Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Bảo hiểm liên kết đầu tư trên thị trường bảo hiểm nhân thọ việt nam (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.79 KB, 7 trang )

Trong bối cảnh kinh tế suy thoái như hiện nay, các cá nhân phải cân nhắc nhiều
hơn đến vấn đề chi tiêu tài chính. Các cá nhân sẽ xem xét giữa việc chọn kênh bảo hiểm
nhân thọ hay gửi tiền vào ngân hàng, đầu tư chứng khoán…; hoặc nếu chọn bảo hiểm
nhân thọ sẽ là sản phẩm như thế nào. Trên thực tế, khi các kênh đầu tư khác như chứng
khoán, bất động sản… khá rủi ro, các sản phẩm bảo hiểm liên kết đầu tư lại đang rất được
ưa chuộng. Số lượng hợp đồng, số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm khai thác mới của nhóm
sản phẩm bảo hiểm liên kết đầu tư trên thị trường Việt Nam đều đạt được sự tăng trưởng
trong nhiều năm gần đây. Trong giai đoạn 2010 – 2014, tốc độ tăng trưởng bình quân về
số tiền bảo hiểm khai thác mới và phí bảo hiểm khai thác mới của bảo hiểm liên kết đầu
tư lần lượt đạt 30.08% và 22.57%. Vừa được bảo hiểm vừa có thể thực hiện mục tiêu đầu
tư, người tham gia bảo hiểm liên kết đầu tư sẽ được chủ động lựa chọn các quỹ đầu tư và
phân bổ phần phí bảo hiểm dành cho đầu tư tương ứng với mức độ chấp nhận rủi ro của
mình. Với một số phí bảo hiểm nhỏ, được hưởng dịch vụ đầu tư chuyên nghiệp của công
ty quản lý quỹ, bên mua bảo hiểm có thể đầu tư vào nhiều danh mục đầu tư khác nhau,
qua đó thực hiện phân tán rủi ro và tối đa hóa lợi nhuận. Điều này không thể thực hiện
được nếu bên mua bảo hiểm tự mình thực hiện đầu tư. Bên cạnh đó, theo dịng chảy của
thị trường, một số sản phẩm bảo hiểm nhân thọ truyền thống nghiêng về tính chất tiết
kiệm sẽ dần nhường chỗ cho các sản phẩm mang yếu tố đầu tư, có tính linh hoạt cao,
trong đó bảo hiểm liên kết đầu tư được xem như một loại hình bảo hiểm hồn hảo đối với
các tiêu chí này, khi một mặt có thể đáp ứng nhu cầu bảo vệ, một mặt có thể đáp ứng
được nhu cầu “kênh đầu tư” cho các khách hàng.
Mặc dù kể từ thời điểm chính thức đi vào hoạt động đến nay chưa lâu, nhưng bảo
hiểm liên kết đầu tư ln khẳng định vị trí quan trọng đối với sự phát triển của thị trường
bảo hiểm nhân thọ Việt Nam và cũng đã có những nghiên cứu (bao gồm báo cáo, đề tài,
luận văn thạc sỹ) đề cập tới bảo hiểm liên kết đầu tư. Tuy nhiên, các nghiên cứu này
thường chỉ đề cập đến một khía cạnh nhỏ nào đó, ví dụ như “Thời của bảo hiểm liên kết
đầu tư” (Minh Đức – Thời báo Kinh tế Việt Nam) [31] mới chỉ giới thiệu về cơ sở cho
việc triển khai và những tác động mà bảo hiểm liên kết đầu tư đem lại cho thị trường ,
“Bảo hiểm nhân thọ “phủ sóng” bảo hiểm liên kết đầu tư” (Ngọc Lan – Báo Đầu tư



Chứng khoán) [33] lại chỉ đề cập đến tiềm năng phát triển của các sản phẩm bảo hiểm
liên kết đầu tư… Đáng chú ý, luận văn thạc sỹ “Giải pháp phát triển sản phẩm bảo hiểm
liên kết đầu tư tại Việt Nam” (Nguyễn Hoàng Yến) [34] đã đề cập đến bảo hiểm liên kết
đầu tư một cách hệ thống, nhưng do thời điểm hoàn thành của luận văn là năm 2008 –
thời gian này Bộ Tài chính vừa cấp phép cho các sản phẩm bảo hiểm liên kết đầu tư chưa
lâu, nên mới chỉ làm rõ các nhân tố cho việc triển khai sản phẩm bảo hiểm, kinh nghiệm
phát triển nhóm sản phẩm này của các nước trên thế giới và những giải pháp để phát triển
sản phẩm, mà chưa đủ căn cứ đánh giá được thực trạng hoạt động, những bước phát triển,
hạn chế của sản phẩm.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Bảo hiểm liên kết đầu
tư trên thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sỹ.
Về phương pháp nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp thơng dụng như:
phân tích, tổng hợp, so sánh, đánh giá lập bảng thống kê… Ngoài ra, luận văn còn đề cập
đến các vấn đề theo quan điểm phát triển, toàn diện, lịch sử và cụ thể nhằm phân tích
thực trạng hoạt động bảo hiểm liên kết đầu tư trên thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt
Nam trong thời gian qua. Về nguồn số liệu, luận văn sử dụng số liệu thứ cấp được thu
thập từ các nguồn Báo cáo Thị trường Bảo hiểm Việt Nam năm 2008, 2009, 2010, 2011,
2012, 2013, 2014 của Nhà xuất bản Tài chính, số liệu của Cục Quản lý và Giám sát Bảo
hiểm – Bộ Tài chính, Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam, các báo cáo ngành, tạp chí,
internet…
Về phần nội dung, kết cấu của luận văn gồm ba chương:
Chương I: Tổng quan về bảo hiểm liên kết đầu tư.
Chương II: Thực trạng triển khai bảo hiểm liên kết đầu tư trên thị trường bảo hiểm
nhân thọ Việt Nam.
Chương III: Giải pháp phát triển bảo hiểm liên kết đầu tư trên thị trường bảo hiểm
nhân thọ Việt Nam.
Trong chương I, luận văn đã hệ thống hóa chi tiết và đầy đủ những vấn đề có tính
chất tổng quan về bảo hiểm liên kết đầu tư. Mở đầu, khái quát chung về bảo hiểm nhân
thọ được đề cập đến, bởi trên tất cả, bảo hiểm liên kết đầu tư là một loại hình bảo hiểm



nhân thọ. Tiếp đó, luận văn trình bày khái niệm và phân tích các đặc điểm của bảo hiểm
liên kết đầu tư, từ đó cho thấy vai trị, những lợi ích của bảo hiểm liên kết đầu tư đối với
người tham gia bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ và xã hội. Bên cạnh đó, phần
tổng quan cũng nêu lên những loại hình bảo hiểm liên kết đầu tư, những đặc điểm của
từng loại hình này, sự khác biệt căn bản giữa bảo hiểm liên kết đầu tư so với các loại hình
bảo hiểm nhân thọ truyền thống. Cuối chương này, các nhân tố ảnh hưởng đến việc triển
khai bảo hiểm liên kết đầu tư được đề cập đến, bao gồm: mục tiêu của doanh nghiệp;
năng lực vốn và năng lực tổ chức hoạt động đầu tư; năng lực thiết kế sản phẩm bảo hiểm
liên kết đầu tư; marketing và mạng lưới kinh doanh; ứng dụng công nghệ thông tin vào
quản lý hoạt động bảo hiểm; môi trường pháp lý; sự phát triển của thị trường tài chính,
đặc biệt là thị trường chứng khoán; điều kiện kinh tế và nhận thức của người dân; sự phát
triển của hội nhập kinh tế quốc tế. Cùng với đó, một số vấn đề như tại sao trong khi một
số doanh nghiệp triển khai được cả bảo hiểm liên kết chung và bảo hiểm liên kết đơn vị,
lại có những doanh nghiệp chỉ triển khai được bảo hiểm liên kết chung hay sự tham gia
của các cơng ty nước ngồi mang lại lợi ích như thế nào đối với việc triển khai bảo hiểm
liên kết đầu tư cũng được tập trung làm rõ.
Trong chương II, thực trạng triển khai bảo hiểm liên kết đầu tư trên thị trường bảo
hiểm nhân thọ Việt Nam được trình bày một cách cụ thể. Đầu tiên, khái quát về thị
trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam đã đề cập đến lịch sử hình thành và những đặc điểm
của thị trường, tạo nên cách nhìn tổng quát trước khi tập trung phân tích về bảo hiểm liên
kết đầu tư. Ngay sau đó, luận văn giới thiệu chi tiết về quá trình triển khai bảo hiểm liên
kết đầu tư, như sự cần thiết phải triển khai, các doanh nghiệp đầu tiên triển khai cùng
những kết quả bước đầu đạt được và khung pháp lý đang được áp dụng cho bảo hiểm liên
kết đầu tư. Đáng chú ý, trên cơ sở phân tích những văn bản pháp lý có liên quan, luận văn
đã tìm hiểu được một số vấn đề, như doanh nghiệp đầu tiên triển khai sản phẩm bảo hiểm
liên kết chung cần sửa đổi những gì cho phù hợp với quy định ban hành sau đó, hay
những điểm khác biệt giữa văn bản hiện hành đang được các doanh nghiệp thực hiện đối
với các sản phẩm bảo hiểm liên kết đơn vị và văn bản cơ quan chức năng ban hành trong
buổi đầu triển khai các sản phẩm này.



Sau khi nghiên cứu về quá trình triển khai bảo hiểm liên kết đầu tư, các nhân tố
ảnh hưởng đến việc triển khai loại hình bảo hiểm này trên thị trường bảo hiểm nhân thọ
Việt Nam tiếp tục được đề cập. Nếu như ở chương I, các nhân tố này được thể hiện và
phân tích dưới giác độ tổng quát, thì trong chương II, chúng gắn liền với thực tế Việt
Nam và những lập luận ở phần này đều đặt trong bối cảnh Việt Nam.
Cuối chương II, kết quả triển khai bảo hiểm liên kết đầu tư trên thị trường bảo
hiểm nhân thọ Việt Nam được trình bày chi tiết và cụ thể, bao gồm các vấn đề sau:
Thứ nhất, về sản phẩm bảo hiểm liên kết đầu tư, tác giả đã thống kê đầy đủ các
doanh nghiệp bảo hiểm đã triển khai, mốc thời gian triển khai, sản phẩm của từng doanh
nghiệp và phân tích những điểm đáng chú ý đối với các sản phẩm bảo hiểm của một số
doanh nghiệp.
Thứ hai, về hợp đồng khai thác mới, luận văn đã chỉ ra những biến động đối với số
lượng hợp đồng bảo hiểm liên kết đầu tư khai thác mới, số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm
liên kết đầu tư khai thác mới dưới góc độ tồn thị trường. Bên cạnh đó, các phân tích về
bảo hiểm liên kết đầu tư ở phần này cũng được đặt trong mối tương quan so sánh với các
loại hình bảo hiểm nhân thọ khác, giữa những doanh nghiệp đã triển khai bảo hiểm liên
kết đầu tư.
Thứ ba, về hợp đồng bị hủy bỏ, tác giả đã đề cập đến một số điểm chính liên quan
đến tình hình hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm liên kết đầu tư, tốc độ tăng số lượng hợp đồng bị
hủy bỏ, tỷ lệ hợp đồng bị hủy bỏ trên tổng số hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực, qua đó cho
thấy những diễn biến và xu hướng trong việc hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm liên kết đầu tư.
Thứ tư, về hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực, luận văn tập trung nghiên cứu về số
lượng hợp đồng bảo hiểm liên kết đầu tư có hiệu lực, số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm
các hợp đồng bảo hiểm liên kết đầu tư có hiệu lực tồn thị trường cùng sự tăng trưởng
của chúng, có liên hệ với các loại hình bảo hiểm khác cũng như so sánh giữa các cơng ty
đã triển khai loại hình bảo hiểm này.
Thứ năm, về chi trả tiền bảo hiểm, tình hình trả tiền bảo hiểm gốc và trả giá trị
hoàn lại đối với bảo hiểm liên kết đầu tư được luận văn khai thác dưới góc độ tồn thị

trường, bên cạnh những phân tích liên quan đến doanh nghiệp và so sánh với các loại


hình bảo hiểm nhân thọ khác.
Sau cùng, chương II đã khép lại với phần đánh giá chung, bao gồm những thành
tựu, hạn chế và nguyên nhân đối với việc triển khai bảo hiểm liên kết đầu tư trên thị
trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam, là tiền đề cho những giải pháp và kiến nghị được
giới thiệu tại chương III.
Trong chương cuối, dựa trên những kết quả thu được đối với việc triển khai bảo
hiểm liên kết đầu tư trong chương II và trên cơ sở phân tích định hướng phát triển thị
trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam gắn với bảo hiểm liên kết đầu tư, tác giả đã đưa ra
các giải pháp phát triển loại hình bảo hiểm này tại Việt Nam, bao gồm:
Thứ nhất, hoàn thiện hành lang pháp lý liên quan đến hoạt động kinh doanh bảo
hiểm nói chung, bảo hiểm liên kết đầu tư nói riêng.
Thứ hai, nâng cao năng lực tài chính của các doanh nghiệp triển khai loại hình bảo
hiểm này.
Thứ ba, phát triển các sản phẩm bảo hiểm liên kết đầu tư của các doanh nghiệp
bảo hiểm phù hợp với điều kiện thực tế của doanh nghiệp và nhu cầu của khách hàng.
Thứ tư, nâng cao năng lực tổ chức hoạt động đầu tư và đầu tư có hiệu quả tại các
doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ.
Thứ năm, nâng cao năng lực quản trị và trình độ chun mơn của cán bộ nhân viên
bảo hiểm.
Thứ sáu, đào tạo và bồi dưỡng lực lượng đại lý phù hợp, đáp ứng nhu cầu loại
hình bảo hiểm này.
Thứ bảy, tăng cường hoạt động của kênh bancassurance, tận dụng lợi thế nhân lực
và khách hàng của ngân hàng.
Ngoài ra, một số kiến nghị đối với Bộ Tài chính, đối với Hiệp hội Bảo hiểm và các
cơ quan, ban ngành khác cũng được tác giả đề xuất, với niềm tin rằng trong thời gian tới,
sản phẩm sẽ ngày càng hồn thiện, đem lại lợi ích cho người tham gia bảo hiểm, các
doanh nghiệp bảo hiểm và xã hội.

Bên cạnh những đóng góp của luận văn đã được trình bày sơ lược ở trên, cịn tồn
tại một số điểm hạn chế của luận văn (liên quan đến quá trình phân tích) như: khơng có


đầy đủ số liệu chi tiết về số tiền bảo hiểm khai thác mới cho bảo hiểm liên kết chung, bảo
hiểm liên kết đơn vị…; trong quá trình thu thập dữ liệu, chỉ đề cập đến tiền chi trả bảo
hiểm gốc và trả giá trị hồn lại của nhóm sản phẩm bảo hiểm, các khoản chi khác khơng
được tính đến (do khơng có số liệu thống kê của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ về chi
dự phòng nghiệp vụ, chi hoa hồng bảo hiểm).




×