Sự tích con sư tử
Thuở xưa, có một hồng tử mới mới lên ngơi hồng đế. Ngay lập tức chàng muốn đi học phép thuật để củng cố đất
nước. Chàng đi tìm một ơng thầy bùa chú rất nổi tiếng về phép thuật để học.
Hồng hậu rất buồn vì ý định của hồng đế vì nàng sợ sự chia ly, vả lại trên đường đi có rất nhiều nguy hiểm, khó
khăn. Nhưng chàng đã quyết và một ngày kia lên đường cùng với bốn người tuỳ tùng.
Đường đi rất khó khăn, vì phải qua những sa mạc rộng lớn và đi vào những vùng rừng sâu đầy thú dữ... nhưng vì họ
quá khao khát phép thuật, quyền hành sau này, cho nên những khó khăn chẳng cản được họ.
Ba tháng cực khổ, đói và khát, hồng đế và bạn hữu chàng đến chỗ của thầy tu. Vị thầy nầy cảm động vì sự dũng cảm
của họ nên chấp nhận cho họ học nghề. Nhưng ông ra một điều kiện: họ phải hứa xử trí một cách đạo đức, khơng bao
giờ giết sinh vật nào cả. Nếu tay họ chỉ một lần vấy máu thơi, thì tất cả phép thuật sẽ biến mất đi. Hoàng đế đồng ý.
Sau khi học những phép thuật, họ vui mừng, lên đường trở về cung điện. Nhưng đi một tháng sau, họ lạc trong một
khu rừng dày đặc. Họ không nhận ra những đường xưa nữa, và thấy tất cả vật xung quanh họ đều lạ lùng. Lúc đó,
hồng hơn giăng bủa và đêm khuya bỗng nhiên ôm trùm cả phong cảnh rừng tối om. Những vòm lá ngàn cây che mịt
mù cả trời đen thui, không cho thấy những ngôi sao nào để mà nhắm hướng. Xung quanh họ bắt đầu vang lên hàng
trăm thứ tiếng của thú rừng.
Hoàng đế và các bạn hữu chàng bắt đầu sợ và bàn với nhau dùng phép thuật để biến thành một con thú vật rất mạnh
bạo, to lớn, dữ tợn, có thể tự bảo vệ, và làm khiếp sợ những con thú khác. Vì thế, hồng đế bắt đầu biến thành đầu
một con vật, bờm tóc, như vương miện... Ông đại tướng làm theo ngay và biến thành thân người của con động vật
ấy... bốn người tùy tùng kia thì biến thành bốn chân... cịn lại ông thầy địa, do dự một lúc, rồi biến thành cái đi.
Con vật ấy có dáng đi hùng dũng như một vị vua nên các con thú rất sợ và khơng tấn cơng nó.
Hồng đế và mấy bạn bè ở như vậy suốt cả đêm dài. Nhưng lúc gần sáng, thì có một con nai non đi qua gần đó. Con
sư tử rất đói vì cả ngày chưa ăn, bỗng chìa cánh tay ra, bắt con nai bằng vuốt nhọn, và hai tay giữ mạnh, cắn cổ nai
và xé thịt ăn ngon lành...
Mõm nó cịn đỏ máu lúc mặt trời dần dần thức dậy. Nó muốn biến lại thành người để tiếp tục đi về cung điện. Nhưng
đột nhiên nó nhớ lại là nó đã dùng phép thuật để giết một con thú vật rồi. Lúc đó nó mới biết là nó sẽ khơng bao giờ
trở thành người lại được nữa, và luôn luôn phải sống làm kiếp con sư tử...
Sự tích hoa chua me đất
Ngày nào cũng phải ăn một thứ cỏ ba lá và gặm nhấm mãi vỏ cây hồ đào, Thỏ Cơxơi chán ngấy lên rồi. Nó bèn mò
vào vườn bắp cải mới trồng của một bác nông dân. Nhiều bắp cải non đã bị thỏ xơi gọn. Bỗng bác nơng dân xuất hiện.
Bác khốt tay nói:
- Côxôi ơi, - bác nông dân bảo con thỏ đã ăn no bụng và lúc này đang chùi mép - Ta và mi chưa có giao kèo gì với
nhau cả. Ta trồng bắp cải đâu phải cho mi. Nếu như mi cứ ăn mãi như vậy thì ta sẽ trắng tay, mùa thu lấy gì mà làm
dưa?
- Làm dưa ư? - Thỏ ngạc nhiên - Cải bắp cũng làm dưa được sao? Hẳn là phải ngon lắm nhỉ?
- Bây giờ chưa phải thời kỳ làm dưa. Tốt nhất mi đừng có đụng tới vườn rau của ta nữa, mùa đơng tới, mi hãy lại đây,
ta sẽ cho ăn dưa bắp cải.
Thỏ hứa là sẽ không phá vườn rau. Mùa hè, nói chung nó ít phải lo lắng, vì cỏ ba lá ngồi đồng rất sẵn, cịn cỏ trên
các cánh đồng cũng không hiếm. Nghĩ vậy, thỏ vẫy vẫy cái đuôi ngắn tũn một cách sung sướng.
Thế rồi mùa đông tới, thỏ tìm gặp lại bác nơng dân để xin bắp cải muối dưa và đã được bác chiêu đãi một bữa luý tuý.
Từ đó thành lệ, ngày nào thỏ cũng được ăn dưa bắp cải. Nhưng mới tới lễ Giáng sinh, toàn bộ số bắp cải muối trong
thùng đã hết nhẵn, thế là mùa đông chưa qua, mà thức ăn trong nhà đã chẳng cịn gì.
Thấm thoắt đã sang mùa xuân. Bác nông dân bảo thỏ:
- Thỏ ơi, ruộng nhà anh rộng hơn ruộng nhà tôi, vậy nên trồng bắp cải đi.
- Nhưng tôi không có cải giống - Thỏ buồn rầu đáp.
- Đến Riga mà mua. Mùa xuân nào tôi chẳng mua giống ở đó.
Bác nơng dân tìm cách thốt khỏi thỏ. Thỏ kiếm đâu ra tiền để mua vé tàu? Nhưng chú thỏ này của chúng ta không
đến nỗi ngốc nghếch, mặc dù đơi tai của nói ngắn hơn so với đơi tai của đồng loại. Nó hăm hở đứng ở nhà ga để chờ
tàu và nó thấy bất kỳ ai đến nhà ga cũng đều bỏ tiền ra mua vé.
- Các bác định làm gì với những chiếc vé này? - Nó hỏi.
- Chúng tôi đến Riga - mọi người đáp.
- Thế lên tàu khơng có vé, được chứ? - Thỏ hồi hộp
- Không thể được
Thật chả ra sao! đành phải quay về thôi, không cần đến Riga, không cần mua bắp cải giống nữa. Nó ngồi xuống bên
đường và lau nước mắt. Bỗng có tiếng thét kinh hồng vang trên đầu nó: "Chó săn đấy!" Thỏ thấy lạnh tốt ở chỗ
đi, toan trốn chạy, song nó lại đứng ngây ra ở bên cột đèn. Và cũng thật lạ thay. Không phải là chó săn mà là
những ngơi nhà nhỏ di động trên các bánh xe tiến về phía nhà ga, cịn mọi người thì vội vã leo lên đó.
"Họ đến Riga đấy!" - Thỏ ngạc nhiên nghĩ.
- Chúc lên đường may mắn! - Thỏ hét to khi tàu chuyển bánh.
"Gượm đã, mà vì sao ta lại khơng đến chơi Rừng Thú nhỉ?" - Thỏ nghĩ và nhảy luôn lên xe hoả, ngồi nghiêm chỉnh như
Thượng đế. "Ê, ta muốn đến tận Riga cơ, đời thỏ của ta khơng cịn gì hơn thế".
Và thế là thở cảm thấy vô cùng thú vị khi được ngồi trên tàu hoả, quên luôn cả ý định xuống chơi Rừng Thú. Cịn đồn
tàu thì cứ từ từ tiến về phía nhà ga.
Tới nhà ga, Thỏ vội vã tìm quầy bán cây giống.
- Anh bạn trẻ cần gì? - Người bán hàng hỏi một cách lịch sự.
- Tôi cần cây bắp cải giống - Thỏ nhỏ nhẹ đáp.
- ở đây nhiều thứ cải giống lắm. Tơi có thể giới thiệu để anh mua cải bắp, súp lơ, cà rốt. Anh bạn trẻ muốn cà rốt nhé?
Mùa hè có thể ăn lá, mùa đơng thì gặm lõi bắp cải được đấy.
- Chị khơng có bắp cải giống nào khác nữa à? - Thỏ dè dặt hỏi.
- Không - Người bán hàng khốt tay.
- Tơi cần bắp cải muối dưa - Thỏ không giấu diếm nữa.
- Anh cần bắp cải muối dưa ư? - người bán hàng thốt lên với một giọng dễ nghe - Thứ đó chúng tơi vẫn thường cho
khơng. - Vừa nói chị ta vừa lục trong túi giấy số bắp cải cịn sót đưa cho thỏ và dặn thêm - Đưa về trồng, đợi đến Lễ
Giáng sinh sẽ có dưa chua ăn.
Thỏ hí hửng trở về nhà. Nó đem trồng bắp cải ngay trên khu đất đồi ẩm ướt rồi tự ngồi canh gác để muông thú khỏi
đến phá phách. Vợ thỏ cùng với lũ con suốt từ sáng đến tối ra sức tưới tắm cho bắp cải. Khi một cây cải ba lá bắt đầu
cuốn, thỏ liền nhổ lên:
- Sói sẽ xé xác ta, nếu đây không phải là bắp cải muối dưa thật sự - Thỏ vừa nói vừa thong thả nhấm chiếc lá nhỏ xíu.
Giờ thì cả nhà thỏ khơng rời mắt khỏi vườn bắp cải, suốt mùa hè chúng được mặc sức thưởng thức cải muối dưa và
luôn tấm tắc khen ngon.
Thỏ ta rất dương dương tự đắc. Nó mời từng người một tới nhà ăn cải bắp muối dưa và luôn mồm kể chuyện nó đã
đến Riga mà khơng mua vé như thế nào.
Từ đó, cây bắp cải của thỏ được mang cái tên là Hoa Chua Me Đất còn những hành khách đi tàu không chịu mua vé,
ấy là họ hàng nhà Thỏ.
Sự tích hoa Nhài
Từ thuở xa xa, tất cả các lồi hoa đều có màu trắng. Nhưng một ngày kia có một hoạ sỹ đã đến khu vườn mang theo
một hộp to đựng các loại mực màu và một nắm bút lơng. Chàng nói với các lồi hoa và các khóm hoa:
- Tất cả hãy lại gần ta và nói cho ta biết ai thích màu gì.
Lập tức các đám hoa và cây cối trong vườn bèn đứng vào chỗ theo hàng lần lượt, bởi vì lồi nào cũng muốn chọn cho
mình thứ màu rực rỡ nhất. Chỉ có Nhài là đứng gần hoạ sỹ hơn cả. Nó nói rằng, nó muốn hoa của nó phải có màu
vàng vàng như màu của tóc của thần Mặt Trời mà nó hằng yêu mến.
- Mi dám cả gan len lên trước nữ hoàng Hoa Hồng? - hoạ sỹ đẩy Nhài sang một bên.
- Tôi không hề len lách, tôi từng đứng ở đây nhiều năm rồi, - Nhài tức giận đáp lại.
- Nhưng mi cần phải hiểu rằng, ai là ngời có quyền được đứng lên hàng đầu - Hoạ sỹ giải thích - Mi phải chịu hình phạt
đứng cuối và muốn gì thì phải xin ta.
- Ngài nhầm rồi, thưa ngài, tôi sẽ không cầu xin ai hết - Nhài trả lời và vẫn đứng yên tại chỗ cũ.
Họa sỹ trò chuyện rất lâu với các chị Hoa Hồng. Các bà hồng kiêu hãnh này khơng chọn cho mình được một thứ màu
nào cả! Họ muốn cả màu đỏ thắm, màu vàng, màu hồng rồi màu da cam. Họ chỉ chê màu xanh lá thơi, bởi đó là thứ
màu q xuềnh xồng, q kiểng. Ðể màu xanh lá khơng khỏi uổng phí, hoạ sỹ bèn đem quét lên hoa Lu Ly và hoa
Xa Cúc, mặc dù hai loài hoa này rất mê màu đỏ thắm. Nhưng hoạ sỹ cứ khăng khăng rằng, với các anh chị nhà quê
này thì màu xanh lá là hợp hơn cả.
Hoa Anh Túc mỉm cười thật nhã nhặn với hoạ sỹ và hoạ sỹ đã phóng tay phết màu thật dày lên người nó. Hoa Cẩm
Chướng thì hết lời phỉnh nịnh hoạ sỹ và nó đã được đền bù một cách xứng đáng. Hoạ sỹ lưu lại ở khu vườn mấy hôm
liền, và chàng đã ban phát cho các loài hoa đủ loại màu sắc khác nhau.
Hoa Ngu Bàng lá rộng thì lại tỏ ra rất mực khiêm tốn. Khi được hỏi thích loại màu gì, nó chỉ đáp cụt lủn: "Màu gì cũng
được!". Hoạ sỹ bèn bơi màu xám cho nó rồi hỏi nó có hài lịng khơng, nó chỉ nói: "Tơi biết, tất cả các màu mực có sắc
rực rỡ, chàng đã gần cạn. Nếu ai cũng thích rực rỡ như nữ hồng Hoa Hồng thì khơng cịn ai nhận ra được vẻ đẹp
riêng của từng lồi hoa nữa!"
Những nàng Păngxê bé xíu vây quanh hoạ sỹ và chào mời rất lịch thiệp. Ðối với hoạ sỹ, chúng chẳng khác những đứa
em gái bé bỏng, và chàng đã dùng sắc màu biến chúng thành những bông hoa nho nhỏ vui nhộn.
Hoa Tử Ðinh Hương lại muốn trả ơn hoạ sỹ theo cách riêng của nó, nếu chàng khơng tiếc màu cho nó:
- Về mùa Xn, chàng có thể bẻ cành của tơi và đem tặng người yêu của mình được đấy. - Tử Ðinh Hương nói - Cành
của tơi càng được bẻ nhiều thì tơi càng khoe sắc lộng lẫy.
- Mi nói năng bất nhã lắm, vậy mi phải mang màu trắng, - hoạ sỹ giận dỗi gạt Tử Ðinh Hương sang một bên. Nhưng
rất may là nó đã được các chị gái của mình ban tặng cho những thứ màu tuyệt vời.
Hoa Bồ Công Anh dâng lên hoạ sỹ một cốc Xmêtana (váng sữa).
Hoa Nhài chỉ biết trịn mắt nhìn hoạ sỹ chuyển giao cơ man nào là màu vàng, loại màu mà Nhài vốn u thích, cho Bồ
Cơng Anh.
Trong lúc mải mê với màu vàng, hoạ sỹ bỗng sực nhớ tới Nhài, loại hoa đầu tiên mà chàng đã gặp.
- Thế nào cô bạn? - Hoạ sỹ nhếch mép cười với Nhài - Thứ màu này cịn ít lắm, nhưng nếu mi tỏ ra biết điều, ta sẽ cho
tất.
- Ta không cần cầu xin. - Nhài đáp.
- Vậy là sao? - Thái độ bướng bỉnh của Nhài khiến hoạ sỹ bực mình - Thôi được, nếu mi không dám nêu yêu cầu của
mình thì mi hãy phục xuống đất, cho dù phải chịu cịng lưng.
- Tơi thích õng ẹo chứ khơng muốn cịng lưng! - Nhài kiêu hãnh đáp lại.
Hoạ sỹ vì quá tức giận đã trút tất cả màu vàng còn lại vào mặt Nhài và hét:
- Mi là cái thá gì mà khơng chịu cầu xin và hạ mình! Vậy vĩnh viễn với mi sẽ chỉ là màu trắng!
Vì thế Hoa Nhài mảnh dẻ vẫn mang những cánh trắng muốt mà chúng ta vẫn thấy ngày nay.
Cô gái vàng
Ngày xưa có một nguời thợ rèn nghèo, khơng có nổi một túp liều để ở. Vo con anh thường xuyên đói rét. Một hơm q
quẫn trí người thợ rèn đem mấy đồng tìên cuối cùng ra mua một đoạn dây thừng, định chấm dứt cuộc đời của mình.
Nguời thợ rèn vào rừng, tìm một cành cây to và treo sợi dây thừng lên. Trứơc khi cho đầu vào chiếc thòng lọng, bỗng
nhiên anh ta thấy ở dưới đất hiện lên một người đàn bà da đen. Bà ta nói với người thợ rèn:
- Anh chàng thợ rèn ơi! Hãy dừng tay lại!
Người thợ rèn giật mình, bng dây thừng. Ngay lúc đó, người đàn bà da đen biến mất. Người thợ rèn không biết bà
ta đi đâu, bèn cho đầu vào thịng lọng; liền đó người đàn bà da đen xuất hiện và lấy ngón tay đe doạ người thợ rèn:
- Ta đã nói với anh rồi, anh chàng thợ rèn tội nghiệp ạ! Anh phải sống chứ!
Nghe vậy, người thợ rèn tháo dây thừng quấn lại và quay về nhà. Trên đường về, anh ta tự nghĩ thầm là hiện nay ở
nhà chỉ có đói khát đang chờ đợi anh. Tốt nhất là treo cổ chết còn hơn là phải chết đói! Bởi thế, người thợ rèn lại quay
vào khu rừng tìm một cành cây to và ném sợ dây thừng lên, rồi buộc một chiếc thòng lọng.
Vừa lúc ấy, ở dưới đất lại xúât hiện người đàn bà da đen. Lần này, bà ta nghiêm khắc nói:
- Tại sao anh không nghe lời ta, hỡi anh chàng thợ rèn?
Người thợ rèn buồn rầu trả lời:
- Bà là ai mà tơi phải vâng lời bà? Gia đình tơi sắp chết cả rồi!
- Khơng phải chết đói cả đâu mà sợ! Tơi sắp sửa cho anh nhìêu tiền, nếu như anh muốn. Nhưng anh phải trả lại ta
một cái gì trong nhà của anh mà anh chưa biết.
Quả thật, người đàn bà da đen đưa cho anh chàng thợ rèn một túi tiền. Túi quá nặng, khiến anh không thể nào vác đi
một cách dễ dàng được. Anh vui vẻ cám ơn người đàn bà da đen rồi vội vã mang túi tiền về nhà.
Thấy người thợ rèn bước đi, người đàn bà dặn với:
- Anh thợ rèn ơi, đừng quên lời hứa đấy. Cái gì ở trong nhà mà anh chưa biết là thuộc về ta đấy nhé!
Người thợ rèn về đến nhà. Anh hồi hộp mở cái túi ra, thấy có rất nhìêu tìên vàng. Anh mừng rỡ không sao kể xiết.
- Cái túi tiền này đủ làm chúng ta sống hạnh phúc! Vợ người thợ rèn trông tiền vàng kêu lên và vui vẻ chỉ cho chồng
thấy một đứa bé gái có mái tóc bằng vàng nằm trên tay: Đó là đứa con gái nhỏ của họ vừa mới ra đời. Trông thấy đứa
bé, người thợ rèn buồn rầu, vì anh biết người đàn bà mong muốn điêu gì rồi.
Thấm thốt, đứa bé đã lên bảy tuổi và có tên là cơ gái vàng. Một hôm, người dàn bà da đen đi chiếc xe ngựa cũng
màu đen, đến nhà người thợ rèn.
- Ta đến đón con gái anh đây! – Bà ta vừa nói với người thợ rèn và lôi tay cô gái vàng lên xe ngựa. Mặc cho cha mẹ và
chị gái các cô gái vàng khóc lóc, van xin, người đàn bà da đen vẫn khơng động lịng thương xót. Bà ta lấy roi đánh
ngựa và chiếc xe đen chuyển bánh.
Người đàn bà da đen đưa cô gái vàng đi mãi, đi mãi. Họ đến một khu rừng rậm rạp và dừng lại trứơc một toà lâu đài
màu đen đồ sộ. Bà ta nói với cơ gái vàng:
- Trong lâu đài có một trăm căn phịng. Con chỉ được phép vào chín mươi chín căn phịng, trừ căn phịng cuối cùng,
nếu con vào căn phòng thứ một trăm, con sẽ bị trừng phạt khủng khiếp. Bảy năm nữa ta sẽ quay lại đây kiểm tra sự
trung thực của con.
Nói xong, người đàn bà da đen đi thẳng.
Cơ gái vàng sống một mình trong lâu đài khơng đến nỗi khổ sở. Cơ có đầy đủ thức ăn và chín mươi chín căn phịng.
Cơ khơng bước vào căn phòng thứ một trăm. Bảy năm đã trơi qua và cơ khơng hề gặp tai nạn gì.
Một hôm, người đàn bà da đen đến và hỏi cô gái vàng:
- Con có vào thử căn phịng thứ một trăm không?
Cô gái vàng trả lời:
- Không ạ!
- Con ngoan lắm. Con đã biết nghe lời khuyên của ta. Bảy năm nữa, ta sẽ quay lại đây. Nếu con giữ được lời hứa, thì
mọi chuyện sẽ tốt đẹp. Nếu con bước vào căn phịng thứ một trăm thì con sẽ phải chịu những hình phạt khủng khiếp
hơn cả cái chết đấy!
Người đàn bà da đen nói xong liền đánh xe đi và bảy năm sau mới quay lại lâu đài. Bảy năm lần thứ hai trôi đi rất
nhanh. Ngày cuối cùng của kỳ hạn, người đàn bà da đen sẽ quay lại, cơ gái vàng rất sung sướng vì cơ đã vâng lời bà
ta. Cô tin rằng, cô sẽ được bà ta trọng thưởng. Bỗng nhiên, cô gái vàng nghe thấy tiếng nhạc du dương.
- Ai chơi nhạc hay vậy?
Cô gái ngạc nhiên kêu lên. Cọ đi về phía tiếng nhạc và đến cửa căn phòng thứ một trăm, trong phịng vọng ra tiếng
nhạc quyến rũ. Cơ gái vàng như mất hồn, thẫn thờ mở cửa căn phòng và bỗng nhiên giật mình, đứng sững lại ở
ngưỡng cửa. Trong phịng có mười hai người đàn ơng da đen đang ngồi quanh bàn và người đàn ông da đen thứ mười
ba đứng phía sau cánh cửa.
- Con bé kia! Con bé kia! Mày đã làm cái gì thế? Ai cho mày vào căn phịng này? – Gã đàn ơng da đen thứ mười ba
quát lên.
Cô gái vàng khiếp đảm, đứng nép vào cánh cửa và sợ hãi hỏi lại:
- Trời ơi, cháu phải làm gì bây giờ?
Gã dđµn ơng da đen thứ mười ba gào lên:
- Mày khơng được nói với bất kỳ ai về chuyện chúng ta ở đây! Nếu mày khơng giữ mồm, giữ miệng thì mày sẽ phải
chịu những hình phạt cực kỳ khủng khiếp! Thơi cút đi! Cút đi! Mày chỉ có câm lặng mới chuộc lại tội lỗi này của mày!
Cơ gái vàng kinh hồng đóng cửa lại. Ngay lúc đó, cơ nghe tiếng xe ngựa ngoài sân. Người đàn bà da đen bước vào.
Bà ta như đã đốn được chuyện gì, liền hỏi cơ gái:
- Con đã nhìn thấy gì ở trong căn phịng thứ một trăm?
Cô gái vàng im lặng lắc đầu.
- Được rồi, nếu mày khơng muốn nói thì từ nay trở đi, mày sẽ trở thành một kẻ câm. Mày chỉ được phép nói với ta mà
thơi!
Người đàn bà da đen đùng đùng nổi giận và đuổi cô gái vàng ra khỏi lâu đài.
Cô gái vàng ra đi mà chẳng biết mình đi đâu. Cơ cứ bước đi hồi, cho đến bãi cỏ xanh. Cơ ngồi xuống, nức nở khóc và
thiếp đi vì mỏi mệt. Lúc ấy, nhà vua trẻ đang đi săn gần bãi cỏ. Ngài trông thấy cô gái vàng xinh đẹp đang ngủ. Nhà
vua đem lịng u cơ gái. Mặc cho cô gái bị câm, nhà vua cứ đưa về lâu đài của mình và phong nàng làm hồng hậu.
Cơ gái vàng sống hạnh phúc trong lâu đài nhà vua. Chưa đến một năm sau, cô sinh được một cậu con trai xinh đẹp,
có mái tóc vàng và ngôi sao cũng bằng vàng trên trán. Cả lâu đài đều vui mừng vì có hồng tử xinh đẹp. Ngay đêm
ấy, người đàn bà da đen lần đến giường hoàng hậu và đe doạ:
- Nếu mày không thú nhận là mày đã vào căn phịng thứ một trăm, thì ta sẽ giết chết đứa bé này!
Nghe người đàn bà da đen nói vậy, cơ gái vàng hoảng sợ. Nhưng cơ chỉ im lặng lắc đầu, vì cơ cịn nhớ rõ lo đe doạ của
gã đàn ông thứ mười ba trong căn phòng thứ một trăm.
Người đàn bà da đen liền mang đứa bé ra bãi cỏ giết đi, bà ta lấy máu của đứa trẻ, bôi lên miệng cô gái vàng, rồi
mang xác đứa bé biến mất. Sáng hôm sau, cả lâu đài hoảng sợ vì khơng tìm thấy hồng tử nhỏ ở đâu. Mọi người thấy
máu dính trên miệng hồng hậu. "Có lẽ bà ta đã ăn thịt con chăng?", những người hầu cận thì thầm nhận xét với nhau
và chẳng có ai to gan nói lên những mối nghe ngờ đó. Nhà vua cũng chẳng thanh minh gì đựơc.
Năm sau, hồng hậu sinh hạ một cơ con gái có mái tóc vàng va có ngơi sao trên trán. Cả lâu đài vui mừng, nhưng
ngay sau đó,ai cũng lo mất cơng chúa nhỏ. Nhà vua sai lính gác cẩn mật phịng hồng hậu. Nhưng đều phí cơng. Đêm
ấy, người đàn bà da đen lại xuát hiện. Bà ta doạ nạt hồng hậu:
- Nếu mày khơng là mày đã vào căn phịng thứ một trăm, thì tao sẽ giết con bé này!
Hoàng hậu dàn dụa nước mắt và lắc đầu. Người đàn bà da đen lìên mang đứa bé ra bãi cỏ giết đi, bà ta lấy máu của
đứa trẻ, bôi lên miệng cô gái vàng, rồi mang xác đứa bé biến mất. Sáng hôm sau, cả lâu đài khiếp sợ. Tin đồn hoàng
hậu ăn thịt con đến tai nhà vua. Nhà vua đùng đùng nổi giận và ra lệnh trị tội cô gái vàng. Nhà vua sai người đốt cháy
cơ gái ngồi thành phố. Cơ gái vàng chỉ biết khóc. Cơ bị câm nên khơng nói được nỗi oan ức của mình. Chẳng có ai
thương hại hồng hậu, dù hồng hậu khóc lóc.
Tên đao phủ dẫn cơ gái ra chỗ hành quyết, thì người đàn bà da đen xúât hiện. Bà ta nói với cơ gái:
- Hãy thú nhận là đã vào căn phòng thứ một trăm, nếu mày cịn chối thì mày phải chịu tội chết!
Cơ gái vàng vẫn trơ trơ như đá, cô chỉ lắc đầu để trả lời người đàn bà da đen.
Tên đao phủ trói cô gái vào cột và chất củi đốt. Khi ngọn lửa bùng cháy dưới chân cơ gái vàng, thì người đàn bà da
đen bỗng nhiên quát to:
- Dập tắt lửa đi! Dập tắt lửa đi!
Nghe thấy tiếng quát, mọi người kinh ngạc. Tên đao phủ dập tắt ngọn lửa và cởi trói cho cơ gái vàng. Người đàn bà da
đen mang hai đứa trẻ có mái tóc vàng và có ngôi sao bằng vàng trên trán ra. Bà trao hai đứa trẻ cho cơ gái vàng và
nói:
- Ta nguyên là một vị tiên nữ. Vì ta đã phạm tội, nên thượng đế đày xuống trần. Ta phải tìm ra một cơ gái biết im lặng
trong nhiều năm, dù cơ ta có bị giết, vẫn khơng nói một lời. Ta đã tìm ra được con. Con xứng đáng là người cùng ta
trải qua nhiều thử thách dưới trần gian. Hai đứa con của con vẫn còn sống. Hơm nay ta trao lại cho con. Đó là hạnh
phúc của con và cả của ta nữa, vì con đã biết im lặng. Con đã giải thoát cho các con của con và cho ta.
Nói xong người đàn bà da đen đánh xe đi thẳng.
Nhà vua kinh ngạc, không dám tin vào mắt mình. Cơ gái vàng vội kể lại cho nhà vua nghe câu chuyện. Nghe xong,
nhà vua cho mời hai vợ chồng người thợ rèn và các anh, các chị cơ gái vàng về lâu đài. Từ đó, họ chung sống với nhau
đến trọn đời.
Sự tích con trăn nhả nọc
Ngày xửa ngày xưa, có đơi vợ chồng mới cưới. Một hôm, anh chồng dẫn vợ về thăm nhà bố mẹ. Đường xa, họ phải
qua những cánh rừng rộng. Ở một quãng đường rừng hai người vừa đi qua có một con Trăn trườn ra liếm vào các vết
chân của hai người trên đất. Thế là hai vợ chồng vừa về đến nhà bố mẹ thì lăn ra chết. Bố mẹ anh em họ hàng đều
thương xót khóc than làm tang lễ.
Con Trăn biết được uy lực gớm ghê của nọc độc mình nên rất hợm hĩnh. Nó hỏi con quạ:
- Này anh quạ, tôi nghe như trong làng có tiếng người kêu lao xao. Họ kêu gì vậy anh?
Quạ biết Trăn có tính hnh hoang, bây giờ lại làm bộ khơng biết sự việc đó chính mình gây ra. Nó bảo trăn:
- À, họ cười vui đấy anh Trăn! Chẳng là xưa nay người ta vốn sợ nọc độc của anh, anh chỉ liếm theo vết chân trên đất
mà làm chết người được. Vậy mà vừa qua anh đã liếm vết chân của hai vợ chồng người ấy, nhưng người ta chẳng làm
sao! Đấy, vì thế người ta đang cười vui với nhau.
Trăn nghe quạ nói mà buồn nản và tự giận dỗi trong lịng. Nó nghĩ:
- Hừ, nếu bây giờ nọc của ta không linh nghiệm như trước nữa, thì cịn giữ nó làm gì? Phải nhả nó ra thơi, nhả hết!
Và một bữa nọ, Trăn đã nhả hết độc của mình. Các con vật như Rắn, Rết, Bò cạp, Kiến đen, Tò vò, Ong bò vẽ… biết
Trăn đã nhả nọc, chúng đua nhau đến hút lấy nọc độc của Trăn để làm sức mạnh cho mình. Một số con đến sớm hút
đựơc nhiều nọc, số đến chậm đựơc ít, chậm nữa thì khơng kịp hútđựơc gì. Những con vật hút được nhiều nọc nhất là
Rắn bông súng, Rắn đất, Rắn cá, Rắn chạc bò, Rắn đầu, Rắn cị, Rắn hoa bơi và Rắn bắt ng. Vì có quá nhiều nọc
nên chúng mổ vào người cũng như không, không chết cũng không đau. Đấy là do nọc nhiều quá, nó chạy lung tung
lạc khắp cả người nên loãng đi mất. Trái lại những con rắn hút được ít nọc hơn như Hổ Mang, Hổ Lửa, Hổ Trâu, Cạp
nong… thì rất nguy hiểm. Chúng đã cắn vào ai thì khó chữa khỏi. Một số con vật khác như Cá Trê, cá Nọc, cá Chốt, cá
Lăng, kiến Gánh, Rết, Ong… đến chậm chỉ cịn chút nọc đủ bơi vào miệng, vào vịi… Q lắm cũng chỉ có thể làm
người ta đau buốt chút ít. Xui nhất chính là mấy chú cá Trâm bầu và cá Trắm đến muộn quá chẳng hút đựơc tí nọc
nào, ức q phát khóc đến sưng vù mặt mũi như ta thấy ngày nay. Cá Nheo thấy thế tức cười quá cười hoài đến nỗi
rách cả miệng khiến cho miệng nó rộng như ngày nay như ta thấy, và mơi thì trề ra như mỏ con vịt.
Nhưng thua thiệt nhất vẫn là anh Trăn nhà ta. Chỉ có tính hnh hoang, hợm hĩnh mà bị chú Qụa đánh lừa, Trăn ta đã
nhả hết nọc thiêng! Từ đó con người cũng hết lo gặp nguy hiểm vì lồi Trăn nữa, Trăn đã trở nên lồi vật hiền lành.
Sự tích cái yên ngựa
(Truyện cổ Trung Quốc)
Ngày xưa có một vị quan tên là Hồ Lưu rất hung ác. Năm 62 tuổi, ông ta chết. Diêm chúa lật sổ ra thấy tội trạng còn
quá nặng nên bắt buộc ông ta đầu thai làm con ngựa. Ông Hồ Lưu (tức là con ngựa), lớn kên bị tên nài bạc đãi, thúc
đầu gối vào hông, cỡi không cần yên. Hồ Lưu buồn bã q, nhịn đói khơng ăn cỏ, ba bốn ngày sau thì chết.
Diêm chúa nổi giận:
- Thằng này trốn tội! Phải đền tôi cho đủ mới được trở về đây. Tự vận như thế là ăn gian!
Bèn cho Hồ Lưu hoá thai lần nữa, đầu thai thành con chó. Hồ Lưu tủi phận nhưng khơng dám tự vận như trước. Anh ta
nghĩ ra một kế: "Mình cứ cắn ơng chủ mình, ơng chủ nổi quạu, sẽ đập mình chết". Hồ Lưu thi hành như ý định. Chủ
nhà ngỡ là chó điên nên đập chết. Diêm chúa hay được, bèn sai quỷ sứ đánh vong hồn Hồ Lưu 50 hèo rồi phán:
- Mày phải đầu thai trở lại. Tội mày chưa trả hết mà mày đòi trốn hoài. Lần này, phải đầu thai trở lại làm con rắn.
Hồ Lưu liền bị nhốt trong ngục, bò tới bò lui. Sau rốt anh ta khoét hang vựơt ngục. Biết rằng tự tử hay cắn người đều
là trọng tội, anh ta bèn giả bộ bị ra ngồi, nằm giữa đường mà ngủ. Tình chờ một chiếc xe ngựa chạy qua, cán rắn
đứt làm đôi.
Diêm chúa phán:
- Bấy lâu nay mi cực khổ nhìêu q rồi. Ta khơng nỡ hành tội nữa. Vậy thì mi đựơc phép đầu thai về dương thế để làm
quan mà cai trị dân, lấy tên là Lưu Công.
Lưu Công lớn lên, học hành rất giỏi, đậu thủ khoa. Ông thường răn các người tuỳ thuộc, muốn cưỡi ngựa thì phải
mang yên, mang nệm. Ý của ông là khuyên răn các người bên dưới nên tử tế đối với dân, đừng hà lạm quyền hành
thúc ép mà đau khổ dân lành.
Truyền thuyết về trái Đào
(Truyện cổ Trung Quốc)
Lâu lắm rồi ở miền Bắc Trung Quốc nọ có một làng nhỏ nằm heo hút trên một ngọn núi cao chỉ vài gia đình sống ở
đó.Trong làng ấy có một chàng trai dũng cảm với trái tim tấm lòng nhân hậu tên là Đào tử. Mọi nguời trong làng đều
rất yêu mến chàng. Cũng ở trong làng ấy có một cơ gái tên là Tiểu Mỹ.
Tiểu Mỹ xinh đẹp, thông minh lại đàn hay hát giỏi. Đào Tử coi Tiểu Mỹ như em gái mình. Họ hay cùng nhau nói chuyện
và ca hát, dần dần họ yêu nhau từ lúc nào cũng không hay. Tiểu Mỹ và Đào tử yêu nhau lắm nhưng khổ một nỗi Tiểu
Mỹ lại là một nàng tiên và chẳng bao lâu nữa sẽ phải về trời. Do Tiểu Mỹ rất yêu Đào Tử nàng không muốn làm chàng
đau khổ cho nên một hôm Tiểu Mỹ lạnh lùng nói với Đào Tử rằng:Thực ra người mà em yêu phải là người cực kỳ dũng
cảm, nhưng anh lại khơng khống chế nổi tình cảm của em điều này cho thấy anh không phải là người dũng cảm nhất.
Khi nào anh trở nên dũng cảm nhất em sẽ quay lai với anh.Thế rồi từ đó họ khơng gặp nhau nữa.
Lời nói của Tiểu Mỹ in sâu vào trong lịng Đào Tử.Chàng ở vào thế tiến thối luỡng nan: Yêu Tiểu Mỹ nhưng nàng
không yêu, cố quên nàng đi nhưng không quên nổi. Trái tim chàng lúc đập rộn ràng lúc thì băng giá. Khn mặt
chàng đã mất dần màu máu, trái tim chàng đã bị cứng lại. Một hơm họ tình cờ gặp nhau Đào Tử nói cho Tiểu Mỹ nỗi
đau khổ của mình, chàng nói với Tiểu Mỹ: '"Trái tim anh đã băng giá và khô cứng. Anh rất yêu em, anh yêu em bao
nhiêu thì tim cứng bấy nhiêu. Anh khơng tin là em không yêu anh, anh chỉ muốn xem xem, trái tim em có phải vì Tình
u mà cũng băng giá. "Sống trên cõi đời này khơng cịn ý nghĩa gì đối với đơi trai gái này cho nên họ cùng móc trái
tim của mình ra cho nhau xem và cùng chết. Nguời dân cùng làng vì cảm động trước mối tình của đôi trai gái cho nên
đã chôn hai người cùng với nhau. Cùng đêm đó có một trận mưa lớn suốt đêm, dân làng nghe thấy có tiếng nói
chuyện ở ngoài đường cái nhưng chẳng ai dám ra xem là có chuyện gi? Thế rồi sáng hơm sau, trên ngơi mộ của đôi
trai gái mọc lêm một cái cây nhỏ, trên cây mọc đầy những bông hoa nhỏ màu hồng nhạt. Hoá ra là xác của Đào Tử
mọc thành cái cây .Dân làng vì để tưởng nhớ tới Đào Tử chàng trai dũng cảm đã lấy tên chàng đặt cho cái cây ấy. Cịn
về Tiểu Mỹ,nàng đã hố thành nhũng bông hoa màu hồng ấy. Sau khi chết linh hồn của nàng bay về trời nhưng nàng
vẫn còn lưu luyến với mối tình ở duới trần gian Vương mẫu nương nương cảm động trước tình cảm ấy đã phong cho
nàng cái tên Đào hoa nương nương tượng trưng cho Tình yêu.
Hè năm đó, trên cái cây ấy kết đày những quả có có hình trái tim gắn liền với nhau.Những người biết câu chuyện này
thường sợ cây Đào đau cho nên họ đợi cho quả Đào có màu đỏ và trở nên mềm thì mới ăn. Kỳ thứ trong quả Đào cịn
có một cái hạt cứng bảo vệ trái tim đã hố đá. Từ năm đó trở đi nguời dân ở đây coi hoa Đào là loại hoa tượng trưng
cho Tình yêu, gỗ của cây Đào dùng làm bùa tránh tà.
Bảy con quạ
Ngày xưa, có một người sinh được bảy con trai, nhưng khơng có con gái, cầu cũng chẳng được. Mãi về sau, vợ có
mang, bác ta chứa chan hy vọng, quả nhiên đứa con ra đời là gái. Hai vợ chồng mừng lắm, nhưng đứa con lại bé quá.
Vì thấy con yếu ớt, bố mẹ định làm phép rửa tội gấp cho con. Bố vội sai một đứa con trai chạy ra suối lấy nước.Sáu
đứa kia cũng đi theo. Bảy đứa tranh nhau múc nước, cái bình lăn xuống nước. Chúng không biết làm thế nào, không
đứa nào dám về nhà. Thấy con mãi không về, bố sốt ruột, nói:
- Mấy thằng ranh lại mãi chơi quên múc nước rồi.
Bố sợ con gái nhỡ chết không được chịu phép rửa tội, phát cáu, rủa con:
- Ước gì cả bảy thằng hố ra quạ tất!
Vừa nói bng lời thì nghe thấy tiếng vỗ cánh trên đầu và bảy con quạđen như than bay liệng. Bố đã trót rủa rồi, hối
lại khơng kịp nữa. Hai vợ chồng buồn vì mất bảy đứa con, nhưng được an ủi đơi phần vì thấy đứa con gái quý mỗi
ngày một khoẻ lên và đẹp ra. Bố mẹ giữ kín, giấu khơng cho cơ biết chuyện. Mãi sau cơ nghe thấy láng giềng xì xào
rằng cơ đẹp thật, nhưng vì cơ mà bảy anh cơ phải khổ, thì cơ mới biết rằng mình có anh. Bố mẹ khơng thể giấu con
được nữa, nói tránh ra rằng đó là lịng trời, và cơ sinh ra chẳng có tội gì.
Nhưng cơ em hằng ngày vẫn bị lương tâm cắn rứt và quyết tâm giải thoát các anh khỏi phù phép. Cô bứt rứt lắm, trốn
nhà ra đi khắp nơi mong tìm ra tung tích các anh để giải thốt các anh bằng mọi cách. Cơ chỉ mang theo một chiếc
nhẫn nhỏ làm vật kỷ niệm của cha mẹ, một cái bánh mì để ăn, một bình nước nhỏ để uống và một cái ghế con để ngồi
cho đỡ mỏi.
Cô đi mãi, đi mãi, đi đến tận cùng thế giới. Cô đi tới mặt trời, nhưng mặt trời nóng q. Cơ vội rời mặt trời và chạy tới
mặt trăng, nhưng mặt trăng lạnh lẽo qúa. Cô bé vội quay gót, đi tới các vì sao. Các vì sao tiếp cơ niềm nở, vị nào cũng
ngơì trên một cái ghế con. Sao Mai đứng dậy, cho cô một cái xương nhỏ và bảo cơ:
- Khơng có cái xương nhỏ này thì con khơng thể nào mở được núi Thuỷ Tinh là chỗ ở của các anh con.
Cô bé cầm cái xương, lấy khăn bọc cẩn thận, rồi đi mãi đến núi Thuỷ Tinh. Cửa núi đóng. Cơ cởi khăn tay ra để lấy cái
xương, nhưng không thấy nữa. Thế là cơ đã đánh mất món q của vì sao tốt bụng. Làm thế nào bây giờ? Cô muốn
cứu các anh mà chìa khố núi đã mất rồi. Cơ bèn rút dao ra, cắt một mẩu ngón tay đút vào ổ khố, thì mở được khố.
Cơ bứơc vào, thấy một người lùn ra hỏi:
- Con đến tìm gì ở đây?
- Con tìm các anh con là bảy con quạ.
- Bây giờ các ông quạ đi vắng, nhưng nếu con muốn chờ các ơng về thì con vào đây.
Người lùn sắp món ăn tối cho bảy ơng quạ vào bảy cái đĩa nhỏ và đặt bảy cái cốc nhỏ. Cô bé ăn ở mỗi đĩa một miếng
và ở mỗi cốc một hớp. Cô thả cái nhẫn mang theo vào cốc cuối cùng. Chợt cơ nghe thấy ở trên khơng có tiếng vỗ
cánh.
Người lùn liền nói:
- Các ơng quạ đã về đó!
Các ơng quạ về thật. Mỗi ơng đi tìm cốc đĩa của mình để ăn uống. Hết ơng nọ đến ông kia hỏi:
- Ai đã ăn ở đĩa của tôi? Ai đã uống ở cốc của tơi? Nhất định có người đụng đến cốc đĩa này.
Khi con quạ thứ bảy uống hết cốc, thì nó thấy cái nhẫn. Nó nhìn nhẫn chằm chằm và nhận ra là cái nhẫn của mẹ, bèn
nói:
- Cầu chúa cho em chúng ta ở đây thì chúng ta được giải thốt.
Qụa vừa nói xong, cơ bé đang đứng sau cửa liền bước vào. Tức thì đàn quạ lại hố ra người. Anh em ôm chặt lấy nhau
hôn nhau mãi, rồi vui vẻ cùng nhau lên đường về nhà.
Truyện nàng Pha-ti-ma
Ngày xưa, có một cơ gái xinh đẹp tên là Pha-ti-ma. Cơ chẳng những xinh đẹp mà cịn rất thơng minh. Mọi
người trong vùng ai ai cũng đều yêu mến Pha-ti-ma.
Một hôm, cô cùng năm người bạn gái vào rừng chơi, chẳng may bị lạc đường. Khi màn đêm buông xuống,
họ phát hiện phía trước có ánh lửa, bèn rủ nhau cùng đi tới đó. Đến nơi thì thấy một mà lão đang ngồi bên
đống lửa. Pha-ti-ma đến trước mặt bà ta nói:
- Bà có thể cho chúng cháu ở tạm đây một đêm không? Chúng cháu bị lạc đường.
- Ái chà, thật là tuyệt! Thượng đế đã ban thưởng chúng mày cho ta! Hãy đợi ta sửa soạn một món gì để
ăn nhé!
Nhận thấy có sự khác lạ trong lời nói của bà lão, nên trong lúc bà lão đi lấy thức ăn, nàng Pha-ti-ma để ý
quan sát chung quanh và liền thông báo cho các bạn phát hiện của mình:
- Các bạn, bà ta là mụ yêu tinh đấy, hãy đi khỏi đây mau lên trước khi bà ta trở ra và bắt hết cả bọn
chúng ta ăn thịt.
Cô và năm người bạn vừa tính đứng lên thì bà lão đã quay trở ra cùng một chiếc bánh thơm phức. Đặt
chiếc bánh trước mặt các cơ gái và nói:
- Chắc các cháu cũng đói lắm rồi. Bánh đây, các cháu đi, bánh thơm ngon lắm đấy!
Cả nhóm đưa mắt nhìn Pha-ti-ma.
- Kìa, các cháu sau lại khơng ăn bánh nhỉ? - Bà lão lại nói.
- Chúng cháu muốn được rửa tay trước rồi mới ăn ạ! - Pha-ti-ma nói, - chúng cháu được phép ra sông lấy
nước chứ ạ?
- Không được! Chúng mày ra sông để trốn đi à! - Bà lão hét lên.
Pha-ti-ma lại nói:
- Vậy bà hãy dùng dây trói chúng cháu lại, chúng cháu sẽ không trốn được, và bà hãy ra sơng lấy nước
giùm chúng cháu đi.
Nghe thấy có lý, thế là mụ phù thuỷ mang dây ra trói các cơ gái lại, nói:
- Ta chỉ cần giật chiếc dây này là biết ngay chúng mày cịn hay đã trốn đi!
Nói xong mụ đi ra sông lấy nước. Bà ta vừa đi vừa kéo sợi dây, tự đắc:
- Ha ha, vẫn cịn đó.
Đi được một lát, mụ phù thuỷ lại kéo dây, nói:
- Ha ha! Lũ chúng nó vẫn cịn đó.
Thế nhưng, Pha-ti-ma đã cởi trói cho các bạn và buộc sợi dây lên một thân cây, sau đó cùng các bạn chạy
ngay vào rừng. Khi mụ yêu tinh từ sông về, thấy các cô gái đều đã trốn sach liền hét lên ầm ĩ và tức giận
chạy đuổi theo. Các cô gái vẫn không hay biết và tiếp tục chạy về phía trước, cịn mụ u tinh truy đuổi
phía sau.
Họ chạy được một đoạn thì gặp một dịng sơng và con cá sấu hung dữ chắn ngang.
Pha-ti-ma đến gần sát mé sơng và nói với con cá sấu:
- Bạn sấu thân mến ơi, bạn hãy cõng giúp chúng ta từng người qua sơng có được khơng?
Cá sấu nói:
- Ta có thể đưa các người qua sông, nhưng các bạn cho ta cái gì nào?
Pha-ti-ma nói:
- Nhóm chúng tơi có cả thảy sáu người. Chỉ cần bạn cõng lần lượt năm người qua sơng thì cịn người thứ
sáu sẽ thuộc về bạn.
Nghe nói thế, sấu ta lấy làm vừa ý. Liền đồng ý cõng lần lượt các cô gái qua sông, cứ được một người lại
nói:
- Một rồi nhé!
Cứ vậy, sau khi cõng đến cô thứ năm qua sơng. Chuẩn bị cõng đến người thứ sáu thì sấu nói:
- Ha ha, bây giờ đến lượt ta ăn thịt mày đây!
Mụ yêu tinh vẫn đang bám riết các cô gái. Khi mụ chạy đến bờ sơng, khơng thấy bóng các cô gái, biết
rằng bọn họ đã qua được bên kia bờ sơng liền bị ngay lên lưng con cá sấu đang nằm chờ đấy, cá sấu
cõng ngay mụ ta ra giữa sơng, nói:
- Ha ha, đây là đứa thứ sáu hả!
Nói đoạn, cá sấu lặn xuống nước và ngoạm ngay mụ phù thuỷ. Lát sau sấu rên rỉ:
- Thịt con bé này khó gặm q, tồn xương là xương, sao ta lại khơng chọn đứa khác mà chén nhỉ?
Cịn về sáu cơ gái kia thì đã an tồn trở về làng. Nguyên nhân sáu người qua được đến bờ bên kia là khi
cá sấu đang mãi để ý đếm năm cơ gái cõng lần lượt trên lưng thì nàng Pha-ti-ma đã âm thầm bám theo
đuôi cá sấu cùng bơi sang bờ với cô gái thứ năm từ lâu.
Truyện cổ Châu Phi
Hoa phụng tiên
Niềm vui duy nhất trong đời của bà thợ cày Mađara là cô con gái Rôta. Rôta quả là một cô gái hiếm thấy - nước da
rám nắng, hay lam hay làm, tính tình xởi lởi. Mới sáng ra nàng đã gặt được gần nửa cánh đồng lúa, chiều đến, trên
đường trở về, nàng luôn miệng ca hát.
Việc luôn chân luôn tay, vậy mà cô gái cứ như bơng hoa bừng nở, có dễ kiếm khắp làng cũng khơng có bơng hoa nào
sánh được với nàng. Chính người làm vườn của trang trại cũng rất thích được ngắm nghía rừng hoa của Rơta đang độ
khoe sắc. Mặc dù tên điền chủ đã mang về nhà đủ loại hạt giống và cây non, nhưng loại hoa như của Rơta thì y lại
khơng có. Vậy nàng đã kiếm đâu ra? Rôta vừa mỉm cười vừa đáp:
- Bầy chim non đã mang hạt giống từ miền xa lạ về cho tơi đấy. Tơi khơng nói dối ngài đâu.
Về mùa Xn, khi đàn chim én bay đến sớm, hy vọng tìm nơi ấm áp trú ngụ, Rôta thường bắt chúng nhốt vào lồng,
đưa vào trong nhà nuôi dưỡng, chăm bẵm và khi mùa lạnh qua đi, nàng lại thả chúng về trời. Bầy chim thơ dại muốn
đền đáp ơn huệ của nàng Rơta tốt bụng, song nàng chỉ mỉm cười, nói:
- Ta cần thật nhiều loại giống hoa của các miền xa lạ. Chim hãy mang về cho ta!
Bầy chim đã giữ lời hứa. Rôta lấy làm sung sướng được chia sẻ với chị em vì sự phong lưu của mình. Người thì nàng
cung cấp hạt giống, kẻ thì nàng cho cây non. Nàng càng tỏ ra hào hiệp với mọi người bao nhiêu, hoa trong vườn nhà
nàng càng đơm hương, khoe sắc rực rỡ bấy nhiêu. Duy chỉ có Kexta, người đàn bà ở bên cạnh là nàng không bao giờ
cho một hạt giống nào, mặc dù bà ta có hỏi xin.
- Con ngặt nghèo với láng giềng gần như thế để làm gì? - Mẹ phàn nàn với Rơta, nhưng nàng lại đáp, giọng dứt khốt:
- Con sẽ khơng cho mụ rắn độc này dù chỉ là một bông hoa nhỏ.
Kexta không phải là rắn độc mà là chủ nuôi rắn. Ai cũng biết mụ ta thường nuôi đến bảy con rắn độc trong nhà và lần
lượt cho chúng bú sữa của mình.
Một hơm, sau khi đã bú no, con rắn đầu tiên nói nhỏ vào tai mụ :
- Vì sao hoa của nhà Rôta lúc nào cũng bừng nở, cịn hoa nhà bà thì khơng?
Kexta nổi cơn tam bành, dẫm nát hết vườn hoa của Rơta, thậm chí cả hàng rào cao bao quanh khu vườn mụ cũng phá
đi.
Con rắn thứ hai ỉ eo :
- Nếu bà có nhiều hoa đẹp, bà có thể đem ra chợ bán, bà sẽ thu được cơ man nào là tiền!
"Ôi, tiền! Tiền! Ta sẽ tích góp được nhiều tiền!" Kexta như một kẻ điên khùng. Lúc ấy có một người lạ mặt đói rách
ghé vào sân nhà mụ xin ăn, con rắn thứ ba xúi:
- Chớ có phung phí tiền của nhà mình, dù cho hắn chết ngay tại đây!
Người lạ mặt liền bỏ sang nhà khác xin ăn. Thế rồi con rắn thứ năm lại phun phì phì vào tai mụ những lời đường mật:
- Mẹ bà đã cịng lưng vì bà rồi, vậy bà làm việc để làm gì? Tốt nhất là bà nên nằm khệnh với chiếc chăn bông, gối
nhung kia mà nghỉ cho khoẻ.
Kexta nằm ườn ra giường. Con rắn thứ sáu lại khích bác bà:
- Láng giềng ở đây rất tốt bụng với nhau. Bà thử xúi họ cãi nhau xem sao.
Thế là Kexta vùng dậy, chạy ngay sang nhà ở Babenca vốn nhẹ dạ và hay ba tốc, ruột để ngồi da.
- Này, Babenca, ta đã bắt quả tang chồng mi hay trèo qua cửa sổ sang nhà con Rơta đó.
Mới nghe nói thế, cái lưỡi của Babenca đã liến láu tứ bên. Ả xộc ngay sang nhà kẻ tình địch. Nhưng con rắn thứ bảy
mới là đáng gờm nhất. Nó ln ln rủ rỉ bên tai Kexta:
- Phải bằng mọi cách quấy rối cuộc sống của con người. Làm sao cho cả ngày lẫn đêm họ không thể sống yên.
Và mụ Kexta đã nghĩ ra một quỷ kế. Mụ buộc con chó vào đầu một sợi dây ngắn và đặt cách con vật không xa lắm
một đĩa thức ăn thơm phức. Con chó ban ngày thì sủa ơng ổng, tối đến cứ rống lên thảm thiết khiến láng giềng không
sao chịu nổi.
Bà chủ rắn là một con người như thế, Rôta không thể đem hoa cho mụ ta được. Cịn Rơta, lẽ ra nàng đã lấy chồng, đã
sinh con, đẻ cái và được hưởng một cuộc đời hạnh phúc, nếu khơng có đợt săn lùng phù thuỷ do đám chức sắc trong
vùng dấy lên. Sự cố này như một làn sóng rất xa, bắt đầu từ xứ sở mặt trời lặn và kết thúc ở nơi mặt trời mọc. Lũ sai
nha trong làng Rôta đem chiếu chỉ của quan trên về lập danh sách những người bị coi là phù thủy. Nhưng phù thủy ở
đâu? Đó là câu hỏi làm lũ sai nha phải đau đầu. Chúng bèn treo giải thưởng lớn cho người nào có cơng phát giác phù
thủy.
Lập tức, bảy con rắn độc đồng thanh mách Kexta:
- Thế là bà có dịp trả thù con Rơta nanh nọc rồi đó. Bà hãy đến gặp các quan và tâu rằng chính nó là phù thủy. Bà còn
được thưởng tiền nữa đấy.
Bà chủ rắn chỉ chờ có thế. Mụ te tái chạy đến gặp các vị chức sắc và không ngớt lời vu cáo Rôta:
- Cớ sao hoa vườn nhà nó lại nở nhiều và tươi tốt như vậy? Nhờ phép tà đấy! Vì sao lũ chim lại giúp nó? Có phép tà
đấy! Vì sao lúc nào nó cũng hát với hỏng?
Các vị chức sắc cả mừng vì đã tìm được phù thủy, chúng bất chấp cả lệ làng, chẳng tin bất kỳ một lời nói trung thực
nào, chỉ tin lời mụ chủ rắn. Rôta bị chúng đem thiêu đốt trên giàn lửa. Sau đó chúng tâu lên triều đình rằng an ninh ở
làng quê đã trở lại bình thường.
Mùa xuân tới, bầy chim từ khắp các miền xa xôi bay tới đậu trên cửa sổ nhà Rôta cùng với rất nhiều loại giống hoa.
Bầy chim rất đỗi kinh ngạc khi thấy một bà lão lưng còng ra mở cửa sổ chứ không phải là Rôta.
Mađara, mẹ của Rôta, đã đem những hạt giống trồng vào một chậu hoa. Chẳng bao lâu người ta thấy có những bơng
hoa đỏ như lửa mọc lên.
- Những bông hoa đáng yêu của ta! Các người khác nào cặp má hồng hào của Rôta! Các ngươi sẽ là phương thuốc
thần hiệu giúp ta trị vết thương nơi trái tim.
Từ đó, hễ có người nào bị nỗi cay đắng dày vị, bà mẹ Rơta lại đem giống dầu thơm đó phân phát cho họ. Chẳng bao
lâu trên khắp các cửa sổ các gia đình nghèo đều nở óng ánh những bơng hoa đỏ tươi - đấy chính là Hoa Phụng Tiên.
Sự tích hoa hồng bạch
Câu chuyện này xảy ra vào thời mà những khu vườn còn ngập tràn cỏ dại, các loài hoa rất hiếm và chưa có hương
thơm, cịn hoa hồng chỉ có một màu đỏ thắm.
Ở một làng q no, nơi một dịng sơng nối liền với biển, có hai đứa trẻ chơi rất thân với nhau, cơ bé có mái tóc dài
đen mượt, cịn tóc cậu bé màu vàng tơ. Buổi sáng tinh mơ, khi mặt trời còn chưa tròn, hai đứa trẻ đã cùng nhau vui
đùa trong sóng biển hay mải mê tìm kiếm những viên đá màu xanh. Buổi chiều muộn, lúc mặt trăng đã hiện dần vành
vàng nhạt màu, cả hai vẫn còn ở trong rừng hái cho nhau những chùm quả dại ngọt lịm. Tháng ngày như thế trôi qua,
nhưng chưa bao giờ cậu bé được nghe giọng nói của cơ bé, vì cơ bị câm từ thuở nhỏ. Và thay vì kể chuyện cho cơ, cậu
hát cho cơ nghe những bài ca cuả những dân du mục thường cưỡi ngựa qua làng, những bài ca của những người đánh
cá khi cả đoàn thuyền kéo về những con cá lớn, những bài ca về câu chuyện dịng sơng ... Hai đứa trẻ dần lớn lên, và
rồi cậu bé đi học việc theo đồn thuyền đánh cá, cịn cơ bé ở nhà với bố mẹ làm vườn. Cậu vẫn thường hát cho cô
nghe, nhưng những sáng tinh mơ mặt trời hay những chiều tà mặt trăng khơng cịn nữa.
Ngày cậu bé trịn 15 tuổi, đồn thuyền đánh cá mở hội gia nhập cậu. Suốt một ngày sẽ vui chơi, và buổi tối các cô bé
sẽ tặng cậu hoa để rồi sớm hơm sau, cậu sẽ theo đồn thuyền ra khơi. Chiều hơm ấy, có cơ bé tóc vàng con một
người đánh cá đến hỏi cơ phải làm gì. Và cơ rủ cơ bé ấy đi tìm hoa vì cơ biết những khu vườn nhiều hoa đẹp nhất.
Nhưng vào mùa hè nóng bỏng ấy, ánh nắng chói chang đã làm khơ đi nhiều cây cối, suốt buổi chiều bọn trẻ đi rất xa
mà chỉ tìm được vài bơng hồng nhỏ. Khi mặt trời dần lặn, hai cô bé sợ lạc, và cơ bé tóc vàng đứng lại trên con đường
nhỏ đợi những bác thợ đi qua để hỏi lối về.
Còn lại một mình, cơ bé tóc đen vui chạy như một cánh chim từ vườn này sang vườn khác, cô rẽ từng khóm lá, từng
rặng cây để tìm chọn. Một làn gió dịu dàng, man mát bỗng đưa bước chân cơ đến một vườn hoa, nơi một khóm hồng
đỏ thắm như đang chờ đợi. Ôm vào ngực những nụ hồng chúm chím, cơ lặng mình hơn lên những cánh hoa. Lạ kỳ làm
sao, những bông hoa bỗng tỏa hương thơm ngọt ngào, dịu nhẹ. Vui sướng, cô nhắm mắt và thầm nghĩ "cám ơn trời,
trời đã ban cho bạn những bông hoa này qua tôi", và nước mắt cô chảy dài trên má, khẽ rơi xuống những cánh hoa.
Khi mở mắt, cô ngây người đi trước vẻ đẹp lạ lùng của những bông hoa. Nước mắt cô đã làm phai đi màu đỏ, những
cánh hoa bên ngoài đã mang sắc trắng, và bên trong phơn phớt màu hồng. Những nụ hoa thẹn thùng, trong trắng
như e ấp, dịu dàng trên ngực cơ, trong vịng tay cơ.
Khi cơ quay trở lại, cơ bé tóc vàng đã hỏi được đường về, và cả hai cùng chạy đến nhà cậu bé. Đến gần khu vườn nhà
cậu, mái tóc của cơ bay theo gió và vướng vào bụi gai, cô càng gỡ càng thêm rối. Đưa cho cơ bé tóc vàng bó hồng, cơ
giữ lại cho mình một nụ hoa, nụ hoa bé nhỏ nhất. Đứng sau lùm cây, cô bé như nghe thấy tiếng hát của cậu bé, và
bên những cành lá rì rào trong gió, cơ tưởng tượng nụ cười thân thương của cậu, nụ cười của mặt trời những sáng tinh
mơ và mặt trăng những khi chiều tà.
Nụ hồng của cô bé đã nở ngày hơm sau và bên cơ ln có hương thơm thoang thoảng. Rồi một sớm tinh mơ, khi mặt
trời cịn chưa trịn, cơ bé đem cành hồng ra vườn trồng. Sáng sáng cô tưới chút nước và chăm sóc cho cây hồng bé
nhỏ của mình. Mùa hè qua đi, mùa thu rồi hết mùa đông, khi mùa xuân đến, cô bé mừng vui thấy những nụ hồng đầu
tiên chúm chím hé nở. Và dù cơ bé khơng cịn hôn lên những nụ hoa, dù nước mắt cô không bao giờ cịn chảy trên
những cánh hoa, thì kỳ diệu thay, những bông hồng mới vẫn mang hương thơm dịu ngọt và màu trắng phớt hồng.
Từ đó lồi hoa hồng bạch ra đời.
Sự tích hoa phượng
Ngày xưa, xưa lắm, ở một vùng đất đồi kia, có một ơng thầy dạy võ nổi tiếng về tài đánh kiếm. Vợ ông
chết sớm, ông thương vợ, không lấy ai nữa nên ơng khơng có con. Ơng đi xin năm người con trai mồ côi ở
trong vùng về làm con ni. Ngồi những giờ luyện võ, ơng lại cho năm người đi học chữ, vì ơng muốn
năm người cùng giỏi võ, giỏi văn.
Tuổi năm người con xấp xỉ ngang nhau. Năm ấy, họ chỉ mới mười ba, mười bốn... Người nào học cũng khá
và tài múa kiếm thì nổi tiếng khắp vùng. Ai cũng dễ nhận được họ vì ông sắm cho năm người năm bộ
quần áo màu đỏ, để mặc ra đường. Thương bố nuôi nên năm người con rất biết nhường nhịn nhau và yêu
quý mọi người trong làng... Năm ấy trong nước có loạn. Giặc ngồi kéo vào. Nhà cháy, người chết. Tiếng
kêu khóc và lịng oán giận cứ lan dần, lớn dần. Đâu cũng đồn tên tướng giặc có sức khỏe kỳ lạ. Chỉ cần
đạp nhẹ một cái cũng làm bật gốc được một thân cây to. Hắn lại sử dụng một cây thương dài và nặng,
đâm chết từng xâu người một cách dễ dàng. Mọi người còn đồn thêm rằng hắn sở dĩ khỏe như vậy là vì
hắn thích ăn thịt sống và đặc biệt hơn nữa là chỉ thích ăn tồn xơi gấc chứ khơng thích ăn cơm, mỗi lần
hắn ăn hàng chục cân thịt cùng với một nong xôi gấc lớn. Người thầy dạy võ ở vùng đất đồi nọ định xin
vua đi đánh giặc thì ngã ra ốm. Tay chân ơng bị co quắp cả lại. Cụ lang giỏi nhất vùng đến xem bệnh và
chỉ biết là ông uống phải thuốc độc. Ai cũng nghi tên tướng giặc đã ngầm cho những kẻ chân tay của hắn
đi tìm giết trước những người tài giỏi trong nước. Người thầy dạy võ vừa uống thuốc, vừa ngày đêm ra sức
tập luyện để tay chân mình lại cử động được như xưa. Một buổi sáng, tên tướng giặc bất thình lình phóng
ngựa, dẫn qn lính của hắn kéo ập vào làng.
Hắn thấy ơng thầy dạy võ đang lấy chân đạp vào một gốc cây sung to. Cây sung lúc đầu bị rung khe khẽ,
rồi mỗi lúc rung một mạnh hơn. Sau đó, ơng nhấc một cái cối đá to đưa lên, đưa xuống, vẻ còn mệt nhọc.
Tên tướng giặc cười phá lên rồi xuống ngựa giơ chân đạp nhẹ vào thân cây sung. Thế là cây sung bị gãy
ngang và ào ào đổ xuống. Hắn lại nhẹ nhàng đưa một tay tóm lấy cái cối đá ném vứt đi, như ta ném một
hòn gạch con và cho rơi ùm xuống cái ao lớn gần đấy. Hắn gọi mấy tên qn đến trói chặt ơng thầy dạy
võ lại rồi bảo:
-Tao nghe mày muốn đi đánh tao phải khơng? Bây giờ thì mạng mày nằm trong tay tao rồi! Muốn sống thì
hãy giết một con bị tơ, lọc năm mươi cân thịt ngon nhất, nấu một nong xơi gấc rồi mang đến chỗ ta đóng
qn ở trên ngọn đồi giữa làng. Phải đội trên đầu mà đi chứ không được gánh. Đi luôn một mạch, không
được dừng lại hay đặt xuống nghỉ. Đội thịt đến trước! Đội xơi đến sau!
Nói xong hắn ra lệnh cởi trói cho ơng. người thầy dạy võ giận tím ruột, tím gan nhưng chẳng nói gì. Lúc ấy
năm người con đang đi vắng, họ phải đi học chữ xa làng và lại sắp đến mùa thi. Không ai dám rời cái bút
cái nghiên. Nhưng vừa nghe tin giặc kéo đến làng, họ lập tức đeo gươm vào người mà xin thầy cho về. Về
đến nhà, nghe bố kể chuyện lại, năm người con nổi giận muốn chạy đi tìm tên tướng giặc hung ác để giết
ngay. Người bố liền khuyên:
-Không được! Lúc nào qn lính của hắn cũng vây quanh, khó mà đến gần. Ngọn thương của hắn lại có
thể đâm chết người từ rất xa. Các con cứ bình tĩnh, ta đã có cách khử nó! Người cha đi vay tiền mua một
con bò tơ, mổ thịt rồi lọc lấy năm mươi cân thịt ngon nhất để vào một cái nia to. Ông lại đi vay ba gánh
nếp trắng, đi xin ba chục quả gấc đỏ, nấu một chục nồi xơi thật dẻo. Ơng đội nia thịt bị tơ đến trước.
Chân ơng cịn đau, năm mươi cân thịt đội trên đầu khơng phải là nhẹ. Ơng đội nia đi, mồ hôi vã ra đầy
trán. Tên tướng giặc thấy ông đội thịt đến, mồm cứ nuốt nước bọt ừng ực. Hết nuốt nước bọt ừng ực, hắn
lại khoái trá cười to. Cịn người đội thịt thì bấm ruột chịu đựng và nghĩ thầm: "Cho mày cứ cười rồi mày sẽ
biết..." Tên tướng giặc cười nhận thịt xong quát to lên và giục:
-Cịn nong xơi nữa, mày về đội đến đây ngay! Người thày dạy võ lại về đội nong xôi đến. Nong xôi to và
nặng hơn nia thịt nhiều. Nhưng xôi nấu ngon và nhìn đẹp q. Ơng đội nong xơi đi đến đâu, ở đó cứ thơm
lừng. Mới đi được nửa đường, mồ hôi ông đã vã ra đầy mặt, đầy người. Đôi chân ông mỗi lúc một yếu, cứ
run lẩy bẩy. Cái cổ cứ như muốn gãy gập lại. ông vẫn bặm môi, cắn răng và bắt đầu leo lên đồi. Tuy mệt
lử nhưng đôi mắt ông sáng quắc và lịng ơng rất vui. Ơng tự nhủ: "Gắng lên! Chỉ cần một lúc nữa, một lúc
nữa..." Tên tướng giặc ngồi trên cao theo dõi, vừa hả dạ, vừa lo lắng. Hắn nghĩ: "Thằng này không bị
thuốc độc của ta thì khó mà trị được nó. Mà ngay bây giờ, hắn vẫn là một tay đáng sợ". Cái nong xôi gấc
to lớn, thơm lừng vẫn lù lù tiến lên đồi. Mặt người đội xôi tái hẳn lại. Chỉ có đơi mắt. Đơi mắt vẫn sáng
quắc. Nong xơi có lúc lảo đảo, ngả nghiêng, nhưng liền đó lại gượng lại, rồi nhích dần lên. Tên tướng giặc
vội giật lấy thanh gươm của tên lính hầu rồi đứng phắt dậy, phóng gươm đi. Đường gươm sáng rực lên
như một tia chớp, cắm vào bụng người thầy dạy võ làm ông chực gục xuống. Nhưng ông đã gượng đứng
thẳng lên và đưa tay rút lưỡi gươm ra, phóng lại vào ngực kẻ thù. Tên giặc tránh được.
Bỗng từ trong nong xơi, năm người con nằm qy trịn được xơi phủ kín, đã vung kiếm nhảy ra và như
năm làn chớp đâm phập cả vào ngực tên giặc ác. Tên tướng giặc không chống đỡ kịp, rú lên một tiếng
rung cả ngọn đồi rồi ngã vật xuống. Thấy tướng đã chết, bọn lính giặc hoảng quá, kéo nhau chạy bán
sống bán chết. Dẹp giặc xong, năm người con trai trở về ơm lấy xác người bố ni khóc vật vã mấy ngày
liền. Cả làng cùng năm người con lo chuyện chôn cất rất chu đáo. Dân làng mỗi người một nắm đất đắp
cho ngôi mộ ông thày cao lên. Thương bố nuôi, năm người con lại trồng quanh khu mộ năm gốc cây con,
một giống cây có lá đẹp như thêu và có nhiều bóng mát. Hàng năm, đến ngày giỗ bố, họ lại đem áo đỏ ra
mặc. Họ nhớ tiếc người thầy dạy võ đã có cơng giết giặc cứu dân. Đến lúc năm người lần lượt chết đi thì
năm cái cây họ trồng quanh khu mộ người bố cũng lần lượt ra hoa màu đỏ thắm, đúng vào ngày giỗ người
thầy dạy võ. Hoa đỏ như muốn nói với mọi người rằng: tuy chết đi, nhưng năm người con vẫn yêu thương
người bố nuôi và hàng năm đến mùa giỗ bố, họ lại mặc áo đỏ để tưởng nhớ người đã khuất... Hoa có năm
cánh đỏ rực và nhìn cả cây hoa nở rộ, người ta thấy giống như một mâm xôi gấc. Cái mâm xôi ngày nào
người bố đã giấu năm người con trong đó và đội đi giết giặc. Đó là cây hoa Phượng ngày nay. Mỗi năm,
khi mùa Hè đến, mùa thi đến, hoa Phượng lại nở đỏ đầy cây, đầy trời. Khi mùa Hè qua, trên khắp các cành
cây, người ta lại thấy hiện ra những quả Phượng dài như những thanh gươm của năm người con trai ngày
trước...
Sự tích hoa Mộc Lan
Ở Nhật Bản có một người con gái tên là Câycơ, mồ côi cả cha lẫn mẹ. Nhà nghèo, ngay từ khi còn nhỏ nàng đã phải tự
đi làm để kiếm sống.
Một cơ bé như nàng phỏng có thể làm được việc gì? Nàng phải làm hoa giấy đem ra phố bán. Nhưng hoa bán đã
nhiều, mà tiền thu về chẳng đáng là bao. Khi đã ra dáng một thiếu nữ. Câycô cũng khơng có đủ tiền sắm nổi một bộ
Kimơnơ mà các cô con nhà quý phái vẫn mặc.
Một đêm nọ, khi Câycơ đang mải làm việc trong phịng của mình, bỗng có một con vẹt bay đến đậu trên bậc cửa sổ bỏ
ngỏ. Đơi cánh màu xanh của nó đã nhợt nhạt, có lẽ nó đã già song vẫn cịn đủ minh mẫn và biết nói tiếng người.
- Đừng đuổi ta, ta sẽ tiết lộ cho nàng một điều bí mật về cách làm giàu.
- Vẹt yêu quí ơi, cớ sao ta lại đuổi mi - Câycô buồn bã mỉm cười - ở đời ta chẳng còn biết thổ lộ tâm tình với ai, thế
mà mi lại nói được tiếng người. Cứ ở lại đây, cùng chia nghèo, sẻ khổ với ta, còn sự giàu sang, phú quý, tốt nhất là
chẳng nên màng tới, vì ta rất xa lạ với chuyện ấy.
- Đa tạ Câycô tốt bụng - Vẹt gật gù - Trước khi đi tìm chủ mới, ta đã chăm chú theo dõi các cô gái bán hoa, và ta đã
thấy nàng tặng bơng hoa đẹp nhất của mình cho một cô gái nghèo như thế nào rồi. Cô gái nghèo ấy khơng có tiền
nhưng lại rất muốn làm cho người bà ốm yếu của mình được thanh thản nỗi lịng.
Nhưng vì sao ngươi lại phải đi tìm chủ mới? - Câycô hỏi - Phải chăng chủ cũ không tốt với mi?
- Bà ta đã qua đời - Vẹt đau đớn báo tin, rồi im lặng giây lát - Bà ta chết vì tham lam.
- Bà ấy nghèo lắm à? - Câycô hỏi tiếp.
- Không, rất giàu là đằng khác. Song với bà, như thế cịn q ít. Bà đã bán đến giọt máu cuối cùng để lấy vàng - Vẹt
nguẩy mỏ vẻ trách móc.
- Đổi máu lấy vàng là thế nào, ta không hiểu? - Câycô ngạc nhiên.
- Chuyện là thế này. Bà chủ của ta cũng làm nghề bán hoa giấy như nàng, song có một mụ phù thuỷ đã tiết lộ cho bà
một bí mật về cách làm cho hoa giả trở thành hoa tươi, nghĩa là phải lấy máu của mình tiếp sức cho các cành hoa.
Chính nàng cũng thừa hiểu hoa tươi quý như thế nào rồi. Chẳng bao lâu bà chủ trở nên giàu có. Lúc đó mụ phù thủy
đã báo trước cho bà ta rằng, dù thế nào cũng chớ có hiến đến giọt máu cuối cùng. Nhưng với bà chủ của ta, dầu có
tích góp được bao nhiêu của cải cũng vẫn cứ là ít. Và thế là khi có một vị khách ngoại bang hứa cho bà một khoản tiền
lớn nếu bà bằng lòng tiếp thêm sinh lực cho hoa. Bà chủ đã không ngần ngại ngay cả đến giọt máu cuối cùng để có
thêm nhiều tiền và bà đã phải chuốc lấy cái chết. Số của cải bà để lại trở thành miếng mồi ngon cho đám họ hàng xâu
xé nhau.
- Thật là khủng khiếp! - Câycô thốt lên - Vì sao mi khơng ngăn cản bà ta?
- Rơi vào hồn cảnh ấy, người ta khó mà sáng suốt - Vẹt phàn nàn. - Ta đã thẳng thắn khuyên nhủ bà đừng hành
động một cách ngu ngốc, song bà trả lời như thế nào, nàng biết không? "Ta đã chán ngấy những lời đường mật của họ
nhà Vẹt rồi!" bà chủ nói thế đấy.
- Vẹt già tốt bụng ơi, hãy ở lại đây với ta và làm cố vấn cho ta - Câycô gợi ý. Vẹt cảm thấy hởi lịng, hởi dạ.
Sau khi bán được ít hoa tươi đầu tiên, Câycô liền mua ngay một bộ Kimônô lụa và một đơi dép thật đẹp. Nàng chải lại
mái tóc đen mượt và cài lên đó một bơng hồng đỏ thắm rồi đi ra phố. Từ bóng cửa sổ xa xa, nàng nhìn thấy một cơ
gái xinh đẹp. Câycơ gật đầu chào. Cô gái cũng gật đầu chào lại. Hai người cùng mỉm cười với nhau. Câycơ đốn rằng
cơ gái đó có lẽ là hình bóng của nàng được phản chiếu vào gương.
Câycơ nhanh chóng hồ vào dịng người trẻ tuổi, và lần đầu tiên trong đời nàng, được đặt chân tới một gian phịng rực
rỡ ánh đèn, nơi có từng cặp trai gái đang nhảy múa uyển chuyển như chim bay, bướm lượn. Có một chàng trai đến
mời Câycơ. Nàng vừa nhảy vừa mỉm cười một cách sung sướng. Chàng trai khiến nàng thích thú nhất ấy có tên là
Aratumi.
- Câycơ ơi! - Aratumi nói, - Em đẹp khác nào một đố hoa Anh Đào nở chúm chím. Hãy nói đi, biệt thự nhà em ở đâu
và vì sao một cô gái sang trọng như em lại đến nơi vũ hội của đám sinh viên nghèo hèn này?
Câycô toan thú nhận nàng chỉ là một cô gái nghèo rớt đang sống trong một căn nhà dột nát, nhưng nàng chợt nhớ tới
nhan sắc tuyệt trần của mình, nàng hình dung ngay việc nàng sẽ nhanh chóng trở nên giàu có và sẽ xây được biệt thự
ra sao. Chính bản thân Câycô cũng không nhận thấy nàng đã vẽ ra trước mắt chàng trai mơ ước của mình về một toà
biệt thự y như thật. Khi nàng im lặng, Artumi thở dài nói:
- Đáng tiếc là em giàu có như vậy. Một chàng sinh viên nghèo đâu dám đặt chân tới toà biệt thự, vậy mà anh lại cứ
muốn được trông thấy em.
Câycô không dám thú nhận rằng nàng không hề có biệt thự nào cả. Song nàng cũng rất muốn gặp lại Aratumi và ngỏ
ý rằng, hôm khác nàng sẽ tới công viên thành phố dạo chơi.
Khi Câycô và Aratumi gặp nhau ở công viên, họ cầm tay nhau cùng bước đi trên những con đường nhỏ, và kỳ diệu
thay, từ lúc nào cặp môi của họ đã xoắn xuýt với nhau trong một cái hôn dài.
- Câycô, Câycô của anh! - Aratumi thì thào - nhưng mặt chàng lập tức sa sầm lại - Đó phải chăng là một cái hơn vĩnh
biệt? Vì cha em sẽ khơng cho phép em được làm vợ một sinh viên nghèo.
Câycô bắt đầu khóc lóc và nàng đành thú nhận rằng, biệt thự, đó chỉ là chuyện nàng bịa ra, rằng nàng chỉ là một cơ
gái bình thường chun nghề làm hoa giấy đem ra phố bán.
Nếu Câycô thấy được nét mặt Artumi thay đổi như thế nào thì chắc hẳn nàng đã khơng tiết lộ cho chàng biết điều bí
mật của đời mình. Nhưng vì xấu hổ, nàng đã nhắm nghiền mắt lại. Còn Aratumi, sau khi nghe chuyện nàng, đã vội
nắm lấy bàn tay nàng. Chàng thậm chí cịn tỏ ra vui vẻ, bởi sắc đẹp của Câycô sẽ hứa hẹn một sự giàu có vơ biên.
Cơ gái Câycơ mảnh khảnh bắt đầu những ngày lao động cật lực. Cần phải làm thật nhiều hoa, đặc biệt làm thêm hoa
tươi nhiều hơn nữa, rồi đem bán đi để mua một ngơi nhà nhỏ. Họ sẽ sống ở đó sau khi cưới. Nàng sẽ mua thêm thảm,
tranh, đồ sứ cùng những bộ quần áo mới cho mình và cho chồng. Một buổi chiều, Vẹt nói như muốn thức tỉnh cơ gái:
- Câycơ ơi, nàng đang tiêu phí máu mình một cách quá dễ dãi đấy!
- Ôi, anh bạn Vẹt già đáng yêu của ta! - Câycô vuốt đầu Vẹt - khi Aratumi học hành xong, chàng sẽ kiếm đủ tiền và ta
sẽ được nghỉ ngơi.
Nhưng khi hai người vừa tổ chức xong lễ cưới thì Aratumi cũng bỏ ln trường lớp, vì chàng chẳng thiết theo đuổi đèn
sách nữa.
- Anh chỉ thích được xem những ngón tay nhỏ nhắn của em trổ tài khéo léo và duyên dáng khi em làm hoa thôi.
Nghe những lời nói ngon ngọt của chồng, nàng cảm thấy thật sung sướng. Nhưng chỉ vài năm sau, ngôi nhà bé nhỏ
kia đối với Aratumi thật quá xuềnh xoàng. Nhiều lần chàng nói với vợ :
- Tất thảy chúng bạn của anh đều sống rất sung túc. Trước họ anh cảm thấy rất ngượng.
Và những ngón tay của Câycơ lại làm việc miệt mài hơn. Để có được một ngơi nhà khang trang ngày tháng sao ngắn
ngủi thế. Cứ chiều chiều, khi Câycơ đi bán hoa ngồi phố thì Aratumi ngồi một mình bên ấm trà. Chàng cịn biết làm
gì vào lúc này?
- Câycô ơi, Câycô - Vẹt lắc đầu buồn bã mỗi khi chủ của nó trở về nhà ngồi vào chỗ làm việc với dáng vẻ mệt mỏi.
Còn chàng Aratumi nghèo khổ lúc nào cũng chỉ thích sống trong một biệt thự. Chàng cho rằng Câycô đã lừa dối
chàng. Nàng đã hứa với chàng sẽ có một chỗ ở khang trang, vậy mà cho đến giờ chàng vẫn cứ phải chui rúc trong túp
lều tồi tàn. Câycô cảm thấy mình có lỗi, bởi nàng càng ngày càng thêm u Aratumi.
- Chúng ta sẽ có biệt thự, nàng cam kết với chàng như vậy, và càng rút ngắn bớt thời gian nghỉ ngơi của mình.
- Câycơ ơi, hãy cẩn thận, - Vẹt báo trước - Nàng đã quá yếu rồi, máu trong tim nàng cịn lại rất ít đấy.
- Bạn ơi, chúng ta sắp có biệt thự rồi, lúc đó ta sẽ bắt đầu đầu sống như một bà hoàng - Câycơ nói.
Lời đồn đại về cơ gái bán hoa bé bỏng có tên là Câycơ lan truyền khắp gần xa. Magơnon, một nhà kinh doanh hoa
người Pháp đã lặn lội sang tận Nhật Bản để mua hoa của Câycô. Đối với Magơnon, chỉ có hoa khơng, chưa đủ. Ơng
hứa sẽ cho Câycô một khoản tiền lớn nếu nàng làm cho những bông hoa cùng với gốc của chúng trở thành hoa thật.
Hơn nữa, chúng phải có đủ bốn màu: trắng, vàng, hồng và đỏ.
Câycô đã bán cho Magơnon đủ các loại hoa và vào phút chót nàng cịn làm thêm một bơng hoa đỏ chói có cả cành lẫn
gốc. Nhưng nàng cũng khơng cịn đủ sức để trích đầu ngón tay của mình và dùng máu tiếp sức cho rễ hoa nữa.
- Câycô, Câycô ơi! - Vẹt hét lên một cảnh thảm thiết, - chớ có cho giọt máu cuối cùng!
- Thơi đủ rồi, anh bạn già ạ, lồi Vẹt nhà mi chỉ quen khốc lác thơi - Aratumi dúi đầu Vẹt xuống và túm lấy cánh nó
ném sang phòng khác.
- Aratumi yêu quý, em chỉ còn giọt máu cuối cùng thơi. - Câycơ lặng lẽ nhìn vào mắt chồng.
- Ta cần một bông hoa đỏ, đỏ thật sự - Magơnon hồi hộp nói - Ta sẽ khơng tiếc tiền, miễn là nàng làm cho bông hoa
đỏ này thành bông hoa thật.
- Câycô, em cần phải hiểu rằng điều đó có ý nghĩa đối với chúng ta lắm chứ? Aratumi lắc mạnh vai vợ - Em có hiểu
khơng, đời sẽ thế nào nếu chúng ta sẽ có một tịa biệt thự? Tòa biệt thự mà em đã hứa với anh đó!
Sau khi lấy hết hơi tàn sức kiệt, Câycơ chích đầu ngón tay mình, vắt ra giọt máu cuối cùng tiếp sức cho rễ bơng hoa
đỏ.
Aratumi xây xong tồ biệt thự và cưới một cô vợ khác. Magơnon mang những bơng hoa tươi rói về Pháp và đặt tên
cho nó là Magơnơlia, nghĩa là "Hoa Mộc Lan", Cịn nàng Câycơ thì sao? Nàng đã lùi vào những trang huyền thoại của
lồi người.
Sự tích hoa hồng
Ngày xửa ngày xưa thật xưa lắm, có một quốc vuơng ở tận phương trời xa xôi bên một khu rừng rộng lớn và rậm rạp.
Vương quốc nầy sống thật hịa bình và n vui sau một thời gian dài triền miên người dân phải đấu tranh để dành
quyền độc lập. Và vị anh hùng chỉ huy người dân của quốc gia này đã được dân chúng tôn lên làm vị vua đầu tiên.
Sau thời gian dài chinh chiến, họ chỉ lo an hưởng thái bình và sống cho những quyền lợi của cá nhân mình. Vị hồng
đế kia cũng vậy, ngất ngưỡng trên ngai vàng và hào quang của quyền vị, ông đã bỏ bê việc nước, quên cả chăm sóc
cho dân và để mặc lũ bầy tôi tham danh lợi cai trị dân chúng. Vì muốn hồng đế lảng qn với việc triều chính, bọn
tham quan đã chọn một thiếu nữ đẹp tuyệt vời để vua lập làm hoàng hậu . Nhưng trái với ý muốn của bọn quan lại,
hoàng hậu lúc nào cũng hết lời khuyên răn nhà vua nên lo cho dân chúng và chỉnh đốn việc triều chính. Lũ quan lại rất
ghét hồng hậu, nhưng khơng làm gì được vì nhà vua quá thương yêu nàng.
Cho đến ngày kia, sau một thời gian thụ thai, hoàng hậu sinh ra một đứa bé thật kháu khỉnh, dễ thương. Lạ lùng thay,
thân thể của đứa bé trai đó lại trong suốt như pha lê, đến độ thấy rõ từng đường gân, mạch máu và trái tim. Thấy cơ
hội đã đến, bọn tham quan bèn dèm pha với nhà vua rằng hoàng hậu là một phù thủy trá hình và tuyên truyền tin
này ra ngồi cho tồn dân.
Trước áp lực của bầy tơi và sự phản đối của dân chúng, nhà vua đã truất phế hoàng hậu ra khỏi hoàng cung cùng với
đứa bé lạ lùng kia. Trở thành một thường dân, hoàng hậu đem con đi khỏi hoàng cung. Đi tới nơi đâu cũng bị dân
chúng chửi mắng và xua đuổi. Suốt con đường tìm nơi ẩn trú, hồng hậu đã bị bao kẻ ném đá, dùng gậy đánh đập mà
chỉ biết cắn răng dùng thân thể mình để che chở cho đứa con thơ. Với bao vết thương trên mình, hồng hậu bồng con
đến khu rừng già và ngã ra vì kiệt sức. Nhìn hài nhi mới ra đời trong lúc biết mình sắp chết, hồng hậu khơng biết làm
gì hơn là đưa tay vuốt ve con mình vài lần, nước mắt tuôn ra và trút hơi thở cuối cùng.
Đứa bé nằm bên mẹ khơng ai cho ăn nên khóc lên thảm thiết vì cơn đói. Tiếng khóc vang lên tận chín tầng trời làm
Thượng Đế động lịng ngó xuống trần gian. Khi thấy hồn cảnh thương tâm đó, Thượng Đế nổi giận vì lịng tàn ác của
người dân vương quốc kia. Ngài bèn sai thiên thần mang đứa bé vô rừng chăm sóc cho nó lớn lên trong tình thương
của thiên nhiên và mn cầm. Sau đó, ngài ban một lời nguyền khiến cho toàn thân thể của từng người dân bị gai
nhọn mọc đầy người, để suốt đời không ai được gần gủi ai cho đến khi mọi người biết thương yêu nhau. Từ đó người
dân của quốc gia nầy đều mang trên mình một lớp gai, từ vua tôi cho đến hạng bần cùng. Nhưng dù cho lớp gai trên
mình ngày một dài và cứng nhọn theo lịng tham ngày càng to lớn, họ cứ sống cho cá nhân mình mặc dù phải trả giá
cho lịng vị kỷ đó bằng sự cơ đơn khủng khiếp dằn vật tâm linh.
Một ngày kia, nghe tin vương quốc này đang trở nên yếu thế, một quốc gia khác bèn đem quân sang xâm lấn lãnh
thổ. Khi quân xâm lăng tràn qua bờ cõi, toàn dân trong nước ai cũng tự lo thân và trốn tránh nghĩa vụ. Nhà vua lúc đó
đã lớn tuổi mà vẫn bị lũ bầy tôi tham sống sợ chết làm áp lực bắt đem một toán quân ra chiến đấu. Sức mình thì yếu,
sức địch thì mạnh. Sự thất bại đến với nhà vua thật nhanh chóng. Dẫn tàn qn chạy về hồng thành thì mới hay lũ
tham quan đã đem dâng cho giặc tự bao giờ. Phẫn chí, nhà vua quyết liều mình đem qn cố chiếm lại thành trì
nhưng cuối cùng phải ngã ngựa vì một mũi tên có tẩm thuốc độc. Nhà vua được một số quân trung thành cứu thoát và
chạy trốn đến bên bìa rừng. Nhìn lại binh sĩ lớp bị thương, lớp bỏ mình chung quanh, nhà vua lấy làm hối hận rằng
mình đã khơng nghe lời hồng hậu khun ngày trước. Nhớ đến hoàng hậu, nhà vua lại nhớ đến đứa con thơ vơ tội
của mình ngày xưa. Rồi nhà vua ngã bệnh vì vết thương hành hạ. Bên ngồi thì địch quân vây khốn, trong rừng thì
binh sĩ liều mạng để tử thủ với quân thù. Nhà vua lập đồn trong rừng làm chiến khu và để tập luyện binh sĩ.
Ngày qua ngày, dưới ách đô hộ nghiệt khắc của quân xâm lăng, người dân của vương quốc đó càng nghe đồn thêm về
một quốc gia trong khu rừng già huyền bí nọ. Dần dần, người dân tìm cách trốn đi và tìm vào rừng để gia nhập. Phía
qn xâm lăng cũng điêu ngoa, họ cho người trà trộn vào trong rừng nhưng kế hoạch không thi hành được vì khơng
thể nào giả mạo được lớp gai cứng mọc trên thân thể của người dân bản xứ. Người dân đã biết đoàn kết để tạo cho
khuyết điểm trên thân thể mình thành ưu điểm để chống giặc ngoại xâm. Một ngày kia, với binh hùng tướng mạnh,
nhà vua bắt đầu công cuộc dành lại quê hương. Lần nầy, với đồn qn thiện chiến và với lịng tin thống nhất, nhà
vua đã chiếm lại được thành trì và xua đuổi quân xâm lăng ra khỏi lãnh thổ.
Không may, trong trận chiến cuối cùng nhà vua lại bị thương. Vốn đã yếu sức vì tuổi già, lại cịn lao lực trong trận
chiến dài đăng đẳng, nhà vua bệnh ngày càng thêm nặng. Toàn dân trong nước chưa kịp reo mừng dành lại độc lập đã
phải mang nỗi buồn cho tình trạng ngày càng nguy ngập của nhà vua. Biết mình sắp chết, nhà vua trong cơn sốt đã
thốt lên rằng:
"Ta chết cũng đành lòng, nhưng trời ơi, sao ta thèm được một lần ôm đứa con mà ta chưa hề biết mặt !..."
Bỗng nhiên có tin báo từ bên ngồi thành có một người thầy thuốc nói sẽ trị hết bệnh cho nhà vua. Cửa hoàng thành
rộng mở. Người thầy thuốc bước vào hồng cung với tấm vải thơ che kín thân thể mà khơng ai nhìn thấy mặt. Khi đến
gần giường bệnh, người thầy thuốc đứng lặng yên thật lâu bên nhà vua mà khơng nói tiếng nào. Khi nghe nhà vua gọi
con trong cơn sốt, người thầy thuốc rơi lệ. Giọt lệ nhỏ xuống trên gò má nhăn nheo của nhà vua làm nhà vua thức
tỉnh và mở mắt nhìn người đang đứng bên cạnh mình. Khi nhà vua đua tay lên vói, người thầy thuốc bèn nắm chặt lấy
tay nhà vua, quì xuống bên cạnh người và nói rằng:
"Thưa phụ hồng, con đây !".
Rồi người thầy thuốc hất tấm vải thơ che mình xuống đất để lộ ra một thân thể trong suốt như pha lê. Để chữa bệnh
cho cha, vị hoàng tử nâng vua cha lên và ơm người thật chặt vào lịng, mặc cho những gai nhọn đâm vào người thật
sâu. Và máu chàng đã chảy ra. Lạ thay, khi máu của chàng thấm lên thân thể của nhà vua thì nhà vua cũng thấy
mình khỏe lại . Và kỳ diệu hơn nữa, lớp gai nhọn trên thân thể nhà vua cũng tan biến dần theo từng giọt máu của vị
hồng tử đổ xuống.
Sau đó vị hoàng tử bèn đặt nhà vua nằm lại trên giường để dưỡng bệnh. Từ từ đứng dậy và bước đến người đứng gần
mình nhất, vị hồng tử ơm lấy người đó và nói:
"Chúng ta hãy thương yêu nhau. Bất cứ hình phạt nặng nề nào của Thượng Đế cũng đều được giảm bớt nếu chúng ta
biết chân thành yêu thương nhau".
Rồi cứ thế từ người này sang người khác, chàng đi khắp thành mà ôm từng người một, từ ông lão nghèo nàn đến
người thương gia giàu sang, từ em bé tật nguyền đến chàng thanh niên khỏe mạnh. Và cứ thêm mỗi người được ơm
thì vị hồng tử càng yếu dần theo từng giọt máu ứa ra trên thân thể họ. Cho đến lúc kiệt sức, chàng quị xuống bên
đường. Tuy vậy, chàng vẫn mở rộng vòng tay kêu gọi mọi người đến cùng chàng mà chia sự sống. Mọi người nức nở
khóc trước tình thương bao la của chàng. Những người sau cùng chưa được thoát bệnh đồng q xuống bên chàng mà
nói:
"Chúng tơi xin hồng tử đừng lao lực thêm nữa. Chúng tôi thành tâm nguyện mang lớp gai này trên mình để người
cịn được sống cùng chúng tơi".
Lạ thay, từ trên thinh khơng bỗng có tiếng nhạc thánh thót vang lên và có lời truyền của Thượng Đế phán rằng:
"Lành thay ! Các người hiểu được tình u thương chân thật và bỏ đi lịng tị hiềm, ích kỷ. Dám hy sinh bản thân mình
cho đồng loại là định nghĩa của yêu thương vậy".
Rồi cùng với thinh âm tan dần vào không gian, các lớp gai trên thân hình của những người cịn lại đều biến mất đi. Khi
người ta nhìn lại thì vị hồng tử đang khép mắt lại với lời nói thật hiền hịa thốt ra theo làn hơi thở sau cùng:
"Hạnh phúc là có nhau hơm nay để sống. u thương là biết sống làm sao để ta có nhau ngày mai. Các bạn của tôi ơi,
hãy nhớ rằng hạnh phúc không phải là của riêng ta để cho đi hay lấy lại. Hạnh phúc chỉ đến với ta khi ta biết yêu
thương lẫn nhau và chia xẻ cho nhau tình thương đó..."
Rồi chàng lìa đời sau câu nói đó. Ngày hơm sau, dưới sự hướng dẫn của nhà vua, toàn dân trong thành đã đưa di thể
của chàng xuống lòng đất muôn đời, bên cạnh khu rừng nọ. Lạ thay, khi xác của chàng vừa được chơn dưới lịng đất
xong, người ta bỗng thấy có những chim mng, cầm thú kéo thành đồn từ trong rừng ra nằm quanh ngơi mộ của
chàng thật lặng yên và buồn bã. Một năm sau, người ta thấy trên ngôi mộ của chàng và chung quanh khu vực đó mọc
lên những bơng hoa đỏ tươi như máu với thật nhiều gai nhọn từ gốc đến ngọn. Người ta cho đó là sự kết tinh lại của
tình thương của chàng hồng tử để nhắc nhở cho người đời bài học cao cả nhất về yêu thương và hạnh phúc. Và người
ta gọi lồi hoa đó là hoa Hồng.
Và mãi mãi đến ngày nay, dù mang nhiều màu sắc khác nhau, lồi hoa đó vẫn tượng trưng cho sự yêu thương.
Sự tích hoa Phong Lan
Ở một miền xa xơi, khí hậu ấm áp và đất đai trù phú có một bộ lạc tên là Aruaki may mắn hơn các bộ lạc khác vì họ
sai khiến được lồi chim cchít chun đẻ những quả trứng bằng vàng. Khi một con chim đẻ trứng vào tổ trong hốc
cây thì thủ lĩnh Nato dùng tay chuyển quả trứng đó sang một cái cây khác, và sự kiện đó được coi như một ngày hội
lớn.
Các cô gái của thủ lĩnh thay nhau phục trên các cành cây, bảo vệ tổ chim khỏi bị chim ưng phá hoại. Tuy vậy, trong
từng góc bn làng, các trai tráng tay cầm những mũi tên tẩm thuốc độc đứng canh giữ không cho các chiến binh của
bộ lạc khác đến đánh chiếm kho báu của bộ lạc mình.
Từ ngày quả trứng vàng kia, những tay thợ lành nghề đã chế tạo ra các vòng tay, hoa tai và đủ các loại trang sức. Số
trứng vàng dự trữ mỗi ngày một nhiều đồ dùng khác. Đàn ông của bộ lạc chuyên nghề săn bắn, còn đám đàn bà, con
gái ở nhà dệt những tấm khăn voan, đan giỏ và hái nhặt thảo quả.
Một hôm cánh đàn ông đi săn trở về với một tâm trạng đầy lo lắng. Họ đã chạm trán cánh thợ săn của một bộ lạc xa
lạ. Cánh thợ lạ này đã kể cho họ nghe về những chiến thuyền khổng lồ đã cập bờ biển, và về những con người tóc cắt
ngắn, mặt mũi trắng trẻo nom rất lạ lùng, đã đặt chân lên đất liền. Những kẻ da trắng này rất hám vàng, đã dùng
một loại súng có tai khạc ra những mũi tên có lửa khủng khiếp, cướp giật vịng chân, vịng tay của chị em, tra khảo
dân bản xứ nơi có vàng. Nếu những người Aruaki hiểu rằng, con người cũng có thể biến thành những kẻ tàn ác, thấp
hèn, thì chắc chắn không bao giờ họ lại cho phép kẻ lạ mặt kia vào làng bản của họ. Nhưng họ không hiểu được điều
đó. Họ vẫn cứ khiêng những người thợ săn lạ mặt bị gấu đánh bị thương vào làng. Vị thủ lĩnh còn ra lệnh cho đám phụ
nữ đi tìm những người bị thương, cịn cánh đàn ơng lại lên đường đi săn.
Một kẻ lạ mặt có tên là Khơramooi Métvét. Anh ta rất mê những đồ trang sức của phụ nữ và cứ gặng hỏi họ kiếm ở
đâu thứ đá vàng làm ra được các loại vòng và hoa tai này. Nhưng chị em chỉ trả lời bằng một nụ cười. Dần dà, Métvét
kết thân được với cô gái cả con của thủ lĩnh tên là Dincadơvin, và hứa hẹn sẽ cưới nàng làm vợ rồi ở lại với bộ lạc.
Dincadơvin nói rằng nàng phải chờ đợi cha trở về để xin ý kiến.
Métvét bắt đầu làm công việc dò hỏi Dincadơvin về việc tại sao chị em nàng cứ thỉnh thoảng lại biến vào rừng sâu và
ở đó làm gì. Cịn Dincadơvin đã tự cho mình là vợ chưa cưới của Métvét rồi, bởi vậy nàng đã phạm sai lầm còn lớn hơn
cả sai lầm của cha nàng cho phép đưa kẻ lạ mặt bị thương vào bn làng.
Dincadơvin khơng hề ngờ rằng, người tình của nàng đã bán linh hồn cho bọn da trắng để lấy một thùng rượu, và còn
hứa với họ sẽ tiết lộ bí mật của bộ lạc Aruaki? Và thế là sau khi biết chắc chị em nàng thường thay nhau phục trên
cây, bảo vệ bầy chim đẻ trứng vàng, Métvét liền chuốc rượu cho những người canh gác say mèm, rồi thơng báo điều
bí mật cho bọn da trắng biết.
Métvét khơng hay rằng trên đỉnh một ngọn cây cao nhất còn có chàng Ơta Te đang phóng tầm mắt quan sát khắp
vùng gần xa. Anh đã phát hiện ra có những người da trắng đang đến gần nơi con chim đẻ trứng vàng mà người dẫn
đầu là Métvét. Sau khi loan báo cho buôn làng hay về mối nguy hiểm đang đe doạ và về sự phản trắc của Métvét, anh
liền đóng chng báo động.
Dincadơvin đau đớn thốt lên :
- Ơi, cớ sao ta lại tiết lộ cho chàng bí mật của loài chim? Thảo nào mà chàng cứ căn vặn ta! - Rồi nàng quay lại hỏi
ông thầy cúng - Hãy chỉ cho ta biết ta phải làm gì và làm thế nào để cứu loại chim đẻ trứng vàng?
- Cơ cơ cơ! - Tiếng thầy cúng thốt lên, có nghĩa là "Cứ sẵn sàng đi!"
Hết thảy đàn bà và con gái chạy đến, cùng đáp to: "Khơ!"
Điều đó có nghĩa là: "Chúng tôi đã sẵn sàng!"
- Hỡi các cô gái! Hãy nhanh chóng trèo lên ngồi vào các cành cây! Khi đó bọn da trắng sẽ khơng biết được chim làm tổ
trên cây nào. Cịn nếu chúng tìm thấy tổ chim thì Taxan-útke sẽ chạy đi tìm những người thợ săn, gọi họ về đuổi bọn
da trắng đi.
Taxan-útke, tên thường gọi của con Ngựa chiến, phi như bay về phía những người đàn ơng của bộ lạc đang mải săn
bắn, cịn hàng trăm cơ gái khác thì vội vàng lao lên cây, tay ôm chặt lấy các cành cây.
Métvét dẫn đoàn người da trắng vào rừng, nhưng hắn lúng túng không biết nên chỉ vào cây nào. Bọn da trắng nổi
giận, bắn những mũi tên có lửa vào các cô gái, nhưng các cô, kể cả các cô đã chết, vẫn ôm chặt các cành cây.
Khi cánh đàn ông chạy về tới buôn làng, đuổi được bọn da trắng đi thì đã quá muộn - những người con ưu tú - những
cơ gái đẹp của họ đã chết. Ơng thầy cúng trỏ tay lên trời, gọi tên họ và nói:
- Các con đã xả thân bảo vệ kho báu của bộ lạc ta, các con xứng đáng được ban thưởng. Tâm hồn các con sẽ biến
thành những bông hoa ngát hương, chúng sẽ không ngừng sinh sôi trên các cành cây kia và sẽ kể lại cho các thế hệ
mai sau về chiến cơng bảo vệ lồi chim mỏ vàng của các con.
Những bông hoa tuyệt vời và đủ loại tựa như các cô gái của bộ lạc Aruaki đang đua nở trên các cành cây.
Người đời nay gọi đó là hoa Oóckhiđêa - hay là hoa Phong Lan.
TRUYỆN CỦA ANDERSEN.
Cây lúa mạch
Hans Christian Andersen
Nếu bạn đi qua cánh đồng lúa mạch sau cơn bão bạn sẽ thấy lúa đen như thể là bị cháy. Tôi sẽ kể cho bạn nguyên
nhân lúa bị đen, qua câu chuyện một chú chim sẻ, chú ta đã nghe từ lời kể của một ông liễu già mọc ở gần cánh đồng
ngơ và lúa mạch.
Ơng liễu này cao và rất được coi trọng, nhưng vào thời điểm ấy ông đã già cỗi, nhăn nheo. Thân cây bị chẻ làm đôi, cỏ
cây mâm xôi mọc len vào kẽ nứt; ơng liễu ngã ra phía trước và các cành lá của ông xõa xuống mặt đất như một mái
tóc xanh dai. Có nhiều cây ngơ tốt sống trên cánh đồng, quây cây lúa mạch. Những bắp ngô được ni dưỡng tốt và
bắp càng mập bao nhiêu thì lại vít cây nằm ngả xuống bấy nhiêu. Lúa mạch ta vốn kiêu ngạo nên cứ ngẩng thẳng và
vươn cao đầu lên. Nó nghĩ thầm: "Mình có khối bắp vàng như cây ngơ. Mình cịn đẹp hơn hẳn hắn ta nhiều. Những
bơng hoa của mình đẹp như những nụ táo vậy...". Thế rồi, Lúa mạch nói:
- Này bác liễu già, bác đã từng thấy cái cây nào đẹp như tôi chưa hả?
Ông liễu gật đầu.
Lúa mạch la lên:
- Cái lão thật dớ dẩn. Lão ta già quá rồi. Cỏ mọc cả vào trong óc lão rồi.
Và chợt một cơn bão ập đến. Đám hoa trên cánh đồng xếp cánh lại và cúi gập những ngọn đầu xinh xinh. Lúa mạch ta
vẫn kiêu ngạo vươn cao cổ lên. Những bông hoa bảo nó:
- Hãy cúi đầu xuống như chúng tơi đi.
Lúa mạch đáp:
- Không thể được tôi sẽ chẳng chịu cúi đầu.
Ông liễu già bảo:
- Hãy xếp những cánh hoa và xếp gọn lá vào. Đừng có nhìn vào các tia chớp kẻo lại nhìn thấy thiên đàng sớm. Ngay
kể cả con người cũng mù nếu họ nhìn vào tia chớp. Nếu bọn ta vươn đầu lên thì cái gì sẽ xảy ra với đám cỏ dại chúng
mình?
Lúa mạch kêu lên khinh bỉ:
- Cỏ dại! Quả thật! Tơi chẳng sợ nhìn lên trời.
Trong giây phút ấy cả thế giới như chìm trong bão tố và tia chớp lửa.
Ngay sau đó, cơn bão đã đi qua, rồi sau một trận mưa mọi vật mới ngọt ngào làm sao. Những bông hoa dại ngẩng lên
hít thở khí trời, những cây ngơ lại đung đưa theo chiều gió. Chỉ có cây lúa mạch nằm xồi trên đất héo tàn, cháy đen.
Ông liễu già lắc đầu. Một giọt nước to rơi xuống từ đám lá liễu như thể ơng liễu già đang khóc. Những chú chim sẻ líu
lo:
- Tại sao ơng lại khóc, ơng khơng thấy sự tươi mát của hoa và lá sao?
Ông liễu già kể lại sự việc xảy ra với cây lúa mạch kiêu ngạo và tôi nghe được câu chuyện này từ các chú chim sẻ vào
cái buổi tối mà tôi gợi chuyện với chúng.
Cây thông
Hans Christian Andersen
Một cây thông non xinh tươi mọc trong rừng. Thơng mọc chỗ có nắng và quang đãng. Khắp chung quanh
có nhiều cây thơng khác lớn hơn. Thông non ta cũng muốn lớn bằng những cây ấy.
Thông non rất ghét các trẻ con trong làng vừa bi ba bi bô vừa đi qua đi lại để hái quả dâu, rồi lúc trở về,
tay xách giỏ dâu, ngồi gần gốc thông mà khen : “Ồ ! Cây thơng non xinh q”.
Nó khơng thích người ta gọi nó là “thơng non”. Năm sau nó lớn thêm một đốt, mọc thêm được một cành,
năm sau lại thêm một lớp cành nữa; các bạn hẳn cũng đã biết là như thế chỉ cần đếm các lớp cành là cũng
đủ nhận ra tuổi một cây thơng.
Cây thơng non thở dài:
- Ơi ! Giá ta cũng to lớn bằng những cây khác nhỉ ! Lúc ấy ta sẽ vươn nổi các nhánh rất xa ra xung quanh
và từ trên ngọn ta có thể ngắm nhìn khắp đồng q. Chim chóc sẽ đến làm tổ trên các cành của ta và khi
gió thổi ta cũng sẽ nghiêng mình một cách đường bệ như các cây khác.
Bởi vậy thông non của chúng ta không thích bất cứ một thứ gì, từ nắng ấm cho đến chim chóc, thậm chí
cái đám mây hồng sáng chiều bay qua trên ngọn thơng.
Đơng đến, bốn bề tồn là tuyết trắng phau lấp lánh. Một con thỏ rừng chạy ngang qua, nhảy vọt qua ngọn
thông non: thông ta lấy làm nhục lắm.
Nhưng qua hai mùa đông nữa thông non của chúng ta lớn đến mức lũ thỏ đành phải chạy vịng quanh.
Nó lớn lên, lớn mãi, trở nên cao và già. Trên đời này, cịn gì đẹp cho bằng, thông non vẫn đinh ninh như
thế.
Hàng năm cứ đến mùa thu các bác tiều phu lại vào đốn ít cây to nhất.
Cây thơng non bây giờ đã khá to; nó suy nghĩ về số phận những cây to và đẹp đang đổ xuống đất rầm
rầm. Người ta chặt cành và bóc vỏ đi, cây thành ra dài và thon, khơng nhận ra được nữa. Sau đó, người ta
đặt cây lên xe ngựa, chở ra khỏi rừng.
Cây đi đâu thế nhỉ ? Số phận cây rồi sẽ ra sao đây? Đến mùa xuân, khi cò và chim nhạn bay trở về, thơng
non trước kia của ta hỏi :
- Các bạn có biết người ta mang những cây to đi đâu không? Các bạn có gặp các cậu ấy khơng ?
Chim nhạn chẳng hề biết, nhưng một con cị có vẻ đứng đắn, gật gù đáp:
- Có lẽ tơi biết đấy! Tơi đã gặp rất nhiều tàu bè mới tinh từ Ai Cập về. Cột buồm những tàu ấy rất lộng lẫy,
và tơi ngửi thấy thơm thơm, hình như gỗ thơng thì phải.
- Chao ơi! Ước gì tơi đủ sức lớn để cũng được bồng bềnh trên mặt biển. Biển ấy như thế nào nhỉ?
- Nói ra thì dài dịng lắm. Cị đáp rồi bay đi.
Những tia mặt trời bảo thông :
- Cậu hãy vui sướng với cái tuổi trẻ của cậu. Hãy tận hưởng chất nhựa tươi tắn và tuổi thanh xuân của
cậu!
Gió hôn thông và sương trang điểm cho thông những hạt lóng lánh như ngọc, nhưng thơng chẳng xúc
động mảy may trước sự chăm sóc ấy.
Gần đến lễ Noel, người ta đến chặt nhiều cây con, bé và non hơn cây thông của chúng ta, lúc này chỉ
muốn rời bỏ cánh rừng. Các cây non ấy cành lá lưa thưa nên người ta để nguyên lên xe ngựa chở ra khỏi
rừng.
Thông ta tự hỏi:
- Chúng đi đâu thế nhỉ ? Chúng chẳng lớn gì hơn ta, có một cây cịn bé hơn ta nữa kia. Sao người ta lại giữ
cả cành và đem chúng đi đâu thế ?
Đàn chim sẻ chiêm chiếp:
- Chúng tớ biết ! Chúng tớ biết ! Chúng tớ đã nhìn qua cửa kính các nhà trong thành phố. Chúng tớ biết
người ta đem cây non đi đâu. Người ta mang chúng đến những nơi hội hè, tưng bừng khơng thể tưởng
tượng được. Nhìn qua cửa kính, chúng tớ thấy người ta trồng chúng vào giữa một gian phòng ấm áp, trang
điểm cho chúng bằng những vật đẹp nhất, nào táo, nào bánh ngọt, các thứ đồ chơi và hàng mấy trăm
ngọn nến.
- Sao nữa ? – Thông vừa hỏi vừa rung lên, rung cả cành lẫn lá. Sao nữa? Sau rồi thế nào?
- À, chúng tớ chỉ biết có đến thế thơi! Thật là huy hồng!
Thơng lẩm bẩm:
- Số mình khơng được hưởng cái tương lai sáng lạn ấy hay sao? Cịn thích hơn là đi biển nhiều. Ôi ! Giá
bây giờ lại là lễ Noel nhỉ? Nay mình đã lớn chẳng kém gì những cây được người ta đem đi năm ngối. Ơi!
Giá mình được lên xe, được trồng trong căn phòng ấm áp, giữa những vật huy hồng ấy! Nhưng sau đó sẽ
ra sao? Hẳn là sẽ có gì nữa, nếu khơng thì người ta trang điểm cho cây như thế để làm gì? Phải, nhất định
sẽ có cái gì tuyệt hơn. Khơng gì khổ bằng chờ với đợi! Nóng ruột quá đi mất.
Gió hiu hiu và ánh nắng bảo thông: “Hãy vui thú với chúng ta. Hãy bằng lòng với tuổi thanh xuân mơn
mởn, với bầu trời khống đãng!”
Thơng chẳng vui lịng chút nào. Nó lớn lên, lớn lên mãi, mùa hè cho chí mùa đông, cành lá lúc nào cũng
đẹp một màu xanh thẫm, ai trông cũng khen: “Cây thông đẹp quá!” và trước lễ Noel mấy ngày người ta
chặt nó trước tiên. Lưỡi rìu chặt đứt cây đến tận lõi, cây thốt ra một tiếng thở dài rồi đổ xuống. Nó đau
đớn đến nỗi khơng cịn mơ tưởng đến một chút hạnh phúc nào nữa. Nó nhớ tiếc chỗ nó mọc, nơi nó đã lớn
lên. Nó biết rằng từ nay trở đi chẳng bao giờ nó cịn được gặp lại các bạn cũ thân mến của nó, các bụi cây,
bụi hoa mọc xung quanh nó, và biết đâu đấy? Có thể là ngay đến một con chím nó cũng khơng được gặp
lại. Đúng, nó ra đi mà lịng khơng vui.
Cây thơng của chúng ta bừng tỉnh trong sân nhà, nơi nguời ta, lơi nó ra khỏi xe cùng với các bạn khác của
nó.
Nó nghe thấy một người lên tiếng: “Cây này đẹp đấy! Tớ đang cần một cây như thế này!”
Rồi có hai người hầu mặc đồng phục đến khiêng nó vào một gian phịng rộng rãi đẹp đẽ. Khắp xung quanh
có những bức chân dung trên tường và trên chiếc lò sưởi lớn bằng sứ có hai lọ độc bình Trung Quốc chạm
trổ đầy những rồng và hoa thếp vàng.
Lại cịn có những cái ghế bành tuyệt đẹp, những ghế trường kỷ bọc lụa, những chiếc bàn lớn chứa đầy
sách và đồ chơi quý giá, đáng hàng mấy trăm mấy nghìn đồng tiền vàng.
Cấy thơng được đặt vào một cái thùng đầy cát, nhưng người ta không thể nào biết rằng đấy là một cái
thùng gỗ vì xung quanh có rèm xanh phủ kín. Thơng ta khơng nén nổi cảm động. Rồi sao nữa đây? Các cô
gái và bạn đầy tớ bắt tay vào trang điểm cho thông. Họ treo những cái bao dài nhỏ bằng giấy màu xanh
đựng đầy kẹo lên cành thông.
Những quả hạt dẻ và táo vàng trĩu xuống như mọc từ cành thông ra. Rồi sau họ cắm những cây nến trắng
xanh đỏ, đặt những con búp bê nom như người thật lên các cành; tất cả những thứ đó thơng ta chưa được
nhìn thấy bao giờ. Chót vót trên ngọn thơng họ cắm một ngôi sao lớn bằng giấy tráng kim tuyệt đẹp. Xung
quanh thông mọi người đều reo lên:
- Đến tối tất cả sẽ sáng rực lên phải biết!
Thông ta tự nhủ:
- Ồ! Sao cho chóng đến tối nhỉ? Đèn nến thắp lên thì phải biết! Rồi cịn gì nữa nhỉ? Giá các cây trong rừng
đến được đây mà ngắm ta! Có lẽ lũ chim cũng sẽ đến ngắm ta qua cửa kính đấy. Liệu đơng qua, hạ tới, ta
có được trồng ở đây mãi với tất cả trang sức này không?
Thế là nó đã đốn ra được việc sẽ xảy ra sau này, nhưng vì q sốt ruột, nó cảm thấy các lá đều nhức
nhối, đối với một cây thông nhức lá cũng khó chịu như chúng ta nhức đầu.
Sau cùng, người ta thắp nến lên. Sáng quá, huy hoàng quá! Sung sướng, thơng ta rùng mình đến tận các
cành nhỏ, đến nỗi một ngọn nến bắt lửa vào một cành cháy khét lèn lẹt.
- Trời ! – các cô gái kêu lên và lao vào dập lửa.
Thông ta không dám rùng mình nữa, chỉ sợ hỏng mất đồ trang sức. Nó long lanh sáng rực lên.
Cửa ra vào bỗng mở toang ra và một lũ trẻ con ùa vào dường như muốn xô đổ cây thông. Người lớn điềm
tĩnh theo sau. Lũ trẻ con dừng lại, lặng đi ngắm nghía cây thông, nhưng sau một lát chúng lại vui cười ầm
ĩ và bắt đầu nhảy vòng tròn xung quanh gốc cây. Những đồ chơi dần dần bị lấy tuốt cả. Thông ta tự hỏi :
“Chúng làm gì thế này? Sắp có chuyện gì chả biết được?”
Nến đã tàn và khi cháy gần hết người ta bèn tắt đi. Lúc ấy trẻ con được phép phá cây Noel, chúng ùa vào
làm các cành thông gãy răng rắc. Nếu không được chôn chặt ắt là thơng ta đã đổ nhào.
Sau đó lũ trẻ con nhảy múa với những đồ chơi xinh đẹp của chúng, chẳng đối hồi gì đến thơng nữa. Chỉ
có mỗi bà vú già đến nhìn ngó các cành, nhưng chỉ để tìm xem có cái kẹo hoặc quả táo nào cịn sót lại
chăng.
- Kể cho chúng cháu nghe một chuyện! Kể cho chúng cháu nghe một chuyện! - Bọn trẻ con vừa reo vừa
kéo một người thấp béo đến ngồi dưới gốc thơng. Người ấy nói:
- Thế là chúng mình ngồi giữa cành lá xanh tươi và chắc thông cũng thích. Nhưng chỉ kể một chuyện thơi
nhé! Các cháu có thích nghe chuyện Ivet Aval hay chuyện Klumpê Đumpê ngã thang gác nhưng vẫn trèo
được lên ngôi vua và được lấy cơng chúa khơng?
Đứa thì kêu:
- Ivet Avet.
Đứa thì kêu :
- Klumpê Đumpê.