Tải bản đầy đủ (.pdf) (131 trang)

Văn học bình thuận từ 1975 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (986.36 KB, 131 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
---o0o---

PHẠM THỊ HUYỀN NHUNG

VĂN HỌC BÌNH THUẬN
TỪ 1975 ĐẾN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
---o0o---

PHẠM THỊ HUYỀN NHUNG

VĂN HỌC BÌNH THUẬN
TỪ 1975 ĐẾN NAY

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
PGS.TS: VÕ VĂN NHƠN


THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2017


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng cảm ơn trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn –
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi học
tập và nghiên cứu.
Tôi xin bày tỏ lịng biết ơn đến tất cả thầy cơ trong Khoa Văn học, chuyên
ngành Văn học Việt Nam đã tạo điều kiện cho tôi thực hiện đề tài này.
Đặc biệt tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất đến PGS.TS Võ
Văn Nhơn - người đã tận tâm giúp đỡ tơi trong suốt q trình nghiên cứu khoa học
và hồn thành luận văn này.
Cuối cùng, tơi xin chân thành cảm ơn gia đình và bạn bè đã luôn tạo điều
kiện, quan tâm, giúp đỡ, động viên trong suốt q trình học tập và hồn thành khố
luận tốt nghiệp.
TP.HCM, tháng 10 năm 2017
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Phạm Thị Huyền Nhung


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận văn đề tài “Văn học Bình Thuận từ 1975 đến
nay” là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả nghiên cứu có tính độc
lập riêng, khơng sao chép bất kỳ tài liệu nào và chưa công bố nội dung này ở bất
kỳ đâu. Các số liệu trong luận văn được sử dụng trung thực, nguồn trích dẫn có
chú thích rõ ràng, minh bạch, có tính kế thừa, phát triển từ các tài liệu, tạp chí,
các cơng trình nghiên cứu đã được cơng bố, các website.
Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm về lời cam đoan danh dự của tôi.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN


PHẠM THỊ HUYỀN NHUNG


MỤC LỤC
Trang
DẪN NHẬP ..............................................................................................................1
CHƢƠNG 1: DIỆN MẠO VĂN HỌC VIẾT BÌNH THUẬN SAU 1975 ...........8
1.1. Cơ sở hiện thực hình thành và phát triển văn học viết Bình Thuận ...........8
1.1.1. Cảnh quan địa lí đa dạng với nhiều danh lam thắng cảnh ..............................8
1.1.2. Lịch sử văn hóa lâu đời với nhiều di tích nổi tiếng.......................................10
1.1.3. Đời sống chính trị xã hội nhiều biến động ....................................................11
1.2. Đôi nét về văn học viết Bình Thuận..............................................................15
1.2.1. Trước năm 1975 ............................................................................................15
1.2.2. Sau năm 1975 ...............................................................................................21
CHƢƠNG 2: NHỮNG CẢM HỨNG CHỦ ĐẠO TRONG VĂN HỌC VIẾT
BÌNH THUẬN TỪ NĂM 1975 ĐẾN NAY .........................................................26
2.1. Cảm hứng về quê hƣơng ................................................................................27
2.2. Cảm hứng thế sự .......................................................................................... 41
2.2.1. Gia đình và xã hội .........................................................................................41
2.2.2. Tình u đơi lứa ............................................................................................52
2.2.3. Yếu tố tính dục ..............................................................................................57
2.3. Chiến tranh và hậu chiến ..............................................................................63
2.4. Vấn đề tôn giáo ...............................................................................................68
CHƢƠNG 3: NHỮNG GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT TRONG VĂN HỌC VIẾT
BÌNH THUẬN SAU 1975 .....................................................................................71
3.1. Bút pháp huyền thoại .....................................................................................71
3.2. Thời gian và không gian nghệ thuật .............................................................83
3.3. Nghệ thuật kết cấu và xây dựng nhân vật ...................................................90
3.4. Một số đặc điểm nghệ thuật trong thơ .........................................................98

KẾT LUẬN ..........................................................................................................107
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................111
PHỤ LỤC .............................................................................................................117


1

DẪN NHẬP
1. Lý do chọn đề tài
Văn học địa phương là mảnh đất vô cùng trù phú, màu mỡ. Nhưng mảnh
đất này cịn nhiều chắp vá, thậm chí có nhiều khoảnh cịn bỏ trống, chưa có dấu
hiệu canh tác, chăm sóc, đầu tư nghiên cứu trên cơ sở mang tính học thuật. Hơn
thế, trong những năm qua, thậm chí là thời gian tiếp theo, việc đưa văn học địa
phương vào giảng dạy trong nhà trường cũng cần có sự nghiên cứu, đánh giá một
cách đầy đủ và nghiêm túc.
Bình Thuận là tỉnh duyên hải ở cực Nam miền Trung, lại là nơi hội tụ cư
dân nhiều nơi tìm về. Từ thời Pháp mới xâm lược, Bình Thuận là mảnh đất “tị địa”
của những chí sĩ u nước. Bình Thuận là nơi giao lưu, hội tụ hơn ba mươi dân tộc
anh em trên mọi miền Tổ quốc, mang nhiều sắc màu văn hóa. Một vùng đất mưa ít
nắng nhiều, có nơi đã cằn khơ trên đường sa mạc hóa. Tuy nhiên, suốt bốn mươi
năm qua Bình Thuận đã hình thành được hệ thống kênh thủy lợi “nối mạng” đi đầu
trong cả nước, làm chuyển biến sinh thái môi trường.
Sau năm 1975, đất nước thống nhất, Hội Văn học nghệ thuật địa phương
được thành lập. Đây là nơi gặp gỡ giao lưu, tạo điều kiện cho các văn nghệ sĩ địa
phương sáng tác; là nơi ươm mầm cho các cây bút trẻ phát triển.
Khi Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII “Về xây dựng phát triển nền văn
hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” ra đời, tinh thần dân chủ được mở
rộng, các địa phương có nhiều cơ hội tiếp cận thông tin về các giá trị văn hố, từ
gia đình đến làng, bản, phố phường cũng xây dựng và giữ gìn bản sắc văn hố dân
tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Các văn nghệ sĩ địa phương tất nhiên

khơng thể nằm ngồi dịng chảy thời đại, họ cũng có những khám phá, tìm tịi về
đề tài, phương pháp sáng tác, hình thức biểu đạt để phản ánh cuộc sống một cách
chân thật nhất để kết nối hòa nhập với văn học cả nước.
Từ năm 1975, nhất là từ những năm 1985 đến nay, Bình Thuận có nhiều tác
giả với những tác phẩm (nhất là thể loại truyện và thơ) được giải thưởng văn học
nghệ thuật ở phạm vi địa phương, khu vực cũng như ở tầm quốc gia tạo nên sự chú


2

ý cũng như ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Nói chung, văn học tỉnh Bình
Thuận từ sau năm 1975 đến nay ( 2015) đã phát triển và tạo nên diện mạo nhất
định của một địa phương.
Nghiên cứu về văn học Bình Thuận sau 1975 tuy đã có, nhưng để giới thiệu
tương đối đầy đủ về giai đoạn văn học này thì chưa có cơng trình nghiên cứu
chun sâu nào thực hiện. Do đó, chúng tơi nghiên cứu đề tài này với mục đích
giúp độc giả có cái nhìn toàn diện hơn về sự phát triển của văn học Bình Thuận
giai đoạn từ 1975 đến năm 2015 đồng thời qua đó cho thấy sự đóng góp quan trọng
của các tác giả Bình Thuận giai đoạn này vào tiến trình phát triển chung của lịch
sử văn học Bình Thuận, thể hiện một nét rất riêng của văn thơ Bình Thuận trong
mối tương quan nền văn học của cả nước.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Văn học Bình Thuận từ sau năm 1975 đến năm 2015. Lý do giới hạn phạm
vi nghiên cứu đến năm 2015 vì chúng tơi muốn lấy mốc thời gian trịn 40 năm.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Khảo sát các tác phẩm - chủ yếu ở hai thể loại nổi trội nhất đó là: truyện và
thơ của những tác giả sinh ra, lớn lên và hiện đang sinh sống, sáng tác tại Bình
Thuận và các tác giả tuy không sinh ra ở đây, nhưng đã có thời gian gắn bó và viết
về quê hương Bình Thuận. Những tác phẩm khảo sát là những tác phẩm được công

bố chỉ từ sau năm 1975 đến năm 2015.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Việc nghiên cứu văn học Bình Thuận giai đoạn từ sau năm 1975 đến năm
2015 cịn rất ít, hầu như chưa có cơng trình nào nghiên cứu chun sâu mang tính
khoa học để đánh giá đầy đủ về sự phát triển văn học địa phương ở giai đoạn này.
Chúng tôi chỉ mới sưu tầm được một số cơng trình có liên quan như cơng trình:
Địa chí Bình Thuận do Lâm Quang Hiền chủ biên, hoặc một số ít cơng trình
nghiên cứu, sưu tầm, tổng hợp về tác giả hay các tác phẩm đăng tải trên báo, tạp
chí, trang web,…,


3

Lịch sử tỉnh Bình Thuận tuy mới được hình thành hơn 300 năm, nhưng về
tổng quan thì văn học viết Bình Thuận cũng nằm trong dịng chảy của văn học Việt
Nam qua các thời kỳ phát triển của lịch sử: Văn học trung đại – từ thế kỷ XVII đến
hết thế kỷ XIX, Văn học hiện đại – từ đầu thế kỷ XX đến năm 2015. Nghiên cứu
đánh giá về văn học viết địa phương Bình Thuận chúng tơi cũng dựa trên cơ sở
lịch sử này. Tuy nhiên, do giới hạn về thời gian cũng như tư liệu tham khảo, luận
văn này chỉ khái quát trong giai đoạn từ sau năm 1975 đến năm 2015.
Như đã trình bày, tài liệu nghiên cứu về văn học giai đoạn này không nhiều,
chỉ có một số cơng trình, bài viết như:
Cơng trình mang tính tập thể:
Địa chí Bình Thuận (2006), đã giới thiệu một cách khái quát về các tác giả,
tác phẩm tiêu biểu từ sau năm 1975 đến năm 2000: “Đội ngũ viết văn, làm thơ ở
Bình Thuận ngày càng đơng bao gồm:… Cẩm Hà, Trần Duy Lý, Đinh Đình Chiến,
Trần Thị Mộng Dần, Minh Quang,… ở miền Bắc vào; Võ Hoàng Minh, Đỗ Quang
Vinh, Lê Nguyên Ngữ, Hồ Việt Khuê, Mai Sơn, Văn Thoại Nhiên, Đoàn Thuận,
Võ Nguyên,… là những cây bút trẻ tại chỗ, trưởng thành ngay trên quê hương
mình sau ngày giải phóng. Tác phẩm xuất bản ngày một nhiều, phản ánh sinh động

cuộc sống lao động sản xuất và bảo vệ Tổ quốc của cán bộ, chiến sĩ, nhân dân
trong giai đoạn Cách mạng mới (…) Lao mình trong cuộc chuyển động của cuộc
sống mới, nhiều bạn viết khác đã bám sát hiện thực muôn màu muôn vẻ ở cơ sở,
những cơng trường khai hoang, cơng trình thủy lợi, hải đảo biển xa, vùng kinh tế
mới với sự cảm xúc chín muồi phản ánh sự thay da đổi thịt của quê hương trong
một khối lượng ấn phẩm đáng kể. Về văn xi có các tập truyện ngắn: Đội bóng rổ
thiếu niên, Ở nhà một mình (Võ Hồng Minh); Vật lạ trên đầu (Mai Sơn); Bản hịa
âm thơn dã, Vó ngựa đêm khuya (Võ Nguyên); Chiếc áo bà ba cổ trái tim, Có gì
khơng mà tặng bơng hồng, Ở biển, Lá thư trong vỏ ốc (Hồ Việt Khuê); Điệu luân
vũ đầu tiên, Mùa xuân B’li không về, Tiếng hát trăng thành cổ (Lê Nguyên Ngữ);
Huyền thoại láng nước nổi, Mặt trời tháng ba (Huy Sơ)” (…) Về thơ có: Biển
thức, Mưa nhớ (Đỗ Quang Vinh); Tuổi thơ đi qua (Minh Quang); Giọt sương,


4

Giữa trng đời (Phan Chính); Giữa hồng hơn, Vịng quanh (Đỗ Hồng Ngọc);
Mùa bấc biển, La Gi ngàn xanh, Lởi chiều, Lửa đêm mưa (Đoàn Thuận); Ở đời
như một nhà thơ Phương Đông (Nguyễn Bắc Sơn); Tiếng ễnh ương đâu cịn, Khát
giọt sương trên lá (Đồn Vũ); Sau dấu chân mình (Nguyễn Đức Hậu); Tháng
giêng gió thổi mù như khói (Huỳnh Hữu Võ)” [58, tr.676-678].
Và một số tác phẩm về ký, hồi ký,… nhưng khơng đi sâu vào phân tích,
bình luận, đánh giá mang tính học thuật về văn học giai đoạn này.
Cơng trình – bài viết mang tính cá nhân:
- Đỗ Quang Vinh, Văn học Bình Thuận (1697 - 2005),
/>
(ngày

truy


nguồn:
cập:

12/10/2003).
- Nguyễn Văn Hùng (2013), Truyện ngắn Bình Thuận từ năm 1975 đến nay,
Luận văn thạc sĩ, Đại học Vinh.
- Bài viết giới thiệu một số tác giả, tác phẩm:
+ Những bài viết giới thiệu sơ lược về Huỳnh Hữu Võ đăng trên các báo
(Tài liệu Huỳnh Hữu Võ lưu giữ): Huỳnh Hải Âu (26/11/2004), “Khúc hát từ miền
khơ gió”, Báo Thanh Niên (331); Nguyễn Hữu Cán (5-6/2010), “Nhà thơ Bình
Thuận có dun với những cuộc thi thơ” Văn nghệ Bình Thuận (155); Thái Dỗn
Hiểu (12/2000), “Khi nhà thơ phân thân làm tơn hành giả”, Văn nghệ Bình Thuận
(92); Thảo Ly (4/2009), “Thơ khơng ở lại trong lịng cơng chúng được”, Văn nghệ
Bình Thuận (148); Huỳnh Như Phương (5/5/1993), “Thơ ở trong thơ”, Văn nghệ
TP. Hồ Chí Minh (87); Minh Quang (9/2000), “Gương mặt thơ hồn hậu sâu lắng”
Bình Thuận Chủ nhật (177); Huyền Viêm (4/8/1993), “Mênh mông vần điệu”, Văn
nghệ TP. Hồ Chí Minh (100).
+ Một số bài viết giới thiệu về tác phẩm của Nguyễn Hiệp đăng trên Web:
Nguyễn Trí, “Mùi đồng q của kẻ
nghèo và cơ độc”; Vương Tâm, “Nhà văn Nguyễn Hiệp: Cây nến nhỏ cháy hết
mình”; VANVN, “Mùi chồng - phúc lạc và đau đớn”; Hoàng Thụy Anh, “Cảm
hứng thiền trong “Âm thanh đổ bóng”. La Văn Tuân (11/2007), “Dưa huyết và


5

những câu chuyện đậm nét nhân sinh”, Văn nghệ Bình Thuận; Lê Hồi Lương
“Âm thanh đổ bóng của Nguyễn Hiệp”, Thành
Chương (9/2012), “Cái “tơi” và cuộc tìm kiếm trong thế giới nội tâm – Đọc Âm
thanh đổ bóng của Nguyễn Hiệp”, Báo Bình Thuận cuối tuần...

+ Một số bài viết giới thiệu các tập truyện của Võ Nguyên: Trần Xuân An,
“Tập

truyện

ngắn

mới

của



Nguyên

như

ngọn

gió

lành

?”:

; TS Nguyễn Văn Kha (2000), “Đổi mới về quan niệm
con người trong truyện Việt Nam 1975 – 2000” – Đại học KHXHNV TP. Hồ Chí
Minh; TS. Trần Lương Công Khanh (11/2009), “Khát mùa chim di trú của Võ
Nguyên”, Tuổi trẻ; GS. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), “Vài ý nghĩ về tập truyện của
Võ Ngun”, Bản hịa âm thơn dã, Hội Văn học nghệ thuật Bình Thuận; Trần Quốc

Tồn (10/2003), lời bình “Dây tầm gởi”, “Chọn lọc và bình luận” tập 1, NXB Hội
Nhà văn; Trần Quốc Toàn (6/2004), lời bình “Chị dâu”, “Chọn lọc và bình luận”
tập 2, NXB Hội Nhà văn; La Văn Tuân (11/2010), “Đọc tập truyện ngắn “Khát
mùa chim di trú” của Võ Nguyên”, Văn nghệ Bình Thuận; Nguyễn Vũ Tiềm
(2001), “Tạo nên nét đẹp cho đời”, Lời cho người hát chia tay, NXB Văn học.
+ Một số bài viết giới thiệu về Lê Nguyễn Ngữ: PVVNBT (3/1994), “Một
giờ với Lê Nguyên Ngữ”, Văn nghệ Bình Thuận; Nguyễn Quốc Huy (11/2005), “Lê
Nguyên Ngữ say mê với nghiệp văn chương”, Báo Bình Thuận; Nguyễn Văn Học
(1/2008): “Một bài thơ nên vợ nên chồng”, Giáo dục và thời đại; Đình Quân
(2011), “Nhành mai biên cương”, Báo Quảng Nam số Xuân Tân Mão; Trần Duy
Lý (12/2001), “Người bạn nhỏ nơi ga xép”, Báo Bình Thuận Chủ nhật; Trần
Hồng Vy, “Đàm đạo với thơ Lê Nguyên Ngữ”, Web Quán Thơm Vòm Cỏ,
Trackbacks…
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Phƣơng pháp thống kê: Thống kê các cơng trình nghiên cứu văn học,
các thể loại, các tác giả, tác phẩm của văn học Bình Thuận giai đoạn sau 1975.
4.2. Phƣơng pháp phân tích: Tiến hành phân tích các tác phẩm cụ thể của
một số tác giả tiêu biểu trên phương diện nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật.


6

4.3. Phƣơng pháp phân tích – tổng hợp: Phân tích những chi tiết nội dung
vấn đề mà đề tài đã đề cập đến để đánh giá khái quát làm nổi rõ được diện mạo văn
học Bình Thuận trong quá trình xây dựng phát triển và bảo vệ quê hương từ sau
năm 1975 đến năm 2015.
4.4. Phƣơng pháp so sánh – đối chiếu: Thực hiện thao tác so sánh đối
chiếu giữa các tác phẩm trong cùng một tác giả cũng như giữa tác giả này với tác
giả khác. Đồng thời có sự so sánh – đối chiếu giai đoạn văn học này với giai đoạn
trước 1975 của văn học viết Bình Thuận để hiểu rõ giá trị, bản chất và vị trí của

từng tác giả cũng như giai đoạn văn học này.
4.5. Phƣơng pháp nghiên cứu văn học sử: Nghiên cứu tổng quát về bối
cảnh lịch sử, đời sống văn hóa - xã hội của tỉnh Bình Thuận cũng như khu vực
miền Nam Trung Bộ giai đoạn sau năm 1975. Đây là cơ sở hình thành tư tưởng,
quan điểm của các tác giả, từ đây nhằm góp phần làm sáng rõ nội dung các sáng
tác của họ.
4.6. Phƣơng pháp liên ngành: Kết hợp các phương pháp văn hoá học, xã
hội học, tâm lí học,… để tìm ra giá trị thẩm mĩ của tác phẩm.
4.7. Phƣơng pháp phỏng vấn nhà văn: Thực hiện phỏng vấn trực tiếp một
số tác giả sáng tác văn học đang sinh sống ở Bình Thuận.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Về văn học Bình Thuận, đã có một số cơng trình nghiên cứu, đánh giá, tập
trung vào một vài tác giả thời văn học trung đại, cận đại và một vài tác giả thời kỳ
từ 1945 đến 1975. Còn giai đoạn từ sau 1975 đến nay, đánh giá những thành tựu
chung về các tác phẩm của đội ngũ cầm bút và một số thể loại văn học tiêu biểu để
thấy được diện mạo và đặc điểm văn học giai đoạn sau 1975 đến nay của địa
phương này thì chưa có cơng trình nào đi vào nghiên cứu chun sâu. Phần lớn các
cơng trình chỉ dừng lại ở mức độ sưu tầm tập hợp các tác phẩm là chính, có chăng
là sự phản ảnh từng mảng đơn lẻ, thiếu tính hệ thống.
Với việc sưu tầm tư liệu là các văn bản văn học của các tác giả địa phương
ở giai đoạn sau 1975 và nghiên cứu, đánh giá những thành tựu của một số thể loại


7

nổi trội cũng như tìm hiểu giá trị tư tưởng và nghệ thuật của một số tác phẩm, tác
giả công trình này hy vọng sẽ giúp độc giả có cái nhìn tồn diện hơn về sự phát
triển của văn học Bình Thuận ở giai đoạn từ sau năm 1975 đến nay trong tương
quan với văn học khu vực miền Đông Nam Bộ, góp phần kết nối với nền văn học
của cả nước.

Đồng thời cơng trình này cũng là tư liệu bổ sung cho tài liệu dạy và học
Chương trình Ngữ văn địa phương ở trường phổ thông trong tỉnh hiện nay, làm
tiền đề cho các cơng trình nghiên cứu chun sâu tiếp theo.
Việc nghiên cứu đánh giá, ghi nhận sự đóng góp của văn học địa phương
tỉnh Bình Thuận từ sau năm 1975 đến nay do đó là việc làm cần thiết. Vì thế chúng
tơi chọn đề tài Văn học viết Bình Thuận từ năm 1975 đến nay.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần Dẫn nhập, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Luận văn
chia làm 3 chương:
Chương 1: Diện mạo văn học viết Bình Thuận sau năm 1975. Bao gồm: Cơ
sở hiện thực hình thành và phát triển văn học viết Bình Thuận: Cảnh quan đa dạng
với nhiều danh lam thắng cảnh, Lịch sử văn hóa lâu đời với nhiều di tích nổi tiếng,
Đời sống chính trị xã hội nhiều biến độn ; Đôi nét về văn học viết Bình Thuận:
Trước năm 1975, Sau năm 1975.
Chương 2: Những cảm hứng chủ đạo trong văn học viết Bình Thuận từ
1975 đến nay. Bao gồm: Cảm hứng về quê hương; Cảm hứng thế sự; Chiến tranh
và hậu chiến; Vấn đề tôn giáo.
Chương 3: Những giá trị nghệ thuật trong văn học Bình Thuận sau 1975.
Bao gồm: Bút pháp huyền thoại; Thời gian và không gian nghệ thuật; Nghệ thuật kết
cấu và xây dựng nhân vật; Một số đặc điểm nghệ thuật trong thơ.


8

CHƢƠNG 1
DIỆN MẠO VĂN HỌC VIẾT BÌNH THUẬN SAU 1975
1.1. Cơ sở hiện thực hình thành và phát triển văn học viết Bình Thuận
1.1.1. Cảnh quan địa lí đa dạng với nhiều danh lam thắng cảnh
Bình Thuận là một tỉnh duyên hải cực Nam Trung bộ nhưng cảnh quan địa
lí rất đa dạng phong phú do đặc điểm vị trí địa lí và tự nhiên tạo nên.

Về vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên: Bình Thuận là một tỉnh dun hải cực
Nam Trung bộ. Phía Đơng Bắc và phía Bắc giáp tỉnh Ninh Thuận, phía Bắc và Tây
Bắc giáp tỉnh Lâm Đồng; phía Tây giáp tỉnh Đồng Nai; phía Tây Nam giáp tỉnh Bà
Rịa – Vũng Tàu; phía Đơng và Đơng Nam giáp biển Đơng. Diện tích đất tự nhiên:
782.836 ha; vùng lãnh hải: 52.000 km2. Tọa độ địa lý: 10033‟42” đến 11033‟18” vĩ
độ Bắc; 107023‟41” đến 108052‟42” kinh độ Đơng.
Về địa hình: Bình Thuận chia làm 4 vùng rõ rệt. Vùng núi chiếm 40,7%
diện tích tự nhiên; vùng gò đồi chiếm 33,66%; vùng đồng bằng chiếm 9,43%;
vùng đồi và cồn cát ven biển chiếm 15,22%. Mỗi vùng đều có những đặc sản riêng
rất phong phú.
Về núi rừng: Bình Thuận có nhiều núi, nhưng núi khơng cao, hầu hết là
những chi núi cuối cùng của cao nguyên Lang – Biang, có nơi nhơ ra tận biển như
Vĩnh Tân, Vĩnh Hảo thuộc huyện Tuy Phong. Có một số ngọn núi tương đối cao
như núi Ông ở Tánh Linh (khoảng 1.300m), núi Tà Cú ở Hàm Thuận Nam, núi Tàzôn ở Hàm Thuận Bắc. Dọc theo bờ biển như Hòn Rơm – Mũi Né thuộc Phan
Thiết, Bình Thạnh thuộc Tuy Phong hình thành những động (đụn) cát, có những
động cao trên 100m. Những động cát này, đặc biệt là động cát Hịn Rơm – Mũi Né
ln thay đổi hình dáng trong ngày, tạo ra những lượn sóng nhấp nhơ, màu sắc
cũng thay đổi theo thời khắc trong những ngày nắng ráo. Cảnh vật động cát gợi
nhiều cảm hứng đối với các văn nghệ sĩ.
Về bờ biển: Bờ biển Bình Thuận dài 192 km, từ xã Vĩnh Tân huyện Tuy
Phong đến xã Thắng Hải huyện Hàm Tân. Dọc theo bờ biển có nhiều cửa sơng,


9

nhánh núi, đồi cát xen kẽ tạo thành những bãi biển đẹp như Cà Ná – Vĩnh Hảo,
Long Hương, Duồng – Chí Cơng, Phan Rí Cửa (thuộc huyện Tuy Phong); Mũi Né,
Phú Hải, Cồn Chà (thuộc thành phố Phan Thiết); Tân Hải (thuộc thị xã La Gi). Có
nhiều mũi đá, bãi, gành đẹp như Khe Gà, Khe cả, Quán Thùng, Ngọc Lâm, Đá
Ơng Địa, Hịn Rơm… Tất cả những địa danh ấy nay đã trở thành khu du lịch của

địa phương. Ngồi biển, gần bờ có Cù lao Câu, Hịn Nghề, Hịn Lao, Hịn Bà;
ngồi khơi cách đất liền 100 km có đảo Cù lao Thu (huyện Phú Quý). Đó là những
nơi mà hành trình du lịch đang hướng tới.
Về sơng hồ: Bình Thuận có những con sơng tương đối lớn như sơng Lịng
Sơng (Tuy Phong), sơng Lũy (Bắc Bình), sông Quao (Hàm Thuận Bắc), sông
Mường Mán từ Hàm Thuận Nam chảy qua Phan Thiết gọi là sông Cà Ty, sông
Phan (Hàm Tân), sông Dinh (La Gi), sông La Ngà (Tánh Linh – Đức Linh). Một
số hồ chứa nước xây dựng cơng trình thủy điện như: Hồ sơng Quao, hồ Cà Dây, hồ
sông Dinh, hồ thủy điện Hàm Thuận – Đa Mi, Đại Ninh. Đặc biệt là Bàu Trắng
(còn gọi là Bàu Ơng, Bàu Bà) ở Bắc Bình là nơi tạo nguồn cảm hứng cho các nghệ
sĩ. Từ xưa Nguyễn Thơng đã qua đây có nhận xét:
“Bãi cát có ba dải tự nhiên nổi lên, người xứ ấy gọi là Ba Động. Dưới động có hồ,
tức Bạch Hồ. Nước hồ rất trong, được coi là hồ có tiếng nhất trong các hồ suốt từ
Nam ra đây. Phía Nam hồ có đền thờ nữ thần A-na-diễn-ngọc-phi”.
Rồi chèo thuyền trên hồ trong đêm trăng cảm xúc làm thơ:
“Dục tầm dao thảo nhiễu hồ hành
Vân ảnh hồ quang chiếu nhãn thanh
Tối ái dạ lai tân nguyệt thượng
Dã hàng hồnh địch kích khơng minh”
dịch thơ:
“Muốn tìm cỏ quý dạo quanh hồ
Mặt nước mây lồng sáng nhấp nhơ
Rất thú đêm thanh trăng mới ló
Thuyền nan khỏa sóng sáo vi vu”
(Bạch hồ nhàn hành, Lê Thước và Phùng Khắc Khoan dịch).


10

Về khí hậu: Bình Thuận có hai mùa rõ rệt. Từ tháng 4 đến tháng 11 dương

lịch, gió thổi từ Đơng Nam về Tây Bắc (gió nồm) thường có mưa. Từ tháng 11 đến
tháng tư dương lịch, gió thổi từ Đơng Bắc về Tây Nam (gió bấc) khơ nắng. Bình
Thuận ít khi có bão. Nhiệt độ dao động từ 270C đến 300C. Rất thuận lợi cho khách
thập phương đến tham quan.
Điều kiện tự nhiên và vị trí địa lý ấy đã tạo nên cho mảnh đất Bình Thuận
nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng đang là sự hấp dẫn tạo điểm đến cho khách du
lịch như Phan Thiết, Hòn Rơm – Mũi Né, Tà Cú, Kê Gà, Bình Thạnh, Vĩnh Hảo,
Phú Quý…
Và tất cả những đặc điểm địa lý đó đã gắn bó theo nhịp điệu cuộc sống hằng
ngày của người dân quê, tác động qua lại đến nếp nghĩ, cách nhìn, đi vào đời sống
tinh thần, gợi lên cảm xúc sáng tác, góp phần hình thành bản sắc văn hóa nghệ
thuật của một địa phương.
1.1.2. Lịch sử văn hóa lâu đời với nhiều di tích nổi tiếng

Địa giới hành chính
Bình Thuận có lịch sử hơn 300 năm hình thành và phát triển. Trong quá trình

hình thành và phát triển, đơn vị hành chính tỉnh Bình Thuận có nhiều biến đổi. Về
ranh giới, có thể nhìn lại các mốc lịch sử như sau:
Từ 1693 đến 1858: Sau năm Quý Dậu (1693), phía Nam sơng Phan Rang
trở vào giáp Biên Hịa đặt tên là Thuận Phủ. Năm sau, Chúa Nguyễn đổi Thuận
Phủ ra Thuận Thành Trấn. Đến năm Đinh Sửu (1697), Chúa Nguyễn đổi Thuận
Thành Trấn ra Bình Thuận Phủ. Tên Bình Thuận ra đời từ đó. Về sau, Chúa
Nguyễn lại tiếp tục đổi phủ thành dinh Bình Thuận. Dinh Bình Thuận thành lập
bốn đạo trực thuộc: Phan Rang, Phan Thiết, Phố Hài, Ma Ly (tức Tam Tân – La Gi
ngày nay). Năm 1832, dưới triều Minh Mạng, dinh Bình Thuận được đổi thành
tỉnh Bình Thuận. Địa phận cũng từ ranh giới phía Nam Khánh Hịa đến Biên Hịa.
Từ năm 1858 đến Cách mạng tháng Tám – 1945:
Năm 1888, đời vua Đồng Khánh, cắt một số địa phận thuộc huyện Tuy
Phong, Hòa Đa sát nhập vào Khánh Hòa. Năm 1898, niên hiệu Thành Thái thứ 10,



11

Phan Thiết tách khỏi phủ Hàm Thuận để thành lập thị xã (Center urbain) và ngày
28/11/1933 được công nhận là thành phố. Đến năm 1916, tỉnh Bình Thuận có hai
phủ: Hàm Thuận, Hòa Đa và bốn huyện: Tuy Phong, Phan lý Chàm, Hàm Tân,
Tánh Linh và thị xã Phan Thiết.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954):
Phủ Hàm Thuận và phủ Hịa Đa đổi thành huyện. Tỉnh Bình Thuận gồm các
huyện: Tuy Phong, Hòa Đa, Phan Lý Chàm, Hàm Thuận, Hàm Tân, Tánh Linh và
thị xã Phan Thiết.
Thời kỳ kháng chiến chống Mĩ (1954 – 1975):
Năm 1957, chính quyền Ngơ Đình Diệm thành lập tỉnh Bình Tuy, gồm hai
huyện Hàm Tân, Tánh Linh quận Hoài Đức. Năm 1958, đối với tỉnh Bình Thuận,
chính quyền Sài Gịn lập hai quận mới là Hải Long (Mũi Né) và Phú Quý (đảo Cù
lao Thu). Về phía chính quyền giải phóng miền Nam Việt Nam, để phù hợp với
cuộc kháng chiến chống Mĩ, vẫn thành lập chính quyền cách mạng theo dõi quản lí
chỉ đạo như cách phân chia ranh giới tỉnh của chính quyền Sài Gịn.
Thời kỳ hịa bình lập lại đến nay (1975 – 2015):
Đầu năm 1976, tỉnh Thuận Hải được thành lập, gồm ba tỉnh cũ là Ninh
Thuận, Bình Thuận, Bình Tuy.
Tháng 4/1992, Thuận Hải lại chia thành hai tỉnh: Bình Thuận và Ninh
Thuận. Bình Thuận gồm thị xã Phan Thiết và 8 huyện: Tuy Phong, Bắc Bình, Hàm
Thuận Bắc, Hàm Thuận Nam, Hàm Tân, Tánh Linh, Đức Linh và huyện đảo Phú
Quý. Năm 1998, thị xã Phan Thiết được nâng lên thành phố. Năm 2005, thị trấn La
Gi được nâng lến cấp thị xã, tách khỏi địa danh hành chính huyện Hàm Tân. Đến
nay (2015), tỉnh Bình Thuận gồm có một thành phố, một thị xã và tám huyện.
Quá trình di dân và thành phần dân cư
Qua kết quả của ngành khảo cổ học cho thấy dấu vết của người cổ xưa có

mặt rải rác khắp các vùng Hàm Thuận Bắc, Bắc Bình, Phú Quý, Đức Linh. Di chỉ
động Bà Hòe (Hàm Thuận Bắc), Đa Kai (Đức Linh), Lầu Ơng Hồng (Phan Thiết),
Hàm Mỹ (Hàm Thuận Nam), Đức Bình (Tánh Linh)…


12

Cư dân bản địa của vùng đất này trước khi thành lập tỉnh Bình Thuận gồm
người Chăm và một số tộc người K‟ho, Rắclây, Châu ro,… Đến nửa đầu thế kỷ
XVII, xuất hiện các nhóm người Việt từ Đàng ngồi thuộc vùng duyên hải miền
Trung như Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi,
Bình Định thuộc các thành phần làm nông, làm biển và các nghề thủ cơng như đóng
thuyền, làm mộc, làm gốm, đan lát,… di dân bằng đường biển vào Bình Thuận bám
vào các bãi ngang, cửa sơng như La Gàn, Phan Rí, Phú Hài, Phan Thiết, La Gi để ổn
định làm ăn. Bên cạnh đó cịn có một bộ phận người Hoa từ các tỉnh Triều Châu,
Quảng Đông, Phúc Kiến, Hải Nam (Trung Quốc) cũng theo đường biển vào Bình
Thuận tập trung ở các thị trấn, thị xã sống bằng nghề buôn bán, dịch vụ. Trong thời
kỳ chiến tranh, một số dân tộc Nùng, Tày, Thổ, Mán, Thái, Mường ở các tỉnh miền
núi phiá Bắc phần bị ép, phần tự do di cư vào Bình Thuận.
Sau hơn 300 năm hình thành và phát triển tỉnh Bình Thuận đến nay, ngồi
đa số dân tộc Kinh cịn có mặt của 33 dân tộc anh em khác đang sinh sống, góp
phần tạo nên sự đa dạng bộ mặt văn hóa sắc tộc trong sinh hoạt trên mảnh đất
này.
Q trình lịch sử lâu đời đã hịa quyện truyền thống văn hóa của các dân tộc với
nhau, để hình thành và phát triển một nền văn hóa thống nhất trong tính đa dạng.
Nền văn hóa đó được biểu hiện một phần trong những di tích lịch sử - văn hóa
trên địa bàn tỉnh. Có khá nhiều di tích lịch sử - văn hóa có bề dày lịch sử và từ
lâu đã trở thành địa chỉ quen thuộc không chỉ của nhân dân Bình Thuận mà cịn
của các du khách trong và ngoài nước cũng như thu hút giới văn nghệ sĩ đến
chiêm bái, tham quan và sáng tác. Đó là những nơi thờ phượng và sinh hoạt tín

ngưỡng của người Việt, người Chăm và của các dân tộc khác trong tỉnh như:
Cụm đền tháp Po Sha Inư- một khu di tích tháp Chăm cổ, nằm trên đồi Bà Nài,
thuộc làng Phố Hài xưa, cách trung tâm thành phố Phan Thiết 7km về hướng
đông bắc. Khu tháp được xây dựng để thờ thần Shiva. Tuy chỉ có kiến trúc vừa
và nhỏ nhưng tháp Phố Hài chắt lọc được những tinh hoa kĩ thuật kiến trúc và
nghệ thuật trang trí của người Chăm xưa tạo nên vẻ uy nghiêm và kì bí; hay chùa


13

Hang cịn có tên là “Cổ Thạch tự” ở xã Bình Thạnh huyện Tuy Phong. Được xây
dựng trên núi Cổ Thạch, là một vùng núi đá rộng ngút ngàn, gồm hàng triệu khối
đá lớn nhỏ với hình dạng kỳ thú riêng biệt. Tất cả đều là nguyên sinh và thô mộc,
khơng hề có sự sắp đặt của con người. Nằm ngay dưới chân núi Cổ Thạch là bãi đá
Cà Dược. Bãi đá bảy màu với những viên đá nhỏ mang nhiều màu sắc khác nhau
nằm trên bờ biển hoang sơ trải dài theo chân núi xung quanh chùa. Cùng với
những khối đá lớn mang nhiều hình thù khác nhau nằm đầy trên bờ và mặt biển tạo
nên một thắng cảnh tự nhiên tuyệt đẹp. Dưới cái nắng Bình Thuận, bãi đá bảy màu
càng thêm lấp lánh khi được những con sóng biển tràn qua. Trong một cảnh quan
thiên nhiên kỳ thú, chùa Hang là một kiến trúc độc lạ. Đến với chùa Hang du
khách khơng chỉ được thả mình trong khơng khí thanh tịnh chốn cửa Phật mà cịn
được hịa mình vào thiên nhiên hoang sơ, kỳ vĩ nơi đây; hay chùa núi Tàkou ở thị
trấn Thận Nam, huyện Hàm Thuận Nam. Chùa tọa lạc trên đỉnh núi Tàkou cao
457m, ẩn mình dưới rừng cây cổ thụ quanh năm xanh tốt, tiếng suối chảy róc rách
đêm ngày. Khơng gian thanh tịnh, linh thiêng nơi đây không chỉ nhờ phong cảnh
thiên nhiên hùng vĩ nên thơ của núi rừng mà còn bởi sự tài hoa của con người tạo
nên những công trình kiến trúc đặc sắc. Trong đó cơng trình đáng kể nhất là pho
tượng khổng lồ “Thích Ca nhập niết bàn” (thường gọi là Phật nằm)..; hay địa danh
Hòn Bà là một hòn đảo nhỏ, cách bờ biển La Gi gần 2km về phía đơng. Cả hịn
đảo gần như phủ kín màu xanh của các loại cây cổ thụ có nhiều năm tuổi. Nằm trơ

trọi giữa biển nước như thách đố sóng gió, giơng tố của đại dương mênh mơng.
Trên đảo là ngôi đền thờ Thiên Y Ana- vị thần mẹ thiêng liêng của vương quốc
Champa; hay ngôi trường Dục Thanh, một di tích lịch sử mà có lẽ khơng người
Việt Nam nào khơng biết tới. Nằm nép mình bên dịng sơng Cà Ty quanh năm
nước chảy lững lờ, ngơi trường do các sĩ phu yêu nước ở Phan Thiết sáng lập vào
năm 1907 để hưởng ứng phong trào Duy Tân do Phan Châu Trinh, Trần Quý
Cáp và Huỳnh Thúc Kháng khởi xướng tại Trung Kỳ. Đây cũng là ngôi trường
mà Nguyễn Tất Thành (sau này là Hồ Chí Minh) đã dừng chân dạy học một thời
gian trước khi vào Sài Gịn để xuất ngoại, ra đi tìm đường cứu nước v..v


14

1.1.3. Đời sống chính trị xã hội nhiều biến động
Thời thuộc Pháp sau khi ba tỉnh miền Đông bị Pháp xâm lược, rồi ba tỉnh

miền Tây Nam kỳ bị mất nốt vào tay Pháp (6/1867), sĩ phu và nhân dân Nam bộ
dấy lên phong trào “tị địa” (rời bỏ vùng bị giặc chiếm để tỏ rõ thái độ bất hợp tác với
giặc). Lúc bấy giờ, Bình Thuận trở thành nơi ẩn náu, tụ hội tự nhiên cho những

người từ Nam ra cũng như các tỉnh từ Bắc và Trung vào trong đó có rất nhiều chí sĩ
u nước đồng thời là nhà thơ, nhà văn. Trong đó phải kể đến nhà thơ, nhà trí thức

yêu nước, nhà hoạt động xã hội Nguyễn Thơng. Ơng đã kêu gọi dân đào mương,
đắp đập, làm thủy lợi, phát triển nông nghiệp để củng cố miền Trung và Tây
Nguyên. Đây cũng là nơi nhà thơ yêu nước nổi tiếng Nguyễn Xuân Ôn hi vọng
củng cố Tam Phan (Phan Rang, Phan Rí, Phan Thiết) để thành bình phong chống
giặc, khiến Bình Thuận ngày càng trở nên có vị trí đặc biệt.
Nhưng khi phong trào Cần Vương ở Bình Thuận thất bại, từ sau năm 1887,
thực dân Pháp đặt cơ quan đại lý (délégue) tại Bình Thuận, quản lý toàn bộ kinh tế

xã hội với các luật lệ khắt khe trong chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất.
Hàng ngàn mẫu ruộng đất với những giấy phép “khai khẩn đồn điền”của các sĩ
quan, viên chức Pháp lần lượt kéo đến chiếm dụng. Demonestrol lập đồn điền Tà
Mon, Casset lập đồn điền ở cây số 13 – 14 (Hàm Thuận Nam). Chúng bắt dân đi
phu và đặt ra hàng loạt các loại sưu thuế, đàn áp, bóc lột, đời sống người lao động
vơ cùng khốn khổ.
Đến đầu thế kỷ XX, Pháp mở đường giao thông, xây dựng nhà ga xe lửa
Phan Thiết. Đến năm 1910, Phan Thiết trở thành đô thị khá sầm uất, các công sở
được xây dựng theo kiến trúc của Pháp và các con đường được đặt tên. Xã hội phát
triển nhưng người lao động lại cơ cực.
Sau khi phong trào chống Pháp theo xu hướng Cần Vương bị thất bại,
nhưng tinh thần yêu nước của nhân dân Bình Thuận vẫn tiếp tục phát triển nhưng
chịu ảnh hưởng tư tưởng mới tư sản dân chủ. Năm 1905, các chí sĩ của phong trào
Duy Tân đến Bình Thuận để tuyên truyền tư tưởng yêu nước, bàn tính việc thành
lập các cơng ty, hiệp hội, mở mang dân trí.


15

Từ sau năm 1945 đến 1954: Nhân dân Bình Thuận cùng cả nước tham gia
kháng chiến chống Pháp, tuy gặp nhiều gian khổ nhưng vẫn bền bỉ, kiên trung, anh
dũng. Văn hóa – giáo dục phát triển ở hai chính thể, vùng kháng chiến và vùng đô
thị dưới sự quản lý kiểm sốt của chính quyền Sài Gịn.
Từ sau 1954 đến 1975: Hiệp định Genève ký kết, đất nước tạm thời chia
cắt. Bình Thuận cũng như các tỉnh ở miền Nam, chống lại chế độ độc tài Ngơ Đình
Diệm, gầy dựng cơ sở các mạng, từ đấu tranh chính trị chuyển sang đấu tranh vũ
trang. Sau chiến thắng Bắc Ruộng – Tánh Linh (31/7/1960), cùng với phong trào
Đồng Khởi ở miền Nam, nhân dân Bình Thuận vượt qua gian khổ, hi sinh, kháng
chiến chống Mĩ, giải phóng Bình Thuận, góp phần giải phóng miền Nam Việt
Nam, thống nhất đất nước.

Từ sau 1975 đến nay – 2015, bốn mươi năm xây dựng và bảo vệ, thoát ra
khỏi nền kinh tế bao cấp, chuyển sang kinh tế thị trường có định hướng, cơ cấu xã
hội và kinh tế có nhiều chuyển biến trên các bình diện: lao động biển – chế biến và
tiêu thụ hải sản, lao động nông nghiệp – chuyển hướng cây trồng, đặc biệt là cây
thanh long, cây trôm, cao su…, ngành du lịch phát triển không ngừng, hệ thống
thủy điện, thủy lợi “nối mạng” làm chuyển đổi khí hậu và tưới tiêu cho các cánh
đồng khô hạn quanh năm, xây dựng nhiệt điện, điện gió và hệ thống giao thơng
đường thủy, đường bộ, đường hàng khơng… Văn hóa – giáo dục – y tế từng bước
song hành đi lên.
Tất cả những đặc điểm xã hội đó là cơ sở đã tác động đến nhận thức, vào
cảm quan của các văn nghệ sĩ và họ đã viết ra những tác phẩm góp phần tạo nên
diện mạo văn học địa phương Bình Thuận.
1.2. Đơi nét về văn học viết Bình Thuận
1.2.1. Trƣớc năm 1975
Giai đoạn thế kỷ XIX
Thời kỳ văn học trung đại, ở Bình Thuận có thể tính từ thế kỷ XIX, vì trước
thế kỷ XIX, chưa thấy xuất hiện tác giả, tác phẩm tiêu biểu. Những tác giả được
các tài liệu lịch sử ghi nhận là từ nửa sau thế kỷ XIX trở đi.


16

Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược và Đà Nẵng thất bại, năm
1859 chúng quay vào đánh chiếm Gia định, triều đình nhà Nguyễn bất lực để mất
Lục tỉnh vào tay Pháp, Bình Thuận trở thành vùng đất tỵ địa. Các nhân sĩ yêu
nước tập trung về đây hợp sức xây dựng khu căn cứ địa thế chân vạc Tam Phan
chống Pháp. Các chí sĩ ấy là những nhà Nho, trên con đường lập kế hoạch chống
ngoại xâm, họ còn sáng tác văn chương bộc lộ nỗi lòng với dân với nước, với quê
hương và chủ quyền dân tộc. Những tác giả tiêu biểu nửa cuối thế kỷ XIX bước
sang đầu thế kỷ XX như Nguyễn Xuân Ôn, Nguyễn Thơng, Bùi Quang Diệu,

Trương Gia Mơ…
Nguyễn Xn Ơn (1825 – 1889) là người có khí phách, khơng khuất phục
trước bất cơng, là ơng quan liêm chính với tinh thần yêu nước và thái độ dứt khoát
chống thực dân Pháp xâm lược. Trong thời kỳ là quan án sát ở Bình Thuận, ơng đã
bộc lộ gửi gắm nỗi lịng của mình với dân, với nước qua những tác phẩm: Ngọc
Đường thi tập, Ngọc Đường văn tập.
Nguyễn Thông (1827 – 1884), là nhân sĩ có kiến thức rộng ở nhiều lĩnh vực,
khi đang làm quan ở triều đình Huế, thực dân Pháp đánh chiếm Gia Định (1859),
ông xin vào Nam chiến đấu, rồi tị địa ra Bình Thuận cuối năm 1861. Ông được
triều đình cử đi giữ chức vụ ở nhiều nơi, phần cuối cuộc đời là dừng chân và mất
tại Bình Thuận, mộ táng ở chân núi Cố, Phú Hài, Phan Thiết. Trong thời gian ở
Bình Thuận, ơng lập một ngôi nhà nhỏ ở Phan Thiết, đặt tên là Ngọa du sào (ổ nằm
chơi) và nhiều sáng tác văn thơ của ông được ra đời ở nơi này. Sự nghiệp sáng tác
của ông đề tài thuộc nhiều lĩnh vực ở nhiều thể loại, tiêu biểu như: Độc am thi văn
tập, Kỳ xuyên thi văn sao, Kỳ xuyên công độc – về sau được tập hợp và trích tuyển
đưa vào Ngọa du sào tập, gồm ba quyển Thi tập và bốn quyển Văn tập, trong đó
ba quyển Thi tập đã được nhà sách Quảng Thạch Nam khắc in vào năm 1882. Sau
1975, thơ văn Nguyễn Thông đã được tổ chức hội thảo cấp quốc gia ở Bình Thuận
và có một số cơng trình nghiên cứu, sưu tầm, tuyển chọn in thành sách. Như “Tác
phẩm Nguyễn Thông” do Cao Tự Thanh và Đồn Lê Giang trích dịch và giới thiệu
– Sở Văn hóa và Thơng tin Long An xuất bản năm 1984; “Nguyễn Thông – con


17

người và tác phẩm” của Ca Văn Thỉnh và Bảo Định Giang, do NXB Trẻ Thành
phố Hồ Chí Minh ấn hành năm 2002.
Bùi Quang Diệu (1861 – 1913), sáng tác của ông không nhiều, chỉ thấy ghi
chép lại tác phẩm Thơ đi kinh gồm 1283 câu lục bát để gửi ra kinh đơ Huế nói lên
nỗi lầm than cơ cực của nhân dân và việc thực dân Pháp bắt thanh niên (ở đảo Phú

Quý) đi phu dịch khổ sai với một tấm lịng thương cảm vơ hạn.
Giai đoạn từ đầu thế kỷ XX đến 1945
Từ đầu thế kỷ XX đến 1930, tác giả được đặt vị trí tiêu biểu của văn học
Bình Thuận giai đoạn này là Trương Gia Mơ (1866 – 1929 – có tư liệu ghi ơng
mất năm 1925), là một sĩ phu yêu nước của mảnh đất Nam Bộ, nhưng cuộc đời
Trương Gia Mô sinh sống ở Bình Thuận là chính. Khi Pháp chiếm ln ba tỉnh
miền Tây, ơng đã theo cha ''tỵ địa'' ra Bình Thuận từ năm 1867. Ơng là người
thẳng thắn, chính trực, ơng đã nêu nhiều kế sách phục vụ nhân dân, nhưng đất
nước rơi vào tay giặc, triều đình nhu nhược, bất lực, chẳng lo nổi việc nước,
không thể hiện được ước vọng của mình, ơng thất vọng từ quan (khoảng năm
1894 – 1895). Không rõ thời gian Trương Gia Mô trở về lại Bình Thuận sống ở
Duồng, thuộc huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận năm nào, nhưng đến năm 1909,
Nguyễn Tất Thành trên đường từ Huế vào Nam, đã tìm đến nhà Trương Gia Mơ,
là chỗ thân tình quen biết cũ với cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc. Đến năm 1910,
Trương Gia Mô đưa Nguyễn Tất Thành từ Duồng vào Phan Thiết, giới thiệu vào
dạy ở trường Dục Thanh (nơi trước đây là Ngọa du sào của cụ Nguyễn Thông).
Qua năm 1911, Trương Gia Mô tiếp tục đưa thầy giáo Nguyễn Tất Thành từ Phan
Thiết vào Sài Gòn. Dựa vào sáng tác của Trương Gia Mơ theo thời gian, có thể
xếp ông là tác giả chuyển tiếp giữa thời kỳ trung đại sang cận đại. Trương Gia
Mô sáng tác văn chương khá nhiều. Thơ ông phản ánh một tâm trạng băn khoăn
với nhiều day dứt khơn ngi về tình hình đất nước, về vận mệnh con người và
sự trường tồn của dân tộc. Song tác phẩm của của ông đã bị thất lạc hiện cịn lại
khơng nhiều. Chỉ cịn lại 35 bài thơ chữ Hán trong tập Cúc Nông thi thảo và 10
bài thơ chữ Nôm đăng trên báo Nam Phong. Những sáng tác còn lại của Trương


18

Gia Mô đã được Nguyễn Nam sưu tầm, biên soạn, giới thiệu trong cơng trình
“Cụ nghè Trương Gia Mơ” do NXB Tổng hợp An Giang ấn hành năm 1989.

Trong sách “Chương trình Ngữ văn địa phương trung học cơ sở tỉnh Bình
Thuận” nhóm nghiên cứu biên soạn chỉ chọn hai tác giả tiêu biểu của thời kỳ này
là Nguyễn Thông và Trương Gia Mơ.
Qua thời kỳ tị địa, Bình Thuận những năm đầu thế kỷ XX còn là nơi hội tụ
của các chí sĩ yêu nước, gặp gỡ giao lưu, bàn bạc để gây dựng sự nghiệp cách mạng
tìm con đường cứu nước với những tên tuổi như phó bảng Phan Chu Trinh cùng với
hai tiến sĩ Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng “Nam du” gặp gỡ nhiều trí thức
cùng thời: Lê Khiết, Nguyễn Quý Anh, Hồ Tá Bang… vận động duy tân, thành lập
công ty nước mắm Liên Thành mở mang kinh doanh để bước đầu tích lũy ngân
sách, sáng lập ra trường Dục Thanh dạy chữ Quốc ngữ (ở Phan Thiết, Bình Thuận)
mục đích nâng dân trí. Các chí sĩ đến một thời gian rất ngắn, cũng có một số bài
ngâm vịnh thể hiện tính thần canh tân đất nước trên cương lĩnh phong trào Duy Tân
của cụ Phan Chu Trinh đề xướng: "Khai dân trí – Chấn dân khí – Hậu dân sinh".
Từ 1930 đến 1945, lực lượng sáng tác ở Bình Thuận chưa được hình thành
rõ nét. Sự kiện văn nghệ giai đoạn này chỉ có mối quan hệ giữa Hàn Mặc Tử với
Bích Khê, nhưng với người địa phương và trong làng văn dấu ấn chính khơng phải
là chuyện văn chương giữa hai người, mà là câu chuyện tình của Hàn Mặc Tử.
Nhưng đi vào nghiên cứu, chúng tôi thấy quan hệ giữa Hàn Mặc Tử và Bích Khê
những tháng ngày ở Phan Thiết cũng ghi đậm một số dấu ấn trong thi phẩm của họ
với mảnh đất này và từ đó mở ra một hướng cho thơ Bích Khê rực sáng sau này.
Nhìn lại giai đoạn văn học Bình Thuận từ những năm 1930 về trước, lực
lượng sáng tác là những nhà Nho, nhưng họ cũng là những chí sĩ trên con đường
cứu nước với tư tưởng tiến bộ, không lệ thuộc vào tư tưởng phong kiến, dẫu rằng
thể thơ sáng tác của họ chủ yếu là thể Đường luật, nhưng chuyển tải nội dung tư
tưởng tiến bộ về canh tân đất nước, được thể hiện biểu đạt trên ba loại chữ: chữ
Hán, chữ Nôm và chữ Quốc ngữ. Sau năm 1930, với hai nhà thơ Hàn Mặc Tử và
Bích Khê, tuy thời gian ở và sáng tác mang dấu ấn địa phương nơi này không


19


nhiều, nhưng đó lại là những tác phẩm đã hồn toàn vượt ra ngoài thi pháp trung
đại đến với văn học hiện đại.
Giai đoạn từ sau 1945 đến 1975
Sau Cách mạng tháng Tám, đất nước ta được giải phóng, chúng ta có một
nền văn nghệ chính thống dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Tuy
nhiên cuộc trường kỳ kháng chiến chống Pháp và cao trào chống đế quốc Mỹ cứu
nước nhằm bảo vệ độc lập dân tộc, hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước là
những thử thách lịch sử lớn đối với nền văn nghệ đồng thời lại có tác dụng thúc
đẩy văn học ta phát triển, đóng góp những tác phẩm có giá trị vào kho tàng văn
học chống thực dân, đế quốc, vì độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội. Xã hội nào
văn nghệ nấy. Trong suốt ba mươi năm kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ cứu
nước, văn học địa phương Bình Thuận được nhận diện:
Bộ phận văn học kháng chiến – nhất là giai đoạn chống Pháp, lực lượng
sáng tác cịn rất mỏng. Có những người khi tham gia cách mạng chứng kiến thực tế
cuộc sống lao động và chiến đấu gian khổ, hi sinh mà anh dũng ở vùng kháng
chiến mới cảm hứng tập sáng tác, mang tính quần chúng tự phát. Ngoài những
người vừa cầm bút vừa cầm súng tham gia chiến đấu cịn có lực lượng quần chúng
tự phát. Năm 1950, Bình Thuận mới có Chi hội văn nghệ ra đời. Nhưng tác giả của
địa phương giai đoạn này được nhiều cơng chúng biết đến chỉ có nhà thơ - nhạc sĩ
Minh Quốc (ông là người đầu tiên phổ nhạc bài Đồng chí của Chính Hữu). Ơng
cũng đồng thời là người làm nhiệm vụ liên hệ với các địa phương khác để nắm bắt
tình hoạt động văn nghệ. Sau đó cịn có một số nhà văn, nhà thơ ở nơi khác đến
gây dựng phong trào văn nghệ cho Liên Khu 6 nói chung và Bình Thuận nói riêng
như Tế Hanh, Tịnh Hà, Giang Nam…
Qua thời kỳ kháng chiến chống Mĩ, lực lượng sáng tác được bổ sung. Bên
cạnh những nhà thơ, nhà văn thời chống Pháp tiếp tục ở lại, có thêm những cây bút
tại chỗ trưởng thành như Trương Quân Mỹ, Phạm Quang Pháp… và từ miền Bắc,
miền Trung vào Nam Hà, Hồ Phú Giêng, Phan Minh Đạo… Nhà văn Nguyên Nam
cũng thuộc đối tượng xuất thân từ Bình Định tập kết ra Bắc (1954) đến năm 1962



20

trở về lại miền Nam, phân công về hoạt động văn nghệ Khu 6, Bình Thuận, là cây
bút văn xi duy nhất trong thời kháng chiến chống Mỹ trên quê hương này đạt
được giải thưởng cuộc thi truyện ngắn của Văn nghệ quân đội (1957) và Văn nghệ
giải phóng (1963). Đối tượng cảm hứng sáng tác của những nhà văn ở vùng kháng
chiến là diễn biến cuộc sống lao động và chiến đấu của những con người kháng
chiến với tinh thần ca ngợi, biểu dương những tấm gương anh dũng hi sinh, xót xa
trước những mất mát đau thương và lên án sự dã man tàn ác của kẻ thù gây ra cho
nhân dân trên quê hương này. Thể loại chủ yếu là thơ, truyện ngắn, bút ký và một
số sáng tác kịch mang tính phong trào quần chúng nhằm phục vụ kịp thời yêu cầu
cách mạng, chưa có sức sống với thời gian.
Bộ phận văn học do những người trong lịng đơ thị miền Nam sáng tác
phức tạp hơn về nội dung và cách thể hiện. Họ vẫn thể hiện tinh thần dân tộc,
tấm lòng đối với đất nước non sơng, vừa bộc trực, vừa kín đáo. Bộc trực là
những trang sáng tác thể hiện thái độ tinh thần phản chiến, rõ nét nhất là
Nguyễn Bắc Sơn với tập thơ Chiến tranh Việt Nam và tôi (Nxb Đồng Dao in ấn
phát hành năm 1972), cũng như một số bài thơ lẻ của Huỳnh Hữu Võ đăng báo
Sài Gịn; kín đáo là gửi gắm qua những hình tượng mang tính ẩn dụ để lồng vào
gửi gắm tâm tư tình cảm của mình với quê hương, đất nước. Những cây bút tiêu
biểu được độc giả đón nhận thời kỳ này như Yên Hy Ba (tham gia cách mạng
nhưng sáng tác trong lịng đơ thị miền Nam), Vũ Anh Khanh, Nguyễn Ngu Í,
Hoài Khanh, Nguyễn Bắc Sơn, Lê Nguyên Ngữ, Huỳnh Hữu Võ, Đỗ Hồng
Ngọc, Nguyễn Như Mây,... Do vậy đối tượng cảm hứng của họ ở nhiều phương
diện, nhiều góc độ khác nhau của đời sống. Nhiều tác giả đi vào phân tích,
khám phá chiều sâu thế giới nội tâm của thân phận con người (như những tác
phẩm của Vũ Anh Khanh, Nguyễn Ngu Í, Hồi Khanh, n Hy Ba..). Bộ phận
văn học kháng chiến chủ yếu cổ vũ, ngợi ca, biểu dương hướng ngoại; cịn bộ

phận văn học đơ thị đa số hướng về con người cá nhân nhỏ bé, riêng tư với
những ngóc ngách thầm kín thẳm sâu trong cuộc sống đời thường, nhưng lại có
những biến động nội tâm nhiều khi vô cùng dữ dội. Về đặc điểm này của bộ


×