Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

ĐỀ CƯƠNG MÔN ĐẠI CƯƠNG MÚA VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.08 KB, 11 trang )

ĐỀ CƯƠNG MÔN

ĐẠI CƯƠNG MÚA VIỆT NAM
Câu 1: Các định nghĩa về múa (trong đại bách khoa toàn thư Liên Xô, tất
cả những định nghĩa đã được học)
Trả lời:
- Theo từ điển Larut – Pháp, MÚA là những động tác nhịp nhàng của cơ
thể diễn ra trong tiếng nhạc khí hay trong tiếng hát.
- Theo Ngô Hiển Bang, MÚA là một loại hình nghệ thuật có khả năng
phản ánh tư tưởng, tình cảm của con người ta, nó dùng những động tác và
tư thái của cơ thể con người mà sáng tạo ra hình tượng nghệ thuật và hình
thức nghệ thuật.
- Theo Đại bách khoa tồn thư Liên Xơ, MÚA là một loại hình nghệ thuật
có khả năng phản ánh mọi hiện tượng của cuộc sống hiện thực thơng qua
hình thức nghệ thuật đặc biệt của nó. Nguồn gốc của múa là những động tác,
bộ điệu đủ mọi kiểu của con người. Những động tác và bộ điệu đó có liên hệ với
quá trình lao động, với sự quan sát thiên nhiên và với những ấn tượng tình cảm
có được từ thế giới xung quanh. Trong múa những động tác và bộ điệu đó ln có
những tiến hố cải tiến quan trọng để đi đến chỗ khái quát của nghệ thuật.
=> Tính khái quát của nghệ thuật múa rất cao. Người làm nghệ thuật múa
luôn phải vận động, sáng tạo theo nhịp sống của thời đại.
Câu 2: Nguồn gốc và quá trình hình thành nghệ thuật múa (các truyền
thuyết, thần thoại, các học thuyêt về nghệ thuật múa)
Trả lời:
- Trước hết múa là sự sáng tạo của con người. Múa cung đình thực sự được
định hình, hình thành dưới triều Nguyễn. Múa là bộ môn nghệ thuật xuất hiện
sớm nhất.
1. Nguồn gốc:
1.1. Các truyền thuyết, thần thoại về nguồn gốc nghệ thuật múa:
Nghệ thuật múa có cơ sở từ các vị thần được thể hiện trong phần lớn những
truyền thuyết, thần thoại Ấn Độ, chủ yếu là các vị thần thánh do nhân dân lao


động sáng tạo nên. Con người gửi gắm những niềm mơ ước, khao khát thông qua
những vị thần này.
Nền văn hoá Ấn Độ là một trong những nền văn hố sớm nhất của lồi
người. Nó có ảnh hưởng rất đáng kể ở nhiều nước phương Đông và một số vùng
trên thế giới. Ảnh hưởng rõ nét là đối với văn hoá, nghệ thuật của Thái Lan,
Khoa Văn hoá học – Đại học Văn hoá Hà Nội

1


Campuchia, Lào… Múa cổ điển Ấn Độ có một truyền thống rực rỡ và là một
cống hiến to lớn cho nền văn minh Ấn Độ và thế giới. Trong cuốn Rig Veda thứ 5
đã ghi nhận những luật lệ, tư thế, điệu bộ động tác múa để biểu lộ tình cảm của
con người.
Nghệ thuật múa Ấn Độ cũng được đi vào những truyền thuyết thần thoại
như một dịng sơng lớn đổ về biển cả thần thoại. Truyền thuyết thần thoại Ấn Độ
rất phong phú, đa dạng và phức tạp, biểu hiện trên nhiều khía cạnh, nhiều lĩnh
vực khác nhau trong cuộc sống của con người. Đó là vũ trụ, trời đất, thiên nhiên,
tinh thần, tình cảm văn hố, nghệ thuật…
Trong kho tàng truyền thuyết, thần thoại về văn hoá nghệ thuật nói chung,
nghệ thuật múa nói riêng thì thần thoại Siva được tôn sùng là vua sáng tạo nghệ
thuật múa. Siva là tượng trưng cho tinh thần của người Ấn Độ xưa. Múa vũ trụ
của Siva luôn toả ra những động tác, âm thanh vang động trong trần gian và thế
giới nhà trời.
Luyxiêng viết: “Dường như nghệ thuật múa bắt nguồn từ sự bắt đầu của mọi
vật và xuất hiện cùng thời với Erốt cổ đại, bởi chúng ta thấy nó được thể hiện
trong đồng ca có múa của các vì tinh tú, trong những hành tinh, đinh tinh có sự
đan chéo luân phiên và sự hài hoà giữa chúng với nhau”.
Trong kho tàng giá trị về múa Siva Ấn Độ phải kể đến múa ban chiều, múa
Tandava, múa Nadanta. Những điệu múa ấy được tồn tại và ánh lên những màu

sắc đặc biệt.
Siva múa để giữ gìn sự sống trong vũ trụ, giải thoát những oan hồn, hãy đến
với thần.
Múa Siva bộc lộ sự hồn nhiên thoải mái, gần gũi hơn cả các vị thần trong
truyền thuyết thần thoại Ấn Độ và được nhân dân Ấn Độ tôn thờ. Múa Siva là
hình ảnh rất trong sáng về những hoạt động của các vị thần các huyền thoại của
Ấn Độ, nó được nảy sinh và ni dưỡng trong kho tàng thần thoại Ấn Độ, mang
đậm màu sắc tôn giáo.
Về mặt ý nghĩa của múa Siva, người ta chia làm 3 mặt:
+ Mục đích: Giữ gìn cuộc sống trong vũ trụ, giải thoát cho linh hồn
khỏi cạm bẫy ảo giác.
+ Địa điểm: Trung tâm của vũ trụ.
+ Nghệ thuật mang tính tiết tấu, biến động trên tuyến vòng cung
được biểu tượng như mọi sự vật vận động trong vũ trụ. Múa Siva có quan hệ mật
thiết với vũ trụ. Múa Siva nằm trong nghệ thuật múa truyền thống của Ấn Độ.
1.2. Các học thuyết về nguồn gốc nghệ thuật múa:
Khoa Văn hoá học – Đại học Văn hoá Hà Nội

2


1.2.1. Học thuyết bản năng sinh vật – bắt chước, du hí:
Một số nhà nghiên cứu nghệ thuật múa phương Tây từ trước tới nay đều cho
rằng: Nguồn gốc nghệ thuật múa là bản năng sinh vật của con người. Con người
cũng như lồi mng thú đều có một bản năng tự nhiên, bản năng tự nhiên đó là
khả năng bắt chước mọi hiện tượng trong cuộc sống, trong thế giới tự nhiên, lặp
lại cái đã có, thế hệ sau bắt chước thế hệ trước, loài này bắt chước loài kia. Bắt
chước là bản năng sinh vật tự nhiên, tự tại, bắt chước để nhận thức thế giới..
Đại diện cho học thuyết này là Kant – 1 triết gia nổi tiếng người Đức. Ông
xác định rằng nghệ thuật múa là bắt nguồn từ sự du hí, bắt chước và sự hấp dẫn

khác giống. Do ý nghĩ thử bắt chước mà nảy sinh ra múa. Như vậy, múa bắt
nguồn từ thời ngun thuỷ. Nó độc lập khơng liên quan tới lao động sản xuất, độc
lập với nhận thức của con người. Múa đem lại cái đẹp tuyệt mỹ.
Thuyết bản năng bắt chước, du hí khơng phân biệt được lồi người với lồi
vật. Lồi người có những phẩm chất tuyệt đối mà các loại động vật khác khơng
thể có. Đó là lao động cải tạo, là sự tiến hố, đặc biệt đơi tay và bộ óc phát triển ở
trình độ cao. Con người có khả năng nhận thức thế giới khách quan, khám phá
được những giá trị khách quan quanh mình. Nghệ thuật múa là sản phẩm của xã
hội lồi người. Nó gắn liền với cuộc sống lao động đấu tranh của con người, theo
chặng đường lịch sử tiến hố của lồi người.
1.2.2. Học thuyết tôn giáo:
Tôn giáo xuất hiện từ thời kỳ hậu đồ đá cũ. Thời kỳ này con người đã phát
triển nhưng chưa đủ tri thức để giải thích thế giới xung quanh và trình độ xã hội
cịn non dại nên bất lực trước thiên nhiên. Con người trở nên nhỏ bé và vũ trụ bao
la trở nên huyền bí. Từ đó tơn giáo có điều kiện xâm nhập vào đầu óc con người
bằng những khái niệm trừu tượng.
Khi giai cấp phân chia rõ rệt thì tơn giáo lại càng phát triển, tôn giáo trở
thành công cụ của thế lực cầm quyền. Nghệ thuật múa là một loại hình nghệ thuật
mà tôn giáo sử dụng. Tôn giáo chiếm đoạt và làm biến dạng nghệ thuật múa của
nhân dân thành thuộc tính của tơn giáo. Từ đó các điệu múa ít nhiều có tính chất
tơn giáo đã hình thành theo chặng đường phát triển của tôn giáo. Do vậy nhiều
dân tộc, quốc gia có những điệu múa phản ánh về các nghi lễ tôn giáo, như các
ngày lễ hội của Thiên chúa giáo, Phật giáo, Bàlamôn giáo…
Căn cứ vào các điệu múa về tôn giáo, một số người cho rằng múa bắt đầu từ
tơn giáo tín ngưỡng. Đó là cách giải thích ngược với bản chất nguồn gốc nghệ
thuật múa. Tuy nghệ thuật múa sau này có một bơ phận phản ánh phục vụ cho
mục đích tơn giáo tín ngưỡng, nhưng thực chất nó vẫn bắt nguồn từ sự sáng tạo
của con người, từ múa dân gian.
1.2.3. Học thuyết Mác – Lênin về nguồn gốc nghệ thuật múa:
Khoa Văn hoá học – Đại học Văn hoá Hà Nội


3


Nguồn gốc nghệ thuật nói chung, nghệ thuật múa nói rêng là từ lao động,
sáng tạo của con người.
Sự phát triển của nghệ thuật múa gắn liền với sự phát triển của lao động có
sáng tạo. Nghệ thuật múa là bộ phận của hình thái ý thức xã hội. Nó ra đời là do
nhu cầu của đời sống con người cần biểu đạt nhận thức, hoạt động, tư tưởng tình
cảm của mình. Nghệ thuật múa là một trong những loại hình nghệ thuật sớm nhất
của lồi người.
Sự ra đời của nghệ thuật múa cịn gắn liền với điều kiện trình độ sản xuất,
cơng cụ sản xuất của lồi người. Q trình phát triển của nhiều dụng cụ sản xuất
đã trở thành đạo cụ múa như: múa rìu, múa gậy, múa cung… Khơng những thế,
chính những động tác lao động chiến đấu hàng ngày của loài người đã ăn nhập
vào nghệ thuật múa trở thành động tác, tư thế, ngôn ngữ múa.
1.2.4. Học thuyết lao động:
Nhờ có lao động mà động tác múa mới nảy sinh phát triển với tính nghệ
thuật hấp dẫn đối với mọi thành viên trong xã hội.
2. Quá trình hình thành:
2.1. Điều kiện xã hội:
2.1.1. Điều kiện kinh tế xã hội:
Xã hội là điều kiện có tính chất quyết định quan trọng chi phối trực tiếp sự
hình thành phát triển nghệ thuật múa cũng như các loại hình nghệ thuật khác. Cái
quyết định chiều hướng phát triển và trình độ phát triển của nghệ thuật múa và
các loại hình nghệ thuật khác là sự phát triển của cơ sở kinh tế xã hội. Nguyên
nhân sâu xa và căn bản nhất có tác động đến việc hình thành nghệ thuật múa là
nền sản xuất của xã hội. Nền sản xuất ấy bao gồm phương thức sản xuất, quan hệ
sản xuất. Nghệ thuật múa là hình thức đặc biệt phản ánh tồn tại xã hội, là 1 bộ
phận của thượng tầng kiến trúc. Sự phát triển của nghệ thuật múa dân tộc phục

tùng những quy luật phát triển, biến đổi của hạ tầng cơ sở và kiến trúc thượng
tầng.
Điều kiện kinh tế, xã hội của mỗi dân tộc, mỗi khu vực có khác nhau. Do đó
nội dung, đặc điểm của nghệ thuật múa mỗi dân tộc phụ thuộc vào xu hướng phát
triển kinh tế xã hội của dân tộc đó. Khi nội dung của nghệ thuật biến đổi thì tất
nhiên hình thức mới cũng nảy sinh, thay thế cho hình thức cũ. Hình thức bao giờ
cũng phản ánh nội dung và tuân theo sự đổi mới của nội dung. Như vậy, nội dung
và hình thức kết hợp với nhau cùng phát triển theo điều kiện biến đổi của nền
kinh tế xã hội.
2.1.2. Chế độ chính trị xã hội, pháp luật, triết học:

Khoa Văn hoá học – Đại học Văn hoá Hà Nội

4


Nghệ thuật múa và nghệ thuật nói chung là sự biểu hiện của thượng tầng
kiến trúc, chịu sự tác động của các điều kiện xã hội như pháp luật, triết học của
mỗi dân tộc. Đối với quan điểm nghệ thuật của chủ nghĩa Mác Lênin, nghệ thuật
phải phản ánh cuộc sống, sinh hoạt chính trị, tinh thần của nhân dân. Nghệ thuật
khơng tách rời hoặc đứng ngồi xã hội, ngồi cuộc sống. Các dân tộc thường trải
qua nhiều giai đoạn lịch sử đấu tranh, nghệ thuật múa cũng đi lên cùng chặng
đường đấu tranh của đất nước, dân tộc đó, khi ấy sẽ có nhiều tác phẩm múa mới
ra đời để phản ánh và phục vụ cho chính trị của mỗi đất nước, dân tộc.
2.1.3. Lý tưởng thẩm mỹ:
Quan niệm thẩm mỹ của mỗi dân tộc đều có sự biến đổi trong q trình phát
triển của lịch sử, song nó ổn định trong từng thời kỳ, từng giai đoạn lịch sử dân
tộc.
Quan niệm xưa của người Thái ở VN về cái đẹp trong múa như các dân tộc
phương Đông là bước lướt nhẹ nhàng, dáng người mềm mại, động tác tay cấu tạo

theo tuyến cong, vận động trong tiết tấu nhịp nhàng, một số dân tộc khi múa
thường cúi mặt xuống. Nhưng với quan niệm thẩm mỹ tiên tiến, múa Thái ngày
nay đã biến đổi với tiết tấu nhanh, linh hoạt, tươi tắn, động tác vẫn trên đường nét
cơ bản là đường cong nhưng dáng người phóng khống thoải mái, tình cảm tươi
vui, khi múa đầu đã ngẩng cao và hơi nghiêng, khoe cái đẹp duyên dáng của phụ
nữ Thái.
Ngược lại, ở 1 số nước châu Âu như Nga, Đức, Ba Lan lại quan niệm về cái
đẹp trong nghệ thuật múa là những nét phóng khống, rộng rãi, thẳng thắn trong
sự vận động liên tục của động tác theo tuyến thẳng. Đồng thời những tư thế động
tác lại hoà nhịp với tiết tấu sôi động, nhanh và khoẻ, biểu hiện ở động tác chân
của nam và nữ. Các nước châu Phi lại quan niệm cái đẹp trong nghệ thuật múa là
sự vận động tinh tế của gân bắp.
Tóm lại, nghệ thuật múa cũng như các loại hình nghệ thuật khác là 1 biểu
hiện nội dung trạng thái quan niệm thẩm mỹ của con người, dân tộc từng miền,
từng khu vực.
2.1.4. Phong tục tập quán:
Những phong tục tập quán hội hè, đình đám, ma chay, cưới xin, mùa màng
cũng ảnh hưởng vào sự hình thành nghệ thuật múa. Bởi vậy xuất hiện nhiều điệu
múa thuộc phong tục tập quán, múa tín ngưỡng, nghi lễ. Những điệu múa đó
được sáng tạo ra để phục vụ những tập tục truyền thống của dân tộc.
Ở VN có loại múa trống bồng ngày xưa gọi là múa “đĩ đánh bồng”. Loại
múa này có tính cách độc đáo, gọi là “đĩ đánh bồng” nhưng thực chất là nam giả
nữ để múa – loại múa này tuyệt nhiên nữ không tham gia múa.
2.2. Điều kiện tự nhiên:
Khoa Văn hoá học – Đại học Văn hoá Hà Nội

5


Điều kiện tự nhiên trong một chừng mực nào đó cũng có ảnh hưởng tới sự

hình thành đặc điểm múa của mỗi dân tộc.
Múa Nga thường có động tác đập tay vào ống chân, gót chân. Trong múa
dân gian Nga nhiều người cho rằng đó là sự xuất phát từ động tác phủi tuyết trên
boot, ủng. Múa dân tộc H’mong ở VN cũng ở xứ lạnh, ở vùng cao có nhiều núi
đá, đất hẹp nên động tác mạnh, khoẻ có nhiều động tác quay nhảy nhưng phạm vi
động tác tại chỗ nhiều hơn. Cịn múa Thái VN, nữ thường có động tác bập bềnh
nhẹ nhàng bước ngắn, có thể do đồng bào Thái ở nhà sàn nên tính chất động tác
trong sinh hoạt cũng nhẹ nhàng.
TÓM LẠI:
- Nghệ thuật múa có từ thời nguyên thuỷ, thời kỳ bầy người nguyên thuỷ là
những manh nha, những yếu tố thô sơ của nghệ thuật múa. Nghệ thuật múa phát
triển cùng với lịch sử tiến hố của lồi người. Dấu hiệu nghệ thuật múa của loài
người được rõ nét là từ thời đồ đá cũ.
- Nguồn gốc của nghệ thuật múa là từ lao động của con người. Con người
trong lao động, trong chiến đấu có sáng tạo đã sản sinh ra nghệ thuật múa. Lao
động là dòng sữa mẹ, là mảnh đất nở hoa xanh lá của nghệ thuật múa.
- Sự hình thành những đặc điểm của nghệ thuật múa là do điều kiện xã hội,
kinh tế, văn hoá và tự nhiên. Điều kiện xã hội là căn bản quan trọng tác động tới
toàn bộ những đặc điểm nền nghệ thuật múa của mọi dân tộc.
Câu 3: Hình thái của nghệ thuật múa?
Trả lời:
Dựa vào các nhân tố: Nguồn gốc xuất xứ, cơ sở hình thành, phạm vi ảnh
hưởng và vai trị của nghệ thuật múa trong đời sống cộng đồng, ta có thể dễ dàng
xác định được hình thái của nghệ thuật múa.
1. Múa dân gian Việt Nam:
Múa dân gian là một loại hình múa phổ biến nhất trong các loại hình, hình
thái múa. Nó mang trong mình những đặc tính riêng của nền nghệ thuật múa mỗi
dân tộc. Đây là một thành tố của văn hoá dân gian, là sự sáng tạo ban đầu của
những người nông dân và thợ thủ cơng. Múa dân gian là hình thái phổ biến lưu
truyền trong nhân dân, từ đời này qua đời khác, từ thế hệ này qua thế hệ khác,

được kế thừa, phát triển và gọt rũa chắt lọc những cái hay, cái đẹp. Múa dân gian
phản ánh những khía cạnh tình cảm, tư tưởng, quan niệm thẩm mỹ của nhân dân,
được nhân dân yêu thích và tham gia. Múa dân gian thể hiện bản sắc mỗi dân tộc
thông qua các động tác múa khác nhau.
Múa dân gian trong mỗi dân tộc có nhiều loại khác nhau. Mỗi loại múa đó
đều có phạm vi ảnh hưởng khác nhau nhưng nhìn chung là phạm vi hẹp và gắn
Khoa Văn hoá học – Đại học Văn hoá Hà Nội

6


với cộng đồng địa phương. Trên thực tế, nền nghệ thuật múa của các dân tộc đều
tồn tại hai loại múa: múa sinh hoạt và múa biểu diễn
1.1. Múa sinh hoạt:
Múa sinh hoạt là loại hình múa gắn bó mật thiết với đời sống hàng ngày của
nhân dân. Múa sinh hoạt động tác tương đối đơn giản, dễ múa, có tính cách riêng
độc đáo. Múa sinh hoạt thường có sức thu hút lôi cuốn mạnh mẽ, đem lại sự phấn
khởi, say sưa, yêu đời, thân ái trong cuộc sống của nhân dân mỗi dân tộc. Có thể
nói múa sinh hoạt là loại múa đại chúng nhất, được mọi tầng lớp nhân dân u
thích. Có thể kể tới một vài điệu múa sinh hoạt của các dân tộc và quốc gia như:
Múa Lăm vông của Lào, Múa Hồ hay a của Triều Tiên hay Múa Xoè, nhảy sạp
của người Thái (VN).
1.2. Múa biểu diễn:
Múa biểu diễn là một trong hai loại hình của hình thái múa dân gian, nó
chiếm một vị trí rất quan trọng trong kho tàng nghệ thuật múa của mỗi quốc gia,
dân tộc. Múa biểu diễn được kết tinh những nét tinh hoa đặc sắc của nền nghệ
thuật múa dân tộc. Bản chất của múa biểu diễn là múa dân gian ở trình độ cao và
độc đáo. Nó là nền tảng chủ yếu để phát huy truyền thống dân tộc của mỗi nước.
Nhiều nước đã có những điệu múa nổi tiếng như: “Cây bạch dương” của Nga hay
“Những anh chàng không may” của Ukren… Trong kho tàng nghệ thuật múa dân

gian Việt Nam ngày nay còn đọng lại phần lớn điệu múa thuộc thể loại múa biểu
diễn. Mỗi dân tộc ít nhiều đều có những điệu múa biểu diễn mang đậm bản sắc
dân tộc mình: Múa nón, múa quả nhạc của người Thái, múa đàn tính của người
Tày, múa xúc tép của người Cao Lan…
Múa sinh hoạt và múa biểu diễn ln có mối quan hệ mật thiết với nhau
trong hình thái múa dân gian. Múa biểu diễn là kế thừa, phát triển những động tác
hay, đẹp trong sinh hoạt nghệ thuật múa của nhân dân, ở trình độ cao, có tính
nghệ thuật, tính thẩm mỹ. Múa dân gian là cơ sở cho sự hình thành các hình thái
khác của nghệ thuật múa.
2. Múa tơn giáo:
Múa tín ngưỡng là hình thái múa nhằm phục vụ cho các nghi lễ trong các
hoạt động tín ngưỡng, gắn liền với các tín ngưỡng. Dựa trên cơ sở múa dân gian
có sự phát triển và biến dạng và có kết hợp với điệu bộ động tác của thầy cúng,
thầy phù thuỷ, thầy chang, thầy mo đã tạo thành hình thái múa mới – múa tín
ngưỡng dân gian sơ khai. Hình thái nghệ thuật múa tôn giáo được phát triển ở
nhiều nước, nhiều dân tộc khác nhau, mỗi nơi như vậy đều có múa với mục đích
tơn giáo. Dù tơn giáo có những mục đích khác nhau về mặt nội dung, hình thức,
mục đích giáo lý nhưng các tơn giáo đó đều có mục đích là biến nghệ thuật múa
thành cơng cụ đắc lực của tôn giáo. Chất liệu cơ bản của múa tơn giáo vẫn dựa
Khoa Văn hố học – Đại học Văn hoá Hà Nội

7


vào múa dân gian, kết hợp những yếu tố động tác tạo hình và phong cách phù
hợp với tơn giáo.
Hình thái múa tôn giáo ở Việt Nam cũng phát triển trong các nghi lễ, phong
tục tín ngưỡng tơn giáo của các dân tộc. Thể hiện chủ yếu là các lễ hiếu, cúng
ma, đưa ma… như dân tộc Sán Dìu, dân tộc Dao, dân tộc Mường… Mỗi hoạt
động tín ngưỡng lại có những điệu múa khác nhau, từ đó cho thấy sự đa dạng về

nhân vật, phong cách thể hiện trong múa tơn giáo. Về hình thức, múa tơn giáo là
một loại hình múa rất gắn bó với sinh hoạt tinh thần của mọi dân tộc, mọi quốc
gia. Tuỳ thuộc vào các loại tơn giáo tín ngưỡng và khả năng của nghệ thuật múa
ở mỗi dân tộc mà sử dụng các điệu múa tơn giáo vào mục đích và mức độ khác
nhau.
3. Múa cung đình:
Múa cung đình được hình thành với chức năng chủ yếu là phản ánh, ca ngợi
chế độ vua quan của xã hội phong kiến. Múa cung đình là một hình thái múa dân
gian được nâng cao có quy cách, có khả năng phản ánh nhất định, nó nâng múa
dân gian lên một bước mới, khả năng mới. Múa cung đình hình thành từ cuối thời
Lê nhưng tới thời Nguyễn mới thực sự phát triển. Múa cung đình phát triển là
nhờ có những tài năng, những nghệ sĩ biểu diễn, sáng tác từ nhân dân mà ra.
Những nghệ sĩ đó phát huy sự sáng tạo của mình, góp phần xây dựng nghệ thuật
múa dân tộc mình.
Múa cung đình gồm 2 loại: múa sinh hoạt cung đình và múa biểu diễn cung
đình. Múa sinh hoạt cung đình khơng phải nhân dân tham gia múa mà chỉ có các
quan trực tiếp tham gia. Múa sinh hoạt cung đình được coi là một khoa mục cần
thiết đối với các hoàng tử, thái tự, các quan văn võ trong triều. Tuy nhiên ở các
nước phương Đông vua quan quý tộc không trực tiếp tham gia múa mà chủ yếu là
thưởng thức. Nhất là các nước Đơng Nam Á cịn bảo tồn khá nhiều điệu múa
cung đình như múa cung đình Campuchia, Indonexia, Thái Lan, Việt Nam…
Múa biểu diễn cung đình là loại múa phổ biến của hình thái múa cung đình. Nó
tồn tại ở hầu hết các giai đoạn phát triển của chế độ phong kiến ở các nước. Nội
dung múa biểu diễn cung đình là ca ngợi, chúc tụng vua quan, các sự tích anh
hùng của các cơng hầu khanh tướng. Mặt khác ca ngợi mối tình cao thượng của
các hồng tử, công chúa vượt mọi trở ngại để bảo vệ tình u. Nội dung cần bàn
của nó vẫn là củng cố, bảo vệ, suy tôn vua chúa và tư tưởng đạo đức phong kiến.
Ngồi ra cịn có một số điệu múa làm nghi lễ phục vụ các buổi vui chơi, yến tiệc
của triều đình. Múa biểu diễn cung đình ngày càng phát triển và phức tạp về kỹ
thuật, hình thái, thể loại. Múa cung đình Việt Nam khơng tách rời quy luật chung

là bắt nguồn từ nghệ thuật múa dân gian do nhân dân sáng tạo. Nội dung chủ yếu
của múa cung đình Việt Nam là ca ngợi cơng đức các vua chúa, chúc tụng các

Khoa Văn hoá học – Đại học Văn hoá Hà Nội

8


ngày lễ, yến tiệc… Tuy múa cung đình được phát triển sớm nhưng đến đời
Nguyễn thì chỉ cịn 10 điệu múa được ghi nhận:
- Múa lục cúng: Múa trong lễ hội, đây là 1 nghi lễ của nhà chùa, gồm 6 tuần
dâng: Hương - Hoa - Đăng - Trà - Quả - Thực.
- Múa bát dật: Múa tế trời vào 23 tháng Chạp hàng năm, do vua điều khiển,
64 người múa hoàn toàn là nam.
- Múa Tam tinh chúc thọ.
- Múa bát tiên hiến thọ: cầu mong sức khoẻ.
- Múa Trình tường tập khánh.
- Múa Đấu – Chiến – Thắng – Phật.
- Múa tứ linh.
- Múa Nữ tướng xuất quân.
- Múa quạt.
- Múa Lục triệt hoa đăng mã.
Câu 4: Đặc trưng của nghệ thuật múa?
Trả lời:
Múa là loại hình nghệ thuật tổng hợp. Nghệ thuật múa truyền cảm, biểu hiện
bằng động tác, đội hình. Tất cả mọi chuyển động đều tiến hành trong nhịp điệu,
âm thanh, trong không gian và thời gian. Âm nhạc luôn kết hợp chặt chẽ, hữu cơ
bởi các thành phần giai điệu, tiết tấu, hoà thanh trong một khoảnh khắc để thể
hiện nội dung các động tác múa. Điệu bộ, cử chỉ tạo nên các đường nét thể hiện
tồn bộ cảm xúc, các điệu múa ln chuyển động thơng qua tổ hợp động tác, các

đội hình khác nhau, nghệ thuật múa có mối quan hệ chặt chẽ với nghệ thuật tạo
hình. Ngồi ra tác phẩm múa cịn có những mối liên hệ rất chặt chẽ với văn học
và thơ. Từ những tác phẩm văn học hay tranh dân gian, người biên kịch có thể dễ
dàng chuyển thể thành các kịch bản múa.
Nghệ thuật múa được đặc trưng bởi ngôn ngữ múa: cách điệu, tượng trưng,
khái quát, tạo hình.
1. Đặc trưng cách điệu:
Đặc trưng cách điệu trong nghệ thuật múa là một đặc trưng rất quan trọng
trong sự phát triển ngơn ngữ múa. Tính cách điệu làm cho nghệ thuật múa phong
phú, đa dạng trong việc biểu hiện cuộc sống. Nó khơng bị gị bó, giới hạn bởi
những động tác tự nhiên. Những động tác trong sinh hoạt, trong cuộc sống
thường ngày đều được cách điệu, nâng cao khi đó mới trở thành ngơn ngữ múa,

Khoa Văn hoá học – Đại học Văn hoá Hà Nội

9


mới là mạch nguồn vô tận của nghệ thuật múa. Múa của dân tộc nào cũng có
những động tác được cách điệu và trở thành thuộc tính nghệ thuật của dân tộc đó.
Trong nghệ thuật múa VN đặc trưng cách điệu thể hiện rất rõ nét. Trên mặt
và quanh thân trống đồng Ngọc Lũ, Hồng Hạ cịn ghi lại hình người đánh trống
thổi kèn, cầm tay nhau hoặc vỗ tay múa. Những động tác chèo thuyền, phóng
lao... đều được cách điệu. Không những cách điệu động tác mà trang phục và đạo
cụ để múa như khiên, mộc, lao, cung tên cũng được cách điệu với tính cách dân
tộc độc đáo. Loại động tác cách điệu này có khả năng thể hiện nội dung, ý nghĩa
của từng loại động tác sinh hoạt trong đời sống của con người. Chúng được thể
hiện rõ ràng nhất trong múa chèo truyền thống VN như: chèo đò, đu tiên, vớt bèo,
se chỉ, dệt vải...
Với đặc trưng cách điệu cao của nghệ thuật múa đã xây dựng hàng loạt động

tác múa để thể hiện con người mới, cuộc sống mới, thể hiện mọi nội dung, có sức
thu hút mạnh mẽ với con người, từ đó tạo ra và bổ sung những “từ” mới cho kho
tàng ngôn ngữ múa nghệ thuật VN.
2. Đặc trưng tượng trưng:
Những hiện tượng vận động của tự nhiên đều có liên quan tới nghệ thuật
múa. Những hiện tượng ấy có quan hệ và gắn liền với đời sống tinh thần, vật chất
của con người. Bởi vậy con người cần biểu hiện chúng trong sinh hoạt tinh thần
và đưa được vào nghệ thuật một cách hấp dẫn, sinh động.
Tính tượng trưng cho phép vượt ra khỏi điều kiện của thiên nhiên, không lệ
thuộc hồn tồn vào thiên nhiên, làm sao có thể cho mọi người lĩnh hội được sự
vật cần miêu tả bằng xúc cảm, tinh thần mà đặc trưng nghệ thuật đem lại. Nhờ có
tính tượng trưng mà trên san khấu nhỏ bé ta có thể miêu tả sơng núi mênh mơng,
trời biển bao la...
Đặc trưng tượng trưng thông qua phương tiện biểu hiện của con người cũng
có thể biến những khái niệm tinh thần thành vật chất cụ thể mà nghệ thuật múa
hư cấu. Có thể nói tượng trưng là một sức mạnh, một thủ pháp quan trọng của
nghệ thuật múa.
3. Đặc trưng khái quát:
Đặc trưng khái quát là một thuộc tính vốn có của nghệ thuật múa. Đặc trưng
khái qt nhằm miêu tả những sự kiện hành động chi tiết, mâu thuẫn, xung đột có
tính chất điển hình phù hợp với đặc trưng đặc điểm ngôn ngữ - động tác. Thơng
qua sự diễn tả, những điển hình ấy thể hiện hàng loạt động tác múa, đem lại sự
tiếp nhận dễ hiểu cho đối tượng thưởng thức.
Khái quát ở đây gồm có: nội dung phản ánh, kết cấu tác phẩm và ngôn ngữ
thể hiện. Rất nhiều điệu múa của các dân tộc được đặc trưng khái quát động tác
Khoa Văn hoá học – Đại học Văn hoá Hà Nội

10



trực tiếp, làm cho điệu múa rất có hiệu quả, đem lại vẻ đẹp và niềm vui cho mọi
người.
4. Đặc trưng tạo hình:
Nghệ thuật múa mang trong nó những tạo hình, những khắc hoạ chuyển
động liên tục theo quy luật vận động. Nghệ thuật múa phải tuân theo chức năng
giáo dục, rèn luyện khiếu thẩm mỹ cho mọi người. Đặc trưng tạo hình là sự hài
hồ, tổng hợp bởi những đặc trưng cách điệu, tượng trưng và khái quát. Những
đặc trưng ấy đều chứa đựng đầy đủ tính tạo hình điêu khắc.
Đặc trưng tạo hình điêu khắc được ghi nhận và khắc hoạ rõ nét trong các nền
nghệ thuật múa dân tộc của các nước: đội bình nước (Ai Cập), múa hoa sen (TQ),
múa vũ nữ Chăm (VN)...
Đặc trưng tạo hình điêu khắc là thuộc tính vốn có của nghệ thuật múa. Nó
làm giàu đẹp cho nền nghệ thuật múa của mỗi dân tộc.
KẾT LUẬN: Các đặc trưng này không riêng biệt tách rời nhau mà có những
mối quan hệ chặt chẽ và cùng tồn tại trong ngôn ngữ múa.

Khoa Văn hoá học – Đại học Văn hoá Hà Nội

11



×