Tải bản đầy đủ (.pdf) (140 trang)

Thế giới quan và nhân sinh quan trong thần thoại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 140 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


VÕ HỒNG LAM

THẾ GIỚI QUAN VÀ NHÂN SINH QUAN
TRONG THẦN THOẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



VÕ HỒNG LAM

THẾ GIỚI QUAN VÀ NHÂN SINH QUAN
TRONG THẦN THOẠI VIỆT NAM

Chuyên ngành: TRIẾT HỌC
Mã số: 60.22.03.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học:
TS. NGUYỄN TRỌNG NGHĨA



THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan, đây là cơng trình do tôi nghiên cứu và thực hiện dưới
sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Trọng Nghĩa. Nội dung và kết quả
nghiên cứu được trình bày trong luận văn là trung thực. Các tài liệu sử dụng
trong luận văn đều có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.

TP.Hồ Chí Minh, ngày

tháng

Tác giả

VÕ HỒNG LAM

năm 2017


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài ......................................................... 4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn ........................................ 12
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn ......................................... 13
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn ............................ 13
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn ...................................... 14

7. Kết cấu của luận văn ................................................................................... 14
PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................ 15
Chương 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THẦN THOẠI VIỆT NAM ....... 15
1.1. KHÁI NIỆM VÀ CƠ SỞ HÌNH THÀNH THẦN THOẠI VIỆT NAM ..... 15
1.1.1. Khái niệm thần thoại và thần thoại Việt Nam....................................... 15
1.1.2. Cơ sở hình thành thần thoại Việt Nam.................................................. 18
1.2. ĐẶC ĐIỂM CỦA THẦN THOẠI VIỆT NAM ...................................... 37
1.2.1. Thần thoại Việt Nam phản ánh tư duy người Việt thời kì nguyên thủy .. 37
1.2.2. Thần thoại Việt Nam phản ánh quá trình mở đất mở nước của người
Việt cổ ............................................................................................................. 44
1.2.3. Thần thoại Việt Nam là lá chắn trước sự du nhập của văn hố nước
ngồi ................................................................................................................ 51
Kết luận Chương 1 ........................................................................................ 62
Chương 2. NỘI DUNG, ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA CỦA THẾ GIỚI
QUAN, NHÂN SINH QUAN TRONG THẦN THOẠI VIỆT NAM ....... 65
2.1. NỘI DUNG VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA THẾ GIỚI QUAN TRONG THẦN
THOẠI VIỆT NAM ........................................................................................ 65
2.1.1. Khái niệm thế giới quan trong thần thoại Việt Nam ............................. 65


2.1.2. Nội dung của thế giới quan trong thần thoại Việt Nam ........................ 67
2.1.3. Đặc điểm của thế giới quan trong thần thoại Việt Nam ....................... 85
2.2. NỘI DUNG VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA NHÂN SINH QUAN TRONG
THẦN THOẠI VIỆT NAM ............................................................................ 89
2.2.1. Khái niệm nhân sinh quan trong thần thoại Việt Nam ......................... 89
2.2.2. Nội dung của nhân sinh quan trong thần thoại Việt Nam..................... 91
2.2.3. Đặc điểm của nhân sinh quan trong thần thoại Việt Nam .................. 112
2.3. Ý NGHĨA CỦA THẾ GIỚI QUAN VÀ NHÂN SINH QUAN TRONG
THẦN THOẠI VIỆT NAM .......................................................................... 115
2.3.1.Ý nghĩa của thế giới quan trong thần thoại Việt Nam ......................... 115

2.3.2. Ý nghĩa của nhân sinh quan trong thần thoại Việt Nam ..................... 119
Kết luận Chương 2 ...................................................................................... 123
PHẦN KẾT LUẬN ...................................................................................... 125
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 127


1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Tư tưởng của q khứ khơng bao giờ biến mất hồn tồn mà thường để
lại di sản của mình. Một trong số những di sản tinh thần quý báu còn lưu giữ
đến tận ngày nay chính là kho tàng thần thoại của các dân tộc trên thế giới.
Toàn bộ bức tranh sinh hoạt tư tưởng thời cổ đại với những giá trị đa diện
của nó, đều thơng qua thần thoại mà tự phát ngôn, tự biểu lộ cho hậu thế hiểu
hơn về mình. Vì lẽ đó, hệ thống thần thoại các dân tộc trên thế giới nói
chung cũng như thần thoại Việt Nam nói riêng đóng vai trị quan trọng trong
việc cung cấp tài liệu để các bộ môn khoa học xã hội bao gồm triết học
nghiên cứu về thời đại cổ xưa nhất của lịch sử xã hội loài người. Hơn nữa,
các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin và các nhà lý luận mỹ học
mácxít cịn nhấn mạnh tầm quan trọng của thần thoại đối với nghiên cứu triết
học, xem nó như một trong những hình thức biểu hiện của thế giới quan,
những mong chờ và khát vọng của quần chúng. Bởi vì, sự hình thành triết
học khơng diễn ra một cách ngẫu nhiên mà là kết quả tất yếu của việc kế
thừa những di sản tinh tuý của quá khứ, bao gồm các sáng tác dân gian trong
đó có thần thoại. Thực tế chứng minh rằng, thần thoại và triết học ln có
mối liên hệ mang tính phát sinh. Thần thoại là chất liệu cho các nhà triết học
thể hiện quan niệm của mình về thế giới, khám phá ra những điều bí ẩn trong
thế giới ấy và thể hiện chúng bằng những biểu tượng, khái niệm triết học.

Chẳng hạn, thần thoại Hy Lạp đã trở thành cội nguồn lý luận cho sự hình
thành tư tưởng biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại. Các nhà triết học
Hy Lạp cổ đại đã tiếp nhận có phê phán những tư tưởng trong thần thoại Hy
Lạp để xây dựng nên những học thuyết nói chung và tư tưởng biện chứng
nói riêng. Có thể nói, thần thoại là một bộ bách khoa toàn thư về kiến thức


2

tôn giáo và triết học của nhân dân; là mạch ngầm sâu thẳm của dân tộc, ẩn
chứa những triết lý sâu sắc trên cơ sở đó mà hình thành và phát triển những
mầm mống của triết học, tiền triết học hay nói như Nguyễn Đăng Thục là
“ngụ ý triết học” [75, tr.76], là “triết học bình dân” [75, tr.392]. Do vậy, việc
nghiên cứu tư tưởng của người Việt cổ bao gồm thế giới quan, nhân sinh
quan, làm rõ những giá trị cũng như hạn chế của nó thực sự là một vấn đề có
ý nghĩa lý luận sâu sắc và ý nghĩa thực tiễn cấp bách hiện nay.
Đằng sau những câu truyện thần thoại là những vấn đề thường hằng của
lý tính nhân loại, hay nói cách khác, là những vấn đề thuộc hai phạm trù cơ
bản, nền tảng của triết học là thế giới quan và nhân sinh quan với những vấn
đề liên quan đến sự tồn tại khách quan của thế giới, về vị trí của con người
trong thế giới đó, về số mệnh và cách thức để làm cho cuộc sống con người
trở nên sáng suốt và hạnh phúc,… Tuy nhiên, những vấn đề đó khơng thể
giải quyết được một cách triệt để bởi vì với mỗi thời đại, chúng lại được đặt
ra trước con người một cách mới mẻ. Mỗi bước tiến của lịch sử nhân loại,
mỗi thành quả của kinh nghiệm xã hội, mỗi mốc đánh dấu sự tiến bộ trong
lịch sử khoa học đều mở ra trước lý tính triết học những giới hạn hiện thực
mà trước đó chưa được biết tới, tạo ra khả năng phát hiện ngày càng nhiều
những luận điểm và luận chứng khoa học có tác dụng nâng cao vị trí và vai
trị của con người trong thế giới. Trước khi tư tưởng khoa học và duy vật lịch
sử giải quyết những vấn đề nảy sinh trong giới tự nhiên, trong xã hội và

chính bản thân con người một cách triệt để, đưa đến một thế giới quan đúng
đắn và nhân sinh quan tích cực thì con người thời thượng cổ nói chung,
người Việt cổ nói riêng dường như khơng chấp nhận sự bất khả tri, họ tìm
cách giải quyết những vấn đề đó theo cách thức đặc trưng của thời đại mình.
Tư tưởng và tình cảm của tiền nhân cơ đọng lại trong những câu truyện thần
thoại cịn lưu truyền đến tận ngày nay, thể hiện sự “phản tư” của một dân


3

tộc, một thời đại như Karl Heinrich Marx (1818 – 1883) từng khẳng định
thần thoại là “nghệ thuật vô ý thức” [39, tr.9], nó “phản ảnh cái đẹp, phản
ảnh thời đại ấu trĩ một đi khơng trở lại của lồi người” [64, tr.356]. Vì thế,
yêu cầu đặt ra đối với mỗi nhà nghiên cứu là phải giải thiêng thần thoại để
làm lộ ra bí mật sức mạnh của chúng.
Mặt khác, chúng ta cũng cần thừa nhận rằng “nếu xét ở bình diện phổ
thơng quần chúng thì nghiên cứu triết lý dân gian còn quan trọng hơn cả
nghiên cứu triết lý bác học, triết học, bởi lẽ từ đây rất có thể chúng ta lại tìm
ra, phát hiện được cái mạch ngầm sâu thẳm của dân tộc mà tư tưởng bác học
chỉ là sự thể hiện bề nổi, bên ngoài” [28, tr.26]. Do đó, nghiên cứu thế giới
quan và nhân sinh quan trong thần thoại Việt Nam như một dạng tư tưởng
tiền triết học sẽ là bước đi mới trong quá trình xác định nguồn gốc cũng như
đặc trưng riêng có của tư tưởng triết học Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, một
thực tế không thể phủ nhận là mỗi khi nghiên cứu tư tưởng triết học Việt
Nam người ta thường bóc tách các văn bản mang tính chất bác học như văn,
thơ, phú, kệ, lục, cáo, biểu,… để tìm chất triết học trong đó mà ít đi vào từng
ngóc ngách của thần thoại để phát hiện những mạch ngầm triết lý. Có thể
nói, thế giới quan và nhân sinh quan của người Việt cổ vào buổi đầu hình
thành thể hiện trong kho tàng thần thoai Việt Nam mang ý nghĩa là nền tảng,
giá đỡ và bệ phóng cho sự cất cánh của dân tộc và văn hóa ở các thời kỳ lịch

sử tiếp theo. Vì vậy, tìm về cội nguồn và nhận ra cái cốt lõi đầu tiên của bản
sắc văn hóa Việt Nam là việc làm hết sức quan trọng và cần thiết nhằm kế
thừa, bảo vệ, đổi mới và phát huy những tinh hoa, đẩy lùi, loại bỏ những cái
lạc hậu, khiến văn hóa thực hiện được chức năng làm nên và định hướng cho
cách ứng xử thể hiện ở tâm hồn, đạo lý, lối sống, hành vi,... của mỗi cá nhân
và của cả cộng đồng hướng tới cái chân, thiện, mỹ trong quan hệ với mình,
với người, với xã hội và với tự nhiên. Kế thừa những giá trị tư tưởng của tiền


4

nhân thể hiện qua thần thoại dân tộc trên bình diện của cuộc sống mới, để
không bị coi là phục cổ, là lạc lõng, đã trở thành vấn đề thời sự của nhiều
nước, đặc biệt là ở thời kỳ mà các cuộc giao thoa văn hóa trở nên mạnh mẽ
trong giai đoạn đất nước đang mở cửa. Luận văn với đề tài “Thế giới quan
và nhân sinh quan trong thần thoại Việt Nam” được thực hiện với mong
muốn góp phần giải quyết nhiệm vụ khoa học nói trên.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay, đã có khơng ít các cơng trình khoa học nghiên cứu thần
thoại Việt Nam dưới nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, số lượng cơng trình
nghiên cứu thần thoại Việt Nam theo khuynh hướng triết học là khá khiêm
tốn, nhất là việc nghiên cứu chuyên sâu về phương diện thế giới quan và
nhân sinh quan trong kho tàng thần thoại dân tộc. Điều này địi hỏi phải tiếp
cận những cơng trình nghiên cứu là sản phẩm của nhiều lĩnh vực chuyên biệt
dưới góc nhìn của triết học mácxít. Theo đó, có thể khái qt các cơng trình
khoa học theo các hướng nghiên cứu cơ bản sau đây:
Hướng thứ nhất, là các công trình nghiên cứu thần thoại Việt Nam dưới
góc độ triết học mácxít
Tiêu biểu cho hướng nghiên cứu này, có một số cơng trình nổi bật:
Cuốn Thử tìm hiểu yếu tố tư tưởng triết học trong thần thoại Việt Nam

[36] của tác giả Phúc Khánh (1961) là cơng trình rất q vì gần như ở Việt
Nam chỉ có cơng trình này là nghiên cứu trực tiếp tính triết học trong thần
thoại một cách sâu sắc và chi tiết nhất về những yếu tố duy vật và biện
chứng, duy tâm và siêu hình với những luận điểm chứng minh về bản thể
luận, nhận thức luận, thế giới quan, nhân sinh quan… đi từ khái quát đến cụ
thể, giúp người đọc hiểu sâu và rộng các khía cạnh nội dung, chức năng và ý
nghĩa của thế giới quan và nhân sinh quan trong thần thoại đối với đời sống
tinh thần của người Việt Nam hiện nay.


5

Bộ sách Lịch sử Tư tưởng Việt Nam [75] gồm 7 tập của tác giả Nguyễn
Đăng Thục đề cập đến ý thức thần thoại và triết học, coi đó là hai nguồn gốc
của tư tưởng Việt Nam. Tập 1 của bộ sách tập trung phân tích hai khía cạnh
sinh hoạt vật chất và tinh thần của tư tưởng Việt Nam qua các thời đại xã
hội. Đặc biệt, từ trang 104 đến trang 124, tác giả trích dẫn các truyện thần
thoại để giải thích, chứng minh những nét đặc thù trong vũ trụ quan và nhân
sinh quan của cư dân Việt Nam thời nguyên thủy.
Cuốn Lịch sử triết học phương Đông [7] do Trịnh Dỗn Chính chủ biên
khơng chỉ phân tích tư tưởng triết học nguyên thủy trong lịch sử triết học Ấn
Độ, Trung Quốc, Hy Lạp,... mà còn chú trọng phân tích tư tưởng triết học Việt
Nam thời tiền sử và sơ sử. Trong Phần thứ ba, Chương 1, các nhà nghiên cứu
đã trình bày một cách có hệ thống điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã
hội là cơ sở hình thành và tồn tại của thần thoại Việt Nam và sự ảnh hưởng
của nó đến nội dung cơ bản trong tư tưởng người Việt thời kỳ mở nước, mở
đất. Qua đó, khẳng định vai trị chủ thể của người Việt cổ trước tự nhiên, xã
hội, trước tiến trình lịch sử và cuộc sống của chính mình.
Ngồi ra, các tác phẩm Lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam [10] do
Nguyễn Trọng Chuẩn (Chủ biên) (2006); Lịch sử tư tưởng Việt Nam [76] của

Nguyễn Tài Thư (Chủ biên) do Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội phát hành
năm 1993, Triết học và tư tưởng [19] của Trần Văn Giàu, Hành trình nhân
sinh quan: Phản tỉnh trên đường trải nghiệm [74] của Nguyễn Tất Thịnh,…
đều là những công trình nghiên cứu đáng tin cậy. Mỗi tác phẩm đều dành
một hoặc nhiều chương để phân tích, giải thích, chứng minh về các khía
cạnh tư tưởng của người Việt Nam thời kỳ dựng nước, nhất là những quan
niệm về thế giới và đạo làm người của tiền nhân.
Bên cạnh các cơng trình nghiên cứu thuần triết học, thì một số tác phẩm
văn học nhưng đứng trên lập trường và phương pháp nghiên cứu của triết


6

học Mác-Lênin cũng có thể xem là những cơng trình có giá trị triết học nhất
định. Đáng chú ý là cuốn Lược khảo về thần thoại Việt Nam [6] của Nguyễn
Đổng Chi. Nhà nghiên cứu đã giới thiệu đầy đủ và toàn diện các truyện thần
thoại của Việt Nam, gạt bỏ được những chi tiết vụn vặt rườm rà hoặc những
khía cạnh xuyên tạc do các nhà tư tưởng phong kiến trước đây đưa ra. Ông
đã khéo dẫn dắt để thần thoại Việt Nam được nhìn nhận như một hệ thống,
tuy đã vỡ đi và chỉ là những mảnh còn sót lại nhưng vẫn mang bóng dáng
của một hệ thống có bản sắc trong mối quan hệ giao thoa với thần thoại của
các nước láng giềng. Với tác phẩm này, có thể xem Nguyễn Đổng Chi là
người đầu tiên đặt vấn đề nghiên cứu văn học dân gian Việt Nam theo tinh
thần và phương pháp của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Những vấn đề như bản
chất, nguồn gốc, sức ảnh hưởng của thần thoại đối với lịch sử, tôn giáo,
chính trị, triết học,… được trình bày cơ đọng, làm sâu sắc thêm tính nguyên
hợp đa chức năng của thần thoại.
Sau Nguyễn Đổng Chi, nhiều tác giả chuyên nghiên cứu văn học đi vào
đề cập đến ý nghĩa triết học trong thần thoại Việt Nam, đặc biệt là Vũ Ngọc
Khánh với rất nhiều cơng trình nghiên cứu. Chẳng hạn, trong tác phẩm Kho

tàng thần thoại Việt Nam [40], Vũ Ngọc Khánh mang đến một cái nhìn bao
quát về cảm nhận đầu tiên của người Việt cổ từ đồng bằng đến miền núi về
vấn đề nguồn gốc vũ trụ, nguồn gốc loài người và những mong ước của họ
trong cuộc đấu tranh chống thiên tai địch họa. Từ đó, khắc họa một bức tranh
sinh hoạt tư tưởng với nhiều giá trị tích cực của người Việt thời tiền sử và sơ
sử. Vũ Ngọc Khánh còn thể hiện sự tâm huyết đối với nghiên cứu văn học
dân gian qua nhiều tác phẩm khác, như: Tiếp cận kho tàng Folklore Việt
Nam [41], Hành trình vào thế giới Folklore Việt Nam [42],… Các tác phẩm
đó ít nhiều có sự luận giải mang tính triết học về thế giới quan và nhân sinh
quan trong thần thoại Việt Nam.


7

Những cơng trình nghiên cứu trên là nguồn tư liệu hết sức phong phú
góp phần làm sáng tỏ các khía cạnh thuộc nội dung và đặc điểm của thế giới
quan, nhân sinh quan truyền thống. Tuy nhiên, thế giới quan và nhân sinh
quan trong nhận thức của người Việt cổ là hai phạm trù q rộng, do dó, nó
cịn nhiều khoảng trống chưa được lắp đầy, ví dụ điểm khác biệt mang tính
đặc thù của riêng thần thoại Việt Nam so với thần thoại các dân tộc khác trên
thế giới. Đó cũng chính là kỳ vọng mà luận văn hướng tới khi triển khai
nghiên cứu đề tài này.
Hướng thứ hai, là các cơng trình nghiên cứu thần thoại Việt Nam với tư
cách là sản phẩm của lịch sử - xã hội Việt Nam
Thần thoại Việt Nam tuy không phải là tài liệu sử học thực sự nhưng nó
phản ánh ít nhiều tình trạng sinh hoạt xã hội của người Việt trong thời kỳ
nguyên thủy. Vì vậy, các sử gia phong kiến Việt Nam trong khi viết sử đã
tham khảo nhiều ở thần thoại. Việc đặt thần thoại lên đầu quyển sử, tuy là
khơng chính xác nhưng cũng nói lên một điều là thần thoại đã có cống hiến
trong chừng mực nào đó cho lịch sử, là cái bóng của những sự việc lịch sử

đời trước.
Tiêu biểu cho hướng nghiên cứu này, trước hết phải kể đến bộ Việt Nam
sử lược [44] của Trần Trọng Kim. Ở những trang đầu tiên, tác giả viết: “Sử
là sách không những chỉ để ghi chép những công việc đã qua mà thôi, nhưng
lại phải suy xét việc gốc ngọn, tìm tịi cái căn ngun những công việc của
người ta đã làm để hiểu cho rõ những vận hội trị loạn của một nước, trình độ
tiến hóa của một dân tộc. Chủ đích là để làm cái gương chung cổ cho người
cả nước đời đời soi vào đấy mà biết cái sự sinh hoạt của người trước đã phải
lao tâm lao lực như thế nào mới chiếm giữ được cái địa vị ở dưới bóng mặt
trời này” [44, tr.3]. Trong bộ sách này, tác giả chia ra làm 5 thời đại. Thời
đại thứ nhất là Thượng Cổ thời đại, kể từ họ Hồng Bàng (2879 – 258 trước


8

Tây lịch) cho đến hết đời nhà Triệu. Trong thời đại ấy, phần nhiều là những
chuyện hoang đường, huyền hoặc. Trong phần này, Trần Trọng Kim không
ghi chép tất cả những truyện thần thoại trong dân gian, mà tập chung chép lại
3 truyện tiêu biểu vào kỷ Hồng Bàng, là: Lạc Long Quân và Âu Cơ, Phù
Đổng thiên vương, Sơn tinh - Thủy tinh. Mặc dù, các truyện thần thoại được
ghi chép lại là khá ít ỏi, nhưng như ý đồ của sử gia Trần Trọng Kim, thì mục
đích của những ghi chép ấy là: “Bây giờ ta chưa có áo lụa, ta hãy mặc tạm áo
vải, tuy nó xấu xí nhưng nó có thể làm cho ta đỡ rét. Nghĩa là ta hãy làm thế
nào cho những thiếu niên nước ta ngày nay ai cũng có thể biết một đơi chút
sự tích nước nhà, cho khỏi tủi quốc hồn” [44, tr.4].
Đại Việt sử ký toàn thư [79] - một trong những bộ sử Việt Nam xưa
nhất còn tồn tại đến ngày nay, ghi chép lịch sử Việt Nam từ thời đại Kinh
Dương Vương năm 2879 trước công nguyên đến năm 1675 đời vua Lê Gia
Tông nhà Hậu Lê. Những ghi chép trong bộ sách sử này không những cần
thiết cho những nghiên cứu lịch sử sau này mà còn giúp ích cho nhiều ngành

khoa học xã hội khác, nhất là triết học. Điểm quý ở bộ sách sử này là ở chỗ
nó khơng chỉ ghi chép lại các truyện thần thoại từ thời mở cõi dựng nước mà
còn thận trọng và công phu khi đưa ra những so sánh, bình luận, lý giải trên
quan điểm lịch sử, làm sáng tỏ nhận định thần thoại khơng phải hồn tồn
hoang đường, nó có cái cốt sự thật lịch sử, chỉ là lịch sử được truyền khẩu
qua lăng kính chủ quan, có sự cải biến của nhân dân.
Trong hai bộ sách sử quý giá trên đây cũng như nhiều tài liệu sử học quan
trọng khác, giai đoạn lịch sử xã hội thời Hùng Vương dựng nước Văn Lang
trong thần thoại Việt Nam được nghiên cứu như một mốc son trong dòng chảy
liên tục của lịch sử dân tộc. Những nghiên cứu thần thoại dưới sự kiểm chứng
lịch sử đã bổ sung và tạo lập cách nhìn mới hồn thiện hơn về kho tàng thần
thoại dân tộc, góp phần khẳng định chân giá trị của thần thoại Việt Nam.


9

Hướng thứ ba, là các cơng trình nghiên cứu thần thoại Việt Nam trong
dòng chảy của lịch sử tư tưởng văn hóa Việt Nam
Giá trị của những triết lý dân gian đã được đặt thành vấn đề trong
nghiên cứu văn hố học. Một trong những cơng trình tiêu biểu theo hướng
nghiên cứu này là cuốn Việt Nam văn hóa sử cương [2] của học giả Đào Duy
Anh. Quyển sách đã bao quát tất cả các mảng sinh hoạt kinh tế, sinh hoạt
chính trị và sinh hoạt tri thức có ảnh hưởng đến nền văn hóa Việt Nam, chỉ
ra những biến đổi của văn hóa Việt Nam trong thời đại Âu hoá với sự rạn vỡ
hoặc biến đổi của những giá trị cũ và sự lên ngôi của những giá trị mới.
Trong tác phẩm Cơ sở văn hóa Việt Nam [69], nhà nghiên cứu Trần
Ngọc Thêm đã nêu lên những đặc trưng cơ bản cùng các quy luật hình thành
và phát triển của văn hóa Việt Nam. Tác giả cịn đi sâu phân tích từng cấu trúc
của hệ thống văn hóa cũng như từng yếu tố cấu thành cấu trúc đó. Chẳng hạn,
tín ngưỡng sùng bái tự nhiên trong loại hình tín ngưỡng dân gian là thành tố

tạo nên văn hóa tổ chức đời sống cá nhân. Trong tín ngưỡng đó, ông đã khái
quát một cách cô đọng các đối tượng được tơn thờ trong tín ngưỡng thờ nhiên
thần của người Việt Nam hiện nay có nguồn gốc từ thời tối cổ.
Nguyễn Duy Hinh trong cuốn Văn minh Đại Việt [33] trình bày cuộc
đại hội nhập văn hóa Việt - Trung - Ấn để hình thành văn minh Đại Việt.
Tác giả chọn xuất phát điểm là thời kỳ trước Hán (năm 111 trước cơng
ngun làm mốc) để định ra vị trí của văn minh Đại Việt trên thang bậc văn
minh nhân loại nói chung, trong quan hệ so sánh với văn minh Hán Đường
đồng đại nói riêng. Tác giả cũng chú trọng nghiên cứu văn hóa Việt Nam
trước khi tiếp xúc với văn hóa Hán, xem đó là bản sắc, bản lĩnh, cơ sở, động
lực tồn tại của dân tộc Việt Nam.
Cuốn Việt Nam phong tục [5] của Phan Kế Bính là nguồn tài liệu phong
phú cung cấp cho độc giả nhiều kiến thức quý báu để tìm hiểu về văn hóa


10

dân tộc, từ tục lệ trong gia đình tới thói quen ngoài xã hội, kể cả thuần phong
mỹ tục lẫn hủ tục. Quan điểm của tác giả tỏ ra tiến bộ khi đề cập tới tục lệ cũ
và ý muốn dần dần canh tân hủ tục, đồng thời, duy trì những mỹ tục quốc tuý
của nước nhà.
Bộ sách Tín ngưỡng Việt Nam (quyển Hạ) [3] và Nếp cũ tín ngưỡng
Việt Nam (quyển Thượng) [4] của tác giả Toan Ánh giúp người đọc có thêm
những hiểu biết cần thiết về cội nguồn dân tộc, về những phong tục, tập
quán, lễ nghĩa phong hóa xưa nay của cha ơng ta. Qua đó, giúp người đọc có
dịp ơn lại lai lịch và sự tiến hóa của dân tộc trên con đường dựng nước và
giữ nước, khởi nguồn từ cá nhân từng con người riêng biệt lúc sinh ra đến
khi về cõi vĩnh hằng, từ cuộc sống mỗi gia đình đến họ tộc, mở rộng đến
làng xóm, rồi cả quốc gia.
Cuốn Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam [71] do Ngơ Đức

Thịnh chủ biên tập trung nghiên cứu một số loại hình tín ngưỡng dân gian
cụ thể, nổi bật là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của các gia tộc, dòng họ và trên
bình diện quốc gia - dân tộc là thờ cúng Quốc tổ Hùng Vương. Đây là một
hình thức tín ngưỡng nhằm thắt chặt quan hệ huyết thống của gia đình và
dịng họ, phổ biến rộng khắp ở người Kinh và một số dân tộc thiểu số. Tác
phẩm còn đề cập tới khái niệm văn hóa tơn giáo tín ngưỡng, biểu hiện trên
các hình thức khác nhau của sinh hoạt tâm linh của cộng đồng, như nhạc lễ,
hát thờ, múa thiêng, tranh thờ, giáng bút, diễn xướng,... nhằm làm rõ mối
quan hệ chặt chẽ giữa các hình thức nghệ thuật tín ngưỡng và nghệ thuật đời
thường, chứng minh tín ngưỡng và phong tục Việt Nam mang giá trị nhân
sinh sâu sắc, trở thành sợi dây nối liền con người với con người, có tác dụng
liên kết cộng đồng, tạo nên sức mạnh đồn kết vơ cùng rộng lớn.
Cơng trình Tản mạn về tín ngưỡng và phong tục tập quán của người Việt
[15] do Khai Đăng sưu tầm và biên soạn, trình bày khái qt về nền văn hóa


11

Việt Nam, khẳng định tầm quan trọng của việc nhận diện văn hóa Việt Nam,
lớp văn hóa bản địa, lớp văn hóa ngoại sinh; Đồng thời, có những phân tích sâu
sắc về tín ngưỡng, về phong tục truyền thống của người Việt như hôn nhân,
tang ma, lễ tết và lễ hội,… Qua đó, làm sáng tỏ ý nghĩa của tín ngưỡng, phong
tục cổ truyền đối với đời sống tâm linh của người Việt Nam hiện nay.
Cuốn Tứ bất tử [43] của Vũ Ngọc Khánh và Ngơ Đức Thịnh khẳng
định tín ngưỡng thờ bốn vị linh thiêng trường sinh bất tử trong thần điện
người Việt: Tản Viên Sơn Thánh, Chử Đồng Tử, Thánh Gióng và Thánh
Mẫu Liễu là một nét sáng tạo độc đáo, riêng biệt của người Việt Nam, kết
tinh từ những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, là biểu tượng cho sức mạnh
đoàn kết cộng đồng trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước cũng như khát
vọng xây dựng một cuộc sống phồn vinh, hạnh phúc.

Trong tác phẩm Thần, Người và Đất Việt [78], Tạ Chí Đại Trường vạch
ra sự chuyển biến qua các thời đại của quan niệm thần linh tại Việt Nam. Từ
nhiên thần cho đến nhân thần, từ thần ở cấp độ gia đình, xóm ngõ đến thần ở
cấp độ làng, ấp và thần ở cấp độ quốc gia... Mỗi một thần tích là một câu
chuyện về lý do xuất hiện, tồn tại của vị thần ấy và quan trọng hơn, giúp
người đọc hiểu được giá trị, ý nghĩa của từng vị thần được nhân dân tơn thờ.
Cuốn Văn hóa dân gian Việt Nam với sự phát triển của xã hội Việt Nam
của Đinh Gia Khánh [38] cung cấp một cách hệ thống những giá trị truyền
thống và ảnh hưởng của văn hóa dân gian đối với sự phát triển của xã hội
trong giai đoạn mới. Cuốn sách khẳng định văn hóa dân tộc và bản sắc dân
tộc của văn hóa ln trường tồn cùng lịch sử, giúp dân tộc ta trụ vững trước
bao cuộc xâm lăng, bao biến thiên của lịch sử - xã hội. Với những truyền
thống tốt đẹp của mình, văn hóa dân gian đã đóng vai trị tích cực trong sự
phát triển của xã hội Việt Nam và phát huy ảnh hưởng rộng lớn với toàn xã
hội trên bước đường xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.


12

Cơng trình Giá trị truyền thống trước những thách thức của tồn cầu
hóa của Nguyễn Trọng Chuẩn và Nguyễn Văn Huyên (Đồng chủ biên) [9],
gồm các bài viết đề cập đến giá trị truyền thống Việt Nam và những vấn đề
đặt ra trong xu thế tồn cầu hóa. Trong đó, các tác giả nêu lên thực trạng các
giá trị truyền thống nói chung và giá trị truyền thống Việt Nam nói riêng
trước xu thế tồn cầu hóa hiện nay, và những giải pháp nhằm giữ gìn, phát
huy các giá trị truyền thống Việt Nam trước thách thức tồn cầu hóa.
Từ những cơng trình nói trên có thể rút ra kết luận là trong hầu hết các
cơng trình nghiên cứu có liên quan đến thần thoại Việt Nam, vấn đề thế giới
quan và nhân sinh quan của người Việt thời nguyên thủy thể hiện trong thần
thoại chỉ được xem như một lát cắt, một mảng khá nhỏ trong toàn bộ phạm

vi nghiên cứu (trong dòng chảy của lịch sử dân tộc, trong tồn bộ văn học
dân gian Việt Nam, văn hóa dân gian Việt Nam). Nhìn chung, có rất ít cơng
trình nghiên cứu trực tiếp, toàn diện vấn đề tư tưởng triết học trong thần
thoại Việt Nam nói chung, thế giới quan và nhân sinh quan trong thần thoại
Việt Nam nói riêng. Luận văn đi sâu nghiên cứu, góp phần giải quyết những
vấn đề cịn bỏ ngõ nói trên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn
Luận văn được thực hiện với mục đích là làm rõ nội dung, đặc điểm và
ý nghĩa của thế giới quan, nhân sinh quan trong thần thoại Việt Nam đối với
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của người Việt Nam hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, luận văn tập trung giải quyết
các nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
Một là, trình bày, phân tích khái qt khái niệm, cơ sở hình thành của
thần thoại Việt Nam và những đặc điểm cơ bản nó.


13

Hai là, phân tích, giải thích, chứng minh những nội dung và đặc điểm
cơ bản của thế giới quan và nhân sinh quan người Việt cổ thể hiện trong thần
thoại Việt Nam.
Ba là, trình bày, phân tích ý nghĩa của thế giới quan và nhân sinh quan
trong thần thoại Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thế giới quan và nhân sinh quan
trong thần thoại Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn

Phạm trù thế giới quan và nhân sinh quan được giới hạn nghiên cứu trên
ba phương diện cơ bản: nội dung, đặc điểm và ý nghĩa của nó.
Thần thoại Việt Nam được giới hạn nghiên cứu bao quát toàn bộ các
truyện thần thoại của 54 dân tộc, lấy thần thoại Kinh làm nồng cốt.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở lý luận của luận văn
Luận văn được thực hiện chủ yếu dựa trên cơ sở thế giới quan duy vật
và phương pháp luận biện chứng, cơ sở lý luận về mối quan hệ giữa tồn tại
xã hội và ý thức xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin; quan điểm, đường lối của
Đảng Cộng sản Việt Nam, chính sách, pháp luật của Nhà nước về giữ gìn và
phát triển bản sắc văn hóa dân tộc, về mối quan hệ giữa triết học và các khoa
học xã hội khác nhằm làm rõ nội dung, đặc điểm cũng như ý nghĩa của thế
giới quan và nhân sinh quan thể hiện trong thần thoại Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được thực hiện với việc sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể như: phương pháp phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch,


14

phương pháp lịch sử và lôgic, so sánh và đối chiếu,... nhằm làm sáng tỏ các
vấn đề mà mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra.
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung lý luận cho cơng tác
nghiên cứu những tư tưởng tiền triết học ở Việt Nam, nhất là những vấn đề
nhận thức có liên quan đến phạm trù thế giới quan và nhân sinh quan của
người Việt cổ.
Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu

triết học như là một dẫn chứng sinh động về mối liên hệ giữa tồn tại xã hội
và ý thức xã hội được thể hiện trong xã hội Việt Nam thời nguyên thủy và
sản phẩm tinh thần của thời đại đó là thần thoại.
Hơn nữa, kết quả nghiên cứu của luận văn là sự thể nghiệm hoá chủ
trương của Đảng và Nhà nước về việc giữ gìn, phát huy các bản sắc và giá trị
văn hóa, tinh thần truyền thống của dân tộc. Vì thế, luận văn có thể làm tài
liệu tham khảo cho những ai muốn quan tâm tìm hiểu trong các lĩnh vực
nghiên cứu khác, đặc biệt là trong quá trình đề xuất các giải pháp nhằm bảo
tồn và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo,
Phần nội dung của luận văn được kết cấu thành 2 chương bao gồm 5 tiết
và 13 tiểu tiết.


15

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THẦN THOẠI VIỆT NAM
Xuất phát từ nguyên lý cơ bản chủ nghĩa duy vật lịch sử cho rằng tồn tại
xã hội quyết định ý thức xã hội, theo đó, thần thoại - một hình thái ý thức xã
hội hình thành từ rất sớm, tất yếu chịu sự quy định bởi điều kiện tự nhiên,
điều kiện lịch sử xã hội cụ thể của mỗi quốc gia, dân tộc trong buổi đầu dựng
nước. Đó là lý do thần thoại Việt Nam ra đời mang một sứ mạng chủ yếu, đó
là phục vụ cho sản xuất, cho cuộc đấu tranh chống áp bức, chống ngoại xâm.
Vì thế, thần thoại Việt Nam có những sắc thái riêng biệt, nó tự phân biệt
mình với thần thoại các dân tộc khác trên thế giới bằng hệ thống các hình
tượng đặc trưng nhằm chuyển tải những tư tưởng, tình cảm, khát vọng,...của
riêng cộng đồng dân cư người Việt cổ trong chế độ công xã nguyên thủy.

1.1. KHÁI NIỆM VÀ CƠ SỞ HÌNH THÀNH THẦN THOẠI VIỆT NAM
1.1.1. Khái niệm thần thoại và thần thoại Việt Nam
Xuất phát từ nhiều góc độ nghiên cứu mà mỗi bộ môn khoa học cụ thể
đưa ra những quan niệm tương đối độc lập về thần thoại. Nhưng điểm chung
của chúng là thừa nhận “thần thoại là hình thức sáng tác của con người thời
đại xa xưa, nó thể hiện ý thức muốn tìm hiểu vũ trụ, lý giải vũ trụ và chinh
phục vũ trụ của con người” [40, tr.5].
Bất cứ truyện thần thoại nào cũng đều phản ánh khái quát hiện thực
dưới dạng những vị thần được nhân cách hóa hoặc những sinh thể có linh
hồn mà dù là quái tượng, phi thường đến mấy vẫn được đầu óc người nguyên
thủy nghĩ và tin là hồn tồn có thực. Cho nên, thần thoại trước hết có thể
hiểu một cách đơn giản là truyện về các vị thần. Cách hiểu này tương đồng
với quan điểm về thần thoại của nhà nghiên cứu folklore người Nga


16

E.M.Meletinski (1918 – 2005): “Từ thần thoại có nguồn gốc từ tiếng Hy
Lạp, nghĩa đen là truyền thuyết, truyện thoại. Thường người ta hiểu đó là
những truyện về các vị thần, các nhân vật được sùng bái hoặc có quan hệ
nguồn gốc với các vị thần, về các thế hệ xuất hiện trong thời gian ban đầu
tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc tạo lập thế giới cũng như vào việc
tạo lập nên những nhân tố của nó - thiên nhiên và văn hoá” [57, tr.653].
Ở Việt Nam, một trong những tài liệu nghiên cứu mang tính chất mở
đường về thần thoại là cuốn Lược khảo về thần thoại Việt Nam của Nguyễn
Đổng Chi. Trong tài liệu này, ông định nghĩa: “Thần thoại là một truyện cổ
tích. Trong các truyện cổ tích có thể chia làm hai thứ: một thứ nội dung hồn
tồn nói về người hoặc về vật mà ta có thê gọi là nhân thoại, vật thoại, trong
đó khơng có sức thần phép tiên len vào; một thứ trái lại, bao hàm ít nhiều
chất hoang đường quái đản. Thần thoại thuộc về thứ sau” [6, tr.9]. Cách hiểu

này của Nguyễn Đổng Chi nêu lên được những vấn đề hết sức phức tạp trong
nghiên cứu thần thoại:
Một là, ranh giới giữa thần thoại và một số thể loại khác (đặc biệt là với
truyền thuyết, cổ tích) là khá mong manh, do đó có những tác phẩm được
xếp vào nhiều thể loại.
Hai là, cách thức phản ánh của thần thoại và cổ tích có những nét hết
sức giống nhau, từ đó dẫn tới việc phân loại và nghiên cứu thần thoại gặp
nhiều rắc rối.
Để giải quyết vấn đề khó khăn trong việc phân định tác phẩm thần thoại
với truyền thuyết và truyện cổ tích, cuốn Từ điển thuật ngữ văn học (Nguyễn
Khắc Phi, Trần Đình Sử, Lê Bá Hán đồng chủ biên) đưa ra khái niệm thần
thoại như sau: “Thần thoại còn gọi là huyền thoại. Là thể loại truyện ra đời và
phát triển sớm nhất trong lịch sử truyện kể dân gian các dân tộc. Đó là toàn bộ
những truyện hoang đường, tưởng tượng về các vị thần hoặc những con


17

người, những lồi vật mang tính chất kỳ bí, siêu nhiên do con người thời
nguyên thủy sáng tạo ra để phản ánh và lý giải các hiện tượng trong thế giới tự
nhiên và xã hội theo quan niệm vận vật có linh hồn (hay thế giới quan thần
linh) của họ” [60, tr.250]. Khái niệm này, ngoài việc nêu lên được một trong
những đặc trưng quan trọng của thần thoại, tức là có số lượng lớn các câu
chuyện tạo nên một thể loại độc lập, cịn đưa ra các tiêu chí như: định danh thể
loại, thời gian ra đời, đối tượng phản ánh, nội dung phản ánh và cách thức
phản ánh để nhận biết tương đối chính xác một tác phẩm thần thoại.
Khác với các nhà phê bình văn học, các nhà lý luận mácxít khi nghiên
cứu thần thoại ln gắn việc lý giải thần thoại với việc lý giải các vấn đề của
xã hội nguyên thủy, nghĩa là giải quyết vấn đề thần thoại bằng cách gắn liền
thần thoại với thời đại đã sản sinh ra nó. Xem xét các mối quan hệ giữa thần

thoại và xã hội nguyên thủy, K.Marx chỉ ra rằng:
“Thần thoại nào cũng chinh phục, chi phối và nhào nặn những sức
mạnh tự nhiên ở trong trí tưởng tượng và bằng trí tưởng tượng. Tiền đề của
nghệ thuật Hy Lạp là thần thoại Hy Lạp, tức là tự nhiên và bản thân hình thái
xã hội đã được trí tưởng tượng của dân gian chế biến đi một cách nghệ thuật
và vô ý thức. Không thể nào hiểu đúng được thần thoại nếu tách nó ra khỏi
xã hội nguyên thủy, nơi mà nhu cầu lý giải, chinh phục tự nhiên và xã hội
của con người thời cổ đại gắn liền với thế giới quan thần linh hay cũng gọi là
thế giới quan thần thoại. Dùng trí tưởng tượng để hình dung, giải thích và
chinh phục thế giới, người nguyên thủy đã tạo ra thần thoại và thần thoại là
một hình thái ý thức nguyên hợp đa chức năng, nó vừa là khoa học vừa là
nghệ thuật vơ ý thức, đồng thời cịn là tín ngưỡng, tơn giáo của người
nguyên thủy” [39, tr.9].
Friedrich Engels (1820 – 1895) cũng chỉ rõ: “Thần thoại là sản phẩm tinh
thần của người ngun thủy, nội dung của nó mang nặng tính chất hoang đường


18

ảo tưởng nhưng trong đó cũng chứa đựng nhiều yếu tố có giá trị quan trọng về
nhiều mặt. Sự nhận thức và lí giải sai lầm, ảo tưởng về thế giới ở trong thần
thoại là điều tất yếu không thể tránh khỏi” [56, tr.315]. Quan điểm trên của F.
Engels thể hiện được hai vấn đề mang tính bản chất của thể loại thần thoại:
Thứ nhất, đó là sản phẩm tinh thần của người nguyên thủy, mang tính chất
ảo tưởng, hoang đường nhưng chứa đựng nhiều yếu tố có giá trị về nhiều mặt.
Thứ hai, sự nhận thức và lý giải sai lầm ảo tưởng tồn tại trong thần
thoại mang tính tất yếu khơng thể tránh khỏi, đó chính là dấu hiệu của tư duy
nguyên thủy đặc thù mà ta chỉ có thể tìm thấy trong thần thoại mà thơi.
Đứng trên lập trường của chủ nghĩa Marx, giá trị và hạn chế của thần
thoại đều được đánh giá một cách khách quan. Chủ nghĩa Marx thừa nhận

những hạn chế của thần thoại là không tránh khỏi do bị chế ước bởi điều kiện
kinh tế, lịch sử - xã hội lúc bấy giờ. Do đó, nếu bỏ qua những mặt hạn chế
mang tính khách quan đó, thì thần thoại có thể được xem như sản phẩm tinh
thần tinh túy của thời đại.
Được soi sáng bởi thế giới quan mácxít và được trang bị quan điểm duy
vật lịch sử, trên cơ sở phân tích những quan niệm khác nhau về thần thoại, có
thể đưa ra một khái niệm chung nhất về thần thoại Việt Nam như sau: Thần
thoại Việt Nam là sự đối thoại đầu tiên đầy tính hoang tưởng của người Việt
thời nguyên thủy với thế giới tự nhiên, xã hội và với chính mình. Ở đó,các
yếu tố tư tưởng và tình cảm, tri thức và nghệ thuật, tinh thần và vật chất,
khách quan và chủ quan, hiện thực và suy tưởng, tự nhiên và siêu nhiên,…
cịn chưa bị phân đơi.
1.1.2. Cơ sở hình thành thần thoại Việt Nam
Điều kiện địa lý - tự nhiên
Cương vực lãnh thổ của người Việt cổ: Vào thời đại dựng nước “nơi
sinh tụ chủ yếu của tổ tiên ta là miền đất bao gồm đồng bằng và trung du Bắc


19

Bộ, đồng bằng Thanh Nghệ Tĩnh, Bình Trị Thiên. Phía bắc, giáp ranh với
các vùng Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam (Trung Quốc); phía nam, tới
đèo Hải Vân; phía tây bao gồm cả vùng Tây Bắc hiện nay dọc xuống miền
tây đồng bằng Thanh Nghệ Tĩnh, Bình Trị Thiên; phía đông giáp biển Đông
bao gồm những hải đảo” [7, tr.659-660]. Do hoàn cảnh địa lý đặc biệt như
vậy nên cư dân Việt cổ sinh tồn trong những hệ sinh thái đa dạng bao gồm
hệ sinh thái núi cao, hệ sinh thái thung lũng, hệ sinh thái trung du, hệ sinh
thái đồng bằng phù sa, hệ sinh thái ven biển. Tuy sống trong các hệ sinh thái
khác nhau nhưng người Việt vẫn có được những mối giao lưu chặt chẽ giữa
các tộc người và cả với một số nước láng giềng vì người Việt cổ vốn sinh tồn

trong một khơng gian mở. Khơng gian mở này bao gồm tồn bộ phần phía
đơng là biển có thể đón nhận mọi luồng văn minh khác từ biển vào và ngược
lại cũng qua các cửa biển mà nên văn minh Việt cổ có thể lan tỏa ra các vùng
hải đảo hoặc các vùng ven biển xa xôi khác. Ở vào một khu vực địa lý khá
thuận lợi cho việc giao lưu văn hoá ven biển, khi một cạnh phía đơng của
đồng bằng Bắc bộ, đồng bằng bắc Trung Bộ, nơi phân bố chủ yếu của văn
hố Đơng Sơn là biển Đơng. Vì thế, sự hình thành con đường ngược xi
bắc nam ven biển là điều tất yếu. Các bằng chứng khảo cổ học cho thấy ngay
“từ thời hậu kỳ đồ đá, người cổ ven biển Đơng đã có giao lưu với người thời
đại đá mới ven biển nam Trung Quốc. Trước nữa, vào thời sơ kỳ thời đại đá
mới, người văn hố Hồ Bình đã có mặt trên diện rộng khắp ở cả vùng Đông
Nam Á lục địa lẫn hải đảo” [65, tr.2]. Bên cạnh đó, các dịng sơng lớn nhỏ và
hệ thống những thung lũng là những huyết mạch giao thông nối liền các
cộng đồng cư dân Việt sống ở đồng bằng và núi cao.
Không gian mở là một điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế,
văn hóa của người Việt từ khi hình thành cho đến ngày nay. Đó là một
trong những nhân tố địa lý hết sức quan trọng giúp cho văn hóa Việt Nam


20

không đơn điệu mà luôn luôn đa dạng và phong phú. Nhờ đó, người Việt
xưa có khả năng hội nhập và lan tỏa nền văn hóa của mình, tạo nên một bản
sắc văn hóa độc đáo nhưng khơng cơ lập. Tuy nhiên, khơng gian mở mặt
khác cũng có những bất lợi của nó khi mà người Việt cổ phải lo phòng thủ
và chống trả quyết liệt với các kẻ thù từ bên ngồi với mọi hình thức, từ
xâm lấn đất đai bờ cõi cho đến âm mưu đồng hóa về văn hóa.
Xuất phát từ đặc điểm riêng vơ cùng thuận lợi về vị trí địa lý và điều
kiện tự nhiên với lợi thế nhiều sơng ngịi và diện tích rừng lớn, lại tiếp giáp
với biển tạo nên một nét đặc trưng của thiên nhiên nước ta với tính chất vừa

đóng kín vừa cởi mở, vừa cách biệt với bên ngồi, vừa chia cắt và khác nhau
bên trong, vừa hùng vĩ lại vừa cực kỳ đa dạng. Một nét chung khá phổ biến
của thần thoại nhiều tộc người ở Việt Nam là có một quan niệm về khơng
gian vũ trụ gồm nhiều tầng cạnh nhau và nhiều thế giới cùng tồn tại. Cơ sở
khách quan quy định quan niệm thần thoại đó chính là sự phong phú, đa
dạng và phức tạp của các cảnh quan địa lý, các yếu tố thời tiết, các sản vật tự
nhiên và cả quá trình phân bố cùng với sự biến động tộc người đem lại.
Những trực quan về thực tại khách quan như mặt đất, rừng núi, sơng ngịi,
biển cả, bầu trời hịa quyện với những huyền tưởng về những thứ chưa biết
trong lòng đất, trên rừng, dưới biển, trên trời tạo ra một sự hình dung về
khơng gian như thế. Đối với người Việt, trải qua một q trình tiếp xúc lâu
dàivới văn hóa Hán, các tầng thế giới được đặt tên chữ Hán: Thủy phủ, Âm
phủ, Trần gian, Thiên đình.
Về khí hậu và thời tiết: Với một đất nước nông nghiệp như Việt Nam
xưa, điều kiện tự nhiên đóng vai trị quyết định đến hoạt động sản xuất và
sinh hoạt của người dân. Điều kiện thuận lợi, nền nhiệt ẩm cao, khí hậu phân
mùa tạo điều kiện phát triển nền nông nghiệp lúa nước, tăng vụ, đa dạng hóa,
nâng cao năng suất cây trồng, vật ni,… Song, bên cạnh đó là những khó


×