Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Hiệu quả trám bít ống tủy chân răng của xi măng calcium silicate nghiên cứu in vitro

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.03 MB, 78 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

ĐẠI HỌC Y DƢỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LÝ NGUYỄN BẢO KHÁNH

HIỆU QUẢ TRÁM BÍT ỐNG TỦY CHÂN RĂNG
CỦA XI MĂNG CALCIUM SILICATE:
NGHIÊN CỨU IN VITRO

LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH – 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

ĐẠI HỌC Y DƢỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LÝ NGUYỄN BẢO KHÁNH

HIỆU QUẢ TRÁM BÍT ỐNG TỦY CHÂN RĂNG
CỦA XI MĂNG CALCIUM SILICATE:
NGHIÊN CỨU IN VITRO

Chuyên ngành: RĂNG-HÀM-MẶT
Mã số: 62720601



LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC

Người hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ Trần Xuân Vĩnh

TP. HỒ CHÍ MINH – 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu, kết quả nêu
trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ cơng trình
nào khác.


MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT....................................................................... i
ĐỐI CHIẾU THUẬT NGỮ VIỆT – ANH ............................................................. ii
DANH MỤC BẢNG ................................................................................................ iii
DANH MỤC BIỂU ĐỒ ........................................................................................... iv
DANH MỤC HÌNH ...................................................................................................v
MỞ ĐẦU ...................................................................... Error! Bookmark not defined.
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ......................................................................3
1.1.

Xi măng nội nha ............................................................................................3

1.1.1.

Xi măng nội nha với chất căn bản là oxyt kẽm – eugenol: .....................4


1.1.2.

Xi măng nội nha với chất căn bản là nhựa polymer ...............................5

1.1.3.

Xi măng nội nha với chất căn bản là calcium hydroxide .......................6

1.1.4.

Xi măng nội nha với chất căn bản là glass ionomer .............................7

1.1.5.

Xi măng nội nha với chất căn bản là silicon ..........................................7

1.1.6.

Xi măng nội nha với chất căn bản là calcium silicate ............................8

1.2.

Các phương pháp đánh giá vi kẽ vùng chóp răng .........................................9

1.2.1.

Phương pháp thâm nhập phẩm nhuộm ...................................................9

1.2.2.


Phương pháp dịch chuyển chất lỏng ....................................................11

1.2.3.

Phương pháp loại bỏ phẩm nhuộm.......................................................12

1.2.4.

Phương pháp thấm nhập vi khuẩn và độc tố sinh ra từ vi khuẩn .........12

1.3.

Các nghiên cứu đánh giá vi kẽ vùng chóp răng ...........................................13

Chƣơng 2: VẬT LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ...........................15
2.1.

Vật liệu nghiên cứu......................................................................................15

2.2.

Dụng cụ nghiên cứu ....................................................................................16

2.3.

Phương pháp nghiên cứu .............................................................................17

2.3.1.


Thiết kế nghiên cứu ...............................................................................17

2.3.2.

Các bước thực hiện:..............................................................................19


2.3.3.

Các biến nghiên cứu .............................................................................27

2.3.4.

Xử lý số liệu và phân tích thống kê:......................................................27

2.3.5.

Kiểm sốt sai lệch thơng tin..................................................................27

Chƣơng 3: KẾT QUẢ .............................................................................................30
3.1. Đặc điểm vùng chóp chân răng sau khi đã trám bít........................................31
3.2. Mức độ vi kẽ vùng chóp của các răng sau khi được trám bít ống tùy ...........34
3.3. Đặc điểm vi kẽ quan sát bằng kính hiển vi điện tử quét (SEM) .....................35
Chƣơng 4: BÀN LUẬN ...........................................................................................40
4.1. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................40
4.1.1. Mẫu nghiên cứu ........................................................................................40
4.1.2. Phương pháp trám bít ống tủy .................................................................40
4.1.3. Phương pháp đánh giá vi kẽ .....................................................................42
4.2. Kết quả nghiên cứu .........................................................................................44
4.2.1. So sánh mức độ vi kẽ vùng chóp răng trám bít bằng hai loại xi măng CS

mới và polymer ...................................................................................................44
4.2.2. Đặc điểm vi kẽ quan sát bằng kính hiển vi điện tử quét (SEM) ...............47
4.3. Một số hạn chế của đề tài ...............................................................................49
Chƣơng 5: KẾT LUẬN ...........................................................................................50
ĐỀ XUẤT .................................................................................................................52
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


i

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
cs

: cộng sự

MTA

: Mineral Trioxide Aggregate

SBF

: simulated body fluid

SEM

: Scanning electron microscope

TBOT


: trám bít ống tủy

XMNN

: Xi măng nội nha

ZOE

: Oxyt kẽm – eugenol

CS

: Calcium silicate


ii

ĐỐI CHIẾU THUẬT NGỮ VIỆT – ANH
Cắt dọc răng

: longitudinal sectioning method

Kính hiển vi điện tử quét

: Scanning electron microscope

Làm trong răng

: clearing technique


Phương pháp dịch chuyển chất lỏng

: fluid filtration method

Phương pháp loại bỏ phẩm nhuộm

: dye extraction method

Phương pháp thâm nhập phẩm nhuộm

: dye penetration method

Phương pháp thấm nhập vi khuẩn và độc tố sinh ra từ vi khuẩn: bacteria and toxin
infiltration method
Vi kẽ vùng chóp

: apical leakage


iii

DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1. Thành phần của xi măng AH26 .................................................................. 6
Bảng 1.2. Thành phần của xi măng CS mới .............................................................. 8
Bảng 2.3. Nồng độ các ion trong dung dịch SBF (mM/l) ......................................... 15
Bảng 3.4. So sánh trung bình vi kẽ giữa nhóm răng trám bít bằng xi măng CS mới
và polymer được khảo sát tại hai thời điểm............................................. 34
Bảng 3.5. Mức độ vi kẽ cao nhất và thấp nhất ở từng nhóm răng ............................ 35



iv

DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1. Tỷ lệ (%) răng có vi kẽ khi TBOT bằng xi măng CS mới và polymer
giữa hai thời điểm khảo sát ................................................................. 33


v

DANH MỤC HÌNH
Hình 2.1. Máy nội nha và bộ trâm ProTaper ............................................................ 17
Hình 2.2. Các nhóm răng nghiên cứu ....................................................................... 19
Hình 2.3. Răng sau khi được TBOT ......................................................................... 21
Hình 2.4. Kiểm tra trước và sau khi răng được TBOT ............................................. 22
Hình 2.5. Các răng được sơn cách ly ........................................................................ 24
Hình 2.6. Răng được ngâm trong dung dịch xanh methylene 2% ............................ 25
Hình 2.7. Kính hiển vi soi nổi (SZX10 Olympus) .................................................... 26
Hình 2.8. Bộ kết nối với kính hiển vi Optikam B5 (Optika, Italia) .......................... 26
Hình 2.9. Đo mức độ thâm nhập phẩm nhuộm ......................................................... 27
Hình 3.10. Nhóm chứng âm và nhóm chứng dương ................................................. 30
Hình 3.11. Khơng có sự thâm nhập xanh methylene (xi măng CS mới) .................. 31
Hình 3.12. Khơng có sự thâm nhập xanh methylene (xi măng polymer) ................. 31
Hình 3.13. Có sự thâm nhập xanh methylene (xi măng CS mới) ............................. 32
Hình 3.14. Có sự thâm nhập xanh methylene (xi măng polymer) ............................ 32
Hình 3.15. Thiết diện cắt ngang 1/3 chóp chân răng sau khi trám bít bằng xi măng
CS mới (a) và polymer (b) được chụp bằng SEM .................................. 36
Hình 3.16. Hình ảnh khơng có vi kẽ khi trám bít bằng xi măng CS mới (a) và
polymer (b) ............................................................................................. 37
Hình 3.17. Vi kẽ khi trám bít bằng xi măng CS mới (a) và polymer (b và c) ......... 38
Hình 3.18. Giao diện giữa mơ răng và xi măng CS mới ........................................... 39



1

MỞ ĐẦU
Điều trị nội nha thành công liên quan đến tất cả các giai đoạn trong quá trình
điều trị bao gồm sửa soạn, tạo dạng và làm sạch ống tủy, trám bít ống tủy và cả giai
đoạn trám tạm giữa các lần hẹn hay trám kết thúc. Trong đó, giai đoạn trám bít ống
tủy đóng vai trị quan trọng trong sự thành công của điều trị nội nha. Hệ thống ống
tủy phải được bít kín hồn tồn để ngăn ngừa tái nhiễm khuẩn và vi kẽ bên trong
ống tủy. Việc bít kín vùng chóp của ống tủy chân răng nhằm ngăn ngừa các vi
khuẩn cịn sót và các độc tố của chúng từ mơ quanh chóp thấm vào chóp răng [40].
Hiện nay, rất nhiều vật liệu cũng như phương pháp trám bít ống tủy đã được phát
triển nhằm làm tăng chất lượng của việc điều trị nội nha.
Xi măng trám bít ống tủy được sử dụng để liên kết với côn gutta-percha
hoặc các loại côn đặc khác để tạo nên một khối đồng nhất trong ống tủy chân răng.
Có nhiều loại xi măng trám bít ống tủy được phân loại theo thành phần chính của
chúng: oxyt kẽm – eugenol, calcium hydroxide Ca(OH)2, nhựa polymer, glass
ionomer, và silicon. Trong đó, xi măng nội nha AH26 hay AH Plus (có chất căn bản
là nhựa polymer) thường được sử dụng như một vật liệu tham chiếu để so sánh với
các loại xi măng mới [4].
Trong những năm gần đây, các loại vật liệu có chất căn bản là calcium
silicate đã được giới thiệu và sử dụng phổ biến trong chữa răng và che tủy do nó có
khả năng bám dính cao, phóng thích ion canxi và hoạt tính sinh học. Dựa trên các
đặc tính trên, một loại xi măng trám bít ống tủy mới có thành phần chính tricalcium
silicate đã được giới thiệu. Loại xi măng calcium silicate mới này có khả năng
phóng thích calcium hydroxide sau khi đơng, hình thành pha calcium phosphate khi
tiếp xúc với dung dịch sinh lý, ít gây độc trên tế bào dây chằng nha chu và kích
thích các yếu tố tăng trưởng tạo máu và tạo xương, do đó xi măng calcium silicate
mới có tính tương hợp sinh học cao [11].



2

Mặc dù đã có nhiều loại vật liệu được giới thiệu trên thị trường nhưng chưa
có một loại vật liệu nào đạt được sự bít kín hồn tồn hệ thống ống tủy. Theo Ingle
và Bakland, nguyên nhân thất bại thường gặp nhất trong điều trị nội nha (60%) là
do xuất hiện vi kẽ, khơng bít kín hồn tồn ống tủy chân răng [33]. Tình trạng vi kẽ
phụ thuộc vào nhiều yếu tố như kỹ thuật trám bít ống tủy, tính chất vật lý và hóa
học của vật liệu trám bít,… [3]. Vì vậy, rất nhiều nghiên cứu về vi kẽ đã được thực
hiện nhằm đánh giá hiệu quả trám bít ống tủy của các loại vật liệu, đặc biệt là đối
với những loại xi măng mới.
Vì là vật liệu mới, nên hiện nay chưa có nghiên cứu nào tại Việt Nam cũng
như chưa có nhiều nghiên cứu trên thế giới được thực hiện để đánh giá hiệu quả
trám bít ống tủy chân răng của xi măng calcium siliate mới này. Với mong muốn
tìm hiểu rõ hơn vấn đề này, chúng tơi thực hiện đề tài với câu hỏi nghiên cứu:
Có sự khác biệt về mức độ vi kẽ của các răng sau khi được trám bít ống tủy
bằng xi măng calcium silicate mới và polymer không?
Mục tiêu:
1. So sánh mức độ vi kẽ vùng chóp của các răng được trám bít bằng xi
măng calcium silicate mới và xi măng polymer ở từng thời điểm 2 ngày
và 30 ngày sau khi trám bít ống tủy.
2. Mơ tả đặc điểm vị trí vi kẽ tại giao diện giữa mô răng và xi măng calcium
silicate mới với xi măng polymer bằng kính hiển vi điện tử quét.


3

Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Xi măng nội nha
Xi măng nội nha là các chất dùng để gắn kết các vật liệu trám bít ống tủy
(cơn bạc, cơn gutta-percha) vào thành ống tủy. Trước khi đông cứng, xi măng nội
nha có thể làm trơn, chảy vào và trám bít các ống tủy phụ, nhánh bên và các lỗ chóp
phụ trong các phương pháp lèn [4].
Các đặc tính lý tưởng của xi măng nội nha theo Grossman [27]:
- Dính tốt vào thành ống tủy.
- Đảm bảo việc ngăn cản thấm nước ở chóp răng để ngăn sự di tản của vi
khuẩn và nguy cơ vi khuẩn thốt khỏi chóp.
- Đóng vai trị như một chất bơi trơn, giúp cho việc đặt cơn chính được dễ
dàng.
- Bít những vùng mà cơn gutta-percha không vào được (gutta-percha dù làm
mềm do nhiệt cũng không đủ dẻo để trám bít tồn bộ hệ thống ống tủy đã
được làm sạch và khử khuẩn).
- Tương hợp sinh học, khơng kích thích mơ quanh chóp: xi măng nội nha
đơng cứng nhờ phản ứng hóa học, những phản ứng này thường phóng thích
chất độc và tính độc này sẽ giảm nhiều sau khi xi măng nội nha đã đông
cứng. Vài ngày sau khi trám bít thường gây phản ứng viêm quanh chóp tạm
thời. Phản ứng này xuất hiện tạo sự lành thương.
- Khơng kích thích đáp ứng miễn dịch mơ quanh chóp.
- Khơng có khả năng sinh ung thư.


4

- Thời gian làm việc thích hợp.
- Cản quang.
- Kháng khuẩn.
- Khơng hịa tan trong dịch mơ.
- Khơng làm đổi màu răng.

- Dễ sử dụng: dễ trộn, dễ lấy ra khi cần.
Các loại XMNN được phân loại theo nhiều cách khác nhau. Theo Ingle [33],
XMNN được phân loại theo thành phần chất căn bản như sau:
- XMNN với chất căn bản là oxyt kẽm – eugenol
- XMNN với chất căn bản là nhựa polymer
- XMNN với chất căn bản là calcium hydroxide
- XMNN với chất căn bản là glass ionomer
- XMNN với chất căn bản là silicon
- XMNN với chất căn bản là calcium silicate
1.1.1. Xi măng nội nha với chất căn bản là oxyt kẽm – eugenol:
Xi măng nội nha với thành phần hóa học là oxyt kẽm – eugenol là loại xi
măng được sử dụng phổ biến nhất. Thành phần chính bao gồm phần bột là oxyt kẽm
và phần lỏng là eugenol.
Ưu điểm: loại xi măng này có cấu trúc vững ổn do đó nó dễ dàng lấp đầy các
khoảng trống giữa côn gutta – percha và thành ống tủy. Nó có tính sát khuẩn và
khơng bị co rút [3].


5

Nhược điểm: có thể tan được trong dung dịch của mơ và có độc tính một
phần. Độc tính được cho là do eugenol dư ra khi mới trộn vật liệu. Lượng eugenol
trong xi măng phóng thích giảm dần, do đó trong thời gian dài sau đó xi măng
khơng cịn gây độc tính. Xi măng có cơng thức Rickert có thành phần bạc có thể
làm đen ngà răng [13].
Trước đây, việc đưa thêm formaldehyde vào xi măng ZOE rất phổ biến. Tuy
nhiên, formaldehyde là một chất phụ gia nguy hiểm, vì nó góp phần vào tác động
độc tính có sẵn của eugenol và ngăn cản hoặc làm chậm quá trình lành thương [40].
Ngồi ra, có loại xi măng cịn được thêm vào các loại thuốc chống viêm
(dexamethasone, enoxolone, hydrocortisone, acid glycerhetinic) và thuốc kháng

sinh (trioxymethylen). Việc cho thêm thuốc đã gây nhiều tranh luận vì các phân tử
này làm tăng nguy cơ dị ứng và ảnh hưởng đến phản ứng viêm, một giai đoạn cần
thiết cho sự lành thương [4], [44].
1.1.2. Xi măng nội nha với chất căn bản là nhựa polymer
Đây là loại XMNN cao phân tử, có tính ổn định và có khả năng dán dính vào
thành ống tủy, được trình bày dưới dạng bột và chất lỏng hoặc 2 ống bột nhão. Gồm
các loại nhựa epoxy (Diglycidyl ether bisphenol – A) và các amin cùng chất phụ trợ
[4].
Nổi tiếng nhất trong nhóm xi măng này là loạt sản phẩm AH. Mẫu đầu tiên
được phát triển hơn 50 năm trước bởi Andre Schroeder tại Thụy Sĩ, sử dụng nhựa
big-phenol và sử dụng methamine để trùng hợp. Vì methamine (cịn được biết như
là urotropin) phóng thích formaldehyde trong q trình phản ứng, sau này các chất
thay thế được tìm thấy là là các amin có tác dụng trùng hợp mà không thành lập
formaldehyde.
Các nhãn hiệu thương mại: AH26, AH Plus (Dentsply Maillerfer,
Swizerland), Endorez (Ultradent), Acrosel (Septodont), Topseal (Maillerfer,
Swizerland).


6

AH26 lần đầu tiên được giới thiệu vào năm 1957, là loại nhựa epoxy có độ
hịa tan thấp, có tính chảy và dính vào ngà, có thời gian làm việc 4,5 giờ và thời
gian đông đặc 12 – 48 giờ.
Bảng 1.1. Thành phần của xi măng AH26
Bột
Thành phần

Chất lỏng
Lượng


Bạc

10%

Bismuth trioxide

60%

Titanium dioxide

5%

Hexa methylene tetramin

2%

Bisphenol diglycidylether

1.1.3. Xi măng nội nha với chất căn bản là calcium hydroxide
Loại vật liệu này có hiệu quả khi sử dụng như là một chất bảo vệ tủy, che tủy
và băng thuốc ống tủy. Calcium hydroxide còn được sử dụng để chế tạo xi măng
trám bít. Sealapex (Kerr, USA) và Apexit (Ivoclar Vivadent, Liechtenstein) là hai
sản phẩm được dùng phổ biến nhất của nhóm xi măng này [44].
Xi măng nội nha calcium hydroxide được trình bày dưới dạng bột và chất
lỏng hoặc hai ống bột nhão. Đây là loại xi măng có tính tương hợp sinh học tốt,
gồm hai phần bằng nhau của axit carboxylic chứa nhựa poly methylene methyl
salicylat và oxyt kẽm cùng một vài chất hỗ trợ. Các XMNN với chất căn bản là
calcium hydroxide phóng thích ion Ca2+ và OH- đảm bảo độ kiềm của các mô kế
cận [3]. Điều này về mặt lâm sàng có tác dụng điều trị giúp tạo sự đóng kín chóp

răng bằng một mơ cứng tân tạo và tạo được một tác động kháng khuẩn đối với
những vi khuẩn chưa loại bỏ được trong quá trình sửa soạn. Tuy nhiên, sự phóng
thích này làm mất thể tích của vật liệu, tạo những khoảng trống trong khối vật liệu
và ảnh hưởng đến khả năng trám bít ống tủy. Trên người, tỉ lệ thành cơng là 80%
đối với những răng có tổn thương ở chóp (Caliskan và cộng sự, 1996) nhưng không
khác lắm so với xi măng oxyt kẽm – eugenol (Waltimo và cộng sự, 2001) [4].


7

1.1.4. Xi măng nội nha với chất căn bản là glass ionomer
Thành phần của vật liệu này gồm bột (chứa calcium- alumino-fluoro silicate
kích thước từ 1µm - 25µm và chất cản quang), và phần lỏng (chứa axit
polycarboxylic). Xi măng này có ưu điểm là gắn kết tức thời vào lớp ngà răng và
phóng thích fluor, nhưng có bất lợi là nhạy cảm với độ ẩm và chậm đạt được những
tính chất cơ học. Sự gắn kết xi măng với ngà răng tạo cho XMNN với chất căn bản
là glass ionomer có lợi thế chắc chắn hơn các loại xi măng khác. Việc phóng thích
fluor làm cho xi măng có tính sát khuẩn tức thì (Coogan và cộng sự, 1999), và tính
chất này giảm dần theo thời gian. Tác dụng này được ghi nhận trong 48 giờ
(Shallhav và cộng sự, 1997) [4]. Các nhãn hiệu thương mại gồm Ketac Endo, Zut,
KT308, GIC... Các nghiên cứu gần đây cho thấy GIC có hiện tượng vi kẽ và bị hòa
tan nhiều hơn các loại xi măng khác [30], [44].
1.1.5. Xi măng nội nha với chất căn bản là silicon
Lee Endo-Fill, Lee Pharmaceuticals, El Monte, CA, USA là công ty đầu tiên
thử nghiệm việc sử dụng các đặc tính khơng thấm nước, ổn định về hóa học và dán
dính của vật liệu silicon trong nội nha [44].
RoekoSeal (Roeko, Langenau, Germany) là một XMNN có chất căn bản là
polydimethylsiloxane. Các nghiên cứu in vitro so sánh RoekoSeal với xi măng ZOE
(Sealapex) và XMNN có chất căn bản là Ca(OH)2 (Kerr’s Pulp Canal Sealer) cho
thấy xi măng này ít độc hơn và có tính hịa tan tương đương. Nghiên cứu của

Cobankara và cộng sự (2004) cho thấy xi măng này chống lại hiện tượng vi kẽ vùng
cổ răng và chóp răng khơng có sự khác biệt có ý nghĩa [16]. Hiện nay, Roeko giới
thiệu một phiên bản khác có tên là GuttaFlow. Xi măng được trộn với bột guttapercha để tạo thành một hệ thống trám bít được gọi là “2 trong 1”. Tuy nhiên, cần
có thêm nhiều nghiên cứu về sản phẩm này để khẳng định hiệu quả trám bít ống tủy
[30].


8

1.1.6. Xi măng nội nha với chất căn bản là calcium silicate
Vật liệu có thành phần chính là calcium silicate điển hình là MTA. Đây là
hỗn hợp của xi măng Porland và bismuth, có thành phần bột bao gồm dicalcium
silicate, tricalcium silicate, tricalcium aluminate và nước để trộn là nước cất. MTA
đã được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực chữa răng nội nha như trám bít ống tủy,
điều trị thủng sàn, che tủy, trám ngược…do nó có khả năng kích thích tái khống
hóa và bám dính cao vào mơ răng.
Năm 2015, một loại xi măng TBOT mới có chất căn bản là tricalcium silicate
đã được giới thiệu. Xi măng CS mới (Septodont, Saint-Maur-des-Fossés, Pháp)
chứa tricalcium silicate và zirconium oxide. Đây là một vật liệu cải tiến, sử dụng
công nghệ silicate hoạt tính sinh học để tạo ra một vật liệu có thành phần calcium
silicate ngun chất mà khơng chứa thành phần nhựa và monomer nên xi măng
không bị co trong q trình đơng, cho phép dán dính chặt vào thành ống tủy chân
răng. Đồng thời, loại xi măng này cũng khơng chứa eugenol, vì thế thích hợp với tất
cả các hệ thống dán, không gây nhuộm màu răng và ít nhạy cảm sau điều trị. Chất
cản quang zirconium oxide có ưu điểm hơn so với bismuth oxide (trong MTA) là
khơng ảnh hưởng đến khả năng hydrate hóa của xi măng, cải thiện tính đồng nhất
của hỗn hợp xi măng, tăng đặc tính cơ học của vật liệu và là một chất tương hợp
sinh học tốt. Thành phần chất lỏng của xi măng CS mới chủ yếu là nước, calcium
chloride (chất gia tốc) và tác nhân giảm nước. Xi măng CS mới có thời gian làm
việc khoảng 15 phút và thời gian đơng đặc ít hơn 4 giờ. Ngồi ra, vật liệu này có độ

pH cao, có thể lên đến hơn 11, tạo ra môi trường kiềm thuận lợi cho sự lành thương
[11].
Bảng 1.2. Thành phần của xi măng CS mới
Bột
Tricalcium silicate
Zirconium oxyde
Povidone

Chất lỏng
Calcium chloride
Tác nhân giảm nước


9

Các nghiên cứu đánh giá tính chất sinh học của xi măng CS mới của các tác
giả Poggio C và cs (2017), Eldeniz AU và cs (2016), Camps J và cs (2015) đã ghi
nhận rằng đây là loại xi măng có hoạt tính sinh học tốt. Nó khơng chỉ tương hợp in
vitro với tế bào dây chằng nha chu và ngun bào sợi nướu người mà nó cịn được
chứng minh là kích thích tiết các yếu tố tăng trưởng tạo mạch và tạo xương là
những điều kiện quan trọng cho sự tái tạo mô in vivo.
1.2. Các phƣơng pháp đánh giá vi kẽ vùng chóp răng
1.2.1. Phương pháp thâm nhập phẩm nhuộm
Phương pháp này được Grossman báo cáo lần đầu tiên vào năm 1939, sử
dụng nhiều loại phẩm nhuộm khác nhau để ngâm răng như: eosin, xanh methylene,
mực tàu, xanh ánh procion, và các loại thuốc nhuộm khác… Đây là phương pháp dễ
thực hiện nên được sử dụng rộng rãi nhất [1], [3]. Hiện tượng mao dẫn đóng vai trị
quan trọng trong phương pháp đánh giá vi kẽ vùng chóp thụ động này, chóp răng
được ngâm chìm vào phẩm nhuộm và phẩm nhuộm sẽ thâm nhập vào bất kỳ khoảng
hở nào giữa thành ống tủy và vật liệu trám bít [8].

Kích thước hạt phân tử, độ pH và khả năng phản ứng hóa học của phẩm
nhuộm có thể ảnh hưởng đến mức độ thâm nhập [5]. Nhiều nghiên cứu đã sử dụng
xanh methylene làm phẩm nhuộm [1], [2], [10] bởi vì giá thành rẻ, dễ thao tác, có
khả năng nhuộm màu cao và trọng lượng phân tử thấp hơn cả độc tố của vi khuẩn.
Xanh methylene được xem là có độ vi thấm tương đương với axit butyric, một sản
phẩm chuyển hóa của vi khuẩn có độ thâm nhập cao hơn mực tàu. Phẩm nhuộm này
có bất lợi là bị hịa tan trong q trình khử khống và làm trong suốt răng, hơn nữa,
trong một vài trường hợp khó có thể quan sát điểm thâm nhập sâu nhất [49]. Barthel
và cs cho rằng kích thước phân tử của phẩm nhuộm có thể khơng phù hợp với kích
thước của vi kẽ [8].
Mực tàu có đường kính phân tử nhỏ hơn hoặc bằng 3µm, cũng được sử dụng
trong nhiều nghiên cứu, khi không chắc chắn rằng vi khuẩn thâm nhập vào khoảng


10

hở trong ống tủy nơi mà phẩm nhuộm không thể thâm nhập được. Do đó, phẩm
nhuộm này có thể khơng thay thế phân tử của dịch từ mô nha chu, dẫn đến kết quả
dương tính giả trong q trình đánh giá vi kẽ [56]. Sau thời gian ngâm phẩm
nhuộm, răng sẽ được cắt theo chiều dọc, chiều ngang hoặc làm trong suốt và ghi
nhận lại mức độ thâm nhập của phẩm nhuộm.
Phương pháp cắt dọc răng có thể quan sát vật liệu trám bít được bộc lộ và bất
kỳ sự thâm nhập phẩm nhuộm vào vật liệu và tại diện tiếp xúc giữa thành ống tủy
và vật liệu [6]. Ahlberg và cs đề nghị một biến thể khác của phương pháp này là
chân răng được mài mịn đến khi nhìn thấy vi kẽ qua một lớp ngà mỏng, do đó giảm
nguy cơ phẩm nhuộm bị hòa tan trong khi cắt răng [6]. Phương pháp này cũng cung
cấp thông tin về vi kẽ đáng tin cậy hơn phương pháp cắt ngang hay làm trong răng.
Nhược điểm của phương pháp cắt dọc răng là chọn ngẫu nhiên mặt phẳng cắt và
đường cắt có thể khơng đi qua vị trí mà phẩm nhuộm thâm nhập sâu nhất, vì thế dẫn
đến sai lệch kết quả [10]. Theo Ahlberg và cs và Martin và cs, cắt ngang chân răng

sẽ làm mất một phần mô ngà và phẩm nhuộm [6], [40]. Vì vậy, phương pháp này
chỉ cho phép xác định có hay khơng có sự thâm nhập phẩm nhuộm trên mỗi lát cắt.
Phương pháp làm trong suốt răng được Okumura giới thiệu năm 1927. Răng
được làm trong suốt sau q trình khử khống, khử nước và ngâm trong dung dịch
methyl salicylate. Răng sau khi được làm trong suốt sẽ cung cấp hình ảnh ba chiều
về giải phẫu hệ thống ống tủy mà không làm mất mô răng, cho phép quan sát vùng
có vi kẽ dễ dàng hơn. Phương pháp này đơn giản, nhanh, được thực hiện với các
chất liệu có độc tố thấp và khơng địi hỏi thiết bị phức tạp [49]. Martin và cs đưa ra
kết luận rằng phương pháp làm trong suốt răng dễ quan sát hệ thống ống tủy bên và
ống tủy phụ hơn, phản ánh rỏ ràng mối quan hệ giữa vật liệu trám bít và chóp chân
răng [40]. Đồng thời, phương pháp này chính xác hơn phương pháp cắt ngang trong
việc phát hiện vi kẽ chóp răng cũng như cho phép quan sát vi kẽ đến 1/10 mm,
trong khi phương pháp cắt ngang chỉ phát hiện có hay khơng có vi kẽ xảy ra trên
mỗi lát cắt. Tuy nhiên, Malvar và cs cho rằng khi áp dụng phương pháp này cho


11

một vài mẫu răng khơng được khống hóa đầy đủ sẽ làm giảm độ trong suốt của
mẫu sau cùng [56]. Youngson và cs cho rằng phương pháp này không xác định
được mức độ thâm nhập của phẩm nhuộm [56].
1.2.2. Phương pháp dịch chuyển chất lỏng
Đây là phương pháp đo lường khả năng trám bít của vật liệu bằng sự di
chuyển của bọt khí trong ống mao dẫn, do nhóm của Pashley phát triển năm 1987
và được Wu chỉnh sửa năm 1993 để sử dụng cho ống tủy chân răng. Hệ thống bao
gồm một ống tủy đã được trám bít và đầu phía thân răng được nối với một ống chứa
đầy nước dưới áp suất khí quyển, và đầu phía chóp gắn với một ống mao dẫn thủy
tinh 20µl dài 170mm, có đường kính đồng nhất và chứa đầy nước. Sau cùng, đặt
một áp lực 0,1atm qua phần thân răng tạo ra lực làm cho nước đi vào khoảng trống
dọc theo ống tủy chân răng. Kết quả được biểu diễn bằng µl/phút [61].

Phương pháp này có nhiều ưu điểm hơn so với phương pháp thâm nhập
phẩm nhuộm vì khơng làm phá hủy mẫu, do đó cho phép đánh giá việc trám bít cả
phần chóp và thân răng sau khoảng thời gian dài. Hơn nữa, các kết quả được ghi
nhận tự động, vì thế thực hiện được các đo lường định lượng và tránh sai số; kết quả
chính xác, các mức độ nhỏ cũng được ghi nhận [42], [46]. Phương pháp này phát
hiện các khoảng trống dọc theo ống tủy nhạy hơn phương pháp thâm nhập phẩm
nhuộm [56]. Độ nhạy của hệ thống này được xác định bằng sự thay đổi áp lực hay
đường kính của ống mao dẫn. Tuy nhiên, theo Pommel, Camps, vật liệu và phương
pháp được sử dụng trong phương pháp này khơng được chuẩn hóa, ví áp lực được
sử dụng nằm trong khoảng 10 đến 20 psi, và thời gian đo lường từ 1 phút đến 3 giờ
[46]. Điều này làm thay đổi kết quả, bởi vì mức độ thấm nhập thấp hơn tương quan
với thời gian ghi nhận lâu hơn, và kết quả ghi nhận sẽ cao hơn khi sử dụng áp lực
cao hơn. Vì vậy, nhiều các thơng số khác nhau có thể làm thay đổi giá trị của thử
nghiệm như đường kính ống mao dẫn, thời gian đo lường, áp lực đặt vào, phải được
đề cập trong phần vật liệu và phương pháp nghiên cứu [46].


12

1.2.3. Phương pháp loại bỏ phẩm nhuộm
Trong phương pháp loại bỏ phẩm nhuộm hay hòa tan phẩm nhuộm, răng
được hòa tan trong axit để lấy sạch phẩm nhuộm ở diện tiếp xúc và mật độ quang
học của dung dịch được đo bằng máy đo quang phổ. Kỹ thuật này nhanh và có thể
thực hiện với thiết bị có sẵn ở hầu hết các trường đại học [10].
Theo Camps và Pashley, khơng có mối tương quan giữa phương pháp thâm
nhập phẩm nhuộm và phương pháp dịch chuyển chất lỏng và phương pháp loại bỏ
phẩm nhuộm trong việc phát hiện vi kẽ [10]. Phương pháp dịch chuyển chất lỏng
cho kết quả tương đương với phương pháp loại bỏ phẩm nhuộm vì cả hai cách này
đều quan tâm đến trạng thái có khoảng trống giữa vật liệu trám bít và chân răng. Cả
hai phương pháp này đều dựa trên sự đo lường định lượng của dung dịch chảy qua

các mặt tiếp xúc. Phương pháp loại bỏ phẩm nhuộm cho thấy có thuận lợi hơn
phương pháp dịch chuyển chất lỏng, bởi vì mức độ thâm nhập có khuynh hướng
giảm theo thời gian, như nước thấm không đều theo mọi hướng đến khi đạt được
trạng thái cân bằng [56].
1.2.4. Phương pháp thấm nhập vi khuẩn và độc tố sinh ra từ vi khuẩn
Theo Timpawat và cs, việc sử dụng vi khuẩn để nghiên cứu vi kẽ (chủ yếu ở
vùng thân răng) phù hợp hơn về mặt lâm sàng và sinh học so với phương pháp thâm
nhập phẩm nhuộm [53]. Nhiều dòng vi khuẩn được sử dụng để nghiên cứu vi kẽ và
có nhiều kết quả mâu thuẫn, vì các phương pháp này phụ thuộc vào loại vi khuẩn sử
dụng. Ngồi ra, nếu XMNN có hoạt tính kháng khuẩn thì khơng thể thực hiện được
phương pháp này [49]. Hệ thống này bao gồm hai phần phía đầu chóp răng và phía
thân răng của mỗi mẫu được chia ra rõ rệt. Tính đục của dịch ở phần chóp răng là
dấu hiệu đầu tiên giúp xác định nhiễm khuẩn [56].
Những nghiên cứu vi khuẩn là nghiên cứu định tính hơn là định lượng. Nếu
chỉ có một vi khuẩn đi qua ống tủy chân răng sau khi được trám bít, nó có thể tăng
sinh và làm đục dung dịch. Khả năng vi khuẩn cịn sống thay đổi hình dạng và kích


13

thước, và di chuyển chủ động, tăng sinh trong ống tủy chân răng đóng vai trị quan
trọng, cũng như khơng có bất kỳ dung dịch phẩm nhuộm nào có thể thay thế [56].
1.3. Các nghiên cứu đánh giá vi kẽ vùng chóp răng
Nghiên cứu của Saeedeh Sadr và cs (2015), thực hiện trên 70 răng một chân
đánh giá vi kẽ khi trám bít ống tủy bằng kỹ thuật một cơn với các loại XMNN khác
nhau: AH26, GIC, ZOE. Các răng được chia thành 3 nhóm thử nghiệm (mỗi nhóm
20 răng) và 2 nhóm chứng âm và chứng dương. Vi kẽ được đánh giá bằng phương
pháp thâm nhập phẩm nhuộm. Kết quả cho thấy AH26 có khả năng trám bít tốt hơn
cả vì số lượng vi kẽ ở nhóm này thấp nhất (p<0,05). Tuy nhiên sự khác biệt khơng
có ý nghĩa thống kê ở nhóm trám bằng GIC và ZOE [47].

Raqueli Viapiana và cs (2013), khảo sát giao diện giữa ngà răng và 5 loại xi
măng trám bít ống tủy: xi măng AH Plus, xi măng Portland chứa micro-zirconium
oxide, nano-zirconium oxide, micro-niobium oxide, nano-niobium oxide. Giao diện
giữa ngà răng và các loại XMNN được đánh giá bằng chất đánh dấu huỳnh quang,
đặc tính hóa học của giao diện ngà – xi măng được khảo sát bằng kính hiển vi điện
tử quét. Kết quả cho thấy khơng có sự xâm nhập của chất đánh dấu huỳnh quang
vào giao diện giữa ngà răng và các loại xi măng thực nghiệm. Các loại xi măng trám
bít ống tủy có khả năng xâm nhập vào ống ngà cao hơn ở phần thân và 1/3 giữa
chân răng [57].
S. Sevimay và A. Kalayci (2005), đánh giá khả năng trám bít ống tủy và đáp
ứng với ngà răng của hai loại XMNN dựa trên nền nhựa. Nghiên cứu được thực
hiện trên 55 răng cửa hàm trên được chia là hai nhóm (mỗi nhóm 25 răng) và 5 răng
cịn lại lại làm nhóm chứng. Các răng được sửa soạn và trám bít với cơn guttapercha và xi măng AH Plus hoặc EndoRez. Trong mỗi nhóm thử nghiệm, 20 răng
được dùng để đánh giá vi kẽ bằng phương pháp thâm nhập phẩm nhuộm xanh
methylene 2% trong 7 ngày; 5 răng cịn lại được quan sát dưới kính hiển vi điện tử
quét. Kết quả cho thấy giá trị trung bình của vi kẽ khác biệt có ý nghĩa thống kê


14

giữa 2 nhóm thử nghiệm (p<0,01). Khi quan sát trên kính hiển vi điện tử quét, cả
hai loại xi măng đều có đáp ứng với ngà răng ở phía thân và 1/3 giữa chân răng tốt
hơn 1/3 chóp. Ở 1/3 chóp, AH Plus đáp ứng với ngà tốt hơn EndoRez. Tóm lại, xi
măng AH Plus có khả năng trám bít ống tủy và đáp ứng với ngà răng tốt hơn
EndoRez [50].
Viapiana R và cs (2015), đánh giá khả năng trám bít của xi măng CS và AH
Plus. Nghiên cứu thực hiện trên 20 răng cối nhỏ hàm dưới với ba phương pháp:
chụp cắt lớp, đánh dấu huỳnh quang và dịch chuyển chất lỏng. Kết quả cho thấy
mức độ vi kẽ của nhóm răng được trám bít bằng xi măng CS và AH Plus khác biệt
khơng có ý nghĩa thống kê khi đánh giá bằng phương pháp đánh dấu huỳnh quang

và dịch chuyển chất lỏng. Khi sử dụng phương pháp chụp cắt lớp, mức độ vi kẽ của
nhóm răng trám bít bằng xi măng CS cao hơn có ý nghĩa so với nhóm răng được
trám bít bằng xi măng AH Plus. Tác giả cịn ghi nhận các phương pháp có sự tương
quan yếu [58].


15

Chƣơng 2
VẬT LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
-

Nghiên cứu được thực hiện trên 50 răng cối nhỏ hàm dưới của người đã
nhổ. Tiêu chuẩn chọn mẫu:
 Răng cịn thân răng ngun vẹn,
 Chân răng đã đóng chóp,
 Răng có 1 ống tủy.

Tiêu chuẩn loại trừ:
 Răng đã điều trị tủy,
 Ống tủy bị vơi hóa.
-

Xi măng nội nha CS.

-

Xi măng nội nha có thành phần chính là polymer.


-

Nước muối sinh lý (Mekophar,Việt Nam).

-

Dung dịch SBF: là dung dịch giả dịch thể người, có thành phần các ion
tương tự như máu trong cơ thể con người (được pha chế tại phịng thí
nghiệm sinh học phân tử, ĐH Y Dược TP HCM). Thành phần ion trong
dung dịch được thể hiện như sau [37]:
Bảng 2.3. Nồng độ các ion trong dung dịch SBF (mM/l)

Ion

Na+

K+

Ca+

Mg+

Cl-

HCO3-

HPO42-

SBF


142.0

5.0

2.5

1.5

148.8

4.2

1.0

Plasma

142.0

5.0

2.5

1.5

103.0

27.0

1.0



×