIII, cùng với sự du nhập của
Kitô giáo các giáo sĩ Bồ Đào Nha đã từng dùng tiếng Latin để phiên âm tiếng Việt.
Đây chính là nền móng sơ khỏi của chữ Quốc ngữ
Thứ hai là hệ thống ngôn từ. Ở trên tơi đã nói Việt hóa tiếng Hán bằng nhiều
cách để tạo ra nhiều từ Việt thông dụng, chẳng hạn: số lượng, số đếm hay thứ tự
(nhất: một, nhị: hai, tam: ba,…); hay những từ cần thể hiện sự trang trọng mà
tiếng Việt khơng có như: thiên tử (con trời), long ân (ân huệ được vua ban cho),
long bào (áo của vua),… Hay khi tiếp xúc với phương Tây, ta đã Việt hố những từ
của họ thành từ Việt thơng dụng dung trong cuộc sống như: xà phịng/xà bơng
(savon), ga (gaz), ghi - đông (guidon), xilanh (cylinder), xi măng (cement), …
Ở nước ta hiện nay rất nhiều lĩnh vực thể hiện được sự hỗn dung của nền
văn hoá Việt Nam: thời trang, kiểu tóc, kiến trúc,…

Giao lưu văn hóa phương Tây
Văn hóa giao lưu với phương Tây: Có hai giai đoạn "Đại Nam" và hiện đại.
Văn hóa "Đại Nam”
Đại Nam là quốc hiệu do Nhà Nguyễn Minh Mạng đặt (1838) sau tên Việt
Nam do Gia Long đặt (1804). Giai đoạn này tính từ thịi các chúa Nguyễn cho đến
khi thực dân Pháp chiếm được nước ta làm thuộc địa.
Sau thời kì hỗn loạn Lê - Mạc, Trịnh Nguyễn phân tranh, đến nhà Nguyễn,
Nho giáo lại được phục hồi làm quốc giáo, nhưng nó đã đến hồi suy tàn, khơng
cịn đủ khả năng đáp ứng yêu cầu phát triến văn hóa tiến kịp phương Tây.

7


Thiên chúa giáo bắt đầu thâm nhập vào Việt Nam do các giáo sỹ phương
Tây đến các vùng duyên hải nước ta truyền đạo. Nhà Nguyễn ban đầu cho họ vào
vì mục đích chính trị nhất là thời Nguyễn Ánh cần quân lực đế chiếm lại đất cũ
(Đàng trong) từ tay Tây Sơn, về sau lại ngăn cản do ngại sự can thiệp và đe doạ
của phương Tây (thời vua Minh Mạng (1820-1840) là cò nhiều chỉ dụ cấm đạo
ngặt nghèo và thảm khốc nhất, nhiều cha cố và giáo dân bị giết trong giai đoạn
này, trong đó có cha Philippe Minh ở Mặc Bắc.
Thiên chúa giáo vào Việt Nam đã dẫn đến sự ra đời của chữ quốc ngữ. Chữ
quốc ngữ thời kỳ đầu gắn liền với việc giảng đạo, truyền đạo, với vị giáo sĩ được
tôn là 'ông tổ chữ quốc ngữ’ - AlếcxăngđơRốt. Năm 1649 - 1651, Alếc xăngđơRốt
đã công bố cuốn từ điển Việt - Bồ - La tại Rôma, đã khẳng định sự xuất hiện chính
thức của chữ quốc ngữ- chữ Việt Latiĩửh Sự xuất hiện của chữ quốc ngữ sẽ đưa sự
phát triển văn hoá lên một bước mới.
Sự phát triển của văn hoá nghệ thuật, trong đó có văn học chữ Nơm phát
triển mạnh. Những tác phẩm Truyện Kiều (Nguyễn Du), thơ Hồ Xuân Hương,
Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều), thơ của Bà Huyện Thanh Quan; những
sáng tác dân gian cũng phát triến mạnh. Kiến trúc đình làng thế kỷ XVI - XVII

phát triển mạnh, làm cho vị trí Thành hồng được xác định chắc chắn tại các làng quê.
Một đặc điểm lịch sử trong thời kỳ này là sự mở rộng cương vực vềphía
nam, dẫn đến sự hình thành Đàng Trong để phân biệt với Đàng Ngoài.Đàng Trong
là vùng đât mới của người Việt. Trước khi người Việt đặt chân đên, ở đây đã có
một nên văn hố 'tiên Việt' phát triên khá rực rỡ. Đó là nên văn hố Chăm Pa.
Trong quá trình cộng cư, người Chăm và người Việt đã giao lưu văn hố tự
nguyện, hồ bình.Do đó, văn hoá của người Việt ở Đàng Trong, vê cơ bản vẫn đảm
bảo tính thống nhất.
Văn hóa Việt Nam thời kỳ chống Pháp.
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Trong vòng gần 10
năm, từ 1858 đến 1867, các tỉnh miền Đông và miền Tây Nam bộ lần lượt bị

8


chiếm và bị đặt dưới ách thống trị của người Pháp. Đến năm 1872, quân Pháp đánh
ra Bắc bộ, và đến năm 1883, triều đình nhà Nguyễn phải ký với thực thực dân
Pháp hiệp ước "Hiệp định hồ bình" tại Huê. Với hiệp ước này, toàn bộ đât nước
Việt Nam đã bị đặt dưới ách thống trị của người Pháp.
Trong khi triều đình Huế liên tục cắt đất cho giặc và cuối cùng đã đầu hàng
thực dân Pháp, công nhận ách thống trị của thực dân Pháp ở Việt Nam, thì nhân
dân Việt Nam cùng các sĩ phu yêu nước đã liên tục đứng lên chông Pháp ở khắp ba
miền. Tất cả các phong trào yêu nước chông Pháp, bảo vệ độc lập dân tộc, tuy rất
kiên cường anh dũng nhưng đều bị thất bại. Khi việc bình định Việt Nam đã căn
bản hoàn thành, thực dân Pháp băt đâu tiên hành công cuộc khai thác thuộc địa.
Đặc trưng văn hoá của thời kỳ này là sự tiếp xúc, giao lưu văn hoá tây
phương (Pháp), và đối tượng trực tiếp tiếp xúc là các tầng lớp sĩ phu. Còn ở các
làng quê thì ảnh hưởng của sự giao lưu rât ít. Tâng lớp sĩ phu - những ngườ i nhạy
cảm với văn hoá đương thời, đã phân hoá thành ba thái độ ứng xử khác nhau:
- Chống lại sự giao tiếp, chống lại văn hoá phương Tây.

- Chấp nhận sự giao tiếp, đầu hàng thực dân về mặt chính trị, cố học lấy chữ Pháp,

văn hoá Pháp để ra làm quan cho chính quyền thuộc địa.
- Chủ động tích cực giao lưu với văn hố Pháp để tìm đường giải phóng dân tộc.

Ket quả của việc giao lưu văn hố thời kỳ này thể hiện ở các lĩnh vực:
- Văn hố vật chất: sự phát triển đơ thị, cơng nghiệp và giao thông; sự phát triển của

kiến trúc đô thị theo kiểu Tây phương; trang phục; những tiện nghi sinh phù hợp
với lối sống đơ thị có nguồn gốc phương Tây...
- Văn hoá tỉnh thần: sự ra đời và phát triển nhanh chóng của báo chí, của văn học

chữ quốc ngữ gắn với sự xuất hiện những thể loại văn học mới có nguồn gốc
phương tây (tiểu thuyết, thơ mới), những quan diêm nghệ thuật mới (chủ nghĩa
lãng mạn, chủ nghĩa tả chân, phương pháp miêu tả và phân tích tâm lý...). Bối cảnh
lịch sử, văn hoá thời này đã thúc đẩy sự phát triển của bộ phận văn học yêu nước
chống thực dân Pháp xâm lược. Đó là các nhà thơ - chí sĩ: Nguyễn Đình Chiểu,

9


Phan Văn Trị, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương... về sau các nhà hoạt động chính
trị như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh cũng đã dùng ngịi bút của mình tố cáo chế
độ thực dân, cổ vũ nhân dân đấu tranh cho độc lập, cho tiến bộ xã hội. Trước Cách
mạng Tháng tám, bộ phận nhà văn thuộc chủ nghĩa tả chân đã có những tác phâm
phê phán săc sảo xã hội của chê độ thực dân như: Tắt đèn (Ngô Tất Tố), Chí Phèo
(Nam Cao), số đỏ (Vũ Trọng Phụng)...
Văn hóa Việt Nam hiện đại (năm 1945 đến nay).
Ngày 2/9/1945, nước Việt Nam Dân Cộng Hoà ra đời, chấm dứt hơn 80 năm
đất nước bị thực dân Pháp xâm lược. Lịch sử Việt Nam từ sau Cách mạng Tháng

tám đã trải qua nhiều biến động lớn lao. Đó là trong vòng một nửa thê kỷ XX, Việt
Nam đã phải tiến hành liên tiếp hai cuộc chiến trang giải phóng dân tộc và thống
nhất đất nước.
Đặc điểm văn hố thịi kỳ này
- Người lao động trở thành người làm chủ thể văn hố có hệ tư tưởng là chủ nghĩa

Mác - Lênin. Văn hoá truyền thống, văn hoá chuyên nghiệp, giao lưu văn hoá theo
sự định hướng của Đảng Cộng sản Việt Nam, từ các văn kiện như, "Đe cương văn
hoá Việt Nam", (1943), "Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hoá Việt Nam" (1948); các
nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng cũng như các Nghị quyết Hội nghị
Ban Chấp hành Trung ương Đảng...
-Khoa học xã hội - nhân văn nước ta vốn có một bề dày nhưng cịn lẻ tẻ và
chưa có hệ thống, nay tiếp thu những phương pháp mới mới trong nghiên cứu.
-Khoa học tự nhiên kĩ thuật hầu như hoàn toàn mới đã được tiếp thu nhanh.
-Cơ sở hạ tầng kĩ thuật như đường quốc lộ, nhà máy điện, khai mỏ, nhà Bưu
điện,nhà máy điện.v.v...bắt đầu xây dựng.
-Một số trường trung học, sau đó cao đẳng, được thành lập.
-Tiếng Pháp đưa vào dạy chính thức ở nhà trường.
-Hệ thống chữ quốc ngữ được được sử dụng phổ biến hơn , giúp cho phong
trào học tập, truyền bá văn hóa mới được nhanh chóng.

1
0


-Hệ tư tưởng dân chủ tự do tư sản truyền bá vào nước ta.
-Lối sống phương Tây ảnh hưởng chủ yếu ở thành thị.
-Văn học, nghệ thuật phương Tây gây ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống văn
nghệ nước ta ( giai đoạn 1930 -1945 ) như: Kịch, thơ mới, tranh sơn dâu.
- Hệ tư tưởng xã hội hệ văn hoá - hệ tư tưởng Mác - Lênin.

- Văn hoá truyền thống, văn hố chun nghiệp đều phát triển, có sự giao lưu mạnh

mẽ với văn hoá nhân loại.
Ưu thế của “kiểu văn hóa hỗn dung điển hình” của văn hóa Vệt Nam
hiện nay.
Thứ nhất, vì là kiểu văn hố hỗn dung nên văn hoá nước ta từ trước đến nay
đã quen với việc tiếp nhận các nền văn hoá nước ngồi và cải biến nó thành bản
sắc dân tộc. Đây là một lợi thế của nền văn hoá nước ta giúp ta chủ động hội nhập
với thế giới, đặc biệt là trong bối cảnh tồn cầu hố diễn ra mạnh mẽ ở mọi nơi
trên mọi lĩnh vực.
Thứ hai, nhờ tính hỗn hợp và dung hồ mà nền văn hố nước ta vẫn giữ
được bản sắc dân tộc, thay vì hồ tan với các nền văn hố khác trên thế giới. Bên
cạnh những dòng nhạc hiện đại như pop, hiphop,... nước ta vẫn lưu giữ những nhạc
truyền thống như hát quan họ, hát trầu văn, cải lương,... Hay áo dài truyền thống
đến bây giờ vẫn còn được lưu giữ và góp phần tạo nên nét riêng của văn hố Việt
Nam và nhiều yếu tố văn hoá cổ truyền khác.

1
1



×