MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3. Mục đích nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
5. Bố cục
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGHỆ THUẬT HÁT RU VÀ
NGƯỜI MƯỜNG Ở XÃ TIẾN XUÂN, THẠCH THẤT, HÀ NỘI
1.1. Khái quát chung về nghệ thuật hát ru
1.1.1. Khái niệm
Hát ru là những bài hát nhẹ nhàng đơn giản giúp trẻ con ngủ. Phần lớn các
câu trong bài hát ru con lấy từ ca dao, đồng dao, hay trích từ các loại thơ hoặc hò
dân gian được truyền miệng từ bà xuống mẹ, thế hệ trước sang thế hệ sau. Do đó,
những bài hát này rất đa dạng, mang tính chất địa phương, gần như mỗi gia đình
có một cách hát riêng biệt.
Trong hát ru thường chỉ chú ý đến lời (ca từ) cịn giai điệu (nhạc lý) thì
mỗi bà mẹ có một giọng trữ tình riêng nhưng vẫn gây ấn tượng sâu sắc trong
suốt cả cuộc đời người con.
1.1.2. Nguồn gốc ra đời
Hát ru là loại hình âm nhạc xuất hiện sớm ở Việt Nam. Nếu sinh ra ở vùng
quê thì ai cũng từng được trực tiếp nghe tiếng "à ơi..." ngọt ngào, êm dịu của các
bà, các mẹ, các chị, các cô (đôi khi là cả các ông và các anh) ru cháu, con. Có thể
coi âm thanh tiếng sáo diều vi vu, tiếng đàn bầu thánh thót và tiếng hát ru bổng
trầm tha thiết là quốc hồn, quốc túy của người Việt.
Trong nền văn hóa dân gian, hát ru đã xuất hiện tận đáy lòng, tùy hứng,
tùy cảm, tùy thời đại và tùy địa phương. Những câu hát ru "tân thời" cũng được
các ơng bố, bà mẹ "ít vốn" hát ru nên phải "chế" để hát cho con ngủ.
Người ta cất tiếng hát ru là để ru con, ru cháu, ru em và ru chính mình lịm
vào dịng suối ngọt ngào của tuổi thơ. Từ đó trong tâm hồn mỗi người ln mang
nặng hình ảnh q hương và quãng đời thơ ấu trên võng hoặc bên võng lặng nhìn
vào giọt máu của mình đung đưa với những câu hát ru êm đềm say đắm hồn
nhiên mà bất tử hơn bất kỳ loại nhạc nào. Và cũng từ đó, người ta đã mượn hát
ru để dạy con, cháu học, làm và sống theo ý nghĩa trong những câu hát giản dị
nhưng ẩn dụ, mang ý nghĩa và tính giáo dục vô cùng sâu thẳm.
1.1.3.Các loại hát ru
Hát ru trong khơng gian gia đình, hát ru trên lưng mẹ khơng gian nương
đồi, đi đường rừng, lội suối. Khung cảnh hát ru dân ca các dân tộc phong phú,
nhiều không gian tươi đẹp thơ mộng và mệt nhọc nóng bức. Mẹ đưa con lên rẫy,
con nằm trên lưng mẹ trong cái địu vải bó sát con vào mẹ, đơi khi khó thở tức
bụng, mỏi lưng, lâu ngày bé thơ nghiện, hoặc bén hơi mẹ. Mẹ chỉ hát ru khi con
khó chịu kêu khóc, con ngủ yên, mẹ lặng lẽ đi đường, phát rẫy làm nương. Hát
ru dân ca Mông Tày Nùng Thái thường hát trong không gian lao động, con ngủ
con chơi khơng có tiếng hát. Nhiều khi con thức nằm trên lưng mẹ, mẹ tâm sự bi
bô, sau hát ru con ngủ. Lề lối hát ru, không nguyên vẹn như những bài hát ghi
trên bản nhạc, mẹ ru con có mở đầu vào hát, cịn kết thúc là vơ cùng, hát khi nào
con im lặng mới ngừng lời ca. Những lời mẹ ru con cất lên mỗi loại giai điệu bài
hát một loại giọng. Giọng hát ru dân ca các dân tộc, mẹ chị, bà ru con, ru em, ru
cháu… là giọng hát ru khác nhau.
1.2. Chức năng của nghệ thuật hát ru
Hát ru thuộc loại hình nghệ thuật dân tộc mang giá trị nhân văn cao đẹp.
Theo các nhà nghiên cứu âm nhạc dân gian, trong các loại hình dân ca thì hát ru
ra đời sớm nhất và từ đời này qua đời khác, các thế hệ truyền lại cho nhau dưới
dạng bất thành văn. Lời hát ru có chức năng giáo dục, thẩm mỹ cao, góp phần
hình thành, nuôi dưỡng và phát huy nhân cách, di dưỡng tâm hồn, kể cả thái độ
ứng xử của con người từ khi còn bé. Qua lời ru của bà, của mẹ, hình ảnh vầng
trăng, cánh đồng, cánh cò, ngọn cỏ, lũy tre làng, dịng sơng dần đi vào tâm thức
trẻ thơ. Những khúc hát ru giúp bé phát triển về ngôn ngữ và cảm nhận về âm
nhạc tốt hơn. Trong hát ru, lời ca thường lấy từ ca dao, đồng dao, hay trích từ các
loại thơ hoặc hò dân gian được truyền miệng qua các thế hệ. Mỗi vùng miền lại
có những bài hát ru khác nhau, rất đa dạng về nội dung và điệu nhạc. Có nhiều
dạng hát ru: hát nói, ngâm, ca xướng. Cùng một bài hát ru, mỗi bà mẹ lại có cách
hát khác nhau, cách thể hiện riêng, song đều thấm đượm tình cảm yêu thương,
ngọt ngào. Bằng những lời ru êm ả, tha thiết, người mẹ đã gieo vào tâm thức tuổi
thơ những ký ức và hình ảnh tốt lành về lòng nhân ái, đạo lý làm người, tình yêu
quê hương, đất nước. Về giá trị nội dung, các bài hát ru có ý nghĩa giáo dục cao,
hướng tới chân, thiện, mỹ, là những lời chỉ bảo, dạy dỗ đầu tiên đối với trẻ thơ
về đạo hiếu nghĩa: “Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước trong
nguồn chảy ra/ Một lịng thờ mẹ, kính cha/ Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”…
Từ lời hát ru, nhân cách của trẻ em được hình thành một cách tự nhiên, trong
sáng, chan chứa tình yêu thương, đồng thời giúp trẻ cảm thụ về thiên nhiên, đất trời.
1.3. Tổng quan về người Mường xã Tiến Xuân, Thạch Thất, Hà Nội
1.3.1. Vị trí địa lý
Tiến Xn, n Trung, n Bình là ba xã phía Nam của huyện Lương Sơn
(tỉnh Hịa Bình) được sáp nhập về Hà Nội từ năm 2008 theo chủ trương mở rộng
địa giới hành chính Thủ đơ. Thấm thốt đã nửa thập kỷ trơi đi, thế nhưng, những
đổi thay tại ba xã vùng núi nghèo gần như nhất huyện Lương Sơn thuở ấy, chính
những người dân bản địa cũng không khỏi ngỡ ngàng.
“Cắt” từ biển giao thông “Yên Bài 9km” trên Đại lộ Thăng Long chừng
3km, trung tâm hành chính xã Tiến Xuân khang trang đã hiện ra trước mắt. Cánh
đồng vụ chiêm xuân của xã đang sắp vào đòng, xanh bời bời. Sóng lúa dào dạt
xơ nhau tưởng như khơng có điểm dừng.
Tiến Xn có 18 thơn, bản, đồng bào dân tộc Mường chiếm gần 70%.
Kinh tế chính của xã là nông nghiệp, trồng rừng, 100% bà con không có nghề
phụ. Trước khi “về Thủ đơ” thu nhập theo đầu người của bà con tròm trèm 8
triệu đồng/người/năm. Sau 5 năm, cũng vẫn đất ấy, người ấy, con số này được
nâng lên 14 triệu/người/năm, chỉ tiêu phấn đấu trong năm tới sẽ nâng lên con số
16 triệu.
“So với GDP theo đầu người của Hà Nội, chúng tôi mới bằng hơn 50%,
nhưng so với các “xã bạn” ngày trước cũng trực thuộc huyện Lương Sơn thì xã
chúng tơi đã “chạy marathon” quá nhanh. Năng suất lúa trước kia chưa bao giờ
vượt quá 50 tạ/sào, bây giờ là hơn 60 tạ rồi. Khơng cịn hộ nào thiếu ăn mùa giáp
hạt, khơng còn nhà tạm, nhà dột. Cả xã còn 5,8% hộ nghèo vì “chuẩn nghèo” của
Hà Nội ở mức cao nên chưa hết… Nói chung, đời sống người dân nâng cao rõ
rệt!” – Phó Chủ tịch xã Tiến Xuân phấn chấn.
Câu chuyện của ơng Sơn có rất nhiều con số, nhưng tựu trung, tất cả những con
số ấy nó đang phản ánh một bức tranh sáng sủa của xã miền núi vùng sâu, vùng
xa sau 5 năm về Hà Nội: Giao thông, thủy lợi, điện đường trường trạm; áp dụng
khoa học kỹ thuật tiến bộ, cây trồng, vật nuôi… trong phát triển kinh tế hộ gia
đình đã làm thay da đổi thịt đời sống bà con nơi đây như một phép màu.
Đầu năm 2013, hệ thống loa truyền thanh đã được “phủ kín” 18 thơn bản
trong tồn xã. “Cán bộ xã không phải đến tận từng thôn, từng nhà để tuyên
truyền, phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng nữa. Phát thanh
viên phụ trách ngày ba lần đọc loa cho bà con nghe, từ chuyện giáo dục dân số,
KHHGĐ, chuyện xuống giống, gieo mạ, đổ nước, cày ải; chuyện đăng ký lịch
cày bừa bằng máy để giải phóng sức lao động… đến chuyện có đồn văn nghệ từ
Thủ đơ xuống biểu diễn cho bà con xem… Ở Thủ đô, ở các xã đồng bằng, nhiều
khi người ta nghĩ cái loa làm phiền người dân, nhưng ở các xã miền núi như
chúng tơi, đó là cả niềm mơ ước” – ơng cán bộ xã người bản địa chân thật.
Có điện, đời sống người dân thay đổi bắt đầu từ trong nhận thức: Bà con
được nghe những cái mới, cái tiến bộ… nên cái đầu nó cũng sáng ra nhiều. Hệ
thống mương bai, đường giao thông thôn, bản được đầu tư xây dựng khang
trang, dắt đàn bò đi thả trong đồi, vác cái cày, cái bừa ra ruộng… cũng đỡ vất
vả…
Hạ tầng xã hội được đầu tư cải tạo, các lĩnh vực y tế, văn hóa, giáo dục…
cũng được nâng cao rõ rệt ở xã vùng sâu Yên Trung.
Lấy thời điểm năm 2008 làm “cột mốc” để so sánh sự đi lên về kinh tế - xã
hội của các xã Tiến Xuân, Yên Bình, n Trung, chính những người dân nơi đây
cũng chưa hết bàng hoàng như một giấc mơ.
Chương 2
TÌM HIỂU VỀ LÀN ĐIỆU HÁT RU CỦA DÂN TỘC MƯỜNG
XÃ TIẾN XUÂN, THẠCH THẤT, HÀ NỘI
2.1. Đặc điểm của làn điệu hát ru
2.1.1. Âm nhạc
Hát Ru có tầm cữ âm vực khá hẹp, vừa đủ để truyền tải lời thơ, tạo cảm
giác như ngâm ngợi trong một không gian n bình. Ở đây, những giai điệu rộng
mở khống đạt, lên bổng xuống trầm sẽ là bất hợp lý với cái đích ru trẻ ngủ. Một
âm vực hẹp thật phù hợp với giọng hát của một người bình thường, khiến bất cứ
ai cũng có thể hát ru dễ dàng mà không cần đến một sự rèn luyện đặc biệt. Nói
thế để thấy tính thực hành xã hội đã chi phối làn điệu từ toàn bộ đến từng phần
như thế nào.
2.1.2. Làn điệu
Cũng như nhiều làn điệu âm nhạc dân gian nói chung, Hát Ru dùng thơ
lục bát- một thể thơ dễ làm, dễ thuộc để đặt lời ca. Bên cạnh đó, người ta cũng có
thể dùng thơ lục bát dạng biến thể hay đôi khi dùng cả song thất lục bát. Nhưng
những trường hợp đó khơng phổ biến vì được coi là khó hát. Bởi việc thêm từ
hay đổi cấu trúc nhịp thơ ở mỗi vế sẽ gây nên sự xáo trộn nhất định. Thế nên
người hát phải đủ tài ứng vận để đảm bảo đúng âm điệu của đường tuyến cơ bản.
Ở đây, một cặp lục bát được xem như đơn vị tối thiểu của phần Tiếp diễn- tức
phần lời ca của làn điệu Hát Ru. Có nghĩa nếu ít thì chỉ hát một cặp thơ cũng coi
như trọn vẹn làn điệu, cịn nhiều thì khơng giới hạn. Như thế, Hát Ru thuộc dạng
làn điệu có cấu trúc co giãn không hạn định. Bài Hát Ru kéo dài bao lâu, hoàn
toàn tùy thuộc vào dung lượng, vốn liếng thơ ca của người hát, đồng thời phụ
thuộc vào "kết quả" của mục đích thực hành xã hội- tức đứa trẻ được ru đã... ngủ
hay chưa!? Đặc tính co giãn khơng hạn định đó khơng chỉ có ở Hát Ru, mà cịn
thấy ở nhiều thể loại âm nhạc dân gian khác như Hát Ví, Hát Trống quân, Hát Cò
lả, Hát Ghẹo, Hát Dặm, các giọng ngâm cũng như các thể loại hò trên cạn, dưới
sông nước... Với khả năng chuyển tải bất cứ một dung lượng thơ ca nào, đó là
một cấu trúc mang tính thực hành cao, rất phù hợp với mục đích sử dụng làn điệu
trong đời sống cũng như trong sinh hoạt âm nhạc của người dân lao động.
Về mặt nhịp điệu, đương nhiên, tiếng hát Ru con thuộc dạng nhịp đôi, êm
ả, đều đặn, dàn trải, phù hợp với nhịp đưa nôi, phù hợp với tâm sinh lý- tạo cảm
giác buồn ngủ. Có thể xem đó là điều tất yếu nội tại trong làn điệu bởi sự chi
phối của tính thực hành xã hội. Những kiểu dạng nhịp điệu nghịch phách, đảo
phách, giật cục lắt léo tất nhiên sẽ là phản cảm trong bối cảnh này
2.1.3. Lời ca
Về lời ca, như đã biết, người hát Ru con có thể sử dụng bất cứ câu thơ,
chùm thơ hay cả một bài thơ lục bát có sẵn làm lời ca. Bên cạnh đó, người ta
cũng có thể tức hứng sinh tình, ứng tác để giãi bày nỗi niềm tâm sự. Điều đó có
nghĩa nội dung lời ca của các làn điệu hát Ru con thật rộng mở. Ở đây, có thể tìm
thấy rất nhiều chủ đề, từ cảnh quan thiên nhiên, quê hương, đất nước, cánh cị,
bến sơng, cây đa, bến chợ, sân đình... cho đến mọi tâm tư tình cảm của con
người. Trong đó, sẽ thấy những chiều cạnh khác nhau như sau:
+ Tâm sự của người hát với đứa trẻ (đối tượng ru ngủ);
+ Tâm sự của người hát với những người xung quanh;
+ Tâm sự của người hát với chính mình, than thân, trách phận...
Như vậy, bên cạnh mục đích thực hành xã hội ru ngủ, làn điệu hát Ru con
cịn là cơ hội để mỗi cá nhân có thể bộc lộ những khả năng nghệ thuật âm nhạc
và thơ ca nhất định. Đồng thời, người ta có thể mượn hát Ru con làm nơi bộc
bạch nhiều tâm tư tình cảm chan chứa nhất, thỏa mãn những cái mà khơng thể
nói thẳng trong cuộc sống hàng ngày. Nói thế để thấy được những vai trị, chức
năng kép rất thú vị của một thể loại âm nhạc dân gian. Ở góc độ khác, thơng qua
hát Ru con, những người “ngồi cuộc” cũng có cơ hội để thấu hiểu người thân
trong gia đình. Điều đó hẳn có tác dụng không nhỏ với những mối quan hệ vợ
chồng, mẹ chồng nàng dâu, chị dâu em chồng... Những sự bộc bạch tế nhị đó là
một nét rất đặc trưng trong mơi trường văn hóa ứng xử truyền thống Việt Nam.
2.1.4. Hình thức biểu diễn
Về mặt cấu trúc, nhìn chung, đã là hát Ru con thì làn điệu bao giờ cũng
gồm 3 phần: Mở- Tiếp diễn- Đóng. Trong đó, phần Tiếp diễn chính là phần lời ca
của làn điệu. Lời ca hát ru con thông thường đều dùng thơ lục bát, hay đôi khi
lục bát biến thể- một thể thơ dân dã, dễ làm, dễ thuộc. Ở đây, một cặp lục bát
được xem là đơn vị tối thiểu của phần Tiếp diễn. Phần Mở và Đóng là những
câu đưa hơi mang tính đặc trưng nhất. Bắc Bộ và Trung Bộ thì đưa hơi là “à ơi”.
Riêng hát Ru con Nam Bộ thì đưa hơi bằng tiếng “ầu ơ”. Chính vì vậy, ở nơi đây,
người ta thường gọi làn điệu này bằng cái tên- Hát Ầu ơ.
Tiếng đưa hơi của Ru con Nam Bộ
Tiếng đưa hơi của Ru con Trung Bộ
Riêng tiếng đưa hơi của Ru con Bắc Bộ có nhiều kiểu dạng. Dạng đơn giản:
Dạng phức tạp
Tiếng đưa hơi mở đầu cho làn điệu, và khi muốn chia tách phần lời ca
(hoặc giả do chưa kịp nghĩ ra lời ca tiếp theo), người ta cũng hát đưa hơi tiếp
ngay sau câu bát. Khi đó, nó có giá trị như một đoạn chen, phân ngắt liên tục
dạng Mở- Tiếp diễn- Mở- Tiếp diễn- Mở- Tiếp diễn... Khi kết thúc làn điệu, nét
đưa hơi đó được xem là phần Đóng. Riêng với hát Ru con Trung Bộ, nét đưa hơi
cịn ln chen vào ngay sau từ thứ 6 câu bát, rồi sau đó, người ta mới hát cả câu
bát hồn chỉnh, làm thành một cấu trúc dị biệt kiểu “khúc ruột miền Trung”. Ví dụ:
Ạ ơi...i
Chiều chiều ra đứng bờ ao
Trơng về quê mẹ ruột đau... Ạ ơi...i
Trông về quê mẹ ruột đau mấy phần
Ạ ơi...i
Như thế, hát Ru con có cấu trúc co giãn tự do. Làn điệu kéo dài bao lâu,
hoàn toàn tùy thuộc vào dung lượng, vốn liếng lời ca của người hát, đồng thời
phụ thuộc vào “kết quả” của mục đích thực hành- tức đứa trẻ đã... ngủ hay chưa!
Về mặt nhịp điệu, đương nhiên, tiếng hát Ru con thuộc dạng nhịp đôi, êm
ả, đều đặn, dàn trải, phù hợp với nhịp đưa nôi, phù hợp với tâm sinh lý- tạo cảm
giác buồn ngủ. Có thể xem đó là điều tất yếu nội tại trong làn điệu bởi sự chi
phối của tính thực hành xã hội. Những kiểu dạng nhịp điệu nghịch phách, đảo
phách, giật cục lắt léo tất nhiên sẽ là phản cảm trong bối cảnh này.
Cũng tương tự như vậy, giai điệu hát ru có tầm cữ âm vực khá hẹp, đủ để
truyền tải lời ca, tạo một cảm giác ổn định trong khơng gian co gọn. Đó cũng là
một đặc điểm phù hợp sinh lý. Bởi để ru ngủ, người ta không thể dùng những
chuỗi giai điệu rộng mở, lên bổng xuống trầm hào sảng. Mặt khác, lẽ tự nhiên
của giọng người, khi càng lên cao thì người ta thường phải cố hát to- gây cảm
giác mạnh. Điều đó sẽ là bất hợp lý với mục đích ru trẻ ngủ. Ngoài ra, cũng cần
phải thấy rằng, một tầm cữ âm vực hẹp như vậy cũng là sự tương thích với
tính bình dân của một làn điệu hát Ru con, khiến cho ai ai cũng có thể hát được
dễ dàng. Trong sự “bó hẹp bắt buộc” đó, hát Ru con vẫn bao chứa đủ những yếu
tố thẩm mỹ nghệ thuật đích thực với những kiểu rung giọng, nhấn nhá, luyến láy
thật mềm mại, tạo nên sức hấp dẫn, quyến rũ riêng của làn điệu. Và, một người
hát ru hay khơng chỉ làm cho trẻ ngủ dễ dàng, mà cịn có thể... “mê hoặc” cả
những người xung quanh! Đấy là điều không thể phủ nhận được ở thể loại âm
nhạc này.
Nằm ở giai đoạn đầu đời của một kiếp người, hát Ru con tự thân nó
nghiễm nhiên mang chức năng tiên phong trong vai trò giáo dục nghệ thuật âm
nhạc dân tộc. Khi nghe mẹ ru, đứa trẻ có thể không hiểu ý tứ và nội dung của lời
ru vì chúng cịn rất bé, song những âm điệu đậm đà mầu sắc dân tộc ấy cứ thấm
dần, thấm dần qua giấc ngủ, ngày này qua ngày khác.., thẩm thấu và khắc sâu
mãi vào trong tâm hồn trẻ thơ, hình thành một tính chất riêng của một cộng
đồng, của một dân tộc trong một con người. Không phải ngẫu nhiên mà những
người lớn tuổi ở xa quê hương đất nước mỗi lần hướng về tổ quốc là một lần nhớ
về mái nhà, mảnh vườn, con sông, lũy tre làng thân thuộc… Và, trên nền cảnh
ấy, tiếng ru của bà, của mẹ còn văng vẳng đâu đây, tha thiết yêu thương, dịu
hiền, ngân nga, bảng lảng trong những trưa Hè vắng vẻ...
À ơi..! Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lịng thờ mẹ, kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con... À ơi…!
Như một phác họa mang đậm dấu ấn bản ngã văn hóa dân tộc, nó tái tạo
lại những kỷ niệm, những ký ức của cả một thời xa vắng. Nó chính là tiềm thức
của một tâm hồn dân tộc, gợi nên tình u thương đất nước trong lịng người
viễn xứ, giúp cho con người xác định và giữ gìn nguồn cội của mình, tránh được
tình trạng tha hóa về ý thức dân tộc, xa rời cộng đồng.
2.2. Hát ru
2.2.1. Trong đời sống
Với những điều kiện tự nhiên, xã hội cùng với nền kinh tế nông nghiệp tự
cấp, tự túc, là một huyện thuộc tỉnh miền núi nên đời sống của nhân dân cịn gặp
nhiều khó khăn. Hát ru là một loại nghệ thuật âm nhạc dân gian, là niềm tự hào
của dân tộc Mường nói chung và của người dân Thạch Thất nói riêng.
Trong đời sống văn hóa tinh thần Hát Ru là một trong những thể loại dân
ca được nhiều người yêu thích và có ý nghĩa vơ cùng quan trọng trong cuộc sống
của họ.
Tuy nhiên, trong bối cảnh xã hội hiện nay đang trong thời kì mở cửa giao
lưu, hội nhập đổi mới nhiều mặt về kinh tế, văn hóa, xã hội đời sống của nhân
dân ngày càng được năng cao cả vật chất lẫn tinh thần. Song, thực tế cho thấy
hát ru ngày nay đang bị chìm dần và có nguy cơ bị mai một bởi sự che lấp của
nhiều loại hình nghệ thuật khác,đặc biệt là thể loại âm nhạc hiện đại. Điều này
được thể hiện rõ qua những chương trình biểu diễn văn nghệ quần chúng của cả
tỉnh cũng như của huyện Thạch Thất khơng có một bài ru hay bài then nào trong
chương trình mà thay vào đó là những bài nhạc trẻ hiện đại, sơi nổi... Đây cũng
là sự ảnh hưởng của sự giao lưu hội nhập văn hóa, q trình tiếp xúc với văn hóa
ngoại lai cũng có những mặt tốt va mặt xấu chúng ta phải chọn lọc tiếp nhận
những tinh hoa văn hóa của nhân loại để nền văn hóa của chúng ta khồn bị lai
căng và không làm mất đi bản sắc văn hóa của dân tộc.
Văn kiện Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ VIII đã khẳng định: “xây dựng
nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”...để làm được điều đó, trước hết
chúng ta phải bảo tồn và phát triển nền văn hóa dân gian của từng dân tộc bởi
văn hóa dân gian là một bộ phận quan trọng của nền văn hóa dân tộc. Chính vì
vậy, việc gìn giữ, bảo tồn và phát triển nền văn hóa văn nghệ của dân tộc
Mường nói chung và làn điệu hát ru nói riêng là mộ việc làm rất có ý nghĩa nhằm
mục đích gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc.
2.2.2. Biểu diễn giao lưu
2.3.Những biến đổi làn điệu hát ru hiện nay tại xã Tiến Xuân
2.3.1. Biến đổi trong âm nhạc
2.3.2. Biến đổi trong làn điệu
2.3.3. Biến đổi trong lời ca
2.3.4. Biến đổi trong hình thức biểu diễn
2.4. Thuận lợi, khó khăn trong việc bảo tồn và phát triển nghệ thuật hát ru
tại xã Tiến Xuân, Thạch Thất, Hà Nội
Chương 3
NHỮNG BIẾN ĐỔI VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM BẢO TỒN
NGHỆ THUẬT HÁT RU TẠI XÃ TIẾN XUÂN, THẠC THẤT, HÀ NỘI
3.1. Vai trò, tác dụng của hát ru trong đời sống của người Mường ở
huyện Thạch Thất – Hà Nội
Mỗi con người, mỗi dân tộc sinh ra và lớn lên đều yêu thích âm nhạc và
xây dựng một đời sống âm nhạc đa dạng và phong phú gắn với sinh hoạt tinh
thần của dân tộc ấy. Người Mường đã đưa âm nhạc lên thành một yêu cầu không
thể thiếu trong đời sống tinh thần. Âm nhạc đối với họ như có một sức sống
mãnh liệt, giúp cho họ cảm nhận được như mình đang trẻ lại, vì vậy họ lạc quan
cho rằng:
Họ cho rằng khơng biết ru thì sẽ khơng làm được điều gì, làm gì hỏng đấy.
Vì thế họ địi hỏi phải có âm nhạc, phải có ca hát để đứa con khi sinh ra được
sống ở trên đời này, nghe lời ru, nhớ về lời ru đó.
Cách biểu lộ những suy nghĩ để nói lên lịng yêu thích âm nhạc của người
Mường người là tiếng hát. Đó là những làn điệu trìu mến vang lên theo nhịp đu
đưa của chiếc nôi đã vuốt ve, bao bọc lấy đứa trẻ trong giấc ngủ yên lành.
Ngày nay, do sự bùng nổ của các phương tiện thông tin, các loại hình giải
trí, nghệ thuật, hát ru có nguy cơ bị mai một trong đời sống hiện đại. Từ thành thị
đến nơng thơn, hình ảnh người mẹ ẵm con, ầu ơ cất tiếng hát ru ngày một thiếu
vắng. Thay vào đó, là những ca khúc có nội dung ca từ không phù hợp trẻ thơ
hoặc là những bài hát được thu sẵn trong băng đĩa. Nhiều bà mẹ không biết hát
ru hoặc không thuộc dù chỉ một bài hát ru. Thậm chí, nhiều gia đình vợ chồng trẻ
có xu hướng “hiện đại”, ngay từ khi mang thai đến khi nuôi trẻ đã cho con nghe
nhạc cổ điển, nhạc không lời với quan điểm giúp trẻ phát triển trí não, thơng
minh hơn. Mặt khác, trong cơ chế thị trường, do bận rộn công việc, nhiều ông
bố, bà mẹ, không có thời gian ru con, muốn con ngủ mau, khơng ít người tìm
mọi cách rung, lắc, hoặc quát tháo làm mất đi tình cảm thân thương, tình mẫu tử
cao đẹp trong truyền thống gia đình Việt Nam…
Thiết nghĩ, nghệ thuật hát ru và những bài hát ru khơng chỉ mang tính di
sản văn hóa mà cịn là nguồn mạch quan trọng, có ý nghĩa nhân văn tiêu biểu của
gia đình Việt Nam, là mạch nguồn của sự sống nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ, giáo
dưỡng nhân cách hồn nhiên, trong sáng, trọng lẽ phải, trọng đạo hiếu nghĩa cho
trẻ từ khi lọt lòng. Bảo tồn nghệ thuật hát ru trong đời sống hôm nay cần sự “vào
cuộc” của cả cộng đồng.
3.2 Hát Ru trong hoạt động văn hóa quần chúng huyện Thạch Thất – Hà Nội
3.3. Một vài giải pháp bảo tồn, phát triển làn điệu hát Ru của dân tộc
Mường ở huyện Thạch Thất – Hà Nội
3.3.1. Bảo tồn hát Ru
Trong công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Đại hội
VIII
của Đảng cộng sản Việt Nam đã coi vấn đề dân tộc có vị trí chiến lược.
Một trong những phương châm mà Đảng ta đã đè ra là thực hiện “bình đẳng,
đoàn kết, tương trợ” giữa các dân tộc trong sự nghiệp đổi mới, cơng nghiệp hiện
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Việt Nam có 54 dân tộc, mỗi dân tộc có những nét văn hóa riêng cũng như
những làn điệu âm nhạc riêng. Nó là những sáng tác nghệ thuật của nhân dân lao
động trong chiều dài lịch sử, là thứ nghệ thuật dùng âm thanh và nhịp điệu làm
phương tiện để diễn tả nên và có những quy luật phát triển riêng của âm nhạc.
Âm nhạc dân gian mang bản sắc xã hội, là sản phẩm của số đông trong xã hội.
Về nội dung thì âm nhạc dân gian cổ truyền phản ánh tâm tư, tình cảm, nguyện
vộng một cách chân thực của người lao động trong hồn cảnh xã hội xưa. Về
hình thức, âm nhạc có mặt trong các hoạt động sản xuất và trong đời sống tinh
thần của con người. Để ứng với các hình thức sinh hoạt đó, đơng bào các dân tộc
luôn sáng tạo ra những bài ca, bài nhạc phục vụ cho từng chủ đề cụ thể. Trong
hoàn cảnh đất nước giao lưu hội nhập, mở rộng giao lưu với thế giới bên ngồi
thì sự xuất hiện của các thể loại âm nhạc lai căng ngày càng nhiều điều đó gây
ảnh hưởng rát lớn cho sự phát triển của âm nhạc truyền thống. Việc bảo tồn, gìn
giữ các loại hình văn hóa dân gian truyền thống, đặc biệt là hát Ru của người
Mường là việc làm có ý nghĩa quan trọng. Nó làm cho người ta có ý thức về lịch
sử, về ngọn nguồn của sự kế thừa trong sự phát triển văn hóa, nó mang lại lịng
tự hào dân tộc, tạo nên sự đối trọng đối với sự du nhập văn hóa,làm tăng thêm
tính hấp dẫn, độc đáo của loại hình nghệ thuật ấy. Hơn nữa, việc gìn giữ và phát
triển những làn điệu hát Ru của người Mường cịn là trách nhiệm của thế hệ trẻ
hơm nay. Bởi vì đó chính là gìn giữ vốn văn hóa cổ truyền cho các thế hệ mai sau.
Âm nhạc là một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống tinh thần của
mỗi con người, là nguồn động viên sâu sắc, là sức mạnh tinh thần giúp cho con
người vươn tới những điều tốt đẹp hơn trong cuộc sống. Đối với đồng bào các
dân tộc thiểu số như người Mường, hoạt động âm nhạc càng có ý nghĩa hơn sau
những ngày mùa lao động vất vả, người dân Mường đặc biệt là thanh niên nam
nữ có thể gặp gỡ, trao đổi tâm tình với nhau qua những làn điệu dân ca của dân
tộc mình.
Ngày nay, do ảnh hưởng của sự du nhập các nền văn hóa phương Tây, hát
Ru đã khơng cịn đóng vai trị quan trọng trong đời sống của người Mường như
xưa. Đồng thời hát Ru là cách hát mà người dân Mường họ biết được theo lối
truyền khẩu từ người này sang người khác, và họ chỉ hát khi họ cảm thấy thích
thú. Hát Ru hiện nay vẫn cịn tồn tại nhưng chỉ ở trong các nghệ nhân, các già làng.
3.3.2 Phát triển hát Ru
Âm nhạc dân gian Thạch Thất với nhiều thể loại phong phú, với những nét
đặc sắc riêng là một bộ phận quan trọng trong tổng thể nền dân ca Việt Nam tạo
nên bản sắc chung của nền âm nhạc dân tộc. Tuy nhiên, việc gìn giữ và phát triển
nó thì chưa được quan tâm sâu sắc của các cấp chính quyền và của người dân
trong đó Hát Ru của người Mường ở huyện Thạch Thất – Hà Nội cũng là một
trong số đó. Để phát huy được bản sắc văn hóa của dân tộc, khai thác được hết
các khía cạnh và nét đẹp của nó thu hút được mọi người tham gia đó là trách
nhiệm của các ngành các cấp, là tâm huyết của người làm cơng tác văn hóa đặc
biệt là trong lĩnh vực âm nhạc.
Trước hết, Đảng và Nhà nước cùng các cơ quan chính quyền địa phương
cần quan tâm hơn nữa tới đời sống xã hội của người Mường nhất là vấn đề kinh
tế. Kinh tế chủ yếu của người Mường Thạch Thất là nền nông nghiệp, người dân
quanh năm ngày tháng làm việc với đồng ruộng nên thời gian dành cho những
hoạt động văn hóa tập thể hầu như khơng có nhiều. Vì vậy, Nhà nước cần phải có
chính sách ưu tiên cho đồng bào các dân tộc thiểu số. Vì kinh tế mạnh thì các
hoạt động văn hóa mới phát triển và duy trì được thường xuyên.
Phải phổ cập kiến thức để nâng cao mặt bằng dân trí giúp cho người dân
định hướng và nhận thức một cách chính xác và sâu sắc hơn tất cả mọi vấn đề,
giúp họ hiểu được vai trò và tác dụng của âm nhạc, của hát Ru và các làn điệu
dân ca của dân tộc trong đời sống tinh thần của họ.
Xây dựng đào tạo đội ngũ cán bộ văn hóa có trình độ và chun mơn. Cán
bộ văn hóa quần chúng phải đi sâu vào đời sống của nhân dân, vận động khuyến
khích moi người tham gia các hoạt động sáng tạo và hưởng thụ nghệ thuật...
Nhà văn hóa của huyện, tỉnh nên mở các lớp bồi dưỡng và dạy âm nhạc,
đặc biệt là các lớp nhạc cụ dân tộc. Đưa dân ca vào các hoạt động văn nghệ trong
những dịp lễ, hôi, tết hay tổ chức những buổi liên hoan văn nghệ quần chúng của
các dân tộc. Thành lập đội văn nghệ xã, huyện và thường xuyên tổ chức các buổi
văn nghệ đặc biệt là hát Ru.
Các cán bộ văn hóa phải đi gặp các nghệ nhân hát Ru để khai thác tìm
hiểu, ghi âm, chép lại các bài hát để làm tư liệu.
Các làn điệu dân ca nói chung và hát Ru cần phải được phát thanh thường
xuyên trên các phương tiện thông tin đại chúng. Như vậy mọi người sẽ cảm thụ
được cái hay, cái đẹp trong làn điệu hát Ru.
Đưa hát Ru vào trong lễ hội, sử dụng các làn điệu hát Ru vào trong các
hoạt động vui chơi của lễ hội. Với khơng khí náo nhiệt của ngày hội, người xem
và người diễn có thể hịa làm một, người nghe hát mang tính chất tự giác khơng
bị gị bó hay ép buộc.
Các nghệ sĩ nên cải biên phát triển các sáng tác mới trên cơ sở các điệu Ru
như dặt lời mới cho phù hợp với cuộc sống hiện tại.
3.1.Một số biện pháp bảo tồn và phát triển nghệ thuật hát ru ở dã Tiến
Xuân, Thạch Thất – Hà Nội.
3.2. Nâng cao nhận thức, vai trò trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức địa
phương trong việc bảo tồn và phát triển nghệ thuật hát ru.
3.3. Đa dạng hóa hình thức hoạt động văn hóa văn nghệ cho nhân dân tốt
hơn nữa.
3.4. Phát huy hơn nữa vai trị của Đồn thanh niên trong giáo dục đạo đức.
3.5. Phát huy vai trò của cấ nhân và nhân dân trong xã
3.6. Tổ chức tốt việc phối hợp giữa ban văn hóa xã, các đồn thể với các
đồn nghệ thuật hát dân ca Hà Nội để biểu điễn mang âm nhạc tới gần với
nhân dân hơn.
KẾT LUẬN
THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC