Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Viet Bac Binh Giang van 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.08 KB, 6 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Bình giảng 20 dịng thơ mở đầu bài thơ Việt Bắc để thấy</b>


<b>được thơ TH đậm đà tính dân tộc:</b>



<i> </i>


<b> </b>"Việt Bắc" được coi là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp,


nhưng trước hết là một trong những đỉnh cao của thơ Tố Hữu. Bởi nó khơng
chỉ thể hiện những tình cảm lớn lao của nhà thơ đối với kháng chiến, cách
mạng mà nó cịn kết tinh trong đó những đặc sắc trong thế giới nghệ thuật
của Tố Hữu. Đó là những đặc trưng về chất trữ tình chính trị của thơ THữu,
là đặc trưng về tính dân tộc, về màu sắc dân gian trong ngôn ngữ thơ của Tố
Hữu. Vì thế bài thơ vừa đem đến cho người đọc những nhận thức sâu sắc về
niềm tự hào đối với cuộc khchiến thần thánh của chúng ta, lại vừa đem đến
cho người đọc những rung cảm thẩm mỹ hết sức mạnh mẽ. Có thể thấy
những đặc sắc này ngay từ những dòng thơ mở đầu của "Việt Bắc".


"<i>Mình về mình có nhớ ta</i>
<i>...</i>


<i>Tân Trào, Hồng Thái, mái đình,cây đa</i>"


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Với ý tưởng trữ tình hố sự kiện chtrị cũng như đsống chtrị của đất nước,
viết "Việt Bắc", THữu đã sáng tạo nên một cấu tứ rất độc đáo, cấu tứ từ khúc
hát đối đáp trong cuộc chia tay giữa người ở và người về xuôi để từ những
khúc hát đối đáp ấy khơi gợi những kniệm về những ngày kháng chiến gian
khổ mà vẻ vang, rồi từ những kniệm kia mà dựng lại quá trình trưởng thành
của cuộc kháng chiến, dựng lên hình ảnh của nhân dân, của những người
chiến sĩ, hình ảnh của Bác, của Đảng. Vì thế ngay từ những câu thơ mở đầu
ta đã thấy cuộc trị chuyện tâm tình, những câu hát đối đáp giữa "mình" và
"ta" vơ cùng tha thiết, mặn nồng. THữu đã sử dụng những cặp từ đối đáp rất


quen thuộc trong ca dao, dân ca để cuộc chia tay trở nên đằm thắm như của
đôi lứa yêu nhau. Những chữ "mình", "ta" từ câu thơ mở đầu cho tới những
dịng thơ cuối cùng ln ln khơi gợi những tình cảm mặn nồng, không bao
giờ phai nhạt giữa V Bắc và cách mạng, kháng chiến.


Trong cuộc tiễn đưa đầy lưu luyến, bịn rịn của VBắc đối với người về
xuôi, khúc hát chia tay đã được bắt đầu cất lên từ chính lịng người ở lại. Tố
Hữu như muốn nói lịng người VBắc thuỷ chung với cách mạng biết nhường
nào. Ngay từ câu thơ mở đầu, trong 6 tiếng đã có tới 2 tiếng "mình" thân
thương.. Sự trở đi trở lại tiếng gọi đối với "mình" như để nói lịng người
VBắc khơng ngi nhớ người về xi, nhưng lại cũng như xoáy sâu vào ký
ức của người về xi những kniệm chan chứa nghĩa tình. Cũng ngay từ câu
thơ mở đầu, những chữ "mình", "ta" đã như quấn qt lấy nhau như sự gắn
bó khơng muốn chia xa giữa người ở và người về. Âm điệu của câu thơ chủ
yếu được tạo bởi thanh bằng: "<i>Mình về mình có nhớ ta</i>", với một chữ "ta" ở
cuối làm cho tcảm nhớ thương vừa lắng vào lòng người trong cuộc chia tay
lại vừa lan xa mênh mang.


Kết cấu của 2 câu thơ mở đầu là kết cấu của một câu hỏi tu từ, câu hỏi
khơi gợi những kniệm thiết tha mặn nồng, câu hỏi bao trùm cả không gian
của 15 năm ấy. Câu hỏi thường có tác dụng khơi sâu vào lý trí của người
nghe nhưng ở đây câu hỏi lại khơi gợi những kniệm đầy xúc động của 15
năm cách mạng đã gắn bó với Việt Bắc để làm nên một VNam dchủ c hồ,
bởi THữu đã sử dụng một thứ ngơn ngữ chan chứa cảm xúc. Những chữ
"mười lăm năm ấy" gợi ta nhớ tới "cái thuở ban đầu" của tình yêu đã từng
được nói tới trong câu thơ của Lưu Trọng Lư:


"<i>Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy - Nghìn năm hồ dễ đã ai quên</i>"


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

những tình cảm "<i>nghìn năm hồ dễ đã ai quên</i>", câu thơ còn được tiếp tục bởi


những chữ "<i>thiết tha mặn nồng</i>". Một câu thơ viết về 15 năm của cmạng, của
khchiến mà nồng nàn, mà tha thiết và trữ tình biết bao.


Vẫn là một câu hỏi mà người ở lại hướng tới người về xuôi, vẫn là một
cách xưng hơ hết sức tình tứ "mình" với "ta", nhưng ở 2 dòng thơ tiếp theo
lại là câu hỏi bao trùm cả không gian, không gian của cuộc chia tay, không
gian của những kniệm qua suốt 15 năm ấy, không gian của cả đất nước, bao
trùm cả miền ngược lẫn miền xuôi, không gian của cây với núi, của sông với
nguồn. Một câu hỏi làm bâng khuâng cả núi rừng sông núi, cả đất trời trong
khung cảnh chia tay. Dường như ở đâu trong cái thời điểm ấy cũng có sự
hồ hợp giữa niềm vui và nỗi nhớ, vì sự chia tay giữa "mình" với "ta" là một
sự kiện lớn lao trong đời sống của đất nước.


Cái đặc sắc của câu thơ không chỉ thể hiện qua kết cấu của câu hỏi, qua
từ ngữ xưng hơ tình tứ mà cịn qua những hình ảnh như được viết ra từ thể
hứng thể phú, thể tỉ trong ca dao. Đọc câu thơ


"<i>Mình về mình có nhớ ta- Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng - Mình về</i>


<i>mình có nhớ khơng - Nhìn cây nhớ núi, nhìn sơng nhớ nguồn</i>"


Ta ngỡ như câu ca dao:


"<i>Qua đình ngả nón trơng đình - Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu</i>


<i>- Qua cầu ngả nón trơng cầu- Cầu bao nhiêu nhịp dạ sầu bấy nhiêu</i>"


Thơ Tố Hữu viết về những vấn đề chtrị mà vẫn thấm cái hồn của ca dao,
dân ca. 4 câu thơ như bài ca dao vậy, chất trữ tình gắn liền với những băn
khoăn, trăn trở của người ở lại, của VBắc vô cùng thuỷ chung với cmạng.


THữu đã chọn được cách nói để khơi nguồn cho cxúc xuyên suốt "VBắc"
hết sức đặc sắc. Mạch thơ trong những câu mở đầu này cứ thế mà tuôn chảy
dào dạt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

"<i>Tiếng ai tha thiết bên cồn</i>"


Chỉ một chữ "ai" thôi đủ làm say đắm lịng người. Chữ "ai" đâu phải để
hỏi vì muốn biết ai; chữ "ai" đâu cũng còn là đại từ phiếm chỉ để chỉ chung,
chỉ một đối tượng không xác định bởi ở đây cả "ta" lẫn "mình" đang lên
tiếng hát cho cuộc chia tay đầy lưu luyến này. Chữ "ai" chỉ là một cách nói
để làm tăng thêm tcảm u thương, để câu nói trở nên tình tứ mà thôi. Người
về xuôi trong nỗi niềm xúc động như mở rộng tâm hồn, mở rộng nỗi lịng
của mình để đón nhận cái thiết tha của những tình cảm thuỷ chung kia, để
rồi bày tỏ tcảm của mình. Đó là trạng thái "<i>bâng khuâng trong dạ, bồn chồn</i>


<i>bước đi</i>". Những chữ "<i>bâng khuâng</i>", "<i>bồn chồn</i>" diễn tả rất chính xác trạng


thái tcảm của người về xi. Bâng khng chính là nỗi niềm thương nhớ đối
vơí cảnh, đối với người, đối với cuộc sống đã trở thành kỷ niệm của những
ngày kháng chiến, những kniệm còn vương vấn, còn dâng đầy trong tâm trí
người về xi. Bước chân về xi mà lòng dường như vẫn còn vấn vương
với VBắc. Còn "bồn chồn" là một từ đã tâm trạng hóa bước đi của người về
xuôi, những bước đi không nỡ rời mảnh đất yêu thương qua 15 năm ấy. Mỗi
bước đi mỗi bước nhớ nhung, mỗi bước đi mỗi bước không yên bởi nỗi niềm
thương nhớ ấy.


Với câu thơ thứ 3 ở khổ thơ này, THữu đã bất ngờ làm hiện ra ý nghĩa
lsử của cuộc chia tay. Bởi với những dòng thơ mở đâù trước đó, tiếng hát
đối đáp như chỉ của "mình" với "ta", của đôi lứa yêu nhau, đột nhiên cuộc
chia tay ấy trở thành cuộc chia tay lớn của cả VBắc đvới người khchiến từ


một hình ảnh hốn dụ:


"<i>áo chàm đưa buổi phân ly</i>"


Cả VBắc như "ngẩn ngơ" trong cuộc chia tay lsử ấy. Hình ảnh "áo chàm"
dùng để chỉ hình ảnh của VBắc trong thủ pháp hoán dụ. Cái "ngẩn ngơ" của
VBắc hiện ra ở những chữ "đư<i>a buổi phân ly</i>". Trong khi đó, câu thơ


"<i>Cầm tay nhau biết nói gì hơm nay</i>"


Không chỉ thể hiện cái lặng đi trong giây phút xđộng của người về xi
mà cịn diễn tả cái ngập ngừng, bịn rịn, lưu luyến trong bước chân của người
về xuôi qua sự đột biến của nhịp điệu câu thơ, bởi câu thơ lục bát vốn có kết
cấu của những nhịp chẵn đều đặn, mang cái dìu dặt của khúc hát chia tay, đã
chuyển thành nhịp lẻ: 3/3/2


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Nhịp điệu ấy gợi ta nhớ tới cảnh chia tay trong câu thơ
"<i>Bước đi một bước, giây giây lại dừng</i>"


Sự thay đổi nhịp điệu của câu thơ còn làm cho đoạn thơ có sự đổi mới đối
với cảm xúc của người đọc. Câu thơ làm cho người đọc không rơi vào cái
tiết tấu qúa đều đặn qua suốt 8 dòng thơ mà trở nên mòn, chán.


Sự tiếp nối của 12 dòng thơ nằm trong mạch cấu trúc của hoài niệm như
một sự xuất hiện tất yếu, bởi sau những băn khoăn của VBắc đvới tcảm của
người về xi là tiếng hát đầy nghĩa tình của kẻ đi, là sự khẳng định niềm
thuỷ chung của cách mạng đối với VBắc. Tiếng hát ấy đã làm cảm động
người ở lại khiến bao nhiêu kniệm, bao nhiêu hồi ức đầy nghĩa tình đã trào
dâng mạnh mẽ trong tâm trí người tiễn đưa. 12 dòng thơ tiếp nối nhau tạo
thành một dòng chảy của những kniệm cuồn cuộn, nồng nàn, tha thiết. Mỗi


cặp 6-8 lại khơi gợi một kỷ niệm về những tháng ngày sâu nặng nghĩa tình
của VBắc. Và những câu 6 tiếp nối nhau đều là những câu hỏi như một sự
khơi gợi nỗi nhớ đối với người về xi. Mỗi câu 6 lại hướng tới "mình",
những chữ "mình" tiếp nối nhau như một điệp khúc của tcảm. Và đặc biệt ở
những câu 6, chữ "mình" tha thiết bao giờ cũng gắn với chữ "đi" đầy nhớ
thương (ở đây về cũng là đi, đi cũng là về). Chữ "mình", chữ "đi" bao giờ
cũng kèm với chữ "nhớ", mới thấy người ở lại lưu luyến kẻ về xuôi biết bao
"<i><b>Mình đi có nhớ những ngày - Mình đi mình có nhớ mình</b></i>"


Sử dụng chữ "mình", một đại từ xưng hơ tiềm ẩn bao tcảm thân thương,
THữu cũng cho thấy cái biến hoá linh hoạt trong cách nói năng, trong sự
cảm nhận sắc thái ý nghĩa của từ này. ở đây "mình" là mình nhưng cũng lại
là "ta". Mình và ta tuy 2 mà 1. Cho nên người ở lại mới nói với người về
xi:


"<i>Mình đi mình có nhớ mình</i>"


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

của nghệ thuật đối. THữu đã sử dụng nghệ thuật đối một cách triệt để qua tất
cả các câu 8 ở đây, nghệ thuật đối làm cho nhạc điệu của đoạn thơ trở nên
réo rắt và tạo nên những ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc đối với từng kniệm.
Đó là lối đối giữa các vế câu với nhau như: "<i>Miếng cơm chấm muối /mối</i>


<i>thù nặng vai</i>" để làm nổi bật sự đồng tâm nhất trí giữa nhân dân và cmạng.


Khó khăn lại càng làm chồng chất mối thù đối với thực dân phát xít. Đó
cũng là sự tương phản giữa csống gian khổ và lòng người qua những hình
ảnh đối chọi nhau


"<i>Hắt hiu lau xám, đậm đà lịng son</i>"



Đó là những vế đối làm nổi bật nỗi buồn của VBắc đvới cuộc chia tay
"<i>Trám bùi để rụng, măng mai để già</i>"


Nghthuật đối vốn rất quen thuộc trong ca dao, tục ngữ, nhưng với THữu,
nghệ thuật đối đã có những stạo. ở đây khơng chỉ có sự tương phản mà cịn
có sự bổ sung của các vế đối. ở đây có lối đối giữa các vế trong một câu
nhưng lại cũng có những tiểu đối, lối đối ngay trong một vế câu như "m<i>ưa</i>


<i>nguồn / suối lũ</i>" rồi "<i>những mây / cùng mù</i>"; lại có những biến thể lồng chéo


tạo nên các vế đối như trong trường hợp "<i>Tân Trào, Hồng Thái, mái đình,</i>


<i>cây đa</i>" vốn nằm trong những cụm từ đã tương đối cố định, đó là "<i>Mái đình</i>


<i>Hồng Thái, cây đa Tân Trà</i>o". Đoạn thơ vì thế rất giàu nhạc điệu, một thứ


nhạc điệu được tạo nên từ tiết tấu của câu thơ.


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×