sNobel Văn chương 2008:
Jean - Marie Gustave Le Clézio: Không có những biên giới
Nhà văn Pháp thứ 13 đã được vinh dự nhận giải Nobel Văn chương 2008 là Le Clézio, một
nhà văn ít được biết đến trong giới văn học ở Anh và Mỹ, nhưng khá nổi tiếng với nhiều
giải thưởng văn chương trong cộng đồng các quốc gia nói tiếng Pháp dù ơng được giáo
dục song song bằng cả hai ngôn ngữ: Anh và Pháp.
Tiếng Pháp là quê hương
Ông sinh tại Nice năm 1940 nhưng cả cha mẹ đều có mối quan hệ gia
đình chặt chẽ ở Mauritius, thuộc địa ngày xưa của Pháp (bị Anh chinh
phục vào năm 1810). Năm lên tám tuổi, Le Clézio và gia đình chuyển
đến Nigeria, nơi cha ơng làm bác sĩ trong suốt thời gian Đệ nhị thế
chiến. Trong hành trình kéo dài nhiều tháng đến Nigeria, ông đã khởi
sự sự nghiệp văn chương của mình với 2 tác phẩm, Un long voyage
(Cuộc viễn du) và Oradi Noir (Oradi đen).
Năm 1950, gia đình ơng trở lại Nice. Sau khi hồn tất bậc trung học,
ông học Anh văn tại Đại học Bristol và lấy bằng thạc sĩ tại Đại học Aixen-Provence năm 1964, sau đó trình luận án tiến sĩ với đề tài lịch sử
khởi nguyên của Mexico tại Đại học Perpignan năm 1983.
Ông giảng dạy tại Đại học Phật giáo ở Bangkok (1966-1967), Đại học Mexico, Boston, Texas và
Albuquerque. Tiểu thuyết đầu tiên của ông - Le procès- verbal (Biên bản) đã khiến dư luận chú ý
bởi khả năng nâng câu chữ lên khỏi lối hành văn đơn điệu, đưa sức mạnh vào từ ngữ để khơi
gợi hiện thực.
Ngay khi còn trẻ, ông đã thể hiện là một nhà văn dấn thân vì mơi trường sống, khuynh hướng ấy
được biểu lộ mạnh mẽ qua các tác phẩm Terra amata (1967); La guerre (Chiến tranh, 1970), Les
géants (Những kẻ khổng lồ, 1973). Bước đột phá rõ rệt nhất được thấy trong tác phẩm Désert
(Sa mạc, 1980) và với tác phẩm này, ông đã nhận giải thưởng của Viện Hàn lâm Pháp. Tác
phẩm chứa đựng nhiều hình ảnh huy hồng về một nền văn hóa đã mất ở sa mạc Bắc Phi,
tương phản với những hình ảnh châu Âu nhìn dưới con mắt những kẻ nhập cư vất vưởng.
Thời gian sống khá lâu ở Mexico và Trung Mỹ trong những năm 1970 đến 1974 đã có ý nghĩa
quyết định đến một số tác phẩm của ông, khiến ông rời bỏ các thành phố lớn để tìm kiếm những
thực tại tâm linh nơi những người thổ dân. Ơng gặp cơ gái Ma-rốc Jemia, người trở thành vợ ông
năm 1975, cũng là năm ra đời tác phẩm Voyage de l’autre coté (Hành trình từ phía bên kia),
trong đó ơng ghi lại những điều ơng học được từ cuộc sống vùng Trung Mỹ.
Kể từ thập niên 90, Le Clézio và vợ ông dành nhiều thời gian sống ở Albuquerque thuộc New
Mexico, đảo Mauritius và Nice. Những năm sau này, nhà văn quan tâm nhiều đến những mơ
ước về một thiên đường trên mặt đất, trong những tác phẩm như: Ourania (2005) hay Raga:
approche du continent invisible (2006) (Raga: Nẻo về đại lục vơ hình) mơ tả lối sống trên những
hòn đảo ở Ấn Độ Dương đang dần mất đi trước làn sóng tồn cầu hóa.
L’Africain, câu chuyện về cuộc đời cha ông, là một sự tái tạo, một sự khẳng định, và là hồi ức
của một cậu bé sống dưới bóng một kẻ xa lạ mà cậu bị buộc phải yêu thương.
Trong các tác phẩm gần đây, có Ballaciner (2007), một tiểu luận cá nhân sâu sắc về lịch sử nghệ
thuật điện ảnh và tầm quan trọng của phim ảnh trong cuộc đời tác giả.
Le Clézio cũng viết nhiều tác phẩm về tuổi thiếu niên và thanh niên, ví dụ, Lullaby (Lời Ru, 1980)
hay Balaabilou (1985). Ông đã đoạt các giải thưởng văn chương Théopharaste Renaudot (1963),
Larbaud (1972), Giải thưởng lớn của Viện Hàn lâm Pháp (1980), Giải Jean Giono (1997) và một
vài giải khác…
Le Clézio nói rằng tiếng Pháp chính là nơi mà ơng cảm thấy mình thuộc về nó. Ơng là người khó
xác định được mình thuộc về một xứ sở nào bởi lẽ từ thuở ấu thơ đã viễn du qua nhiều nơi chốn,
lúc thì ở New Mexico, vùng ven giữa Bắc và Nam Mỹ, rồi thì có lúc lại quay về Nice và Mauritius,
hòn đảo nhỏ nơi tụ hội đất và trời.
Có lẽ khơng có gì lạ vì với một q trình sống như thế, ơng ln quan tâm đến những ngưỡng
thời gian. Chẳng hạn, có các tác phẩm của ông khai thác sự chuyển biến giữa thời thơ ấu và tuổi
trưởng thành (Coeur brulée et autre romances, Trái tim nóng bỏng và những truyện khác), hay
cuộc hành trình mà ở đó những nền văn hóa đối diện với nhau cùng với thời khắc mà quá khứ,
hiện tại và tương lai giao hội (Ourania). Ông quan niệm “Viết lách giống như một cuộc lữ hành”
và cho rằng tất cả chúng ta đều là những di dân luôn phải đối diện với một tương lai đầy đe dọa
nhưng cũng tràn trề khai phóng.
Tác phẩm của ơng vì thế chú trọng đến nhân vật và cốt truyện như là phương tiện nhằm phân
tích những giới hạn của văn hóa Tây phương. Ơng thường lấy bản thân lịch sử gia đình mình
làm chủ đề trong một số tiểu thuyết gần đây.
Với tất cả những thành tựu văn học kể trên, ông đã được Viện Hàn lâm Thụy Điển công bố trao
tặng giải Nobel Văn chương 2008.
Nhận định về ơng, có nhà phê bình đã gọi ông là người vĩ đại cuối cùng của văn học Pháp trong
số những nhà văn lừng danh thuộc trào lưu Nouveau Roman (Tiểu thuyết mới) như Georges
Perec, Nathalie Sarraute, Claude Simon, Alain Robbe-Grillet, những người hầu hết đều đã qua
đời.
Có thể nói gì về văn chương Le Clézio?
Đầu tiên phải nhìn nhận về những giai đoạn sáng tác khác nhau trong đời ông:
Từ 1963 đến 1975, hầu hết tiểu thuyết và tiểu luận của ông chủ tâm khai phá những chủ đề như
sự điên loạn, ngôn ngữ mới, thể nghiệm hình thức, mang hình ảnh một nhà văn cách tân hay nổi
loạn, khiến cho những nhà phê bình lừng danh như Michel Foucault phải khâm phục.
Từ cuối thập niên 1970, ông thay đổi phong cách viết, bút pháp khoan hòa hơn, với những đề tài
về người thiểu số hay tuổi thơ.
Những năm 1990 về sau, ông khai thác nhiều những khác biệt trong những nền văn hóa, nỗi cô
đơn, hồi ức ấu thơ cho đến trưởng thành.
Thiên chức nhà văn trong quan niệm Le Clézio
Nhà văn, theo quan niệm của ông, là chứng nhân của lịch sử, của những gì đang diễn ra quanh
mình, thậm chí là kẻ ghi nhận lại sự bất lực về chính trị. Trong một bài phỏng vấn trước khi đoạt
giải Nobel, ông bày tỏ sự thán phục dành cho Satre và Camus như những nhà văn dấn thân vĩ
đại vào thời trước có thể vạch ra những con đường cải tổ xã hội, nhưng hơm nay tình thế trở nên
khó khăn khi văn chương đương đại chỉ là một nền văn chương tuyệt vọng vì chẳng hy vọng gì
những bài xã luận sẽ giúp người ta giải quyết những vấn đề đang hủy hoại đời sống chúng ta.
Giống như Jean Paul Satre từng tuyên bố: “Trước mặt một đứa trẻ chết đói, cuốn La Nausée
khơng có giá trị gì cả”. Tính chất thiêng liêng của văn nghệ đã bị phủ nhận nhưng nhà văn vẫn
cịn vơ số phận sự phải làm, không cao cả mà cũng không thấp hèn hơn các phận sự khác.
Theo Le Clézio thì văn chương là một phương tiện nhắc nhở con người về tấn bi kịch mà họ
đang trải qua, về những cuộc chiến tranh đang xảy ra trên thế giới này cướp đi bao sinh mệnh,
trong đó có trẻ thơ. Trong bài phỏng vấn, ông nhấn mạnh:
Gần đây những pho tượng phụ nữ bị che mặt lại nhằm lên án tình trạng thiếu tự do của phụ nữ
tại Afghanistan… Tương tự, chúng ta phải đánh dấu tất cả những pho tượng trẻ thơ bằng những
chấm đỏ lớn ngay tim để nhắc nhở trong mỗi giây phút mà chúng ta đang sống, ở một nơi nào đó
trên đất nước Palestine, Nam Mỹ hay châu Phi, trẻ con vẫn phải lãnh những viên đạn. Người ta
chưa bao giờ nói về điều ấy!
Những chủ đề chính trong văn chương Le Clézio
Ơng quan niệm mình như một kẻ lưu đày viễn xứ vì tồn bộ gia đình đều thừa hưởng nền văn
hóa, thực phẩm, những chuyện thần thoại dân gian của Mauritius, một nền văn hóa pha trộn bản
sắc Ấn Độ, châu Phi và châu Âu. Nhưng ông lại trưởng thành và được giáo dục bằng nền văn
hóa Pháp, dù ơng ln mang tâm trạng của một ‘kẻ đứng bên lề’. Tuy nhiên, ông vẫn xem tiếng
Pháp, khơng phải nước Pháp, là q hương đích thực của mình.
Những tác phẩm lớn ta có thể đề cập đến là Le Proces –Verbal (Biên bản). Nhân vật chính,
Adam Polo, một kẻ đào ngũ sống lẻ loi trên một ngọn đồi, trong một ngôi nhà hoang vắng, chỉ
tiếp xúc với một người là Michele, người tình với những lần gặp gỡ bất ngờ chóng vánh, và
những câu chuyện siêu hình mà hai người bàn luận nhưng khơng bao giờ có lời giải cuối. Sau
cùng anh ta phải vào viện tâm thần dù đã từng diễn thuyết trước đám đơng cuồng nhiệt. Người
ta thấy hình bóng của L’Étranger (Kẻ xa lạ) của Camus và La Nausée (Buồn nôn) của Satre ở
đây. Nói như Satre; “Văn nghệ có nghĩa lý gì trong một thế giới đói khát, cũng như ln lý văn
nghệ là phải của chung mọi người”.
Nói như Le Clézio, “Chúng ta đang sống trong một thời đại nhiễu nhương mà ở đó chúng
ta bị các loại hình ảnh và tư tưởng tấn công thường xuyên. Nhiệm vụ của văn chương
hôm nay là ghi lại tiếng vọng từ mớ hỗn loạn ấy”.
Một đặc trưng dễ nhận ra trong các tác phẩm của ơng là nền văn hóa Mexico mà theo ơng thì
hướng ngoại, mang tính chất dân dã, đường phố, khác biệt với nền văn hóa gia đình, hướng nội
và theo quy luật trường học của châu Âu. Nên tác phẩm của ơng vẫn có sự xung đột giữa các
nền văn hóa.
Nỗi cơ đơn và tâm sự lưu đày
Nói một cách nào đó, ơng vẫn tự nhận mình là nhà văn du mục, khơng có văn phịng, nơi chốn
làm việc nhất định. Trong hơn 30 tác phẩm và tiểu luận, hình ảnh sa mạc vẫn là nỗi ám ảnh mơ
hồ, khiến ta nhớ đến một Tô Đông Pha với những phương trời viễn mộng: “Sa mạc hồi khan
Thanh cấm nguyệt, Hồ Sơn ứng mộng Vũ Lâm Xuân”.
“Sự lưu đày và tìm kiếm một mảnh đất để được gọi là của mình là những điều đầu tiên mà tơi ý
thức... Như Flannery O’Connor nói, một nhà văn ln bị thơi thúc viết về những năm tháng đầu
đời của mình, khi bắt đầu nhận ra thế giới” (Le Clézio). Ủy ban trao giải Nobel nhận thấy ở ông,
con người thay mặt cho mọi người (an everyman representative) không thuộc về một quốc gia
hay ngơn ngữ đặc thù nào, ln kiếm tìm như những kẻ di dân khắp nơi trên thế giới, một cách
nào đó khẳng định cội rễ của mình trong một thế giới biến động và thay đổi nhanh đến mức
không thể hiểu nổi.
Hội đồng giám khảo đã nhận định: “Nếu nhìn nhận một cách nghiêm túc về mặt văn hóa, ơng
khơng hẳn là một nhà văn tiêu biểu của Pháp. Ông đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển sự
nghiệp văn chương của mình và đã đưa vào tác phẩm của mình nhiều nền văn minh khác, nhiều
phong cách sống không phải của phương Tây”. Tác phẩm của ông phản ánh thân phận của
những người châu Âu với nỗi đau giày vò khi trôi giạt trong một thế giới mênh mông xa lạ, bị áp
đặt phải đối diện với những thực tại kinh tế, chính trị xã hội tồn cầu với kinh nghiệm sống nhỏ
nhoi chật chội trong cái vỏ ốc của quốc gia mình.
Nói như một nhân vật của Albert Camus trong Le Malentendu: “Tơi khơng cịn chút kiên nhẫn nào
để nấn ná trên cái dải đất châu Âu ảm đạm này. Mùa Thu ở đây mang khuôn mặt mùa Xuân và
mùa Xuân dâng mùi tủi nhục”. Nhân vật của ông, vì thế, lang thang vơ định, âu lo kiếm tìm trong
vơ vọng một thiên đường bình n và ổn định ở một nơi nào khác – châu Phi hay Nam Mỹ –
nhưng rồi lại chỉ gặp ở đấy sự xa lạ đáng kinh hãi và bạo lực ở những quốc gia đang phát triển
khép mình trong cuộc chiến giành độc lập.
Tiểu thuyết của Le Clézio cũng cho thấy nhận thức mới mẻ về phương Tây, ngay trong tuần lễ
giải thưởng được công bố, rằng số phận một quốc gia như Anh hay Mỹ có thể được quyết định
bất ngờ bởi những chuyển động mong manh bên kia thế giới. Như có ai ngờ rằng Iceland, một
đảo quốc khơng hơn 300.000 dân, lại đóng vai trị trong nền tài chính tồn cầu khi những ngân
hàng ở đó bị sụp đổ. Chỉ khi đó thì người ta mới vỡ lẽ có bao nhiêu người Anh gửi tiền dành dụm
trong các ngân hàng ấy, cuốn theo bao nhiêu số phận nghiệt ngã giữa vùng đất xa lạ đầy băng
và núi tuyết.
Chúng ta đang sống trong một kỷ nguyên thông tin, khi cả thế giới ở ngay trước mắt chúng ta chỉ
sau một cái nhấn trên con chuột máy tính. Biên giới quốc gia khơng cịn che chở nổi những
chuyển động của thị trường. Số phận của chúng ta tùy thuộc vào quyền lợi cũng như được thay
mặt bởi những người ta chưa hề gặp, và vào những quốc gia ta ít khi nghe nói đến...
Tác phẩm của JMG Le Clézio có thể mãi đến giờ đây mới bước vào văn đàn châu Âu và cả châu
Mỹ rộng lớn kia nhưng sự góp mặt của một chân dung văn học như ông lại rất đúng lúc. Khi
chúng ta đang nỗ lực tìm hiểu mình là ai trong bối cảnh mới đầy biến động của thế giới, người
đoạt giải Nobel Văn chương 2008 chính là nhà văn có thể giúp ta làm được điều ấy.
Thế nên Viện Hàn lâm Thụy Điển nhận định ông là “tác giả của những chuyến ra đi mới, những
cuộc viễn du thi vị và những niềm hứng thú hoan lạc, kẻ khám phá tính nhân văn từ bên ngồi và
ngay dưới những nền văn minh đang ngự trị”.
NGUYÊN CẨN
Tạp chí Văn hóa Phật giáo
Giải Nobel Văn học 2008
Jean-Marie Gustave Le Clezio nhà văn lữ thứ
In trang này
Gửi cho bạn
(TT&VH Cuối tuần) - Suốt gần nửa thế kỷ qua, Jean-Marie Gustave Le Clezio đứng tách rời
mọi trường phái thi thố ồ ạt với nhau và hàng năm làm chấn động văn đàn Pháp cũng như thế
giới - từ siêu thực, tân siêu thực, hiện sinh, cấu trúc, giải cấu trúc, tiểu thuyết mới, tân tiểu thuyết
mới cho tới hiện đại, hậu hiện đại và nhiều thứ khác nữa. Vậy mà văn nghiệp của ông, gồm hơn
bốn chục đầu sách không hề chạy theo thị hiếu thời thượng, vẫn cứ nghiễm nhiên lần hồi dọn
cho tác giả một chỗ ngồi ngày càng đặc thù trên văn đàn Pháp đương đại, xứng đáng với vinh
dự tột cùng là giải Nobel năm nay.
Nguồn cội
Nhìn vào văn nghiệp tương đối đồ sộ này, từ cuốn truyện đầu tay Le Procès-verbal (Biên bản, 1963) qua
tập cảo luận Le Rêve Mexicain Ou La Pensée Interrompue (Giấc mơ Mexcico hay là suy tưởng đứt đoạn,
1988) tới quyển tiểu thuyết vừa phát hành Ritournelle De La Faim (Đói khát khơn thơi, 2008), giới phê bình
và độc giả đều nhìn thấy ở J.M. G. Le Clezio một nhà văn nhân bản, sống trong mộng tưởng hơn là ảo
tưởng, cùng với tầm nhìn xa, chỉ ra trước các hiểm họa mà nền văn minh vật chất phương Tây gây nên.
Chính khía cạnh ấy tạo nên phong vị đặc biệt khơng ngừng tốt ra từ mỗi trang giấy, dựng nên tầm vóc tác
phẩm của ơng.
J.M.G. Le Clezio sinh năm 1940 ở Nice, thành phố ven bờ Địa Trung Hải, miền Nam nước Pháp,
nhưng gốc gác quả thật xa xôi. Về mặt địa lý, quê gốc của ông ở tận hòn đảo Mauritius trên Ấn
Độ Dương; về mặt huyết thống, mẹ ông là nhạc công nguyên quán miền Bretagne, Tây Bắc
nước Pháp, cha là thầy thuốc mang quốc tịch Anh. Xa hơn nữa, vào cuối thế kỷ 18, ông tổ
Francois Alexis Le Clezio rời quê ra khơi xa tắp lập nghiệp ở hòn đảo bấy giờ mang tên là Ile de
France (Đảo Pháp), sau đổi thành Mauritius khi lọt vào tay nước Anh năm 1810. Có lẽ vì vậy mà
cho đến nay, nhà văn khơng cảm thấy đâu là q hương thực sự của mình và khơng ngừng di
chuyển khắp nơi, khi thì ở châu Âu, lúc lại ở Nigeria, Mauritius (châu Phi), rồi Panama, Mexico
(Trung Mỹ), Thái Lan (châu Á), Albuquerque (Mỹ). Nhưng dù cư ngụ tạm thời nơi này nơi nọ, Le
Clezio luôn miệt mài với chữ nghĩa, lặng lẽ xây dựng một văn nghiệp nay đã bề thế và chắc còn
đồ sộ hơn nữa - bởi ông chỉ mới vào tuổi 68 và vẫn sung sức.
Vào ngày đoạt giải Nobel 9/10/2008 vừa rồi, văn nghiệp của Le Clezio đếm được có hơn bốn
chục đầu sách, gồm nhiều thể loại: tiểu thuyết, truyện ngắn, cảo luận... Có thể sơ lược điểm qua
các tiểu thuyết như Le Procès-verbal (Biên bản, 1963 - giải Renaudot), Désert (Sa mạc, 1980 giải Viện Hàn lâm Pháp), Poisson D’Or (Cá vàng, 1997 - giải Jean-Giono); tập truyện ngắn
L’Africain (Ông Phi châu, 2004); cảo luận L’Extase Matérielle (Xuất thần thể chất, 1967), Diego
Et Frida (Diego và Frida, 1993), Ballaciner (Dạo qua nền điện ảnh, 2007). Mỗi đầu sách một thể
cách riêng biệt nhưng đều có chung lối nhìn cuộc đời, hiện thực như nó xảy ra trước mắt,
căng thẳng, xung khắc, hung bạo và, đồng thời, hệt như nhà văn mơ tưởng, hào hiệp, hài
hịa, trơn bóng, con người và sự vật hịa hợp với nhau.
Kín đáo
Ngược hẳn một số đồng nghiệp của ông ở Pháp, chẳng hạn như “triết gia” Bernard - Henry Levy và nhà văn
Michel Houellebecq (1), lúc nào cũng ồn ào tự cao tự đại, Le Clezio kín đáo, âm thầm xây dựng văn nghiệp
của mình. Ngay cả khi nhận được tin đoạt giải Nobel, ơng vẫn rất khiêm tốn nói rằng: “Đó quả là một sự lựa
chọn dũng cảm của ủy ban chấm giải. Tơi khơng biết mình có xứng đáng với giải Nobel hay không”.
Nhà văn Jean-Marie Gustave Le Clezio
Để giúp bạn đọc thấu hiểu con người và phong cách nằm ngồi khn khổ thơng thường của Le
Clezio, chúng tơi xin nêu ra dưới đây mấy yếu tố then chốt tiềm tàng trong sự nghiệp của ông:
* Xứ Bretagne: Vùng biển miền Tây Bắc nước Pháp, vây quanh bởi đá hoa cương vừa cứng rắn,
vừa khắc khổ như con người bản địa là nguồn gốc gia tộc lâu đời của nhà văn. Le Clezio thường
về đây mỗi năm để chung sống với con người Breton - dân xứ Bretagne vốn kiệm lời và thinh
lặng như ông.
* Nice: Thành phố ven bờ Địa Trung Hải, nơi ông mở mắt chào đời và trải qua thời thơ ấu. Xa rời
khi vừa mới lớn, sau thời gian dài du mục châu Phi, Á, Mỹ, mỏi gối chồn chân, nay ông hay trở
về đây ngừng nghỉ. Rồi lại ra đi. Rồi lại trở về.
* Đảo Mauritius: Pháp gọi là Ile Maurice, nơi mẹ ông chơn nhau cắt rốn. Tác giả lấy khung cảnh
hịn đảo này làm nền cho một số tác phẩm, đặc biệt trong truyện La Quarantaine (Cách ly, 1995),
thuật chuyện ông ngoại Alexis trở về đảo và phải chịu cách ly vì trên tàu có người bị nghi mắc
bệnh truyền nhiễm.
* Châu Phi: Nơi thuở nhỏ ơng theo chân mẹ qua đó ở với cha bấy giờ làm thầy thuốc miệt truông
rẫy nay thuộc nước Nigeria. Dưới mắt trẻ thơ, châu Phi đồng nghĩa với cuộc sống hoang dã.
Trong cuốn tiểu thuyết Onitsha (Thị trấn Onitsha, 1991), có nhiều trang miêu tả cảnh trí tràn đầy
nhục cảm.
* Sa mạc: Tác giả hay đặt chân tới đây, hịa mình với sa mạc. Jamia, bạn đời của ơng, thuộc
dịng bộ lạc du mục Aroussiyine miền Tây đất cát Sahara. Cuốn tiểu thuyết Désert (Sa mạc,
1980) họa lại cuộc đời phiêu bạt, dịp may và vận rủi xáo trộn của cha mẹ vợ ông khoảng thập
niên 1950.
* Đạo lý: Năm 1981, Le Clezio bảo vệ luận án tiến sĩ lịch sử với đề tài Relation de Michoacan
(Lịch trình Michoacan), một tài liệu rất đáng tham khảo khi nghiên cứu các nền văn minh châu Mỹ
trước thời người Âu thơn tính lục địa này. Tác giả đã sống nhiều năm ở Mexico, tìm hiểu truyền
thuyết và huyền thoại các bộ tộc Aztec, Maya, từ đó rút ra đường lối suy tưởng dẫn tới một đạo
lý khác xa đạo lý Tây phương.
Văn phong
Chúng ta có thể xem các yếu tố sơ lược kể trên như những thành phần tạo nên thứ “xi măng”
làm nền cho văn nghiệp của Le Clezio. Là “tác giả của cuộc phiêu lưu đầy thi vị và trạng thái xuất
thần đầy nhục cảm” và cũng là “nhà thám hiểm khám phá tinh thần nhân bản mới, vượt lên trên
và tiềm ẩn dưới nền văn minh đang ngự trị thế giới này”, theo lời tuyên dương của Viện Hàn lâm
Thụy Điển. Đó là về nội dung. Nhưng cịn hình thức chun chở nội dung?
Như đã nói, Le Clezio khơng hề đua địi với hạng văn chương thời thượng. Ngơn ngữ, văn phong
của ông không tân kỳ, không kiểu cách - câu văn ngắn, gọn, dễ hiểu. Thử đọc một đoạn trích từ
tác phẩm Ritournelle De La Faim (Đói khát khôn thôi, NXB Gallimard, trang 61) mới vừa phát
hành: “Nàng đứng trước cổng cơng viên. Vào lúc hồng hơn. Ráng chiều cịn đọng lại dịu dàng,
lóng lánh tựa ngọc trai. Chắc có mưa rào đang gầm trên dịng Seine”.
Đúng thứ văn tức là người.
Một sự lựa chọn kỳ cục?
Việc trao giải Nobel Văn học cho Le Clezio - “người khổng lồ cuối cùng
của văn chương Pháp” - đã nhận được những lời ca ngợi từ nhiều phía.
Nhưng cũng có những ý kiến bày tỏ sự thất vọng.
Marcel Reich-Ranicki - nhà phê bình văn học nổi tiếng nhất ở Đức
(được mệnh danh là “Giáo hoàng văn học Đức”) - cho biết ông “dĩ nhiên
thất vọng” vì lại một lần nữa giải Nobel không được trao cho nhà văn
Mỹ Philip Roth, “người xứng đáng nhận giải này từ nhiều năm nay”.
Ông cho biết khơng thể đánh giá Le Clezio vì “chưa hề đọc tác phẩm
nào của tác giả này” (!).
Nhà phê bình văn học nổi tiếng ở Áo Sigrid Loeffler thậm chí cho rằng
Viện Hàn lâm Thụy Điển đã có một “sự lựa chọn hơi kỳ cục”. Bà đánh
giá các tiểu thuyết của Le Clezio tỏ ra “đơn điệu và tẻ nhạt” và cho rằng
ông là một “nhà lãng mạn quá muộn màng”, người “coi trọng sự quan
sát thầm lặng vẻ đẹp của thiên nhiên hơn là một thực trạng xã hội nào
đó, điều hơi xa lạ trong thời đại và văn học chúng ta”. Theo bà, Viện
Hàn lâm Thụy Điển lựa chọn Le Clezio có lẽ chỉ vì đã q lâu rồi văn
học Pháp khơng có tác giả nào được trao giải Nobel (!).
Nhà văn đầu tiên trong lịch sử được trao giải Nobel Văn học (năm 1901)
chính là một người Pháp: Sully Prudhomme. Trước Le Clezio đã có 12
nhà văn Pháp được nhận giải này, trong đó có những tên tuổi vĩ đại như
Romain Rolland (1915), Albert Camus (1957) hay Jean-Paul Sartre
(1964). Như vậy, Pháp là một trong những nền văn học có nhiều tác giả
đoạt giải Nobel nhất. Tuy nhiên, nhà văn Pháp gần nhất trước Le Clezio
đoạt giải Nobel đã cách đây 23 năm - đó là Claude Simon (1985).
Giải Nobel văn học 2008: J. M. Le Clézio - nhà văn du mục
Bài viết được đăng lúc 4:13:50 PM, 02.12.2008
TRẦN HUYỀN SÂM
1. Nobel là một giải thưởng danh giá nhất, nhưng
cũng chứa đựng nhiều nghịch lý nhất trong tất cả
các giải thưởng. Riêng giải Nobel văn học, bao
giờ cũng gây tranh cãi thú vị. Bởi vì, Hội đồng
Viện Hàn Lâm Thụy Điển phải trung thành với lời di chúc của Alffred
Nobel: trao tặng giải thưởng cho người sáng tạo ra tác phẩm văn học xuất
sắc nhất, có khả năng định hướng lý tưởng cho nhân loại.
Chính cái tiêu chí mơ hồ này đã gây ra nhiều mâu thuẫn gay gắt, thậm chí
đối đầu trong các thành viên Hội đồng xét duyệt và giới phê bình văn học.
Vì vậy, mùa giải Nobel hàng năm, bao giờ cũng trở nên căng thẳng, hồi hộp,
nó là trung tâm chú ý của các luồng dư luận báo chí và cơng chúng bạn đọc.
Năm 2004, một thành viên đã xin ra khỏi Hội đồng xét duyệt vì bất bình với
giải văn học người Áo E. Jelinek; cịn cơng chúng thì phẫn nộ và cho rằng: đó
là một nhà văn đàng điếm và khiêu dâm.
Nobel văn học năm 2008 thuộc về nhà văn người Pháp: Jean - Marie
Gustave Le Clézio - người được mệnh danh là nhà văn du mục, và từng
được tạp chí Lire bình chọn là nhà văn đương đại lớn nhất nước Pháp. Với
giải thưởng này, J.M.Le Clézio đã “đánh bại” hai nhà tiểu thuyết nổi tiếng:
Umberto Eco và Milan Kundera. Và như vậy, cho đến nay, Pháp vẫn là nước
đứng đầu thế giới về giải Nobel văn học. Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy
đã dành những lời cao quí nhất, để tôn vinh cho văn hào Le Clézio: “Giải
thưởng này đã làm vinh hiển cho nước Pháp, cho ngôn ngữ Pháp và những
người nói tiếng Pháp... Le Clézio là một công dân của thế giới, đứa con
của mọi châu lục và các nền văn hóa. Ơng ấy là hiện thân cho sự hào quang
của nước Pháp”(1).
2. Điều gì khiến cho J.M.Le Clézio đoạt gải thưởng Nobel cao quí này? Viện
Hàn Lâm Thụy Điển đã khẳng định: J.M.Le Clézio là tác giả của những
khởi điểm mới, của cuộc phiêu lưu thi vị và là người khám phá ra một nhân
loại ẩn chìm và đang bị thống ngự của nền văn minh. Le Clézio là hiện thân
cho tinh thần nhân đạo, nỗi đau và sự sáng tạo vô biên của con người. Tác
phẩm của ông là sự mời gọi, sự dẫn dụ người đọc chìm đắm vào thế giới tự
nhiên hoang dã, huyền bí và tinh khiết. Nơi đó, con người sẽ “kìm nén”
được sự nghiệt ngã, sự tàn khốc, sự dối trá của xã hội hậu hiện đại. Các nhân
vật của ông là những người “khuân vác một giá trị đạo đức của cuộc sống”,
và chính họ, khuyến khích sự tơn trọng mọi người, và tơn trọng chính mình.
Hai vấn đề mà Le Clézio đặt ra, đã bộc lộ tư tưởng sáng tác của ông: “Giá
như, người da trắng không làm khổ người da đen, thì cuộc sống này sẽ tốt
đẹp hơn không?”; và “Người viết tiểu thuyết bao giờ cũng đặt ra những câu
hỏi lớn về thế giới hiện nay”. Nhìn chung, tác phẩm của Le - Clézio đều
hướng đến thiên nhiên, thế giới trẻ em và sự bất hạnh của người da màu.
3. Gia đình và cuộc đời của Le Clézio là một huyền thoại đầy thú vị và bí ẩn.
Đó là “một tấm bản đồ không dễ vẽ”. Jean Marie Gustave Le Clézio là sự
hòa hợp của hai dòng máu: Cha là một bác sĩ người Anh, mẹ là người Pháp,
nhưng gốc gác tổ tiên của họ lại ở L’ile Maurice (một hòn đảo chứa đựng
nhiều huyền thoại, nhiều bài ca thổ dân). Nice, một thành phố biển xinh đẹp
thuộc miền nước Pháp, đó là nơi chốn chào đời của Le Clézio (vào ngày 132-1940). Tuổi thơ của Clézio chìm trong tiếng sóng hoang dại của miền biển
Địa Trung Hải. Đó là cội nguồn nuôi dưỡng một tâm hồn luôn khát khao
sáng tạo, khát khao du ngoạn, dấn thân và thử thách. Đồng nghĩa với danh
hiệu nhà văn, Le Clézio là một nhà du mục (nomade...). Tác phẩm và cuộc
đời của ông là một bộ sưu tập sinh động nhất về dấu ấn của các nền văn
minh hoang dại: từ châu Phi đến châu Mỹ, từ đất nước Ấn Độ đến Thái Lan.
Lên 8, Le Clézio theo cha đến , một vùng đất của châu Phi nóng nực và
hoang sơ. Và sau đó là những cuộc du ngoạn khắp nơi trên các châu lục.
Năm 1967, Le Clézio đến Thái Lan, với tư cách là nhân viên hợp tác. Tại
đây, ông đã bị trục xuất về nước vì đã tố cáo nạn mại dâm trẻ em. Những
năm tiếp theo, ông làm việc tại Viện nghiên cứu Châu Mỹ la tinh (L’Institut
d’Amérique Latine). Chính vùng đất châu Mỹ này đã giúp ơng hiểu sâu sắc
về văn hóa thổ dân, hình thành những quan điểm về văn hóa, triết học và đạo
đức. Ơng có xu hướng xa rời vật chất của xã hội văn minh, chìm đắm trong
thiên nhiên và sáng tạo nghệ thuật.
Le Clézio trải qua nghiên cứu văn học ở nhiều trường đại học. Từ 1957 đến
1961 là sinh viên Anh ngữ của Đại học Bristol và Londres (Luân Đôn); năm
1963 nhận bằng cử nhân văn học tại trường đại học Nice (Institut d’Etudes
littéraires); và kết thúc khóa Cao học tại đại học Provence vào năm 1964.
Ơng hồn thành luận án tiến sĩ vào năm 1983 ở đại học Berpignan với đề tài
về lịch sử cổ điển của . Ông cũng đã từng giảng dạy ở nhiều trường đại học
khác nhau trên thế giới: Bankok, , Boston, Austin và Albuquerque .
Le Clézio khơng có “một ngơi nhà cụ thể”. Nhưng đảo Maurice, thành phố
Nice, bang New Mexico là những nơi chốn ông gắn bó sâu sắc nhất. Ơng sử
dụng hai ngơn ngữ: Anh và Pháp. Cũng chính sự phức tạp về cội nguồn, về
đời sống của văn hào này, mà sau khi Viện Hàn Lâm Thụy Điển công bố
giải thưởng Nobel, công chúng châu Âu đã đặt ra câu hỏi: Le Clézio là nhà
văn thuộc về đất nước nào? Mục báo Calou, l’ivre de de lecture băn khoăn:
Est-il francais, britannique, mauricien? (Ông ta là người Pháp, người Anh
quốc, hay người Mơ-rít ta-ni?)(2). Số khác khẳng định rằng, Le Clézio chỉ là
một nhà văn viết tiếng Pháp, chứ khơng phải là nhà văn đích thực người
Pháp. Cịn với Le Clézio, trong một lần trao đổi với Catherine Argand, vào
năm 1994, ông tự nhận là: “Tôi là một người dân đảo Bretagne ... Người mà
không thể thuộc về một quận, một thành phố nào cụ thể. Nhưng ngôn ngữ
Pháp chính là đất nước của tơi, nơi cư ngụ của tôi. (Dẫn theo Fredrik
Westerlund)(3). Dù thuộc về miền nào, dân tộc nào, Le Clezio là hiện thân
của tinh thần khiêm ái, sáng tạo và tiến bộ của lồi người. Đó là ý nghĩa đích
thực mà người đọc chờ đợi ở nhà văn vừa đoạt giải Nobel này.
4. Văn hào Le Clézio sáng tác khi còn rất trẻ - lúc lên bảy, và hơn bốn mươi
năm miệt mài cầm bút, ông đã đạt được một văn nghiệp đáng khâm phục:
hơn 40 tác phẩm, đủ các thể loại, và gần mười giải thưởng văn học danh giá.
Trong đó, tiểu thuyết là thể loại làm nên phong cách nghệ thuật và mang lại
niềm vinh quang tột đỉnh cho cuộc đời sáng tạo của ông.
Viết, với ông là một yêu cầu của cuộc sống, một sự thôi thúc nội tâm. Viết,
như một niềm vui sống và như một nỗi đau cần phải được đền bù. Viết, là
dấn thân để mạo hiểm kiếm tìm điều đã mất và điều chưa biết đến. Với tiểu
thuyết đầu tay Le Procès - verbal (Tạm dịch Biên bản), Le Clézio đoạt giải
thưởng Renaudot vào năm 1963, và trở nên nổi tiếng lúc mới là 23 tuổi. Tác
phẩm này cũng đã lọt vào danh sách tranh giải Goncourt. Cùng với các cuộc
du ngoạn trên khắp châu lục, các tác phẩm của ông lần lượt ra đời: La
Fièvre (1965), La Guerre (1970), Les Géants (1973), Voyages de l’autre
côté (1976), L’inconnu sur la terre (1978), Désert (1980), Trois villes
saintes (1980), Balaabilou (1985), Enfances (1997), Gens des nuages
(1997), Révolutions (2003), L’Africain (2004) vv... Trong số đó, phải kể đến
cuốn tiểu thuyết Désert (Sa mạc), 1980. Tác phẩm đoạt giải Paul Morand
của Viện Hàn Lâm Pháp (1981) và được đánh giá là đỉnh cao trong sáng tác
của ơng: “Tác phẩm chứa đựng những hình ảnh tráng lệ về nền văn hóa đã
biến mất trên sa mạc Bắc Phi”.
Ngoài thiên nhiên, du ngoạn, ký ức tuổi thơ, Nỗi đau (La Douleur) và Cái
đói (La Faim) của loài người, là hai chủ đề nhức nhối trong tác phẩm của Le
Clézio: La Fìevre, La ronde et autre faits diver, Moloch, Le passeu... Và gần
đây nhất, tác phẩm Ritournelle de la faim (Sự lặp lại của cái đói, 2008), đã
bộc tư tưởng nhân đạo sâu sắc của văn hào Le Clézio.
Sáng tác vào một thời điểm mà phong trào Tiểu thuyết mới ở Pháp đang nở
rộ (Nouveau roman, 1965), Le Clézio nổi bật lên như một phong cách dị
biệt, “trượt” ra ngồi lề của các “phong cách có tính thời thượng”. Theo
Fredrik Westerlund, Le Clézio là một sự giao động giữa phong cách tiểu
thuyết mới của Gobbe Grille và phong cách huyền ảo truyền thống, giữa trí
tuệ của Blake và của Lautréamont. Ơng đã vượt lên khái niệm “hư cấu siêu
hình” (Métaphysique-fiction), bởi ông thiên về một lối viết thô mộc và tự
nhiên.
Nói chung, giới phê bình Pháp đều cho rằng, J.M. Le Clézio viết theo phong
cách hư cấu giả tưởng, huyền ảo và thuần phác, nhưng “ẩn chứa những cơn lũ
bên trong”.
Tác phẩm của Le Clézio là một bản nhạc thiên nhiên đầy quyến rũ. Rời xa
thế giới vật chất - phù hoa, hư ảo, ngôn ngữ của ông giản dị và hồn nhiên
như trong thế giới của một câu chuyện cổ tích. Nó mời gọi người đọc chìm
đắm trong sự yên tĩnh, sự mơ mộng và thi vị, trong sự trầm ngâm đắm say.
Văn chương của ơng, vì thế là một thứ văn chương thốt ra và tìm kiếm lại
một kho tàng ẩn dấu của thời gian đã mất, đã vụn tan giữa sa mạc vô biên.
Jean Marie Gustave Le Clézio là sự kết tinh của tinh thần sáng tạo nghệ
thuật, của nỗi đau kiếm tìm các giá trị của con người. Tác phẩm của ông là
niềm suy tư day dứt của con người đang sống trong xã hội văn minh hậu
hiện đại.
Không phải ngay từ bây giờ, khi J.M. Le Clézio đoạt giải Nobel, báo giới và
các nhà phê bình mới ca ngợi ơng. Vào năm 1994, độc giả Pháp đã bình
chọn ơng là nhà văn đương đại lớn nhất nước Pháp. Hiện nay, tác phẩm của
ông cũng đã được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau trên thế giới.
Và ở Việt , tôi tin rằng, J.M. Le Clézio sẽ được chúng ta yêu mến, bởi phong
cách nghệ thuật thuần phác và tư tưởng nhân đạo của ông phù hợp với tinh
thần của người Việt (4).
T.H.S
(nguồn: TCSH số 237 - 11 - 2008)
Le Clézio: Người khổng lồ cuối cùng của văn chương Pháp
Le Clézio: Người khổng lồ cuối cùng của văn chương Pháp
Cập nhật: 10/10/2008 - 10:02 - Nguồn VietNamNet.vn
... văn chương thời kỳ đầu, ông thường được kể là một trong các nhà văn tiên
phong (avant-garde), song trên thực tế khó mà khu biệt được sáng tác của ông.
Chủ đề sáng tác của Le Clézio là xuyên văn... giới, Le Clézio chọn thế đứng
ngoài giới văn chương thời thượng. Trong một bài viết năm 1965, ơng viết:
“Chưa chắc liệu viết văn có phải là một cách tốt để biểu đạt hay không.” Văn
của Le Clézio...- Le Clézio là người ít nhiều cùng thế hệ với các nhà văn lừng
danh thuộc trào lưu Nouveau Roman (Tiểu thuyết mới) của Pháp trong đó có
Georges Perec, Michel...
Giải Nobel Văn chương 2008 về tay nhà văn Pháp Le Clézio
Cập nhật: 09/10/2008 - 18:28 - Nguồn VietNamNet.vn
... Gustave Le Clézio, Nobel Văn chương 2008 Hôm nay, 9/10/2008, Viện Hàn
lâm Thụy Điển đã công bố người được trao giải thưởng Nobel Văn chương
2008. Đó là Jean-Marie Gustave Le Clézio, nhà văn người Pháp,... nhất của Le
Clézio có thể kể là Le Procès-Verbal (1963), từng vào đến chung khảo giải
thưởng Goncourt và cũng là cuốn sách đã giúp ông đoạt giải Renaudot cùng
năm đó. Le Clézio được cho là nhà văn... Thụy Điển ca ngợi Le Clézio là “tác
giả của những sự ra đi mới, cuộc phiêu lưu thi ca và hứng khởi xuất thần nhục
cảm, người khai phá một nhân loại bên ngoài và bên dưới nền văn minh đang
thống...
...
Hiện tượng mới của văn học trẻ Pháp
Cập nhật: 20/07/2007 - 07:12 - Nguồn vnMedia.vn
...(VnMedia) - Được nhìn nhận như một hiện tượng của giới văn trẻ Pháp, “Đá
tiên tri” đã trở thành cuốn best-seller khi bán hết 20.000 bản tại Pháp và 60.000
bản tại Đức trong lần in đầu tiên.... Bóng tối đang bao phủ vùng đất... Điều ngạc
nhiên cho giới văn chương Pháp, tác giả của cuốn sách mới chỉ là thiếu nữ trẻ
tuổi, người đọc có thể dễ dàng nhận thấy được dấu ấn tâm lý lứa tuổi... Chống
lại Hội Đồng Mười Hai, tìm ra Người Được Chọn và giải cứu vùng đất Fairytale
huyền thoại... Cùng chàng Adrien dũng cảm, Jade, Amber và Opal tiến về
Fairytale, dù biết điều gì đang đợi mình...
Nguyễn Huy Thiệp nhận Huân chương Văn học Nghệ thuật Pháp
Cập nhật: 09/07/2007 - 02:34 - Nguồn vnExpress.net
... tại Tòa đại sứ Pháp. Đây là sự ghi nhận của chính phủ Pháp cho những đóng góp
của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đối với hoạt động quảng bá văn hóa trong khn khổ
khối Pháp ngữ. Ơng là người có cơng... có cơng lớn trong việc quảng bá văn học và
văn hố Việt Nam tại Pháp và trong khn khổ cộng đồng Pháp ngữ. Năm 1990, bản
dịch Tướng về hưu được xuất bản tại Pháp, sau đó là: Trái tim hổ, Sói... mà cơng chúng
nước này có điều kiện khám phá nền văn học đương đại, đất nước, con người và
những giá trị văn hoá truyền thống nhân văn sâu sắc của Việt Nam. Nguyễn Huy Thiệp
sinh ngày 29/4/1950...
...Tiểu thuyết gia người Pháp Jean-Marie Gustave Le Clezio (VnMedia) - Hôm nay
9/10, Tiểu thuyết gia người Pháp Jean-Marie Gustave Le Clezio đã giành được Giải
Nobel Văn học 2008 nhờ các... trị của nền văn minh”. Tên tuổi của Le Clezio bắt đầu
được biết đến với tác phẩm “Sa mạc” vào năm 1980, một tác phẩm mà viện Hàn lâm
đánh giá là “chứa đựng những hình ảnh tráng lệ của một nền văn... đối lập với sự mô tả
về châu Âu qua con mắt của những người di cư”. Tác phẩm trên của ông đã nhận
được một giải thưởng của Viện Hàn lâm Pháp. Le Clezio còn viết một số tác phẩm về
trẻ em, trong...
Nhà văn Pháp đoạt giải Nobel Văn học 2008
Cập nhật: 09/10/2008 - 19:32 - Nguồn vnExpress.net
... kiến độc giả do Tạp chí Văn học Lire (Pháp) thực hiện năm 1994, Le Clézio được
13% số người tham gia bầu chọn là nhà văn đương đại lớn nhất của Pháp. Trong đời
thường, nhà văn sống bình lặng, có... Hàn lâm khẳng định, Nobel Văn học 2008 đã
được trao cho "tác giả của những điểm xuất phát mới, của cuộc phiêu lưu đầy chất thơ
và những trạng thái xuất thần của cảm xúc; người khám phá một nhân... ngoài nền văn
minh đang ngự trị". Jean-Marie Gustave Le Clézio sinh năm 1940 ở Nice, Pháp. Sau khi
tốt nghiệp đại học, ông sang Mỹ sống bằng nghề dạy học. Nhà văn Jean-Marie Gustave
Le Clézio....