Tải bản đầy đủ (.pdf) (147 trang)

Lịch sử địa phương an giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.39 MB, 147 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA SƯ PHẠM

LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG AN GIANG

LÊ THỊ LIÊN

AN GIANG, THÁNG 9 NĂM 2017


Tài liệu giảng dạy “Lịch sử địa phương An Giang” do tác giả Lê Thị Liên, công tác tại
Khoa Sư phạm, Trường Đại học An Giang thực hiện. Tác giả đã báo cáo nội dung và được Hội
đồng Khoa học và Đào tạo Khoa thông qua ngày 30-6-2017, và được Hội đồng Khoa học và
Đào tạo Trường Đại học An Giang thông qua ngày…

Tác giả biên soạn/viết

TS. Lê Thị Liên

Trưởng Đơn vị

Trưởng Bộ môn

TS. Nguyễn Phương Thảo

Dương Thế Hiền

Hiệu trưởng

PGS.TS, Võ Văn Thắng


AN GIANG, THÁNG 09 NĂM 2017


LỜI CẢM TẠ
Để hoàn thành tài liệu giảng dạy “Lịch sử Địa phương An Giang” tôi
xin chân thành cám ơn Ban Giám hiệu Trường Đại học An Giang, Thư viện
Trường Đại học An Giang, Thư viện Tỉnh An Giang và q đồng nghiệp đã
giúp tơi hồn thành quyển tài liệu giảng dạy này.
An Giang, ngày 28 tháng 9 năm 2017
Người thực hiện

Lê Thị Liên

i


LỜI CAM KẾT
Tôi xin cam đoan đây là tài liệu giảng dạy của riêng tơi. Nội dung giáo
trình và tài liệu giảng dạy có xuất xứ rõ ràng.
An Giang, ngày 28 tháng 9 năm 2017
Người biên soạn

Lê Thị Liên

ii


LỜI NĨI ĐẦU
Trải qua q trình dựng nước và giữ nước lâu dài của dân tộc, lãnh thổ và biên giới
của nước Việt Nam ngày càng được củng cố và từ lâu đã trở thành một thực thể thống

nhất từ Bắc chí Nam, trong đó có vùng đất Nam Bộ. An Giang – một tỉnh thuộc Tây Nam
Bộ – vùng đất mới và còn rất trẻ so với các vùng khác của đất nước nếu tính từ khi vùng
đất này thuộc quyền cai quản của chúa Nguyễn Phúc Khoát (năm 1757) thì đến nay chưa
đầy ba thế kỷ.
Đạo lý “uống nước nhớ nguồn” được nhân dân ta giữ gìn và phát huy một cách tốt
đẹp, cho nên việc tìm hiểu về lịch sử quê hương, về truyền thống vẻ vang của cha ơng
trong q trình dựng xây bờ cõi và phát triển đất nước đã trở thành một nhu cầu cấp thiết
của xã hội. Thế hệ hôm nay và mai sau cần phải hiểu cặn kẽ từ ngọn rau, tấc đất quê hương
đến những phong tục tập quán – truyền thống văn hóa của vùng đất chúng ta đang sinh
sống. Những chủ nhân đất nước hôm nay và trong tương lai cũng cần phải hiểu những
đắng cay, ngọt bùi của cha ơng trong cuộc hành trình mở đất phương Nam với những
nguyên nhân chủ quan và khách quan của lịch sử để làm nên dải giang sơn hình chữ S như
ngày hôm nay. Ngày nay, thế hệ trẻ sớm tiếp thu được những thành tựu khoa học, công
nghệ tiên tiến, có điều kiện hơn khi giao lưu với các nền văn hóa trên thế giới, nhưng
khơng vì thế mà xao lãng việc tìm hiểu cội nguồn quê hương, tình yêu dân tộc.
Do vậy, việc biên soạn tập tài liệu giảng dạy về lược sử An Giang vừa mang tính
tổng hợp, vừa mang tính khái quát về đặc điểm tự nhiên, dân số, lịch sử, kinh tế, văn hóa
và giáo dục của địa phương An Giang trong suốt chiều dài lịch sử hình thành và phát triển,
nhằm phục vụ cho sinh viên chuyên ngành Sư phạm Lịch sử nói riêng và sinh viên An
Giang nói chung là điều cần thiết.
Tài liệu giảng dạy Lịch sử địa phương An Giang được biên soạn trên cơ sở cập
nhật các nguồn thông tin như địa chí An Giang, sách, báo, tạp chí hội thảo,… thông tin
trên mạng Internet, nhằm cung cấp những kiến thức mới nhất cho sinh viên, phục vụ việc
cải tiến phương pháp dạy và học lịch sử. Đây không phải là quyển Lịch sử An Giang hoàn
chỉnh theo đầy đủ ý nghĩa của nó mà chỉ là tài liệu giảng dạy học phần Lịch sử địa phương
An Giang, nhằm cung cấp những kiến thức cốt lõi về quê hương An Giang cho sinh viên.
Tài liệu giảng dạy này dùng cho sinh viên tham khảo trước và trong khi lên lớp, tuy nhiên
sinh viên cũng cần tham khảo thêm các nguồn tư liệu khác để bổ sung và mở rộng kiến
thức.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong cơng tác sưu tầm và biên soạn, song tài liệu

giảng dạy này vẫn không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp ý
kiến từ đồng nghiệp.

iii


MỤC LỤC
Chương 1. TỰ NHIÊN – ĐỊA GIỚI HÀNH CHÍNH – DÂN CƯ TỈNH AN GIANG1
Chương 2. LƯỢC SỬ VÙNG ĐẤT NAM BỘ VÀ QUÁ TRÌNH MỞ ĐẤT, GIỮ
ĐẤT CỦA NHÀ NGUYỄN TRƯỚC KHI THỰC DÂN PHÁP ĐẶT ÁCH ĐÔ HỘ
.......................................................................................................................................... 18
Chương 3. QUÂN VÀ DÂN AN GIANG ĐẤU TRANH CHỐNG ÁCH THỐNG
TRỊ VÀ KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1867-1954) ...................... 26
Chương 4. QUÂN VÀ DÂN AN GIANG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU
NƯỚC (1954-1975) ........................................................................................................ 41
Chương 5. AN GIANG QUA 40 NĂM XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN (1975-2015)
.......................................................................................................................................... 53
Chương 6. NHÂN VẬT LỊCH SỬ AN GIANG .......................................................... 67
Chương 7. DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HỐ AN GIANG .......................................... 104
Chương 8. LỄ HỘI VÀ TÔN GIÁO BẢN ĐỊA AN GIANG ................................... 128
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 141

iv


Chương 1
TỰ NHIÊN – ĐỊA GIỚI HÀNH CHÍNH – DÂN CƯ TỈNH AN
GIANG
1.1. Điều kiện tự nhiên
1.1.1. Vị trí – địa hình

1.1.1.1. Vị trí: An Giang là tỉnh ở miền Tây Nam của Tổ quốc, thuộc đồng
bằng sông Cửu Long, một phần nằm trong vùng Tứ giác Long Xuyên, đồng thời là
một tỉnh tiếp giáp biên giới Campuchia và được Nhà nước phong tặng danh hiệu “Anh
hùng lực lượng vũ trang nhân dân” ngày 02-01-2000.
An Giang có diện tích tự nhiên 3.424 km2, dân số 2.151.000 người (năm 2011).
Phía Bắc và Tây Bắc giáp Campuchia dài 104 km, tây nam giáp tỉnh Kiên
Giang 69 km, Nam giáp tỉnh Cần Thơ 44 km, Đông giáp tỉnh Đồng Tháp 107 km.
Chiều dài nhất theo hướng bắc nam là 86 km và đông tây 87,2 km; điểm cực
bắc trên vĩ độ 10057’ B (xã An Khánh, huyện An Phú); điểm cực nam trên vĩ độ 10012’
B (xã Thoại Giang, huyện Thoại Sơn); điểm cực tây trên kinh độ 104046’ Đ (xã Vĩnh
Gia, huyện Tri Tôn); điểm cực đông trên kinh độ 105035’ Đ (xã Bình Phước Xn,
huyện Chợ Mới).
Đơn vị hành chính trực thuộc gồm: Thành Phố Long Xuyên, Thành phố Châu
Đốc, Thị xã Tân Châu và 8 huyện: An Phú, Tân Châu, Phú Tân, Châu Phú, Tịnh Biên,
Tri Tôn, Chợ Mới, Châu Thành, Thoại Sơn.
1.1.1.2. Địa hình: An Giang có 2 dạng chính là đồng bằng (do phù sa sơng Mê
Kơng tạo nên) và đồi núi (vùng đồi núi Tri Tôn – Tịnh Biên).
Thứ nhất, địa hình đồng bằng có 2 loại chính là đồng bằng phù sa và đồng bằng
ven núi.
Đồng bằng phù sa ở An Giang có nguồn gốc trầm tích lâu dài của phù sa sơng
Mê Kơng (sơng Tiền và sông Hậu). Do môi trường và điều kiện trầm tích khác nhau
mà hình thành nên các cánh đồng lũ hở, lũ kín, cồn bãi, gị gờ, đê sơng, đầm lầy,… rất
phức tạp. Tuy nhiên, xét tổng quát, địa hình đồng bằng phù sa ở An Giang có các đặc
trưng cơ bản sau đây: Độ nghiêng nhỏ và độ cao khá thấp, tương đối bằng phẳng. Đồng
bằng phù sa có 3 dạng chính và một dạng phụ: dạng cồn bãi, dạng lịng chảo, dạng hơi
nghiêng và dạng gợn sóng.
Đồng bằng ven núi được phân thành hai kiểu: kiểu sườn tích (Deluvi) và kiểu
đồng bằng phù sa cổ. Đồng bằng ven núi kiểu sườn tích được hình thành trong q
trình phong hóa và xâm thực từ các núi đá. Sau đó được mưa bào mịn và rửa trơi,
được các dịng chảy lũtheo các khe suối chuyển tải xuống các chân núi, tích tụ lâu

ngày lại mà thành. Đồng bằng ven núi kiểu phù sa cổ có nguồn gốc từ phù sa sông, với


đặc tính là có nhiều bậc thang ở những độ cao khác nhau. Trên mỗi bậc thang khá bằng
phẳng hầu như khơng có độ nghiêng.
Thứ hai, địa hình đồi núi gồm nhiều đỉnh có hình dạng, độ cao và độ dốc khác
nhau:
Dạng núi: chia đồi núi An Giang thành 2 dạng chính: cao và dốc, thấp và thoải.
Dạng núi cao và dốc: được hình thành thời kỳ tạo sơn mãnh liệt, có độ cao trên
500m và độ dốc lớn trên 250, như núi Cô Tô, núi Dài, núi Cấm,…
Dạng núi thấp và thoải: được hình thành từ các thành tạo trầm tích và phun
trào, có độ cao dưới 300m và độ dốc dưới 150, phần lớn nằm cạnh các dãi núi lớn như
núi Nam Qui, núi Sà Lôn, núi Đất…
Độ cao núi: đồi núi ở An Giang được phân chia thành 6 cụm và 2 núi độc lập:
6 cụm, gồm: Cụm núi Sập (có 4 núi là núi Sập, núi Nhỏ, núi Bà và núi Cậu);
Cụm Ba Thê (có 5 núi là núi Ba Thê, núi Nhỏ, núi Tượng, núi Trọi và núi Chóc); Cụm
núi Phú Cường (có 13 núi là núi Phú Cường, núi Dài năm giếng, núi Két, núi Rô, Trà
Sư, Bà Vải, Đất Lớn, Bà Đắt, núi Cậu, núi Nhỏ, Mo Tấu, núi Chùa và Tà Nung); Cụm
núi Cấm (có 7 núi là núi Cấm, núi Bà Đội, Nam Qui, Bà Khẹt, Tà Lọt, Ba Xoài và Cà
Lanh); Cụm núi Dài (có 4 núi là núi Dài, núi Tượng, núi Nước và núi Sà Lôn); Cụm
núi Cô Tơ (có 2 núi Cơ Tơ và Tà Pạ).
2 núi độc lập, gồm: Núi Nổi (Tân Châu); Núi Sam (Châu Đốc)
1.1.2. Sông – rạch, kênh đào – khe suối và hồ
1.1.2.1. Sơng
Ở An Giang gồm có các con sơng:
Sơng Tiền: chảy theo hướng tây bắc – đông nam, đoạn qua An Giang khoảng
80 km, chiều rộng phía trên Vàm Nao lớn hơn 1.000 m, đặc biệt có chỗ rộng tới trên
2.000 m và phía dưới Vàm Nao từ 800 m đến 1.100 m. Độ sâu trung bình khoảng 20
m, có chỗ đến 45 m như tại khu vực thị xã Tân Châu. Sông Tiền là ranh giới chung
giữa hai tỉnh An Giang và Đồng Tháp, có độ uốn khúc lớn, được chia dịng rẽ nhánh

ở nhiều vị trí bởi các cù lao Chính Sách, Cồn Cỏ, Cái Vừng, Long Khánh, cù lao Giêng.
Đối với An Giang, sông Tiền là trục giao thông thủy quan trọng nhất, là nguồn cung
cấp nước và phù sa lớn nhất, và là con sơng có chế độ dịng chảy và diễn biến lịng
sơng phức tạp nhất.
Sơng Hậu: có hướng chảy song song với sơng Tiền, đoạn chảy qua An Giang
dài gần 100 m, chiều rộng phía trên Vàm Nao từ 500 m đến 900 m, cịn phía dưới Vàm
Nao rộng từ 800 m đến 1.200 m, đặc biệt có chỗ rộng trên 2.000 m (đầu cù lao Mỹ
Hồ Hưng). Độ sâu trung bình khoảng 13 m, có chỗ sâu đến 34 m, thậm chí đến 45 m
như tại khu vực cửa đổ của sông Vàm Nao. Cũng như sông Tiền, sông Hậu (đoạn chảy
qua địa bàn An Giang) có độ uốn khúc lịng sơng lớn, được phân dòng rẽ nhánh ở
nhiều chỗ bởi các cù lao Vĩnh Trường, Khánh Hồ, Bình Thuỷ, Mỹ Hồ Hưng, Cồn


Tiên. Đối với An Giang, sông Hậu là trục giao thông thủy đi xuyên suốt trung tâm của
tỉnh từ thượng lưu về hạ lưu, là nguồn cung cấp nước và phù sa chủ yếu cho vùng trũng
Tứ giác Long Xuyên.
Sông Vàm Nao: chảy ven xã Phú Mỹ huyện Phú Tân và xã Kiến An huyện
Chợ Mới, nối liền sông Tiền và sông Hậu, nằm trong địa bàn An Giang. Sông chảy
theo hướng đơng bắc – tây nam, có chiều dài trên 6 km, chiều rộng bình quân 700 m
với độ sâu trên 17 m, có tác dụng làm cân bằng dịng chảy giữa sơng Tiền và sơng
Hậu.
Ngồi ra, An Giang cịn có các sơng: sơng Bình Di và sơng Châu Đốc. Tại xã
Khánh Bình huyện An Phú, sơng Hậu chia dịng, nhánh hữu ngạn hẹp là sơng Bình Di.
Sau một đoạn dài trên 10 km, sơng Bình Di chảy đến Vĩnh Hội Đông gặp sông Tà Keo
và sông Châu Đốc. Bắt đầu từ ngã ba sông này, sông Châu Đốc chảy dài cho đến thị
xã Châu Đốc thì nhập lưu trở lại sơng Hậu, dài 18 km. Sơng Bình Di và sơng Châu
Đốc có độ rộng bình qn là 150 m, độ sâu trung bình 7 m và có chỗ sâu tới 25 m.
1.1.2.2. Rạch
Ngồi các sơng lớn, An Giang cịn có một hệ thống rạch tự nhiên rải rác khắp
địa bàn của tỉnh với chiều dài từ vài km đến 30 km, chiều rộng từ vài mét đến 100 m

và độ uốn khúc quanh co khá lớn. Các con rạch chuyển nước từ sông Tiền và sông
Hậu vào sâu vào những cánh đồng ở khắp nơi trong tỉnh.
Những rạch lớn ở An Giang hiện nay gồm có: Mương Khai, Cái Đầm, Cái Tắc
(huyện Phú Tân); Ông Chưởng và Cái Tàu Thượng (huyện Chợ Mới); Long Xuyên
(thành phố Long Xuyên); Chắc Cà Đao và Mặc Cần Dưng (huyện Châu Thành); Rạch
Cần Thảo (huyện Châu Phú). Trong đó, hai rạch lớn nhất ở An Giang là rạch Ông
Chưởng và rạch Long Xun:
Rạch Ơng Chưởng lấy nước sơng Tiền ngay đầu thị trấn Chợ Mới, dài trên 20
km và đổ vào sông Hậu theo đỉnh cua cong của cù lao Mỹ Hoà Hưng, theo hướng đơng
bắc – tây nam. Rạch Ơng Chưởng có chiều rộng gần 100 m và sâu hơn 8 m.
Rạch Long Xuyên là rạch tự nhiên lớn nhất, khởi nguồn từ thành phố Long
Xuyên chảy theo hướng đông bắc – tây nam, dài gần 18 km nối tiếp với kênh Thoại
Hà (ấp Phú Đông, xã Vĩnh Trạch, huyện Thoại Sơn), đi qua núi Sập, đổ thẳng ra biển
Tây (Rạch Giá – Kiên Giang). Ngày nay, cịn có tên là kênh Rạch Giá – Long Xuyên,
hàm chỉ kênh bắt đầu từ sông Hậu tại cửa rạch Long Xuyên kéo dài gần 60 m băng
qua Tứ giác Long Xuyên đổ nước vào biển Tây tại cửa sông Kiên Giang tức Rạch Giá.
Hiện nay, kênh Rạch Giá – Long Xuyên có chiều rộng bình qn 100 m, sâu gần 8 m,
có lưu lượng vào mùa lũ trên 300m3/s
1.1.2.3. Kênh đào
* Dưới thời nhà Nguyễn, An Giang có các con kênh như kênh Thoại Hà, kênh
Vĩnh Tế, kênh Vĩnh An, kênh Trà Sư.


Kênh Thoại Hà: đào từ năm 1818, dài khoảng 31 km, rộng khoảng 51 m. Kênh
được đào theo lạch nước cũ, nối rạch Long Xuyên tại Vĩnh Trạch (Thoại Sơn) kéo dài
theo hướng tây nam qua chân núi Sập, tiếp giáp với sông Kiên Giang, đổ nước ra biển
Tây tại cửa Rạch Giá.
Kênh Vĩnh Tế: bắt đầu đào từ năm 1819 đến năm 1824, với tổng chiều dài của
kênh là 91 km, sâu 3 m. Kênh đào song song với đường biên giới Việt Nam –
Campuchia, bắt đầu từ bờ Tây sông Hậu (tại Châu Đốc) thẳng nối giáp với sông Giang

Thành (Hà Tiên, Kiên Giang).
Kênh Vĩnh An: Năm 1843, Nhà Nguyễn cho đào kênh Vĩnh An, nối liền giữa
trung tâm thương mại Tân Châu và Châu Đốc, nối liền các vị trí quân sự và kinh tế
chiến lược quan trọng của biên cương. Kênh dài 17 km, rộng 30 m và sâu 6 m.
Kênh Trà Sư: Được đào từ năm 1830 đến năm 1850, trên cơ sở khai thông một
rạch nhỏ có sẵn chạy từ cầu Trà Sư (nằm trên lộ Châu Đốc đi Nhà Bàng) đến cầu Sắt
13 (nằm trên Lộ tẻ Mặc Cần Dưng đi Tri Tôn), dài 23 km, rộng 10 m và độ sâu trên 2
m.
* Đến thời kỳ thực dân Pháp cai trị, có kênh như kênh Thần Nông, kênh Vàm
Xáng.
Kênh Thần Nông: Thực dân Pháp cho đào năm 1882, dọc giữa huyện Phú Tân,
bắt đầu từ xã Vĩnh Phú nối liền kênh Vĩnh An kéo dài đến rạch Cái Đầm, nhằm tiêu
nước vào mùa mưa và lấy nước tưới cho mùa khô. Kênh dài 25 km, rộng 6 m và sâu 3
m.
Kênh Vàm Xáng: Từ năm 1914 đến 1918, thực dân Pháp cho đào kênh Vàm
Xáng, cách kênh Vĩnh An 4 km về phía thượng lưu, tạo ra trục giao thơng Tân Châu
và Châu Đốc thay cho kênh Vĩnh An. Kênh dài 9 km, rộng 30 m và sâu 6 m. Ngày
nay, kênh có chiều rộng trên 100 m và sâu trên 20 m.
* Đến thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp thì hầu như ở An Giang khơng
có đào kênh.
* Đến thời kỳ Mỹ – Nguỵ, gồm các kênh như kênh Mới (kênh Ngơ Đình Diệm),
kênh Trà Sư.
Kênh Mới: nối kênh Vĩnh Tế với Kênh Tám Ngàn tại Lò Gạch, là trục kênh
chuyển nguồn nước từ kênh Vĩnh Tế vào vùng Hà Tiên.
Kênh Trà Sư: Được đào từ năm 1972, từ cầu Trà Sư nối với kênh Vĩnh Tế, dài
3,2 km. Như vậy, kênh Trà Sư có chiều dài 26 km, tháo chua rửa phèn cho Tịnh Biên
và góp phần thốt lũ cho Tứ giác Long Xuyên.
* Thời kỳ sau giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà, các kênh được đào
như kênh 15; kênh 10; kênh T4; kênh T5; kênh T6.



Trong các con kênh thì kênh T4, T5 và T6 đóng một vai trị vơ cùng quan trọng cho
cư dân vùng Tri Tơn vì đã khai hố được một vùng đất vốn hoang vu, phèn chua nước
ngập nơi đây thành vùng đất trù phù, màu mỡ với cánh đồng lúa nặng trĩu hạt.
Kênh T15: nối liền với kênh Cần Thảo với kênh Mặc Cần Dưng tại cầu Sắt,
kéo dài đến giáp ranh với tỉnh Kiên Giang, song song với kênh Tri Tôn.
Kênh 10: Ở Châu Phú.
Sau những trận lũ lớn liên tục năm 1994 – 1995, Chính phủ đã xây dựng hệ
thống chống lũ, thoát nước ra biển Tây, trong đó trục kênh T4, T5 và T6 là
quan
trọng. Đây là nơi chuyển nước từ kênh Vĩnh Tế băng qua vùng Bắc Hà Tiên đổ vào
kênh Rạch Giá – Kiên Giang, mở rộng thêm các nhánh kênh, nối liền kênh Rạch Giá
– Hà Tiên với biển Tây để tăng cường tiêu nước trong vùng Tứ giác Long Xuyên.
1.1.2.4. Khe suối
Trong nhiều năm qua, với chiến tranh kéo dài và sự khai thác quá mức của con
người đã làm cho dòng chảy của Thất Sơn bị cạn kiệt. Tuy nhiên, Chính phủ cũng ra
sức khắc phục về công tác trồng cây, phủ xanh đồi trọc và xây dựng hai hồ chứa nước
ở Tri Tôn, Tịnh Biên, để làm môi trường sinh thái nơi đây dần hồi phục. Khe suối ở
An Giang gồm có các cụm núi như cụm núi Cấm cao trên 700 m, có suối An Hảo, hồ
Ơ Tức Xa và suối Tiên; Cụm núi Dài cao trên 500 m, có suối Vàng, ơ Tà Sóc và Khe
Đá; Cụm núi Cơ Tơ độ cao trên 600 m, có suối Ơ Thum và Ơ Sồi So.
1.1.2.5. Hồ
Trên địa bàn An Giang, có hai loại hồ là hồ tự nhiên và hồ nhân tạo. Hồ tự
nhiên là q trình cịn sót lại của sông – biển tạo lập châu thổ sông Mê Kông, ở An
Giang có các hồ Búng Bình Thiên Lớn và Búng Bình Thiên Nhỏ (nằm giữa sơng Bình
Di và sơng Hậu tại xã Khánh Bình, huyện An Phú). Nguồn cung cấp nước cho hai hồ
là sơng Hậu và Bình Di. Nơi đây là nguồn cung cấp hải sản tự nhiên, đồng thời sẽ là
nơi thu hút khách tham quan du lịch.
Bên cạnh đó, hồ Nguyễn Du (toạ lạc tại phường Mỹ Bình, thành phố Long
Xuyên) cũng là hồ tự nhiên, xuất phát từ một nhánh xép của sông Hậu, đã được cải tạo

thành nơi vui chơi, giải trí cho nhân dân, đồng thời cũng góp phần cải tạo mơi trường
sinh thái của thành phố.
Hồ nhân tạo được xây dựng ở vùng núi Tri Tơn – Tịnh Biên như hồ Sồi So
(Tri Tơn); Ơ Tức Xa; Cây Đuốc và An Hảo (Tịnh Biên), nhằm cung cấp nước sinh
hoạt, đồng thời hỗ trợ trong việc trồng hoa màu, phòng cháy rừng, chống sa mạc hố
đất đồng bằng ven núi, cải tạo mơi trường tạo ra điểm du lịch sinh thái hấp dẫn.
1.1.3. Khí hậu – thủy văn
An Giang là tỉnh nằm ở điểm cực bắc trên vĩ độ 10057’ B, điểm cực nam trên
vĩ độ 10012’ B và gần xích đạo nên quanh năm độ cao mặt trời trên chân trời cao, thời


gian mặt trời chiếu sang dài, khoảng cách giữa hai lần đi qua trên đỉnh đầu xa nên quá
trình diễn biến của nhiệt độ cũng như lượng mưa đều giống với khí hậu xích đạo.
Cụ thể là, An Giang nhiệt độ trung bình 270 C, gió tín phong Đơng Bắc từ tháng
11 đến tháng 4 năm sau và gió mùa Tây Nam từ tháng 4 đến tháng 10, nóng quanh
năm, thuận lợi cho phát triển nông lâm nghiệp. An Giang có 2 mùa rõ rệt, mùa khơ
kéo dài từ tháng 12 đến đầu tháng 4 năm sau, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11.
1.1.3.1. Khí hậu
* Mây: Ở An Giang, lượng mây tương đối ít. Trong mùa khơ do độ ẩm khơng
khí thấp và đối lưu nhiệt yếu nên mây khơng chỉ ít về lượng mà về dạng mây cũng chỉ
là những đám mây mỏng dạng tơ sợi ở rất cao, vì kết cấu bởi những tinh thể bang nên
nó để lọt ánh sáng mặt trời, do đó có khi trời có mây nhưng vẫn rất nắng. Trong mùa
mưa do độ ẩm cao nên lượng mây thường nhiều hơn.
* Nắng: Do ở vĩ độ thấp và có mùa khơ kéo dài từ tháng 12 đến tháng 4 năm
sau nên An Giang có mùa nắng chói chang, trở thành địa phương có số giờ nắng trong
năm lớn kỷ lục của cả nước. Bình qn trong mùa khơ, mỗi ngày có tới gần 10 giờ có
nắng, cịn trong mùa mưa tuy ít hơn nhưng cũng tới gần 7 giờ có nắng. Như vậy, tổng
cả năm lượng nắng trên 2.400 giờ, đáp ứng đầy đủ nhu cầu ánh sáng cho nhiều vụ sản
xuất trong năm.
* Nhiệt độ: Ở An Giang, nhiệt độ trung bình trong suốt năm khơng những cao

mà cịn rất ổn định. Chênh lệch nhiệt độ giữa các tháng trong mùa khô chỉ hơn kém
nhau khoảng 1,5 ° đến 3 °; còn trong các tháng mùa mưa chỉ vào khoảng trên dưới 1
°. Nhiệt độ cao nhất trong năm thường xuất hiện vào tháng 4, dao động trong khoảng
36 °C đến 38 °C, nhiệt độ thấp nhất năm xuất hiện vào tháng 10, chưa có năm nào xuất
hiện dưới 18 °C.
Biên độ nhiệt độ của khơng khí ngày và đêm có hai mùa rõ rệt. Trong mùa
mưa, trị số này trung bình khoảng 8 °C và thấp nhất là 6 °C. Trong khi đó vào mùa
khơ, các trị số tương ứng với nó là 10 °C và 12 °C.
* Gió: Chế độ gió ở An Giang được đặc trưng bởi sự luân phiên tác động của
các hệ thống hoàn lưu gió mùa nên rất ổn định. Trong mùa khơ, gió thịnh hành là Đơng
Bắc, cịn vào mùa mưa là gió Tây Nam – gió Tây Nam là gió có tần suất xuất hiện lớn
nhất. Tốc độ gió ở An Giang tương đối mạnh, trung bình đạt 3 m/giây. Trong năm, tốc
độ gió mùa hè lớn hơn mùa đơng rõ rệt, cịn về mùa đơng thì dơng xuất hiện ít và
cường độ cũng không mạnh mẽ như mùa hè.
* Mưa: Ở An Giang, lượng mưa trung bình hằng năm khoảng từ 1.350 mm
đến 1.400 mm, tập trung vào mùa mưa thường bắt đầu vào tháng 5 và kết thúc vào
tháng 11, chiếm 90% lượng mưa của cả năm. Sự phân bố của lượng mưa trong mùa
mưa lớn khá điều hoà và lại trùng vào mùa nước lũ của sông Mê Kông dồn về hạ lưu
nên đã gây ra tình trạng úng tổ hợp với ngập lụt, chi phối đến nhiều hoạt động sản xuất
và đời sống.


* Bốc hơi: Hàng năm ở An Giang có lượng mưa phong phú nhưng lượng nước
hao hụt vì bốc hơi cũng khá nhiều. Trong mùa khô do nắng nhiều, độ ẩm khơng khí
thấp nên lượng bốc hơi lớn, bình qn là 110mm/tháng. Lượng nước bốc hơi lớn nhất
xảy ra vào tháng 3 tới 160 mm, đây là thời kỳ có nhiệt độ tương đối cao và độ ẩm thấp
nhất trong năm. Trong mùa mưa, lượng bốc hơi thấp hơn, bình quân 85mm/tháng, nhỏ
nhất là 52mm/ tháng, xuất hiện vào tháng 9 hoặc tháng 10 là thời kỳ có nhiều mưa và
độ ẩm cao nhất trong năm.
* Độ ẩm: Ở An Giang, vì nhiệt độ quanh năm thay đổi ít nên sự biến đổi của

độ ẩm chỉ còn phụ thuộc chủ yếu vào lượng mưa. Do vậy, mùa mưa nhiều cũng là mùa
có độ ẩm cao và mùa mưa ít cũng là mùa có độ ẩm thấp. Mùa có độ ẩm thấp trùng với
mùa khô, thường bắt đầu từ tháng 12 và kéo dài đến tháng 4 năm sau. Trong mùa khơ
thì độ ẩm ở thời kỳ đầu mùa là 82%, giữa mùa khoảng 78% và cuối mùa còn 72%.
Khác với mùa khô, mùa mưa ở An Giang, thật sự là một mùa ẩm ướt. Độ ẩm trung
bình trong mùa mưa ở bất kỳ nơi nào cũng đều đạt trên 84%, có những tháng đạt gần
tới 90%. Diễn biến của độ ẩm trong mùa mưa xuất hiện một thời kỳ cao vào giữa mùa,
còn đầu mùa và cuối mùa xấp xỉ nhau. Sự xuất hiện thời kỳ cao giữa mùa là do nguyên
nhân có nhiều mưa, nhiệt độ thấp hơn ở các kỳ trước và sau đó.
Ngồi các yếu tố khí tượng nói trên, An Giang cịn có các hiện tượng thời tiết
cần lưu ý như: lốc xốy vịi rồng mưa đá, hạn Bà Chằn, ảnh hưởng của Elnino và
Lanina.
1.1.3.2. Thủy văn
Dòng chảy mùa lũ:
* Lũ đầu mùa: Mùa nước hàng năm bắt đầu từ tháng 6, bước sang tháng 7 và
tháng 8 là đạt đỉnh đầu mùa, có mưa to và dài ngày làm xuất hiện những trận lũ đầu
mùa ở cả trung và hạ lưu sông Mê Kông.
* Lũ lớn nhất trong năm: Khu vực phía trên Vàm Nao đa số lũ lớn nhất năm
xảy ra vào tháng 9 và 10, cịn khu vực phía dưới Vàm Nao do ảnh hưởng của sự phân
chia nước và thủy triều nên lũ lớn nhất năm xảy ra muộn hơn khoảng từ 10 ngày đến
1 tháng.
* Độ dốc lũ và cường suất lũ: Trên địa bàn An Giang, nhìn chung, vào đầu
mùa mưa nước sông lên nhanh, độ dốc lũ và cường suất lũ lớn nhất năm thường xuất
hiện vào thời kỳ này.
* Thời gian lũ: Thời gian lũ lên và xuống ở An Giang khá dài. Những năm lũ
lớn, thời gian lũ lên từ 3 đến 4 tháng và lũ xuống gần 3 tháng. Năm lũ nhỏ có thời gian
lũ lên và xuống cũng tới gần 4 tháng.
Dòng chảy mùa kiệt:
* Mực nước thấp nhất hàng năm: Ở An Giang, mực nước thấp nhất năm có
thể xuất hiện vào tháng 4 hoặc đầu tháng 5. Do ảnh hưởng mạnh của thủy triều, nên



mực nước thấp nhất năm của năm cực kiệt cũng khơng chênh lệch nhiều so với năm
kiệt ít.
* Lưu lượng dòng chảy nhỏ nhất hàng năm: Ở An Giang, lưu lượng kiệt nhất
năm xuất hiện vào tháng 3 hoặc tháng 4. Tùy thuộc vào độ lớn lũ năm trước và cường
độ thủy triều năm sau, mà lưu lượng kiệt nhất hàng năm của sơng Tiền và sơng Hậu
dao động theo.
Dịng chảy phù sa:
* Cấp phối hạt: Phù sa sông Cửu Long qua hai mặt cắt Châu Đốc (sông Hậu)
và Tân Châu (sông Tiền) không chứa hạt to và vừa. Phù sa sơng Tiền có độ đều mịn
hơn sơng Hậu. Nhưng trong phù sa sông Hậu thành phần sét chiếm 34%, trong khi đó
sơng Tiền chỉ có 16%.
* Thành phần hóa học: Thành phần hữu cơ của phù sa sông Cửu Long có chất
mùn rất có lợi cho cây trồng và Si-li-cát vẫn chiếm tỷ lệ cao nhất (36%) trong phù sa
sông Cửu Long.
* Hàm lượng và tổng lượng: Tổng lượng phù sa hàng năm của sông Tiền và
sông Hậu chảy qua hai mặt cắt Tân Châu và Châu Đốc tương đối lớn.
Hệ thống đê bao:
Đê bao ngăn lũ, chống ngập lụt ở An Giang có sớm nhất so với các tỉnh phía
Nam. Tính đến năm 2000, hệ thống đê bao ở An Giang có tổng chiều dài trên 3.416km
bao bọc 306 tiểu vùng, trong đó tiểu vùng có diện tích lớn nhất là 3.600ha và nhỏ nhất
là 880ha.
1.1.4. Đất đai – động, thực vật
1.1.4.1. Đất đai
Có thể phân chia đất đai ở An Giang thành 3 nhóm chính: nhóm đất phèn,
nhóm đất phù sa, nhóm đất đồi núi.
* Nhóm đất phèn: Đất phèn ở An Giang phân bố nhiều ở vùng tiếp giáp với
tỉnh Kiên Giang, thuộc địa phận huyện Tri Tôn, Tịnh Biên và một phần của Châu Phú,
với tổng diện tích khoảng 30.136 ha, trong đó Tri Tơn chiếm 67%.

* Nhóm đất phù sa: Ở An Giang, nhóm đất phù sa chiếm 44,27% tổng diện
tích đất tồn tỉnh với khoảng 156.507 ha, chủ yếu phân bố ở các huyện Châu Thành,
Châu Phú, Phú Tân, An Phú, Tân Châu, Thoại Sơn, Chợ Mới và một phần của thành
phố Long Xuyên, thị xã Châu Đốc.
* Nhóm đất đồi núi: Đất đồi núi chủ yếu phân bố tại 2 huyện Tri Tôn và Tịnh
Biên, một phần nhỏ ở huyện Thoại Sơn (vùng Ba Thê). Tổng diện tích đất đồi núi ở
An Giang khoảng 29.320 ha, chiếm 8,6% tổng diện tích đất của tỉnh.
1.1.4.2. Động, thực vật
Động vật:


* Hệ động vật tự nhiên:
Trước đây, rừng Bảy Núi có nhiều loại chim mng và thú rừng như: hổ, báo,
nai, hưu, cáo, vượn, khỉ, phượng hoàng, quạ… Ngày nay các loại đó gần như khơng
cịn nữa. Truyền miệng dân gian cịn lưu lại, ở An Giang cịn có nhiều cá sấu, nhất là
khu vực sơng Vàm Nao. Cùng lồi bị sát với cá sấu là các lồi rắn. Ngồi rắn cịn có
trăn. Các động vật sống trong tự nhiên, quen thuộc với nhà nơng là chuột, ngồi ra cịn
có dơi.
Với những cánh đồng lúa bạt ngàn, An Giang là nơi qui tụ nhiều loài chim.
Các động vật thủy sinh sống ở dưới nước chủ yếu là các loài cá, tôm,…
* Hệ động vật nuôi:
Ở An Giang chủ yếu là bị, heo, vịt, gà, cá, tơm… Gần đây cịn ni thêm ếch,
lươn, cá sấu, rắn, ba ba…
Thực vật:
* Thảm thực vật đồi núi:
Đồi núi An Giang tập trung chủ yếu ở vùng Bảy Núi thuộc 2 huyện Tri Tôn,
Tịnh Biên và một số ít ở thị xã Châu Đốc và huyện Thoại Sơn. Thảm thực vật vùng
đồi núi An Giang thuộc kiểu rừng kín nửa rụng lá, ẩm nhiệt đới có cấu trúc 3 tầng rõ
rệt, phong phú về chủng loại, có nhiều loại cây q hiếm, chia làm 4 kiểu sau:
- Kiểu trạng thái núi đá, cỏ, cây bụi và dây leo: Thực vật sống ở đây phổ biến

là các loại sò đo, ngành ngạnh, lòng mức, gòn rừng, ơ rơ rừng; đơi khi có cả lồi bằng
lăng nhiều hoa, dây móng bị, dây khoai rừng, cỏ tranh, cỏ đi chồn… sinh trưởng
kém.
- Kiểu trạng thái các lồi cây bụi, có cây gỗ mọc rải rác: Thực vật bao gồm
các loại: sung, mù u, tra, bồ đề, trường, trâm, trâm bầu. Có các loại cây bụi như ngành
ngạnh, duối nhám, sậy, le gai, sổ, sầm, thấu tấu, phèn đen. Các loại cỏ thân cứng như
cỏ lông tây, cỏ tranh, cỏ đuôi chồn. Các loại cây gỗ như trường, trám, dầu con rái;
mécoxe, hubasoi, tam thụy lông chim…
- Kiểu trạng thái cây ăn quả hỗn lồi: Các lồi cây nơng nghiệp trồng ở đây là
mít, xồi, sầu riêng, vú sữa, su, dừa, mận, điều, tiêu…, một số cây lâm nghiệp: sao,
bạch đàn.
Thảm thực vật tự nhiên bao gồm: dự, sung, bứa, côm bông, gáo vàng, huỳnh
đen, cà đuối, tràm, chưn bầu, trâm, ngái, bình linh…
Trên sườn Tây Bắc núi Dài cịn có số cây như: gõ mật, căm xe, giáng hương,
nín, cây xây… Phía Tây núi Phú Cường có: căm xe, giáng hương, cẩm lai, gõ mật,
bằng lăng…
Các cây bụi và cây gỗ nhỏ cứng chiếm tỷ lệ lớn trong khu vực này, bao gồm
các cây đại diện của họ cam như bí bái, họ mua như sầm, họ thầu dầu như sồi tía, phèn


đen, cù đèn, tam thụy lơng chim, hubasoi, họ bình linh như quao, bình linh, ma, trúc
tiết, tầm vơng, le, cây thân thảo như chuối, gừng…
- Kiểu trạng thái các lồi cỏ hình thành trên đất sau nương rẫy: Thảm thực vật
ở đây chủ yếu là các loại cỏ tranh, cỏ đuôi chồn phát triển thành quần thảo ổn định.
* Thảm thực vật đất ngập nước, bưng trũng:
Thực vật chiếm ưu thế ở vùng này trước kia là tràm thuộc 2 huyện Tri Tơn,
Tịnh Biên trên một số diện tích đất phèn và than bùn. Ngồi tràm, cịn có hơn 100 lồi
thực vật thuộc các họ khác nhau, trong đó có nhiều lồi có giá trị phát triển và khai
thác.
* Thảm thực vật trên đất hoang hóa:

Thực vật tiêu biểu trên các vùng đất hoang hóa địa hình thấp, bưng trũng, trong
mùa lũ thường bị ngập, đất nhiễm phèn từ trung bình đến nặng, chưa được khai thác
là các loại năn kim, năn ngọt. Năn kim thường phát triển trên vùng đất phèn nặng ở
Tri Tôn, Tịnh Biên. Bàng là cây phát triển trên các bưng phèn.
Các vùng đất hoang hóa từ phèn nhẹ đến trung bình, thực vật tiêu biểu ngồi
năn cịn có mồm mốc, mồm vàng, cỏ ống, lác… Cỏ mồm thường mọc xen lẫn với cỏ
ống, nhàu nước, đi chồn, vịi voi…
* Thảm thực vật tự nhiên trên đất canh tác:
Trên các loại đất ruộng phù sa theo sông Hậu, sông Tiền ở các huyện cù lao
như Tân Châu, An Phú, Chợ Mới, Phú Tân, tập đoàn cỏ dại chiếm ưu thế phần lớn là
các loại cỏ lồng vực, lông công, cỏ cháo, rau bợ, rau om, rau mương.
Trên các ruộng lúa của các huyện phía Tây sơng Hậu như Châu Phú, Châu
Thành, Thoại Sơn cịn thấy nhiều lồi thực vật khác ngồi các loại cỏ nói trên như ráng
gạc nai, cỏ chát, cỏ cói, cỏ đắng.
Ở các ruộng lúa thuộc huyện Tri Tôn, Tịnh Biên và các xã vùng sâu ở các
huyện Châu Phú, Châu Thành, Thoại Sơn thành phần cỏ chiếm ưu thế là các lồi lác,
cỏ ống, cú ma, cỏ cói, điền ma và cịn có rong đi chó, tầm bứt, ngũ phướng, an điển,
vẩy ốc, cỏ năn, hồng đầu, đũa bếp, đi chồn…
Ở các vùng đất bạc màu nghèo dinh dưỡng của 2 huyện Tri Tơn, Tịnh Biên có
xuất hiện các lồi thực vật chịu hạn như cỏ ống, trãng quả 3 hoa, xn thảo, đi chồn,
bó dại, dây lức, đi chó, cỏ chỉ, rau mương…
Ở các vùng đất vườn trồng cây ăn trái, đất rẫy trồng hoa màu bao gồm các diện
tích đất cao ven sông, đất cao của khu vực phù sa cổ, đê tự nhiên, ven sông rạch, giồng
cát, đất đen thổ cư, đã được khai thác trồng các loại cây ăn trái, hoa màu; thành phần
thực vật mọc tự nhiên xuất hiện các loài cỏ chỉ, cứt heo, cỏ lào, chổi đực, cam thảo
nam, cải trời, nhản lồng, màn màn trắng, dền cơm, dền gai…
* Thảm thực vật ven sông rạch:


Ven sông Tiền, sông Hậu và các sông, kênh, rạch lớn ở các vùng phù sa, thảm

thực vật chủ yếu là các loài cà na, chiếc, gáo, cà dăm, nổ, lăng, lác nước, lác hến, lác
chiếu, ráng gạc nai, bồn bồn, tầm bứt, lúa trồm, cỏ mồm, đưng, đế, sậy, nga…
Ven sơng rạch ở các vùng đất nhiễm phèn, cịn có các loại bình bát, gừa, trâm,
mây nước, bịng bong, dây vác, dây mủ, dây cương, dây choại và các cây bụi thấp như
ơ rơ, cóc kèn, ráng dại, mua…
* Thực vật nổi:
Ở An Giang, ngành tảo chiếm ưu thế với 137 loài khác nhau.
1.2. Những biến đổi về địa giới hành chính
1.2.1. An Giang trước năm 1802
Bước sang thế kỷ XVII, cuộc xung đột Trịnh – Nguyễn diễn ra tàn khốc, nhân
dân đói khổ cùng cực cho nên họ rời bỏ quê hương làng mạc đi vào phía Nam tìm kế
sinh nhai, trong đó chủ yếu là nơng dân nghèo ở miền Trung. Vùng đất định cư đầu
tiên của họ là Biên Hòa, Gia Định. Về sau, lưu dân đến định cư dọc sông Cửu Long,
khai phá ruộng đất ven theo bờ sông hay cù lao.
Năm 1679, một số quan lại người Hán có tư tưởng “phản Thanh phục Minh”
đem 3.000 quân cùng gia đình đến Đàng Trong xin cư trú và chúa Nguyễn cho họ trú
ngụ ở Mỹ Tho và Đồng Nai. Năm 1680, Mạc Cửu cùng 200 người đến cửa biển Péam
(còn gọi là Mang Khảm, tức Hà Tiên) lập phố chợ, chiêu mộ lưu dân, lập được 7 thôn.
Đến năm 1689, Nguyễn Hữu Cảnh vâng lệnh chúa Nguyễn vào Nam kinh lược,
lập phủ Gia Định với hai huyện Phước Long và Tân Bình, phân chia địa giới và lập sổ
bộ. Đến tháng 7-1699, chúa Nguyễn Phúc Chu sai Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam đánh
dẹp quân Chân Lạp, khi rút quân đã dừng chân tại cù lao Tiêu Mộc (tức là cù lao Cây
Sao, Chợ Mới), mở đầu quá trình định cư lập làng sau này.
Từ 1705 đến 1757, quân Xiêm thường xuyên cướp phá Hà Tiên, trước tình thế
đó, từ năm 1708, Mạc Cửu xin thần phục và dâng cho chúa Nguyễn vùng đất Hà Tiên.
Năm 1714, chúa Nguyễn Phúc Chu chấp nhận và phong cho Mạc Cửu chức Tổng binh
cai quản Hà Tiên. Năm 1755, Nặc Nguyên quấy phá vùng Gia Định, chúa Nguyễn
Phúc Khoát sai Nguyễn Cư Trinh điều khiển quan binh đánh dẹp, Nặc Ngun phải
nhờ Mạc Thiên Tứ (Tích) xin cầu hịa chúa Nguyễn.
Tình hình Chân Lạp chưa yên do cuộc tranh giành quyền lực trong nội bộ

vương triều, Nặc Tôn được chúa Nguyễn giúp đỡ trở lại nắm quyền ở Chân Lạp. Để
tạ ơn chúa Nguyễn, năm 1757, Nặc Tôn hiến đất Tầm Phong Long và Nguyễn Cư
Trinh lấy vùng đất này và đặt làm ba đạo: đạo Đông Khẩu (xứ Sa Đéc), đạo Tân Châu
(xứ cù lao ở Tiền Giang) và đạo Châu Đốc (xứ Châu Đốc ở Hậu Giang). Thời gian
này, Mạc Thiên Tứ xin chúa Nguyễn lập đạo Kiên Giang (Rạch Giá) và đạo Long
Xuyên (Cà Mau) thuộc Hà Tiên. An Giang là dải đất cuối cùng ở Nam Bộ được thiết
lập về mặt hành chính, trên cơ sở các đạo biên phòng.


Thế là trong vòng hơn nửa thế kỷ (1698 – 1757), về cơ bản chúa Nguyễn đã
thiết lập xong bộ máy hành chính trên vùng đất Nam Bộ.
1.2.2. Địa giới An Giang từ năm 1802 đến năm 1867
Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi vua lấy hiệu là Gia Long, đến năm 1805, Gia
Long chia Nam Bộ thành 5 trấn: Biên trấn (Biên Hòa), Phiên trấn (Gia Định), Vĩnh
trấn (Năm 1808, Vĩnh trấn đổi thành trấn Vĩnh Thanh), Định trấn (Định Tường) và Hà
Tiên trấn. Năm 1808, Gia Long đổi Gia Định trấn thành Gia Định thành, Gia Định
thành thống quản 5 trấn: Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Thanh (Năm 1832,
Vĩnh Thanh đổi thành Vĩnh Long và An Giang) và Hà Tiên.
Năm Nhâm Thìn 1832, Minh Mạng đổi “Ngũ trấn” thành “Lục tỉnh” gồm:
Phiên An (1833, Phiên An đổi thành tỉnh Gia Định), Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh
Long, An Giang và Hà Tiên.
Như vậy, tỉnh An Giang được thành lập từ năm 1832, gồm có 2 phủ (Tuy Biên
và Tân Thành), 4 huyện (Tây Xuyên, Phong Phú, Đông Xuyên và Vĩnh An), tỉnh lỵ
của tỉnh An Giang đặt tại Châu Đốc.
Năm 1835, Minh Mạng cho lấy đất Ba Thắc đặt thêm phủ Ba Xuyên, đặt hai
huyện Phong Nhiêu, Phong Thạnh và lấy huyện Vĩnh Định tỉnh Vĩnh Long nhập vào
tỉnh An Giang.
Năm 1842, triều Nguyễn tách phủ Tĩnh Biên (Tịnh Biên) và huyện Hà Dương
của tỉnh Hà Tiên nhập vào An Giang. Hai năm sau nhập thêm huyện Hà Âm.
Tính đến năm 1853, tỉnh An Giang có 3 phủ (Tuy Biên, Tân Thành và Ba

Xuyên) và 10 huyện (Tây Xuyên, Phong Phú, Hà Dương, Hà Âm, Đông Xuyên, Vĩnh
An, An Xuyên, Phong Thạnh, Phong Nhiêu, Vĩnh Định).
1.2.3. An Giang thời kỳ Pháp thuộc (1867 – 1945)
Theo nghị định ngày 05-01-1876 của Thống đốc Pháp, Dupré, bỏ hệ thống
Nam Kỳ lục tỉnh mà chia thành 4 khu vực: Sài Gòn, Mỹ Tho, Vĩnh Long và Bassac,
gồm 19 hạt. Tỉnh An Giang (Nam Kỳ lục tỉnh) chia thành 5 hạt: Châu Đốc, Long
Xuyên, Cần Thơ, Sóc Trăng, Sa Đéc. Địa bàn An Giang ngày nay nằm trên hai hạt
Châu Đốc và Long Xuyên.
Ngày 20-12-1899, Pháp ra Nghị định bãi bỏ các hạt đổi thành tỉnh.
Năm 1917, tỉnh Châu Đốc có 4 quận: Châu Thành, Tân Châu, Tịnh Biên, Tri
Tôn và tỉnh Long Xuyên có 3 quận: Châu Thành, Thốt Nốt, Chợ Mới. Năm 1930, tỉnh
Châu Đốc nhận thêm quận Hồng Ngự.
1.2.4. An Giang từ năm 1945 đến 1975
Năm 1945, Nam kỳ có 21 tỉnh, trong đó tỉnh Châu Đốc có 5 quận: Tịnh Biên,
Tri Tôn, Hồng Ngự, Tân Châu, Châu Phú và tỉnh Long Xuyên có 3 quận: Chợ Mới,


Thốt Nốt, Châu Thành. Năm 1953, tỉnh Long Xuyên thành lập thêm 2 quận Núi Sập
và Lấp Vò.
Đêm 22-9-1945, Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam Bộ được thành lập và
cuộc Kháng chiến Nam Bộ bắt đầu. Hồ Chủ tịch ký sắc lệnh thành lập các Chiến khu.
Tỉnh Châu Đốc và Long Xuyên thuộc chiến khu 9.
Để thuận lợi cho việc lãnh chỉ đạo kháng chiến, ngày 12-9-1947, Ủy ban kháng
chiến hành chính Nam Bộ ra chỉ thị số 50/CT chia lại địa giới 2 tỉnh Long Xuyên và
Châu Đốc thành 2 tỉnh mới là Long Châu Tiền thuộc khu 8 và Long Châu Hậu thuộc
khu 9.
Tỉnh Long Châu Tiền có 5 quận: Tân Châu, Hồng Ngự, Chợ Mới, Châu Phú B
và Lấp Vị.
Tỉnh Long Châu Hậu có 6 quận: Tịnh Biên, Tri Tôn, Thốt Nốt, Thoại Sơn,
Châu Phú A và Châu Thành (bao gồm 2 tỉnh lỵ Long Xuyên và Châu Đốc).

Ngày 07-02-1949, tỉnh Long Châu Hậu giao quận Thốt Nốt về tỉnh Cần Thơ
và ngày 14-5-1949, tỉnh Long Châu Tiền giao quận Lấp Vò về tỉnh Sa Đéc.
Cũng vào tháng 5-1949, tỉnh Long Châu Hậu tiếp nhận thêm 3 xã Nam Thái
Sơn, Bình Sơn và Thổ Sơn của Quận Châu Thành (Rạch Giá) vào quận Tri Tôn và 2
xã Mỹ Hiệp Sơn (trừ 2 ấp Mỹ Phú, Mỹ Quới), xã Tân Hội cùng 4 ấp của xã Tân Hiệp
phía Bắc lộ Cái Sắn vào quận Thoại Sơn.
Tháng 6-1949, chia quận Tân Châu của tỉnh Long Châu Tiền thành 2 quận mới
Phú Châu và Tân Châu.
Ngày 30-10-1950, Thủ tướng Chính phủ chấp thuận đề nghị của Ủy ban Kháng
chiến hành chính Nam Bộ, 2 tỉnh Long Châu Hậu và Hà Tiên được sáp nhập thành
tỉnh Long Châu Hà, gồm 8 quận: Tịnh Biên, Tri Tôn, Châu Phú A, Châu Thành, Thoại
Sơn, Thốt Nốt, Giang Châu (quận Giang Thành và Châu Thành của Hà Tiên nhập lại)
và Phú Quốc. Tháng 7-1951, sáp nhập 2 quận Tri Tôn, Tịnh Biên thành quận Tịnh
Biên; 2 quận Châu Thành, Thoại Sơn thành quận Châu Thành.
Ngày 27-6-1951, theo Nghị định 173/NB51 của Ủy ban Kháng chiến hành
chính Nam Bộ, tỉnh Long Châu Sa được thành lập trên cơ sở nhập tỉnh Sa Đéc vào
tỉnh Long Châu Tiền, gồm 7 huyện: Châu Thành (Sa Đéc), Lai Vung, Cao Lãnh, Tân
Hồng, Tân Châu, Phú Châu, Chợ Mới. Chia ranh giới 2 huyện Hồng Ngự và Tân Châu
thành 2 huyện Tân Hồng và Tân Châu. Tháng 7-1951, nhập huyện Lấp Vò vào tỉnh
Long Châu Sa.
Ngày 12-10-1951, Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam Bộ ra Nghị định chia
khu Nam Bộ thành 2 phân liên khu. Phân liên khu Miền Đông gồm 6 tỉnh: Gia Định,
Thủ Biên, Bà Rịa, Chợ Lớn, Mỹ Tho, Long Châu Sa. Phân liên khu Miền Tây gồm 6
tỉnh: Bến Tre, Vĩnh Trà, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Long Châu Hà.
Hai tỉnh Long Châu Hà và Long Châu Sa tồn tại đến năm 1954.


Năm 1955, tỉnh Châu Đốc có 5 quận: Châu Phú, Tân Châu, Tri Tôn, Tịnh Biên,
Hồng Ngự. Tỉnh Long Xuyên có 5 quận: Châu Thành, Chợ Mới, Núi Sập, Thốt Nốt,
Lấp Vị.

Ngày 22-10-1956, Ngơ Đình Diệm ra sắc lệnh 143/VN: Địa phận Nam Việt
Nam gồm Đơ thành Sài Gịn và 22 tỉnh. Tỉnh An Giang (tỉnh lỵ Long Xuyên) gồm tỉnh
Châu Đốc và tỉnh Long Xuyên cũ, với 8 quận: Châu Thành, Châu Phú, Chợ Mới, Tân
Châu, Thốt Nốt, Tịnh Biên, Tri Tôn, Núi Sập; 16 tổng; 96 xã. Đến ngày 06-8-1957,
thành lập quận An Phú từ 13 xã của quận Châu Phú.
Ngày 08-9-1964, theo sắc lệnh 264/VN của chính quyền Sài Gòn, tỉnh An
Giang tách thành 2 tỉnh: Châu Đốc (5 quận, 10 tổng, 57 xã) và An Giang (4 quận, 6
tổng, 38 xã). Tỉnh Long Xuyên được đặt tên lại là tỉnh An Giang cho đến năm 1975.
Về phía chính quyền cách mạng, tháng 10-1954, Xứ ủy Nam Bộ lập lại 2 tỉnh
Long Xuyên và Châu Đốc. Tỉnh Long Xuyên gồm các quận: Châu Thành, Chợ Mới,
Lấp Vò, Thốt Nốt, Phong Thạnh Thượng. Tỉnh Châu Đốc gồm các quận: Tân Châu,
Hồng Ngự, Tri Tôn, Tịnh Biên, Châu Phú.
Giữa năm 1957, Xứ ủy Nam Bộ chỉ đạo hợp nhất 2 tỉnh Long Xuyên, Châu
Đốc lại thành tỉnh An Giang, gồm 9 quận: Chợ Mới, Thốt Nốt, Núi Sập, Châu Thành,
Châu Phú, An Phú, Tân Châu, Tịnh Biên, Tri Tôn. Giao quận Hồng Ngự về tỉnh Kiến
Phong và giao quận Lấp Vò về tỉnh Sa Đéc.
Tháng 10-1961, Tỉnh ủy An Giang quyết định thành lập các liên huyện để phù
hợp với tình hình. Từ đó có liên huyện Tịnh Biên – Tri Tôn lấy tên Tịnh Biên, liên
huyện Châu Thành – Huệ Đức lấy tên Châu Thành, liên huyện Tân Châu – An Phú lấy
tên Tân Châu. Cuối năm 1962, tách liên huyện Tịnh Biên – Tri Tôn trở lại 2 huyện
như trước.
Năm 1963, tỉnh An Giang giao Thốt Nốt về tỉnh Cần Thơ và nhận huyện Hà
Tiên của tỉnh Kiên Giang. Tháng 12-1965, giao Chợ Mới về tỉnh Kiến Phong và năm
1967 trả Hà Tiên về Kiên Giang.
Tháng 8-1971, thực hiện yêu cầu thành lập tỉnh mới để giữ vai trò đầu cầu hành
lang từ trung ương về miền Tây Nam Bộ, An Giang chia thành 2 tỉnh An Giang và
Châu Hà.
Tỉnh An Giang gồm 5 huyện: Châu Phú, Châu Thành X, An Phú, Tân Châu,
Phú Tân, bao gồm 2 nơi mà nay gọi là thành phố Long Xuyên và thị xã Châu Đốc.
Tỉnh Châu Hà gồm 6 huyện: Tịnh Biên, Tri Tôn, Huệ Đức, Hà Tiên, Phú Quốc

và Châu Thành A của tỉnh Kiên Giang.
Tháng 5-1974, Trung ương Cục chia lại địa bàn các tỉnh An Giang, Châu Hà
và Kiến Phong thành 2 tỉnh Long Châu Tiền và Long Châu Hà.
Tỉnh Long Châu Tiền gồm 6 huyện: Tân Châu, An Phú, Phú Tân A, Phú Tân
B, Hồng Ngự và Tam Nơng (nay là huyện Thanh Bình tỉnh Đồng Tháp).


Tỉnh Long Châu Hà gồm 6 huyện: Châu Thành X, Châu Phú, Tri Tôn, Tịnh
Biên, Huệ Đức, Châu Thành A (Rạch Giá) và 2 thị xã Long Xuyên và Châu Đốc.
1.2.5. An Giang từ sau 30-4-1975 đến nay
Tại Nghị quyết số 19/NQ.TW ngày 20-12-1975 của Bộ Chính trị Trung ương
Đảng, tỉnh An Giang được thành lập bao gồm 2 tỉnh Long Xuyên và Châu Đốc (trừ
huyện Thốt Nốt) với 8 quận, 84 xã.
Tháng 2-1976, Nghị định của Chính phủ cách mạng lâm thời Miền Nam Việt
Nam giải thể khu hợp nhất tỉnh, bỏ danh xưng “quận” có từ thời Pháp và lấy danh
xưng “huyện”; “quận” và “phường” dành cho các đơn vị tương đương với huyện và
xã khi đã đô thị hóa. Tỉnh An Giang có 10 huyện, thị xã là: Châu Thành, Huệ Đức,
Chợ Mới, Phú Tân, Châu Phú, Phú Châu, Tri Tôn, Tịnh Biên, thị xã Long Xuyên và
thị xã Châu Đốc.
Ngày 11-3-1977, Chính phủ ra quyết định 56/CP hợp nhất huyện Huệ Đức và
Châu Thành thành huyện Châu Thành, huyện Tri Tôn và Tịnh Biên thành huyện Bảy
Núi.
Ngày 23-8-1979, Hội đồng Bộ trưởng ra quyết định 300/HĐBT điều chỉnh địa
giới một số huyện thuộc tỉnh An Giang. Huyện Bảy Núi chia thành 2 huyện Tri Tôn
và Tịnh Biên. Huyện Châu Thành chia thành 2 huyện Châu Thành và Thoại Sơn.
Ngày 13-11-1991, Quyết định số 373/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng chia
huyện Phú Châu thành hai huyện Tân Châu và An Phú.
Ngày 01-3-1999, Chính phủ ra Nghị định 09/NĐCP thành lập TP. Long Xuyên.
Ngày 19-7-2013, Chính phủ ra Nghị quyết 86/NQ-CP thành lập TP. Châu Đốc.
Đến nay, tỉnh An Giang gồm có các đơn vị hành chính trực thuộc: thành phố

Long Xuyên, thành phố Châu Đốc, thị xã Tân Châu và 8 huyện Châu Thành, Thoại
Sơn, Chợ Mới, Phú Tân, An Phú, Châu Phú, Tịnh Biên, Tri Tôn.
1.3. Dân cư
1.3.1. Nguồn gốc dân cư
Người Khmer: đây là dân bản địa kỳ cựu, hầu hết được sinh ra ở Việt Nam nên
gọi người Việt gốc Khmer, tập trung ở Tri Tôn và Tịnh Biên.
Người Chăm và người Mã Lai: họ di cư từ Cao Miên xuống và lập nghiệp hẳn
ở vùng Châu Đốc (người Chăm Châu Giang).
Người Hoa: năm 1679, quan lại người Hán có tư tưởng “phản Thanh phục
Minh” đem 3.000 quân xin vào Đàng Trong cư trú, Chúa Nguyễn cho vào Đồng Nai,
Mỹ Tho (Trần Thượng Xuyên, Dương Ngạn Địch); năm 1680, Mạc Cửu đem 200
người khai khẩn vùng đất Hà Tiên. Sau thời kỳ sinh sống, họ dần dần chuyển sang
định cư ở vùng biên giới Tây Nam, chủ yếu là dân Mỹ Tho di cư sang.


Người Kinh: thế kỷ XVIII, trong cuộc chiến tranh Trịnh – Nguyễn diễn ra tàn
khốc, nhân dân đói khổ cùng cực, họ bỏ quê hương làng mạc và đi về phía Nam tìm
kế sinh nhai (định cư từ Biên Hồ, Gia Định cho đến dọc sông Cửu Long). Chủ yếu là
nông dân nghèo ở miền Trung; những người tù tội bị lưu đày; quan lại trấn giữ vùng
đất mới nên mang cả vợ con, họ hàng theo sinh sống; binh lính xuất ngũ; chính sách
cưỡng bức di dân của chúa Nguyễn Phúc Tần và chính sách chiêu mộ di dân của
Nguyễn Phúc Chu (từ cuối thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XVIII); người theo đạo Thiên
Chúa lánh nạn kỳ thị tơn giáo của vua quan triều Nguyễn; chính sách di dân, lập ấp,
khuyến khích khai hoang của nhà Nguyễn.
1.3.2. Tình hình dân số ở An Giang (1867-2013)
Thời Pháp thuộc (1867-1945): Vào năm 1910, dân số 2 tỉnh Long Xuyên và
Châu Đốc là 279.933 người trên 1.959.898 người của 14 tỉnh Đồng bằng sông Cửu
Long (chiếm 14% dân số Đồng bằng sơng Cửu Long). Trong đó, dân số Long Xun
là 142.777 người và Châu Đốc là 137.156 người.
Thời kháng chiến chống Pháp (1945-1954): Năm 1954, dân số tỉnh Long

Xuyên là 326.200 người; tỉnh Châu Đốc là 210.300 người. Người Khmer cả hai tỉnh
là 26.012 người.
Thời kháng chiến chống Mỹ (1954-1975): Năm 1967, dân số tỉnh An Giang
lên 491.710 người và Châu Đốc là 475.916 người.
Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1975-1976): Năm 1976,
tỉnh An Giang và Châu Đốc được nhập lại thành tỉnh An Giang, dân số là 1.367.337
người. Người Khmer là 76.978 người; Người Chăm là 8.656 người; Người Hoa là
17.034 người.
Năm 1979: dân số An Giang là 1.474.719 người.
Năm 1989: dân số An Giang là 1.773.666 người.
Năm 1999: dân số An Giang là 2.049.039 người.
Năm 2013: dân số An Giang là 2.155.300 người.

CÂU HỎI ÔN TẬP
Câu hỏi 1: Hãy nêu ngắn gọn về vị trí địa lý, diện tích, dân số, đơn vị hành
chính cấp huyện và tương đương cùng địa giới hành chính hiện tại của tỉnh An Giang.
Câu hỏi 2: Hãy nêu những nét chính về địa hình và những ngọn núi tiêu biểu
của tỉnh An Giang.
Câu hỏi 3: Hãy cho biết ở An Giang có những sơng, rạch lớn nào?
Câu hỏi 4: Hãy cho biết ở An Giang có những kênh đào nào?
Câu hỏi 5: Hãy cho biết vai trò quan trọng về nông nghiệp và giao thông của
các Kênh T4, T5 và T6 trên địa bàn tỉnh An Giang.


Câu hỏi 6: Có ba nhân vật lịch sử sống ở ba thời đại khác nhau nhưng cùng để
lại dấu ấn trên mảnh đất An Giang bằng ba cơng trình thủy lợi, cùng giao nhau tại một
địa điểm. Hãy cho biết họ là những ai? Sống vào thời đại nào? Và địa điểm giao nhau
ở nơi nào?
Câu hỏi 7: Hãy xác định địa giới hành chính của An Giang dưới thời Nguyễn
(từ thế kỷ XVIII đến năm 1867).

Câu hỏi 8: Hãy nêu sự thay đổi đơn vị hành chính cấp huyện và tương đương
trên địa bàn tỉnh An Giang sau ngày 30-4-1975 đến nay.
Câu hỏi 9: Hãy cho biết nguồn gốc của dân cư Việt trên mảnh đất An Giang.
Câu hỏi 10: Hãy cho biết tình hình dân số ở An Giang từ năm 1867 đến năm
2013.
Câu hỏi 11: Hãy phân tích những mặt thuận lợi về điều kiện tự nhiên và cư
dân ở An Giang.
Câu hỏi 12: Hãy phân tích những mặt khó khăn và thách thức về điều kiện tự
nhiên và cư dân ở An Giang.
Câu hỏi 13: Hãy phân tích vị trí địa lý tự nhiên của An Giang có tác động như
thế nào đối với việc phát triển kinh tế và an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trong
giai đoạn hiện nay?


Chương 2
LƯỢC SỬ VÙNG ĐẤT NAM BỘ VÀ QUÁ TRÌNH MỞ ĐẤT, GIỮ
ĐẤT CỦA NHÀ NGUYỄN TRƯỚC KHI THỰC DÂN PHÁP ĐẶT
ÁCH ĐÔ HỘ (TỪ THẾ KỶ I ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XVIII)
2.1. Lược sử vùng đất Nam Bộ trước năm 1757
Trong thời kỳ lịch sử cổ đại, trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay, xuất hiện ba
trung tâm văn minh và nhà nước vào loại sớm nhất Đông Nam Á, đó là: Trung tâm
văn hố Đơng Sơn với nhà nước Văn Lang (miền Bắc); trung tâm văn hoá Sa Huỳnh
với nhà nước Lâm Ấp (Champa) (miền Trung); và trung tâm văn hố Ĩc Eo với nhà
nước Phù Nam (miền Nam).
2.1.1. Giai đoạn từ thế kỷ I đến thế kỷ VII
Căn cứ các ghi chép của các thư tịch cổ Trung Quốc, vào khoảng những thế kỷ
đầu công nguyên ở phía Nam của nước Lâm Ấp (Champa), tương ứng với vùng đất
Nam Bộ Việt Nam ngày nay, đã tồn tại một quốc gia có tên gọi là Phù Nam. Các cư
dân Phù Nam chính là chủ nhân của nền văn hố Ĩc Eo.
Phù Nam là một vương quốc cổ ở Đông Nam Á, tồn tại từ thế kỷ I đến thế kỷ

VII, ở khu vực hạ lưu và châu thổ sông Mê Kông. Thời kỳ thịnh vượng nhất của vương
quốc, lãnh thổ bao gồm phía Nam Trung Bộ (Việt Nam) về phía Tây đến sơng Mê
Nam (Thái Lan), về phía Nam đến phía Bắc bán đảo Mã Lai. Vương quốc này tồn tại
cho đến khoảng nửa thế kỷ VII (sau năm 627) thì bị sáp nhập vào lãnh thổ của Chân
Lạp vì bị Chân Lạp đánh bại. Phần phía Nam Bộ Việt Nam được gọi là Thuỷ Chân
Lạp để phân biệt với vùng Lục Chân Lạp, tức vùng đất gốc của Chân Lạp. Từ đây,
vùng đất Nam Bộ được sáp nhập vào lãnh thổ Chân Lạp. Nhưng trên thực tế, việc cai
quản vùng lãnh thổ mới này đối với Chân Lạp gặp nhiều khó khăn.
Những phát hiện mới về văn hố Ĩc Eo trong thời gian gần đây cho thấy nền
văn hoá này phân bố đều khắp trên vùng đất Nam Bộ, ở các tỉnh Long An, Đồng Tháp,
An Giang, Kiên Giang, Cần Thơ và nhiều địa điểm khác thuộc Đồng bằng sông Cửu
Long. Hơn nữa, các nhà khoa học đã phát hiện nhiều chứng tích của giai đoạn văn hố
tiền Ĩc Eo trên đất Nam Bộ, chứng tỏ đây là một nền văn hố có nguồn gốc bản địa
mà trung tâm là vùng đất Nam Bộ, đồng thời có mối quan hệ giao lưu rộng rãi với thế
giới bên ngồi. Trong đó, ngồi việc quan hệ thường xun với các vùng lân cận, dấu
tích vật chất cho thấy sự liên hệ khá mật thiết với Trung Quốc, Ấn Độ, Tây Á và Địa
Trung Hải.
Trong quá trình mở rộng ảnh hưởng từ thế kỷ III đến thế kỷ VI, Phù Nam đã
phát triển thành đế chế lớn mạnh. Theo sử liệu Trung Hoa, các vua Phù Nam vào thời
kỳ này đã thơn tính hơn 10 nước, mở rộng lãnh thổ đến 5,6 nghìn dặm. Những tiểu
quốc này nằm trên bán đảo Mã Lai và một phần vùng hạ lưu sông Mê Nam. Tuy nhiên,


mức độ phụ thuộc của các tiểu quốc này không giống nhau, được gọi là thuộc quốc
hoặc chi nhánh của Phù Nam.
Trong thư tịch cổ của Trung Hoa phân biệt rất rõ Phù Nam với Chân Lạp. Phù
Nam là một quốc gia ven biển mà trung tâm là vùng Nam Bộ ngày nay của Việt Nam,
cư dân cụ thể là người Mã Lai – Đa Đảo có truyền thống hàng hải và thương nghiệp
khá phát triển. Trong thời kỳ thịnh vượng, Phù Nam đã mở rộng ảnh hưởng, chi phối
toàn bộ vùng vịnh Thái Lan và kiểm soát con đường giao thông huyết mạch từ Nam

Đông Dương sang Ấn Độ.
Cư dân Phù Nam là một cộng đồng đa chủng tộc, đa ngơn ngữ, đa văn hố.
Vương quốc Phù Nam là nơi gặp gỡ giao lưu giữa nhiều chủng tộc, tộc người thuộc
nhiều nền văn hố khác nhau, trong đó yếu tố nhân chủng của nhóm Mã Lai – Đa Đảo
nổi trội chiếm ưu thế.
Sau thời kỳ phát triển rực rỡ, đế chế Phù Nam suy yếu và bắt đầu quá trình tan
rã vào cuối thế kỷ VI. Chân Lạp do người Khmer xây dựng, lúc bấy giờ là ở vùng
trung lưu sơng Mê Kơng và khu vực phía Bắc Biển Hồ, là một thuộc quốc của Phù
Nam. Mặc dù là một thuộc quốc nhưng Chân Lạp đã nhanh chóng phát triển thành một
vương quốc độc lập vào thế kỷ thứ VI và nhân sự suy yếu của Phù Nam đã tấn công
chiếm lấy một phần lãnh thổ của đế chế này vào đầu thế kỷ VII (627).
Như vậy, Phù Nam là một quốc gia có cư dân và truyền thống văn hố riêng
của mình. Với hiểu biết khoa học cho đến tận ngày nay có thể thấy đó là một quốc gia
hình thành và phát triển trên vùng đất có vị trí giao thoa nên có nhiều lớp cư dân đan
xen. Như vậy, từ chỗ là một vùng đất thuộc Phù Nam – một quốc gia độc lập và hùng
mạnh, sau năm 627, vùng đất này đã bị Chân Lạp đánh chiếm.
2.1.2. Giai đoạn từ thế kỷ VII đến thế kỷ XVI
Khi vùng đất Nam Bộ thuộc Chân Lạp, trong một số sách cổ Trung Hoa đã có
tên gọi “Thuỷ Chân Lạp” để phân biệt với vùng “Lục Chân Lạp”, tức vùng đất gốc của
Chân Lạp.
Cũng từ đây, vùng đất Nam Bộ được sáp nhập vào lãnh thổ Chân Lạp. Nhưng
trên thực tế, việc cai quản vùng lãnh thổ mới này đối với Chân Lạp gặp nhiều khó
khăn. Trước hết, với truyền thống quen khai thác các vùng đất cao, dân số cịn ít ỏi,
người Khmer khi đó khó có khả năng tổ chức khai thác trên quy mô lớn một vùng
đồng bằng mới bồi đắp, còn ngập nước và sình lầy. Hơn nữa, việc khai khẩn đất đai
trên lãnh thổ của Lục Chân Lạp đòi hỏi rất nhiều thời gian và cơng sức.
Theo những tài liệu bi kí, đến thế kỷ thứ VIII tại vùng trung tâm của Phù Nam
trước đây vẫn còn tồn tại tiểu quốc do người Phù Nam cai quản. Vào nửa sau thế kỷ
VIII, Thuỷ Chân Lạp bị người Java tấn cơng và kiểm sốt đến năm 802 thì kết thúc.
Một trở ngại cho việc cai quản và phát triển vùng Thuỷ Chân Lạp là tình trạng chiến

tranh diễn ra thường xuyên giữa Chân Lạp với Champa. Trong khi đó, chính quyền
Chân Lạp dồn sức phát triển vùng trung tâm truyền thống ở khu vực Biển Hồ, trung


×